Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

Thi nhân Việt Nam - Hoài Thanh, Hoài Chân

Thi nhân Việt Nam - Hoài Thanh, Hoài Chân
Vũ Đình Liên
Sinh ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu (1913) ở Hà Nội. Học trường Bảo hộ, trường Luật.
Dạy tư, quản lý Tinh hoa, chủ trương Revue péda-dogique. Hiện làm tham tá Thương chánh Hà Nội.
Đã đăng thơ: Phong hóa, Loa, Phụ nữ thời đàm, Tinh hoa.
Có những nhà thơ không bao giờ có thể làm được một câu thơ - tôi muốn nói một câu đáng gọi là thơ. Những người ấy hẳn là những người đáng thương nhất trong thiên hạ. Sao người ta thương hại những kẻ bị tình phụ nuôi một giấc mộng ái ân không thành, mà không ai thương lấy những kẻ mang một mối tình thơ u uất chịu để tan tành giấc mộng quí nhất và lớn nhất ở đời: giấc mộng thơ?
Hôm nay trong khi viết quyển sách này, một quyển sách họ sẽ xem như một sự mỉa mai đau đớn, thơ Vũ Đình Liên bỗng nhắc tôi nghĩ đến những người xấu số kia.
Tôi có cần phải nói ngay rằng Vũ Đình Liên không phải một người xấu số? Trong làng thơ mới, Vũ Đình Liên là một người cũ. Từ khi phong trào thơ mới ra đời, ta đã thấy có thơ Vũ Đình Liên trên các báo. Người cũng ca tình yêu như hầu hết mọi nhà thơ hồi bấy giờ. Nhưng hai nguồn thi cảm chính của người là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: "Ông đồ". Ông đồ năm năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đường phố. "Ông chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn". Ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết. Đã lâu lắm chúng ta chỉ xúm nhau lại chế diễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ lậu. Cái cảnh thương tâm của nền học Nho lúc mạt vận chúng ta vô tình không lưu ý. Trong bọn chúng ta vẫn có một hai người ca tụng đạo Nho và các nhà nho. Nhưng chế diễu mạt sát không nên, mà ca tụng cũng không được. Phần đông các nhà thơ còn sót lại chỉ đáng thương. Không nghiên cứu, không lý luận, Vũ Đình Liên với một tấm lòng dễ cảm đã nhận ra sự thực ấy và gián tiếp chỉ cho ta cái thái độ hợp lý hơn cả đối với các bực phụ huynh của ta. Bài thơ của người có thể xem là một việc nghĩa cử.
Theo đuổi nghề văn, mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với người đời. Còn riêng đối với thi nhân thực chưa đủ. Tôi thấy Vũ Đình Liên còn bao điều muốn nói, cần nói mà nghẹn ngào không nói được. "Tôi bao giờ - lời Vũ Đình Liên - cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ý thơ của mình... Cũng vì không tin thơ tôi có một chút giá trị nên đã lâu tôi không làm thơ nữa". Vũ Đình Liên đã hạ mình quá đáng, chúng ta đều thấy. Nhưng chúng ta cũng thấy trong lời nói của người một nỗi đau lòng kín đáo. Người đau lòng tháy ý thơ không thoát được lời thơ như linh hồn bị giam trong nhà tù xác thịt. Có phải vì thế mà hồi 1937, trước khi từ giã thi đàn, người đã gửi lại đôi vần thơ u uất:
Nặng mang mãi khối hình hài ô nhục,
Tâm hồn ta đã nhọc tự lâu rồi !
Bao nhiêu xanh thăm thẳm trên bầu trời ;
Bao bóng tối trong lòng ta vẩn đục !
Nghĩ cũng tức ! Từ hồi 1935, tả cảnh thu, Vũ Đình Liên viết:
Làn gió heo may xa hiu hắt,
Lạnh lùng chẳng biết tiễn đưa ai !
Hai câu thơ cũng sạch sẽ, dễ thương. Nhưng làm sao người ta còn nhớ được Vũ Đình Liên khi người ta đã đọc, bốn năm sau, mấy câu thơ Huy Cận cùng một từ:
Ôi ! nắng vàng sao mà nhớ nhung !
Có ai đàn lẻ để tơ chùng ?
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy,
Xui bước chân đây cũng ngại ngùng...
Cũng may những câu thơ hoài cổ của Huy Cận:
Bờ tre rung động trống chầu,
Tưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan;
Đêm mơ lay ánh trăng tàn,
Hồn xưa gửi tiếng thời gian, trống dồn.
Những câu thơ tình nhẹ nhàng, từ xa vắng, chưa đến nỗi làm ta quên cái lòng hoài cổ âm thầm, u tịch của Vũ Đình Liên:
Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.
Septembre 1941
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Dậy đi thôi con thuyền nằm dưới bến,
Vì đêm nay ta lại căng buồm đi.
Mái chèo Mơ để bâng khuâng trôi đến
Một phương trời mây lọc ánh trăng khuya.
Gió không thổi, nước sông trôi giá lạnh,
Thuyền đi trong bóng tối lũy thành xưa.
Trên chòi cao, tự ngàn năm sực tỉnh
Trong trăng khuya bỗng vắng tiếng loa mơ.
Tự ngàn năm cả hồn xưa sực tỉnh,
Tiếng loa vang giây lát động trăng khuya,
Nhưng giây lát lại rơi im, hiu quạnh,
Cả hồn xưa yên lạng trong trăng khuya.
Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa!
Vỗ trăng khuya bơi mãi! cánh chèo Mơ!
Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vắng tiến loa xưa.

(Tinh hoa)
Ông đồ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người quạ
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng baỵ
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi baỵ
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

(Tinh hoa)
 Lan Sơn
Chính tên là Nguyễn Đức Phòng. Sinh ngày 11 Avril 1912 ở Hải Phòng. Chánh – quán: phủ Anh Sơn (Nghệ An). Học trường Hải Phòng, trường Tourane, trường Bảo hộ Hà Nội. Hiện làm việc sở Công chính Hải Phòng.
Đã viết giúp: Haiphong tuần báo, Phong hóa, Ngày nay, Tinh hoa.
Đã xuất bản: Anh với em (1934)
Một buổi sáng kia, tình yêu đã đến với Lan Sơn và người học trò ấy bỗng thành thi sĩ.
Tình yêu không đưa Lan Sơn vào một trời đất nào xa lạ; Lan Sơn chưa từng đi sâu vào những chỗ u ẩn trong lòng người. Người chỉ nói những điều rất tầm thường, những điều ai cũng biết, nhưng giọng nói của người thiết tha, chân thực dễ cảm lòng ta.
Xem như khi người mong thư:
Thư bạn thôi không có buổi nay !
Người phát thư vừa qua khỏi cửa,
Lòng anh như dại lại như ngây.
cùng khi người tìm bạn:
Em ơi, nói mãi chỉ thêm sầu,
Mỏi mắt phương trời chốc bấy lâu,
Phố xá xôn xao, người nhộn nhịp,
Tìm em, anh có thấy em đâu.
Kể Lan Sơn còn vụng về nhiều. Lắm lúc người ngập ngừng, bỡ ngỡ. Nhưng cái bỡ ngỡ ấy không phải không có chút duyên riêng. Ấy là cái duyên của người thiếu nữ khi thỏ thẻ những lời ngây ngô mà thành thực:
Em thường nói:”Ai hơn anh được !
Em trông anh thật khác người ta,
Biển tình cho nổi phong ba
Người là người lạ, anh la anh em.”
Tiếc thay tình yêu ngày một lạt. Lan Sơn hình như chỉ còn giữ lại một cái bóng để làm thơ. Nhưng tình hết, thơ Lan Sơn cũng hết. Chỉ những lúc hồi tưởng lại thời thơ ấu, trong lòng người mới có chút trong trẻo có thể diễn ra thơ. Con người dễ thương ngày trước, con người mà ông Nguyễn Tiến Lãng gọi bằng em trong một bài tựa, con người ấy dã trở nên tối tăm, rắc rối, cầu kỳ, con người ấy tôi không muốn biết nữa.
Septembre 1941
Vết thương lòng
Nắng sớm, em ngồi tỉa thủy tiên,
Hồn em say đắm cảnh thiên nhiên,
Bóng ai thấp thoáng ngoài hiên vắng
Em đã vô tình vội ngẩn lên.
Em vội ngừng tay, vội ngó ra
Dao cầm sẩy chạm tới giò hoa
Giò hoa ngày lụi, màng hoa úa
Hoa đã vì em chịu xót xa.
Rể tuy trong trắng lá xanh tươi
Mầm, nhánh đều xinh, đẹp mấy mươi
Nếu chẳng vì em hoa phải lụi
Trời xuân sao chẳng nhởn nhơ cười!
Nhởn nhơ cười với cảnh xuân sang
Với cả bao nhiêu khách rộn đường
Cùng với muôn hoa đua sắc thắm
Vì ai ? đành chịu kém mùi hương!
Mùi hương đã kém, sắc rồi phai,
Rồi cũng cùng ai, cũng với ai
Cùng chịu vì em chung số phận,
Cùng nhau chất đống để hiên ngoài.
Tim anh chung phận với hoa này,
Cũng bỡi vì em đã sẫy tay,
Đã vội mãi trông bao cảnh đẹp,
Vết thương mang nặng vẫn còn đây.
Còn đây năm cũ vết thương lòng
Ghi lấy tình em chẳng thủy chung
Một phút lòng em mơ bạn mới,
Yêu anh sau nữa cũng bằng không!

(Anh với em)
Tết và người qua ...
Những cô con gái rất ngây thơ
- Những mộng xinh tươi, bé bỏng xưa -
Ta nhớn nhao rồi! quen biết quá!
Nhìn nhau giờ hết vẻ say sưa!
. . . .
Thủa bé tôi đeo chiếc khánh vàng,
Quần đào xẻ đũng, áo hàng lam;
Chân đi hài đỏ, tay thu pháo,
Nhộn cả nhà lên tiếng hát vang!
Muôn màu tươi sáng, phấn, hoa, hương,
Đời ngọt ngào như có vị đường.
Tôi sống, tôi say và mỗi Tết,
Lòng tơ thêm động chút yêu đương.

Khói pháo say người rượu ái ân,
Cõi lòng thắm nở một vườn xuân.
Nàng thơ năm ấy cười mê đắm,
Trong mắt em Nhung hiện giữa trần.
Nhưng tháng, năm qua, vẫn thế thôi!
Ước mơ tàn lửa với thân đời,
Tiết trinh bán hết cho sương gió,
Làm điếm hai mươi tám tuổi trời!. . . .
Nên đến bây giờ gặp các em,
Gặp ngày xuân tới, bạn xưa quen:
- Em Nhung, em Tuyết hay ngày Tết -
Rượu hả hơi rồi! hết vị men

(Ngày nay)

Đám ma đi
Có những buổi mưa phùn thê thảm quá
Cảnh vật trùm trong tấm vải chôn người
Mảnh gỗ chèn thay kính cửa vỡ rồi
Không chắn nổi gió ngoài trời lạnh giá.
Có những buổi mưa phùn thê thảm quá
Gội lên trên cỗ ván mỏng chôn người
Đám ma đi trong hơi sương lạnh giá
Đi trên đường và đạp xéo lòng tôi.
Đám ma kéo lê thê trong lòng tôi lạnh giá
Đem chôn đi những kỷ niệm lâu rồi
Đám ma đi trong mưa phùn thê thảm quá
Đi hàng ngày chưa tới huyệt lòng tôi.

(Thơ của một đời)
 Huy Thông
Họ Phạm. Sinh tháng Septembre 1918 ở Hà Nội. Học : trường Thầy dòng, trường A. Sarraut, trường Luật. Đậu cử nhân luật khoa tiến sĩ và cao đẳng văn chương ; hiện đương soạn thi thạc sĩ sử học và tiến sĩ văn khoa.
Đã xuất bản: Yêu đương (1933), Anh nga (1934), Tiếng địch sông Ô (1935), Tần ngọc (1937).
Ngoài ra, đã đăng báo: Con voi già (tặng Phan Sào Nam), Hận chiến sĩ, Tần Hồng châu, Lòng hối hận, Chàng Lưu, Kinh Kha, Huyền Trân công chúa, Tây Thi.
Người thiếu niên ấy cũng như hầu hết những thiếu niên, đã sống những giấc mộng ái ân êm dịu. Và cũng như hầu hết những thiếu niên, chàng đã tưởng ở đời không có gì quan trọng hơn những nỗi vui buồn thương nhớ của mình. Chàng đã kể lể dông dài và lắm lúc đã quên rằng người nói đành không bao giờ chán nhưng người nghe rất dễ chán.
Cũng may thỉnh thoảng Huy Thông biết vờ quên mình đi để những giấc mộng ái ân của người đượm một vẻ mơ hồ riêng.
Hoặc người tạo ra một cái không khí lạ lạ khiến ta nhớ đến những chiêm bao chính ta đã từng trải qua hay những chiêm bao Shakespeare đã đưa lên sân khấu.
Hoặc người cầu cứu đến lịch sử là cái môn người vẫn sở trường để dẫn nẻo cho nguồn mơ. Người mượn lời một thiếu nữ trong mộng để gợi lại cảnh xưa:
Ngân lang ! Ngân lang ! chàng còn nhớ,
Chiều xuân xưa, trên ngựa, đỡ kim cầu,
Chàng thảo mấy dòng thơ như nhạn múa
Trên tờ mây thiếp vẫn giữ bên tim sầu ?
Người lưu luyến cái hình ảnh Tây Thi, người ước ao cái sung sướng của Phù Sai, Phạm Lãi. Người gọi bạn:
Đi ! cùng anh tới Cô Tô cảnh cũ
Chờ trăng lên mơ nữa giấc mơ xưa.
Nhưng Huy Thông không phải chỉ biết những giấc mộng ái ân êm dịu. Khi người yêu còn có những khát vọng lạ lùng:
Tôi muốn hóa một con chim để cùng gió
Bay lên cao mơn trớn sợi mây hồng ;
Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng
Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lộng lộng;
Muốn có đôi cánh tay vô ngần to rộng
Để ôm ghì cả vũ trụ vào lòng tôi !
Một người có những ham muốn dị thường như thế ắt phải ưa sống cái đời những vị anh hùng thời trước, hồi thế giới còn hoang vu, hồi một người trượng phu còn có thể tin rằng mỗi hành vi của mình đều làm xao động cả trời đất. Đặc sắc của Huy Thông chính ở những bài anh hùng ca như bài "Tiếng địch sông Ô" tả bước cùng của Hạng Tịch. Chưa bao giờ thi ca Việt Nam có những lời hùng tráng như trong tác phẩm của người thiếu niên hiền lành và xinh trai ấy. Hãy nghe Hạng Tịch than:
Nén thương đau, vương ngậm ngùi sẽ kể
Niềm ngao ngán vô biên như trời bể.
Ôi ! Tấm gan bền chặt như Thái Sơn,
Bao nhiêu thu cay đắng chẳng hề sờn !
Ôi Những trận mạc khiến "trời long đất lở" !
Những chiến thắng tưng bừng ! những vinh quang rực rỡ !
Ôi ! Những võ công oanh liệt chốn sa trường !
Những buổi tung hoành, lăn lộn trong rừng thương !
Những tướng dũng bị đầu văng trước trận... !
Nhưng, than ôi! Vận trời khi đã tận,
Sức "lay thành, nhổ núi" mà làm chi?
Hơi văn mà đến thế thực đã đến bực phi thường. Anh hùng ca của Victor Hugo tưởng cũng chỉ thế. Giữa cái ẻo lả, cái ủy mị của những linh hồn đương chờ sa ngã, thơ Huy Thông đã ồ ạt đến như một luồng gió mạnh. Nó lôi cuốn bừa đi. Người xem thơ ngạc nhiên và sung sướng vì thấy mình vẫn còn đủ tráng khí để buồn cái buồn Hạng Tịch.
Chỉ tiếc rằng Huy Thông, người anh hùng trong mộng tưởng ấy, lại cũng là người thiếu niên khao khát yêu đương và rất lẽ phép với đàn bà. Có khi vô tình người đã phác họa Hạng Tịch theo hình ảnh của mình. Đã đành Hạng Tịch mê Ngu Cơ, đã đành ái tình không chia kim cổ, nhưng tình yêu của Hạng Tịch hẳn phải thế nào chứ !
Aoùt 1941
Anh Nga
Niềm ái ân chưa được biết bao giờ,
Ta vừa biết phút giây trong giấc mộng.
Mà mộng nọ, than ôi! Còn đâu bóng!
Ta gục đầu thổn thức nhớ điệu đàn
Và âm thầm tưởng tiếc bóng đêm tan.

HUY THÔNG
(Tỳ bà văng vẳng)
Anh Nga; NGÂN SINH
Một tiếng ca nơi xa xa
Nhịp tiếng tỳ bà đưa
Tiếng ca
Hương muôn hoa như êm đềm quyến luyến
Vừng cây khuya nghênh gió dưới giăng ngà
Nhưng đêm biếc rồi tàn, giăng xuân biến,
Và vừng hồng sẽ tắm nắng chân mây xa.
NGÂN SINH
Vừng hồng sẽ tắm nắng chân mây xa...
Nhưng, bây giờ, trên không tím
Lướt sao êm, mây lả thướt tha qua;
Lặng ngắm giăng mơ màng, hoa chúm chím,
Và, bên tường, len lén, gió lay hoa.
Trên đôn sứ nghiêng dờn, ta đứng dậy,
Rồi nhịp hài, lững thững bước thư sinh...
Ta thấy lòng say sưa... Và lại thấy
Hương ái ân nhẹ quyện tim đa tình
Đêm bâng khuâng... giời ơi! Sao đẹp đẽ!
Nhưng mà...sao tẻ ngắt, sao buồn tênh?
Là vì, Anh Nga ơi! Vườn vắng vẻ
Thiếu xiêm đào tha thướt dưới trăng chênh.
Hứa cùng ta sẽ trăm năm ân ái,
Nỡ đi đâu để bạn đắng cay lòng?
Để bạn lòng, trơ vơ phòng trống trải,
ấp tim sầu lạnh ngắt như băng đông!
Tiếng ca
Bóng đêm như chan hoà niềm quyến luyến,
Như vuốt ve du khách dưới giăng ngà...
Như đêm biếc rồi tàn, giăng xuân biển,
Và vừng hồng sẽ tắm nắng chân mây xa!
NGÂN SINH
Thì tắm nắng chân mây đi! Vừng ô hỡi!
Vì hơi đêm phơi phới
Vì giăng cao rắc ánh
Trên vườn yên
Vì sao khuya lóng lánh
Xứ muôn tiên...
Vì cảnh đẹp dưới giăng xanh tuy êm ái,
Nhưng lòng ta còn mải
Nhớ thương người đẹp cũ chốn dạ đài.
ANH NGA
Dạ đài trống trải!
Ôm lòng đau, ta cũng mải nhớ thương ai.
NGÂN SINH
Bên khóm phù dung giăng mạ biếc,
Ai bâng khuâng, nhớ tiếc,
Hãy chờ mong?
ANH NGA
Hỡi thư sinh thổn thức dưới trăng trong!
Nơi thiếp mơ mau lẹ gót mơ mòng!
Chàng có thấy, bên phù dung lả lướt,
Bóng ai đi tha thướt
Như tiên nga thấp thoáng suối Thiên thai?
NGÂN SINH
Bóng ai đi tha thướt...
Hay hồn êm kẻ khuất chốn dạ đài
Tiếng ca
Hãy cùng ai nơi hương hoa quyến luyến,
Ngắm vườn lam ngây ngất dưới trăng ngà!
Vì đêm biếc rồi tàn, giăng xuân biển,
Và vừng hồng sẽ tắm nắng chân mây xa...
ANH NGA
Chàng... chàng tới gần nơi hương hoa quyến luyến
Kẻo nắng hồng đẫm tắm nắng chân mây xa...
NGÂN SINH
Hỡi gia nhân!
Nàng là ai mà diễm lệ, thanh tân?
Ngàng là ai mà âm thầm, huyền ảo,
Để, xuyên qua liên tiền thảo,
Ánh giăng xuân
Nhẹ nhàng vờn trên dung nhan kín đáo?
Nàng là người trong Quảng điện hay Chiêu Quân?
Hay tiên nga lạc cánh xuống phàm trần?
ANH NGA
Thiếp là người chàng mơ tưởng, nhớ thương.
NGÂN SINH
Nàng?
ANH NGA
Chàng làm chi mà bỗng dáng bàng hoàng?
NGÂN SINH
Nàng?
Nàng là người ta mơ tưởng, nhớ thương?
Là người tiên ta tiếc bóng bao đêm trường?
ANH NGA
Ngân Lang, chàng hỡi! bao đêm trường?
NGÂN SINH
Nhưng không! không, nàng quyết chẳng phải là ai!
Vì Anh Nga còn đâu nữa trên trần ai!
ANH NGA
Ngân Lang, Ngân Lang! chàng còn nhớ?
Chiều xuân xưa, trên ngựa, đỡ kim cầu,
Chàng thảo mấy dòng thơ như nhạn múa
Trên tờ mây thiếp vẫn giữ bên tim sầu.
NGÂN SINH
Hỡi kẻ ta chờ mong...! Nhưng chẳng phải!
Vì mỹ nhân xiêm thoáng trên lầu xưa
Đã ẩn bóng như làn mây êm ái
Và ngàn năm đã lịm giấc say sưa!
Tiếng ca
Hãy cùng ai, nơi hơi đêm quyến luyến,
Đứng đê mê tình tứ dưới giăng ngà!
Vì đêm biếc rồi tàn, giăng xuân biến,
Và vừng hồng sẽ tắm nắng chân mây xa.
ANH NGA
Chàng ơi! chàng ở lại,
Chờ vừng hồng tắm nắng chân mây xa...
Và, biệt chàng, thiếp xin đi, mãi mãi!
Vì than ôi! Chàng lãng quên bóng Anh Nga.
NGÂN SINH
Anh Nga! Anh Nga!
Nàng dừng hài hãy đứng dưới vòm hoa!
ANH NGA
Ngân lang, chàng hỡi!
Giờ ái ân mơ hồ như gió thổi,
Mà đành lòng chẳng để hững hờ qua!
Bên phòng sách, thướt tha,
Ai uốn liễu?
Và tỳ bà đưa văng vẳng điệu?
NGÂN SINH
Ôi!
Người đâu yểu điệu như nàng Thôi?
Người đâu mà tươi tắn thắm, dịu dàng,
Mà đoá môi phảng phất sự mơ màng
mà tóc huyền bay óng như mây qua,
Mà mắt đưa như ngọc ánh dưới trăng ngà?
ANH NGA
Phù dung tươi, nép tường, như kiễng gót
Ngắm tre đằng rũ tóc dịu dàng ngân.
Bên vành giăng, lóng lánh, ánh mây vần,
Và cỏ mềm bâng khuâng bên cát bạc.
Vườn ướp trong hương thơm, như man mác
Biết bao lời mây nước đắm say lòng...
Tình lang! Chàng để tim mơ mòng
Lặng tắm dưới lưu ly hồ mộng tưởng
Cho tim mê tưởng nhầm: giờ vui sướng
Sẽ kéo dài mãi mãi với thời gian.
Tiếng ca
Nhịp lời lòng... ai ơi! lời quyến luyến
Với lời tơ ẩn hiện dưới trăng ngà!
Kẻo đêm biếc rồi tàn, giăng xuân biến,
Và vừng hồng sẽ tắm nắng chân trời xa.
NGÂN SINH
Đêm giăng! hãy dừng lại trong vườn hoa!
Và, vừng ô khe khắt!
Chớ vội vàng tắm nắng chân mây xa!
Ta muốn không bao giờ sao kia tắt,
Không bao giờ phơ phất ánh đông hồng!
Muốn đêm dày nặng phủ khối sương bông
Và ôm ấp vườn say cho tối mãi!
Ta ước nghe, ngàn đời, lời ân ái
Trong đêm mơ, hoà nhịp... giấc mơ điên
Cho hồn mơ lướt tới cõi u uyên,
Nơi Suối Đào nao nao trong vắt chảy...
Rồi , tay ôm đờn tình man mác gảy,
Ta uốn lời luyến sắc Anh Nga nương!
ANH NGA
Giăng nghiêng ánh. Bóng tường se sẽ ngã.
Và giời đông, lát nữa, sẽ dần tươi...
Nhưng, trước lúc vẹn giời thoa son thắm,
Hãy để lòng say đắm một đêm nay!
NGÂN SINH
Đêm nay và mãi mãi...! Tình nương ơi!
ANH NGA
Gió im lìm chơi vơi trong vườn vắng
Và tiếng tỳ văng vẳng đưa từng hơi...
Nhưng, đến buổi, than ôi! Đèn giăng tắt,
Bóng Anh Nga vơ vất cõi mung lung.
NGÂN SINH
Vơ vất cõi mung lung?
Nhưng...
Nhưng Anh Nga, nàng hỡi!... Hình như nàng...
Hình như nàng...
Ai, năm xưa... bảo khuất dưới Suối Vàng?
ANH NGA
Suối Vàng
Nơi muôn năm... u uất nỗi mơ màng...
Tiếng ca
Khách đa tình còn bâng khuâng quyến luyến
Giấc mơ xuân đằm thắm dưới trăng ngà,
Mà đêm biếc sắp tàn, giăng xuân biến,
Và vừng hồng gần tắt nắng chân mây xa.
ANH NGA
Chàng ơi! Chàng!
Anh Nga là một bóng dưới Suối Vàng,
Nơi muôn năm u uất nỗi mơ màng...
Nên, chàng ơi! Khi giời đêm ửng sáng,
Vong hồn thiếp sẽ không còn lảng vảng
Trong vườn hoa, để ngắm áo chàng bay...
NGÂN SINH
Bao nhiêu nỗi đau lòng dù quên lãng
Trăm năm còn ôm mãi khối hận này...
ANH NGA
Và, góc vườn nghẹn lệ lúc chia tay,
Thiếp ra đi ngàn thu không giở lại...
NGÂN SINH
Để những đêm âm thầm giăng suông dãi,
Bình lòng càng trĩu chất nỗi buồn thương...
ANH NGA
Bình minh tươi phơn phớt sau rèm sương
Và tinh tú phai trên trời lặng...
NGÂN SINH
Nàng bâng khuâng dần lùi trên cát trắng,
Êm như hơi và chậm tựa mây chiều...
ANH NGA
Tay run run cố níu dải the điều
Chàng thổn thức nhẹ lần theo bước thiếp...
NGÂN SINH
Vườn đìu hiu vẫn mơ màng thiêm thiếp:
Hãy dừng chân, nàng hỡi!... phút giây thôi!
ANH NGA
Xin từ đây vĩnh quyết, hỡi chàng ôi!
Tiếng ca
Vườn vắng vẻ, thư sinh còn quyến luyến
Cảnh thần tiên huyền ảo dưới trăng ngà
Nhưng đêm biếc đã tàn, giăng xuân biến,
Và vừng hồng đã tắm nắng mây xa.
NGÂN SINH
Và vừng hồng đã tắm nắng chân mây xa.
Và...
Dưới ánh trăng tà...
Đâu mất...?
Nàng Anh Nga đi đâu mất dưới trăng tà?
Đêm 16 -17 tháng 7 năm 1935
(Theo Hanoibáo)
Khúc tiêu thiều
Ngồi dưới liễu du dương ta nhẹ nhấc
Cây nhã tiêu dồn dập nhạc mơ hồ.
- Gió ngang mơ hàng cây chưa tỉnh giấc;
Bình minh xuân êm ái như lời mơ.
Kìa Tây Thi! sao mây chưa đượm trắng
Anh tới đây chưa kịp gọi hồn tiêu,
Em đã sớm cong mình trên nước lặng
Cho nước trông ngược vẽ dáng yêu kiều?
Đừng rũ vội...? giời im còn tăm tối,
Cầu Nhược Gia chưa kẻ bám tre lần...
Quăng lụa thắm bên nguồn đừng rũ vội,
Em lên nghe anh gọi tiếng chim thần!
Em hay chăng? ngày xưa khi vua Thuấn
Chúm môi thiêng say thổi khúc tiêu này,
Phượng sánh hoàng từng không theo nhịp uốn;
Ngàn muôn chim giao cánh chập chờn bay.
Đờn suối bỗng lên cung - và chan chứa
Những câu ca tươi sáng ánh u uyên.
Nụ trúc đào quên thu đua thắm nở;
Gió trên trần dìu dặt ngát hương tiên...
Ngày nay, cạn lời khua trong ống rỗng,
Không bao giờ thấy nữa cảnh huyền xưa.
Suối thờ ơ, mây gió lười cảm động;
Chim xa xôi lạ điệu Tiêu thiều ca
Tiêu chẳng khiến giời đêm kia thôi tối,
Hơi xuân qua vẫn lạnh... nhưng cần chi?
Vì, mỗi lần rung hơi anh đắm thổi,
Em lắng nghe lời trúc, - hỡi Tây Thi!

(Tây Thi)
Nguyễn Vỹ
Sinh năm 1910 ở làng Tân Hội (nay đổi là Tân Phong), huyện Đức Phố (Quảng Ngãi). Học: trường Quảng Ngãi, trường Qui Nhơn. Đã từng cạo đầu đi tu, gánh cát ở bãi sông Cái, bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn. Hiện sống về nghề văn.
Đã viết: Ami du peuple, Lecygne, Văn học tạp chí (1935), Hanoi báo, Phụ nữ.
Đã xuất bản: Tập thơ đầu (1934).
Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc dầu ta thấy con người ấy không có gì.
Táo bạo thì táo bạo thực, nhưng trong văn thơ táo bạo không đủ đưa người ta ra khỏi cái tầm thường. Khi Nguyễn Vỹ hô hào:
Ta hãy truyền một thi hứng mới cho thế kỷ hai mươi,
Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiếm. N
gười có biết rằng trong hai câu này không có lấy một chút "tình sâu ý hiếm" và mặc dầu cái lốt mới rềnh ràng của chúng, chúng vẫn có thể nằm sắp hàng với những câu sáo nhất xưa nay mà không chút ... ngượng. Tránh tầm thường mà lại rơi vào tầm thường, là thế.
Nguyễn Vỹ quả đã muốn loè những kẻ tầm thường là bọn chúng ta. Thực ra, chúng ta cũng dễ bị lòe. Nhưng ở chỗ nào khác kia. Chứ trong văn chương thì hơi khó. Một hai người có thể lầm; năm mười người, trăm ngàn người có thể lầm, chứ cả đám người mênh mông không tên tuổi kia ít khi lầm lắm. Chúng ta có thể lầm trong một hai năm, chứ lầm luôn trong năm bảy năm hay lâu hơn nữa, là chuyện thảng hoặc mới có.
Tôi tin rằng linh hồn chung của một lớp người đủ phức tạp để cảm thông với hầu hết những thơ văn có giá trị. Một bài như bài "Sương rơi" được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt sương, cũng có thể là những giọt lệ hay những giọt gì vẫn rơi đều đều, chầm chậm trong lòng ta mỗi lúc vẩn vơ buồn ta đứng một mình trong lặng lẽ.
Nhưng "Sương rơi" còn có vẻ một bài văn. "Gửi Trương Tửu " mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Trong lúc say, Nguyễn Vỹ đã quên được cái tật cố hữu của người, cái tật lòe đời. Người đã quên những câu thơ hai chữ và những câu thơ mười hai chữ. Người dùng một lối thơ rất bình dị, rất xưa, lối thất ngôn tràng thiên liên vận và liên châu. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẩn cho cả một hạng người. Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có chút công, một hạng người dã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn. Hãy cho đi là họ không có gì xuất chúng; thì ít nhất họ cũng đã nuôi những giấc mộng to lớn khác thường. Nhưng đời không chiều họ ; đụng vào sự thực, những giấc mộng của họ đều tan tành và lần lượt họ bỏ thây ở dọc đường hay trong một căn phòng bố thí.
Nguyễn Vỹ đã làm bài thơ này trong một lúc vô cùng buồn giận vì cái nghiệp văn chương. Những ai cùng một cảnh huống xem thơ tưởng có thể khóc lên được. Trong lời văn còn chút nghênh ngang từ đời xưa lưu lại. Nhưng ta đã xa lắm rồi cái kiêu ngạo phi thường của Lý Bạch, chỉ biết có văn chương còn khinh hết thảy:
Khuất bình từ phú huyền nhật nguyệt.
Sở vương đài tạ không sơn khâu.
Hứng cam lạc bút giao ngũ nhạc,
Thi thành tiếu ngạo lăng thương châu.
Với Nguyễn Vỹ, chúng ta đã mất hẳn cái cười kiêu ngạo ấy và ngơ ngác thấy sắp cùng hàng với ... chó.
Cái lối sắp hàng kỳ quái ấy đã làm phật ý Tản Đà. Một hôm say rượu, Tản Đà trách Nguyễn Vỹ: "Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó? Anh không sợ xấu hổ à?" Nguyễn Vỹ đáp lại, cũng trong lúc say: "Tôi có ví như thế thì chó xấu hổ, chứ chúng ta xấu hổ nỗi gì?".
Septembre 1941
Sương rơi
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu …
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hắt hiu
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương!...
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi !
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang !
Rơi sương
Cành dương
Liễu ngã
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt,
Từng giọt.
Tơi bời
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi !...

(Văn học tạp chí, 1935)
Gửi Trương Tửu
Viết trong lúc say
Nay ta thèm rượu nhớ mong ai !
Một mình nhấp nhém, chẳng buồn say!
Trước kia hai thằng hết một nậm,
Trò truyện dong dài, mặt đỏ sẫm,
Nay một mình ta một be con.
Cạn rượu rồi thơ mới véo von!
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà vẫn coi tiền như cỏ rác.
Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huênh hoang.
Xáo lộn văn chương với chả cá,. . . .
Rồi ngủ một đêm mộng với mê .
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó,
Nhà văn An-nam khổ như chó!
Mỗi lần cầm bút viết văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh
Ðã rụng bao nhiêu mái tóc xanh.
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng?
Tôi làm Trạng-Nguyên anh Tể-Tướng,
Rồi anh bên Võ tôi bên Văn,
Múa bút tung gươm hả một phen?. . . .
Chứ như bây giờ là trò chơi!
Làm báo làm bung chán mớ đời!
Anh đi che tàn một lũ ngốc
Triết lý con cừu, văn chương cóc!
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà,
Ra chợ bán văn ngày tháng qua!
Cho nên tôi buồn không biết mấy!
Ðời còn nhố nhăng, ta chịu vậy!
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa,
Bực chí, thành say mấy cũng vừa.
Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ!
Chơi nước cờ cao gặp vận bĩ
Rồi đâm ra điên, đâm vẩn vơ,
Rốt cuộc chỉ còn… mộng với mơ!
Viết rồi hãy còn say
(Phụ nữ)
Đoàn Phú Tứ
Sinh ngày 10 Septembre 1910 ở Hà Nội. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài Tây. Viết văn từ năm 1925, lúc còn học lớp nhất. Những bài văn đầu tiên là những bài từ khúc đăng báo Đông Pháp. Sau này thỉnh thoảng viết giúp Phong Hoá, Ngày nay. Năm 1937, chủ trương tờ Tinh hoa. Chuyên viết kịch. Làm thơ rất ít.
Hẳn có kẻ sĩ sẽ ngạc nhiên thấy Đoàn Phú Tứ trong quyển này. Người ta vẫn nghĩ Đoàn Phú Tứ chỉ có tài viết kịch và diễn kịch. Nhưng thơ hay không cần nhiều. Đoàn Phú Tứ chỉ làm thơ có dăm bảy bài mà hầu hết là những bài đặc sắc. ấy là một lối thơ rất tinh tế và rất kín đáo. Thi nhân ghi lại bằng những nét mong manh những cảm giác rất nhẹ nhàng. Người xem thơ cũng biết rằng đây là hình ảnh một đôi mẩu đời, nhưng hình ảnh mờ quá không thể đoán những mẩu đời kia như thế nào. Có khi cả ý nghĩa bài thơ cũng không hiểu rõ.
Nhiều người khi làm thơ chỉ biết có mình, không giấu giếm gì hết; thơ làm ra in lên báo lên sách thì được, nhưng không thể đưa đọc trước người khác vì quá sỗ sàng. Đoàn Phú Tứ không thể. Tôi tưởng Đoàn Phú Tứ có thể đọc thơ mình trước mọi người mà không sợ ngượng.
Mai 1941
Màu Thời Gian (1)
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương (2) ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi (3)
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian (4)
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát (5)
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh (6)
Tóc mây một món chiếc dao vàng (7)
Nghìn trùng e lệ phụng (8) quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng (9)
Duyên trăm năm dứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Mầu thời gian tím ngát (10)

Ghi chú:
(1) Không ai ngờ một cái đầu đề có tính cách triết học như thế lại dùng để nói một câu chuyện tâm tình.
(2) Hãy để ý cái âm điệu vương vấn của mấy chữ này
(3) Thi nhân mượn sự tích người xưa để giữ vẻ kín đáo cho câu chuyện. Xưa có người cung phi, nàng Lý phu nhân, lúc gần mất nhất định không cho vua Hán Võ-đế xem mặt, sợ trông thấy nét mặt tiều tụy vua sẽ hết yêu. Cái tên Tần Phi thi nhân đặt ra vì một lẽ riêng.
Ngàn xưa không lạnh nữa: Chuyện xưa đã hầu quên nay nhớ lại lòng thấy nôn nao.
(4) Thi nhân muốn nói dâng hồn mình cho người yêu. Song nói như thế sẽ sỗ sàng quá. Vả người thấy mình không có quyền nói thế, vì tình yêu ở đây chưa từng được san sẻ. Nên phải mượn cái hình ảnh "Trời mây phảng phất nhuốm thời gian" để chỉ hồn mình. Chữ "nhuốm" có vẻ nhẹ nhàng không nặng nề như chữ "nhuộm". Chữ "dâng" hơi kiểu cách.
(5) Người Pháp thường bảo thời gian màu xanh. Nhưng thi nhân nhớ lại thời xưa, hồi người đương yêu, cứ thấy màu thời gian tím ngát vì người riêng thích một thứ hoa tím, và màu hoa lẫn với màu yêu.
(6) Hương thời gian là hương thứ hoa kia mà cũng là hương yêu, một thứ tình yêu qua đã lâu rồi, nên chỉ thấy thanh sạch, nhẹ nhàng.
(7) Nàng Dương Quý Phi lúc mới vào cung, tính hay ghen, bị Đường Minh Hoàng đưa giam một nơi. Nhưng nhà vua nhớ quá sai Cao lực sĩ ra thăm. Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào dâng vua. Vua trông thấy tóc, thương quá, lại vời nàng vào cung.
Đoàn Phú Tứ hợp chuyện này và chuyện Lý phu nhân làm một và tưởng tượng một người cung phi lúc gần mất không chịu để vua xem mặt chỉ cắt tóc dâng, gọi là đáp lại trong muôn một mối tình trìu mến của đấng quân vương.
Ở đây không có chuyện cắt tóc nhưng có chuyện khác cũng tương tự như vậy.
(8) Chữ "phụng" rất kín đáo, chữ "dâng" sẽ quá xa vời, chữ "tặng" quá suồng sã.
(9) Ý nói: thà phụ lòng mong mỏi của chàng, còn hơn gặp chàng trong lúc dung nhan tiều tụy để di hận về sau.
(10) Tím ngát tả đúng mối tình dìu dịu. "Tím ngắt" sẽ đau đớn quá.
Lời Bình:
Nói về toàn thể nên chú ý đến điệu thơ. Bài thơ bắt đầu bằng những câu dài ngắn không đều: âm điệu hoàn toàn mới. Kế đến bốn câu ngũ ngôn cổ phong, một lối thơ cũ mà thi nhân gần đây thường dùng. Bỗng chuyển sang thất ngôn; điệu thơ hoàn toàn xưa. Lời thơ cũng xưa, với những chữ "phụng quân vương" và những chữ lấy lại ở câu Kiều "tóc mây một món, dao vàng chia hai". Nhưng với hai câu thất ngôn ở câu dưới thi nhân đã từ chuyện người xưa trở về chuyện mình. Những chữ "thiếp phụ chàng" đưa dần về hiện tại. Rồi điệu thơ lại trở lại ngũ ngôn với hương màu trên kia. Thành ra ý thơ, lời thơ, điệu thơ cùng với hồn thi nhân đi từ hiện tại về quá khứ, từ quá khứ gần đến quá khứ xa, rồi dần dần trở về hiện tại. Hiện tại chỉ mờ mờ nhạt nhạt, nhưng càng đi xa về quá khứ, câu thơ càng thiết tha, càng rực rỡ. Nhất là từ chỗ ngũ ngôn chuyển sang thất ngôn, câu thơ đẹp vô cùng. Tôi tưởng dầu không hiểu ý nghĩa bài thơ người ta cũng không thể không nhận thấy cái vẻ huy hoàng, trang trọng của câu thơ. (Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát có phổ bài thơ này vào đàn. Ðoạn đầu bài nhạc đi rất mau rồi chậm dần. Ðến đoạn thất ngôn nhạc lên giọng majestuoso. Cuối cùng còn thêm một đoạn láy lại âm điệu mấy câu đầu).
Trong thơ ta, có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế.
Xuân Diệu
Họ Ngô, sinh ngày 2 Février 1917. Người làng Trảo Nha, huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Học ở Qui Nhơn, Huế, Hà Nội. Có bằng tú tài Tây. Hiện làm tham tá Thương chánh ở Mỹ Tho (Nam kỳ).
Có chân trong Tự lực văn đoàn.
Đã viết giúp: Phong Hoá, Ngày nay, Tinh hoa.
Đã xuất bản: Thơ thơ (Đời nay, Hà Nội 1938)
Bây giờ khó mà nói dược cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta. Đọc những câu:
Nếu hương đêm say dậy với trăm rằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
Hay là:
Chính hôm nay gió dại tới trên đồi,
Cây không hẹn để ngày mai sẽ mát;
Trời đã thắm, lẽ đâu vườn cứ nhạt?
Đắn đo cho lỡ mộng song đôi!
Ta thấy cái hay ở đây không phải là ý thơ, mà chính là cái lối làm duyên của Xuân Diệu, cái vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ.
Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt ngày hôm qua? Nêu ra một mớ tính tình, tư tưởng tục lệ, rồi bảo: người Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lý. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng , sống cuống quít, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một làn chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là Xuân Diệu. Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam chỉ Xuân Diệu mới để ý đến 
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
cùng cái
Cành biếc run run chân ý nhi.
Nghe đàn dưới trăng thu chỉ Xuân Diệu mới thấy
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
và mới có cái xôn xao gửi trong mấy hàng chữ lạ lùng này:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.

Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân

Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một nghìn năm và của hai thế giới.
Cho đến khi Xuân Diệu yêu, trong tình yêu của người cũng có cái gì rung rinh. Người hồi tưởng lại:
Rượu nơi mắt với khi nhìn ướm thử;
Gấm trong lòng và khi đứng chờ ngây;
Và nhạc phấn dưới chân mừng sánh bước
Và tơ giăng trong lời nhỏ khơi ngòi;
Tà áo mới cũng say mùi gió nước;
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.
Còn rất nhiều câu có thể tiêu biểu cho lối xúc cảm riêng của Xuân Diệu. Tôi chỉ dẫn một thí dụ này nữa. Trong bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh có hai câu:
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vừng trăng trong vắt lòng sông

Tả cảnh chung quanh thuyền sau khi người Tỳ bà phụ vừa đánh đàn xong. Một cái cảnh lặng lẽ, lạnh lùng ẩn một mối buồn âm thầm, kín đáo. Thế Lữ có lẽ đã nhớ đến hai câu ấy khi viết:
Tiếng diều sáo nao nao trong vắt,
Trời quang mây xanh ngắt màu lơ.
Mặc dầu hai chữ" nao nao" có đưa vào trong câu thơ một chút rung động, ta vẫn chưa xa gì cái không khí bình yên trên bến Tầm Dương. Với Xuân Diệu cả tình lẫn cảnh trở nên xôn xao vô cùng. Người kỹ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người tỳ bà phụ nhưng nàng không lặng lẽ buồn ta thấy nàng run lên vì đau khổ:
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Ngay từ khi trăng mới lên, nàng đã thấy:
Gió theo trăng từ biển thoáng qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn.
Chỉ có trong thơ Xuân Diệu mới có những thoáng buồn rờn rợn như vậy. Ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa trẻ con học nói hay như người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ nhưng cái dáng thơ bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy khuôn khổ câu văn phải lung lay. Nhưng xét rộng ra, cái náo nức, cái xôn xao của Xuân Diệu cũng là cái náo nức xôn xao của thanh niên Việt Nam bây giờ. Sự đụng chạm với phương tây đã làm tan rã bao nhiêu bức thành kiên cố. Người thanh niên Việt nam được dịp ngó trời cao đất rộng, nhưng cũng nhân đó mà cảm thấy cái thê lương của vũ trụ, cái bi đát của kiếp người. Họ tưởng có thể nhắm mắt làm liều, lấy cái cá nhân làm cái cứu cánh cho cá nhân, lấy sự sống làm mục đích cho sự sống. Song đó chỉ là một cách dối mình. "Chớ để riêng em phải gặp lòng em", lời khẩn cầu của người kỹ nữ cũng là lời khẩn cầu của con người muôn thuở. Đời sống của cá nhân cần phải vịn vào một cái gì thiêng liêng hơn cá nhân và thiêng liêng hơn sự sống bởi Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn với một chút hương xưa của đất nước bao nhiêu nỗi niềm riêng bây giờ - Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới - nên chỉ những người còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã thích thì phải mê. Xuân Diệu không như Huy Cận vừa bước vào làng thơ đã được người ta dành ngay cho chỗ ngồi yên ổn. Xuân Diệu đến giữa chúng ta tới nay đã ngót năm năm mà những tiếng khen chê chưa ngớt. Người khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời. Xong những ai chê Xuân Diệu, tưởng Xuân Diệu có thể trả lời theo lối Lamartine ngày trước: "Đã có những thiếu niên, những thiếu nữ hoan nghênh tôi".
Với một nhà thơ còn gì quý hơn cho bằng sự hoan nghênh của tuổi trẻ.
Juillet 1941
Trăng
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá,
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi.
Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ...
Im lìm, không dám nói năng chi.
Bâng khuâng chân tiếc giậm lên vàng,
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang,
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá,
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang.
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh,
Cho gió du dương điệu múa cành;
Cho gió đượm buồn, thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh.
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ,
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ.
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá!
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ.
(Thơ Thơ, in lần thứ hai)
Huyền diệu
Les parfums, les couleurs et les sons se répondent
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn;
Như hương thấm tận qua xương tuỷ,
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.
Hãy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của Du Dương:
Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy
Hiển hiện hoa và phảng phất hương...
Hãy nghe lẫn lộn ghé bên tai
Giọng suối, lời chim, tiếng khóc người.
Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc
Ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi.
Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim
Còn cứ run hoài, như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm.

(Thơ Thơ, in lần thứ hai).

Tình trai
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quên
Những bước song song xéo dặm trường
Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương
Họ đi, tay yếu trong tay mạnh
Nghe hát ân tình giữa gió sương
Kể chi chuyện trước với ngày sau
Quên gió môi son với áo màu
Thây kệ thiên đường và địa ngục
Không hề mặc cả, họ yêu nhau ....

(Thơ Thơ, in lần thứ hai)
Nhị hồ
Trăng vừa đủ sáng để gây mơ,
Gió nhịp theo đêm, không vội vàng;
Khí trời quanh tôi làm bằng tơ
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ.
Cây cỏ bình yên; khuya tĩnh mịch
Bỗng đâu lên khúc Lạc âm thiều...
Nhị hồ để bốc niềm cô tịch,
Không khóc, nhưng mà buồn hiu hiu...
Điệu ngã sang bài Mạnh Lệ Quân ,
Thu gồm xa vắng tự muôn đờị
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi...
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
Qua những sân cung rộng hãi hồ.
Có phải A Phòng hay Cô Tô?
- Lá liễu dài như một nét mi
... Và nàng Lộng Ngọc lấy Tiêu Lang,
Cưỡi hạc một đêm bay lên trời.
Vua Trần Hậu Chúa ngắm trăng vàng,
Khúc Hậu Đình Hoa đang lên khơi .
Linh hồn lưu giữa bể du dương...
Tôi thấy xiêm nghê nổi gió lùa:
Những nàng cung nữ ước mơ vua,
Không biết bao giờ nguôi nhớ thương.
Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi
Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng,
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi.

(Thơ Thơ, in lần thứ hai)
Đây mùa thu tới
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa mầu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn ra, nghĩ ngợi gì.

(Thơ Thơ, in lần thứ hai)
Vội vàng
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều ươm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?
Chẳng bao giờ, ôi ! chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !

(Thơ Thơ, in lần thứ hai)

Chiều
Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...
Lá hồng rơi lặng ngỏ thuôn ,
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương.
Phất phơ hồn của bông hường,
Trong hơi phiêu bạt còn vương má hồng.
Nghe chừng gió ý qua sông,
E bên lau lách thuyền không vắng bờ
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn...
(Thơ Thơ, in lần thứ hai)
Viễn khách
Đương lúc hoàng hôn xuống,
Là giờ viễn khách đi.
Nước đượm màu ly biệt,
Trời vương hương biệt ly.
Mây lạc hình xa xôi ;
Gió than niềm trách móc.
Mây ôi và gió ôi!
Chớ nên làm họ khóc.
Mắt nghẹn nhìn thâu dạ;
Môi khô hết níu lời...
Chân rời, tay muốn rã...
Kẻ khuất... kẻ trông vời...
Hôm nào như hôm qua
Má kề trên gối sánh?
Anh đi, đường có hoa...
Tôi nằm trong tuổi lạnh.
Buổi chiều ra cửa sổ;
Bóng chụp cả trời tôi!
Ôm mặt khóc rưng rức;
Ra đi là hết rồi.

(Thơ Thơ, in lần thứ hai)
Tương tư, chiều...
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm,
Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em.
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.
Mà ánh sáng đều hoà cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối:
Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành:
Mây theo chim về dãy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ
Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Thôi hết rồi! Còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm,
Với sương lá rụng trên đầu gần gũi,
Thôi đã hết hờn ghen và giận dỗi,
(Được giận hờn nhau! Sung sướng bao nhiêu!).
- Anh một mình, nghe tất cả buổi chiều
Vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh.
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời.
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm.
Gió bao lần, từng trận nhớ thương đi,
- Mà kỷ niệm ôi, còn gọi ta chi...

(Thơ Thơ, in lần thứ hai)
Lời kỹ nữ
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa;
Vội vàng chi, trăng lạnh quá, khách ơi!
Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời;
Khách không ở, lòng em cô độc quá!
Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả,
Tay em đây mời khách ngả đầu say;
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
Chớ đạp hồn em! Trăng về viễn xứ.
Đi khoan thai trên ngự đỉnh trời tròn.
Gió theo trăng từ biển thổi qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn.
Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn,
Chớ để riêng em phải gặp lòng em;
Tay ái ân du khách hãy làm rèm,
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng
Đẩy hộ hồn em triền miên trên sóng,
Trôi phiêu liêu không vọng bến hay gành;
Vì mình em không được quấn chân anh,
Tóc không phải những dây tình vướng víu,
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo,
Trời đầy trăng, lạnh lẽo suốt xương da.
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt,
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi.
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi.
Du khách đi. Du khách đã đi rồi.

(Ngày nay)

Nguyệt cầm
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

(Ngày nay)
Thu
Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu.
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.
Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;
Cành biếc run run chân ý nhi.
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa.
Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà.
Buồn ở sông xanh nghe đã lại,
Mơ hồ trong một tiếng chim qua.
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,
Hây hây thục nữ mắt như thuyền.
Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu,
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.
(Ngày nay)
Buồn trăng
Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ;
Thương ai không biết, đứng buồn trăng.
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió,
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng.
Mây trắng ngang hàng tự thuở xưa,
Bao giờ viễn vọng đến bây giờ.
Sao vàng lẻ một, trăng riêng chiếc;
Đêm ngọc tê ngời men với tợ..
Khắp biển trời xanh, chẳng bến trời,
Mắt tìm thêm rợn ánh khơi vơi,
Trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết.
Trong suốt không gian, tịch mịch đờị
Gió nọ mà bay lên nguyệt kia,
Thêm đêm sương lạnh xuống đầm đìạ
Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ,
Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuyạ
(Ngày nay)
Hoa đêm
Chen lá lục, những búp lài mở nửa
Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh
Vì gió im và đêm cứ làm thinh
Đoàn giây phút cũng lần khân, nghỉ đã
Trăng ở đó, đất vườn thêu bóng lá
Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng
Lá lim dim trên mấy ngọn bằng bằng
Cánh lả lả chờ tay ai đón đẩy
Ôi vắng lặng! - Trong giờ mơ ngủ ấy
Bông hoa lài thức dậy sáng từng đôi
Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời;
Ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa.
Sao họ khéo nõn nà mà bợ ngợ
Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu!
Đáng yêu thay trong vẽ khẽ nghiêng đầu
Lá xanh đỡ yêu yêu thân tuyết bạch.
Nguyệt lác đác tiếng nỡ giòn lách tách
Lòng phơi phơi chừng đợi cái ong châm....
Miệng thở ra hương, hương tỏa tình ngầm
Hoa kỳ nữ đã mở lời trêu ghẹo...
Chàng gió lạ đi khuya ngoài khuất nẻo
Nghe tiếng thơm liều liệu đến tìm hương
Cánh du lang tha thướt phấn qua tường;
Áo công tử dải là vương não nuột.
Này hoa ngọc đã giật mình trắng muốt
Thoảng tay tình gió vuốt - bỗng lao đao...
Hương hiu hiu bên gió cũng ngạt ngào
Hôn nho nhỏ mà đầu hoa nặng trĩu.
Là màu sắc hay chỉ là âm điệu?
Là hương say hay ấy chính rượu thơm?
Gió canh khuya hay nghìn cánh tay ôm?
Trăng mối lái phủ màng tơ mơ mộng...
Gió chắp cánh cho hương càng tỏa rộng
Xốc nhau đi vào khắp cõi xa bày...
Và hương bay, thì hoa tưởng hoa bay...
(Sách Tết Đời nay 1941)
Huy Cận
Cù Huy Cận sinh ngày 31 Mai 1919. Quê quán: làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). Học lớp năm ở trường tổng, lớp tư đến khi đậu tú tài Tây ở Huế. Hiện học trường Cao đẳng Nông Lâm.
Hồi 1936, có viết giúp Tràng An, Sông Hương (ký Hán Quỳ). Từ năm 1938, đăng thơ Ngày Nay.
Đã xuất bản: Lửa thiêng (Đời Nay, Hà Nội, 1940).
Đã có hồi người ta tưởng muốn làm thơ hay phải là người hay khóc và thi nhân mỗi lần cầm bút là một lần phải " nâng khăn lau mắt lệ". Nhưng buồn mãi cũng chán. Trên tao đàn Việt nam bỗng phe phẩy một ngọn gió yêu đời, tuy không thổi tan những dám mây u sầu u ám, song cũng đã mấy lần ngân những tiếng reo vui. Người thính tai sẽ nhận thấy trong những tiếng kia còn biết bao nhiêu vui cười gượng, nhưng dầu sao sự cố gắng đau đớn của cả một lớp người đi tìm vui, cái cảnh ấy ai mà chẳng động lòng? Than ôi! ngày vui ngắn ngủi chưa được mấy năm nỗi buồn đã trở về, thảm đạm và nặng nề hơn xưa.
Nó đã trở về trong tập "Lửa Thiêng". Với những tính cách khác hẳn. Cái buồn "Lửa Thiêng" là cái buồn toả ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh. Có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. Huy Cận không thể. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng đời thi nhân không cần có nhiều truyện. Huy cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luôn luôn lắng nghe mình sống để ghi lại lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong. Ai đã so sách " Las Mocedades del Cid" của Guillen de Castro với "le Cid" của Corneille hay " Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân với "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du đều nhận thấy trong "Đoạn trường tân thanh và trong "le Cid" nhiều tình mà ít chuyện. Nếu ta so sánh sách Huy Cận và thơ hồi trước, ta cũng sẽ thấy thế.
Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác rồi để sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi bình thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc. Ai ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích hẳn không bao giờ tan được?
Thôi đã tan rồi vạn gót hương
Của người đẹp tới tự trăm năm phương.
Tan rồi những bước khônghẹn hò
Đã bước trùng nhau một ngả đường.
Là có khi suối buồn thương cứ tự trong thâm tâm chảy ra lai láng không vướng chút bụi trần:
Ôi! Nắng vàng sao mà nhớ nhung!
Có ai đàn lẻ để tơ chùng?
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy
Xui bước chân đây cũng ngại ngùng...
Phải tinh lắm mới thấy lòng mình như thế giữa cái ồ ạt, cái rộn rịp của cuộc đời hàng ngày. Đây có lẽ là một điều Huy Cận đã học được qua thơ Pháp. Nhưng với vị trí quan sát rèn luyện trong nền học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về những cảnh xưa, nơi bao nhiêu người đã xa lầy - tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của một người lữ thứ dừnh ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn. Và cũng như người ta đã làm thơ với những cái hình như khôngcó gì nên thơ, người tìm ra thơ trong những chốn ta tưởng không còn là thơ nữa. Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Nam Á, người đã khơi lại cái mạch sâu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này. Huy Cận triền miên trong cảnh xưa, trò chuyện với người xưa, luôn đi trên con đường thời gian vô tận. Có lúc hình như thi nhân khôgn phân biệt mộng với thực, ngày trước với ngày nay. Cảnh trước mắt người mơ màng như đã thấy ở một kiếp nào, tình mới nhóm người tưởng chừng đã hẹn đâu" từ vạn kỷ".
Những con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch; tứ bề càng vắng lặng, mênh mông. Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn du đã có laanf nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nhe trong hồn hơi gió cái xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nghe trong tâm hồn hơi gió lạng buốt từ vô cùng đưa đến. Một Pascal hay một Huygo trong lúc đó sẽ rùng mình, sẽ hốt hoảng. Với cái điềm đạm của người phương Đông thời trước, Huy Cận chỉ lặng lẽ buồn:
Một linh hồn bé nhỏ;
Mang mang thiên cổ sầu.

Tôi nhớ lại cái buồn của một thi nhân khác, Trần Tử Ngang, ngàn năm trước, cũng đã có một cuộc viễn du tương tự như thế:
Ai người trước đã qua?
Ai người sau chưa đẻ?
Nghĩ trời đất vô cùng,
Một mình tuôn giọt lệ.
Tuy nhiên điềm đạm đến đâu người ta cũng không thể một mình đứng trước vô cùng. Người ta cần phải nương tựa vào một cái gì cho đỡ lẻ loi; một lòng tin, hay một ít nữa một tình yêu theo nghĩa thông thường và chân chính của chứ yêu. Huy Cận có lẽ đã thiếu tình yêu, mà thượng đế của người ta lại chỉ có một cái bóng , để gửi thì được, để an ủi thì không. Cho nên người thấy mình lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời , cái xa vắng của thời gian. Lời thơ vì thế buồn rười rượi. Nhưng thương nhất là những đoạn thơ vui( chẳng hạn bài "Tình tự") ta thấy một người hiền lành lắm và non dại lắm, vui hấp tấp, vui cuống quýt vì trong lúc vui người ta cũng biết buồn đương chờ mình đâu đó.
Nhưng thương hay mến có làm gì. Thương mến không đủ làm tan nỗi bơ vơ. Khoảng trống trong lòng thi nhân hoạ tình yêu mới lấp được muôn một.
Có nhưng người bảo thơ Huy Cận già. Già vì buồn già vì hay kể lể những chuyện xưa. Nhưng trong đời người ta có tuổi nào hay buồn hơn tuổi hai mươi. Còn có tuổi nào hay vẩn vơ hơn. Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm. Huy Cận đã đưa tôi về khoảng đời tôi bảy tám năm trước. Tôi bùi ngùi thương chàng thiếu niên hồi bấy giờ đã sông mấy năm trong hiu quạnh. Chàng cũng mang một tấm lòng chứa chan yêu dấu đi tìm tình yêu trong tình bạn. Và vì thế chàng cũng đã đi lầm đường. Chàng thấy cảnh trời đẹp , chàng gặp những tâm hồn cao quý, chàng được vô số mến thương. Nhưng đẹp làm gì, cao quý làm gì, thương mến làm gì, nếu lòng chàng không hề đón được ít hương ân ái. Vũ trụ bao la quá, lòng chàng giá lạnh quá, chàng muốn quên mình, quên hết thảy trong tình yêu của một, vô luận người nào. Chàng gõ cửa hết thảy hết nơi nọ chốn này song bao nhiêu tâm tư đều đóng kín.
Nỗi lòng xưa, nay sực tỉnh. Đọc Huy Cận tôi đã gặp lại một người em.
Chỉ một người em? Không. Năm tháng dẫu đi qua, đời tôi dẫu có khác, nhưng tuổi hai mươi đã thực chết trong lòng tôi?
Mars 1941
Buồn đêm mưa
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...
Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...
Tương tư hướng lạc phương mờ...
Trở nghiêng gối nặng hững hờ nằm nghe
Gió về, lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư ...
(Lửa Thiêng)
Tình tự
Sáng hôm nay hồn em như tủ áo,
Ý trong veo là lượt xếp từng đôi.
Áo đẹp chưa anh ! Hoa thắm thêu đời,
Áo mơ ước anh bận dùm chiếc nhé.
Vàng rạng cùng xanh, hồng cười với tía,
Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương.
Hồn em đây dủ muôn ánh nghê thường,
Anh hãy bận hồn em màu sáng chói.
Anh có biết hôm nay là ngày hội,
Của lòng ta, em trần thiết trang hoàng.
Anh đã về, em nghe dưới chân vang,
Hoa lá nở và chuông rền giọng thắm.
Thủơ chờ đợi, ôi thời gian rét lắm,
Đời tàn rơi cùng sao rụng trăng thâu,
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,
Gió than thở biết mấy lời van vỉ.
Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,
Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa.
Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,
Tình rộng quá, đời không biên giới nữa.
Đây cứa mộng lòng em anh hãy mở,
Màu thanh thiên vời vợi, gió long lanh.
Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh.
(Lửa Thiêng)
Đi giữa đường thơm
Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm...
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm,
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng.
Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu:
Lên bề cao hay đi xuống bề sâu?
Không biết nữa - Có chút gì làm ngợp
Trong không khí... hương với màu hoà hợp...
Một buổi trưa không biết ở thời nào,
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao,
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ,
Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự.
Buổi trưa này xưa kia ta đã đi,
Phải cùng chăng? Lòng nhớ rõ làm chi!
Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng,
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng,
Trí vô tư cho da thở hương tình,
Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình
Như sắp nói, nhưng mà không; - khóm trúc
Vừa động lá, ta nhận vào một lúc
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho;
Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ...
Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng...
Trí bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều:
"Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu".
Chân đang bước bỗng e dè đứng lại
- Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại...
(Lửa Thiêng)

Đẹp xưa
Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió hút nẻo vàng.
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao.
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon...
Đi rồi, khuất ngựa sau non;
Nhỏ thưa tràng đạc, tiếng còn tịch liêu...
Trơ vơ buồn lọt quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người.
(Lửa Thiêng)
Tràng giang
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài"
Huy Cận
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Lửa Thiêng)
Vạn lý tình
Người ở bên trời, ta ở đây;
Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy.
Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây.
Nắng đã xế về bên xứ bạn;
Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy.
Trông về bốn phía không nguôi nhớ,
Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.
Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt,
Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày.
Chiếu chăn không ấm người nằm một
Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay.
Nhạc sầu
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu màu khói cũ lên sương
Sương hay chính bụi tàn phai lả tả
Từng tiếng lệ: ấy mộng sầu úa lá
Chim vui đâu cây đã gãy vài cành
Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh
Môi tái nhạt nào mà cười héo vậy?
Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới nào?
Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó
Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ
Trần gian sao? Đây thành phố đang quen
Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy!
Và ngựa ơi, đi nhịp đằm chớ nhảy
Kẻo thân đau, chưa quên nệm giường đời
Ai đi đưa, xin đưa tận cuối trời
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Người đã chết - một vài ba đầu cúi
Dăm bảy lòng thương xót đến bên mồ
Để cho hồn khi sắp xuống hư vô
Còn được thấy trên mặt người ấm áp
Hình dáng cuộc đời từ nay xa tắp
Xe tang đi, xin đường chớ gập ghềnh
Không gian ơi, xin hẹp bớt mông mêng
Ảo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt!
Và ngươi nữa, tiếng gió buồn thê thiết
Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn
Hàng cờ đen là bóng quạ chập chờn
Báo tin xấu, dẫu hồn người đã xế...
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi gió đường quạnh quẽ!
Sầu chi lắm! Trời ơi chiều tận thế!
(Lửa Thiêng)
Ngậm ngùi
Nắng chia nửa bãi; chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi ! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường !
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
-- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau ?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
(Lửa Thiêng)
Thu rừng
Bỗng dưng buồn bã không gian,
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u.
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Sắc trời trôi nhạt dưới khe;
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng.
Sầu thu lên vút, song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.
Non xanh ngây cả buồn chiều
- Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
(Lửa Thiêng)
Áo trắng
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng - Em đi đến
Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng
Em đẹp bàn tay ngón thon thon
Em duyên đôi má nắng hoe tròn
Em lùa gió biếc vào trong tóc
Thổi lại phòng anh cả núi non.
Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời
Hồn em, anh thở ở trong hơi
Nắng thơ dệt sáng trên tà áo
Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.
Đôi lứa thần tiên suốt một ngày
Em ban hạnh phúc chứa đầy tay
Dịu dàng áo trắng trong như suối
Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.
(Lửa Thiêng)
Chiều xuân
Xuân gội tràn đầy
Giữa lòng hoan lạc,
Trên mình hoa cây...
Nắng vàng lạt lạt
Ngày đi chầy chầy...
Hai hàng cây xanh
Đâm chồi hy vọng...
Ôi duyên tốt lành!
Én ngàn đưa võng
Hương đồng lên hanh.
Kề bên đường mòn
-- Mùa đông đã tạnh
Cỏ mọc bờ non...
Chiều xuân tươi mạnh
Gió bay vào hồn.
Có bàn tay cao
Trút bình ấm dịu
Từ phương xa nào...
Người cô yểu điệu
Nghe mình nao nao...
Nhạc vươn lên trời:
Đời măng đang dậy
Tưng bừng muôn nơi...
Mái rừng gió hẩy
Chiều xuân đầy lời.
(Lửa Thiêng)
Thúc Tề
Chính tên là Thúc Nhuận. Sinh ngày 17 Octobre 1916 ở Huế. Học: trường Qui Nhơn, trường Quốc học Huế.
Đã viết giúp : Văn học tạp chí (1935) Mai, Dân quyền,...
Hiện chủ bút tuần báo Đông Dương (Sài Gòn).
Tôi yêu bài "Trăng mơ" của Thúc Tề. Mở bài ra, hồn thi nhân kéo mình lê thê trên trang giấy, chán nả, uể oải. Có lẽ nó đã nhập vào cái vừng trăng kia, "ẻo lả" khi nằm mơ, "lười biếng" khi thức dậy. Nhưng khi đã tỉnh, nó mới linh động làm sao! Nó uyển chuyển như một người đẹp. Cái mệt mỏi của Dương Quý Phi với cái nhẹ nhàng của Phi Yến.
Octobre 1941
Trăng mơ
Một đêm mờ lạnh ánh gương phai
Suốt dải sông Hương nước thở dài...
Xào xạc sóng buồn khua bãi sậy
Bập bềnh bên mạn chiếc thuyền ai
Mây xám xây thành trên núi Bắc
Nhạc mềm chới với giữa sương êm
Trăng mờ mơ ngủ lim dim gật
Ẻo lả nằm trên ngọn trúc mềm.
Nhịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma
Biến mất vì nghe giục tiếng gà
Trăng tỉnh giấc mơ, lười biếng dậy
Động lòng lệ liễu, giọt sương sa.
Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng
Hương trăng quấn quýt hơi sương ướt
Ngân dội lời tình điệu hát xuân.
(Hanoi báo)
Tế Hanh
Họ Trần. Sinh ngày 15 tháng 5 năm Tân Dậu (1921) ở làng Đông Yên, phủ Bình Sơn(Quảng Ngãi). Chánh quán: làng giao Thuỷ, cách làng kia một con sông Đậu sơ học rồi ra Huế học trường Khải Định. Ở đó quen Huy Cận, và được Huy Cận chỉ vẽ cho nhiều. Hiện học năm thứ hai ban trung học.
Những bài thơ trích sau đây trong tập Nghẹn ngào đã được giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn năm 1939.
Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh tế lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như "mảnh hồn làng" trên "cánh buồm giương", như tiếng hat của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một cái thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những điềunhững tình cảm ta âm thầm trao cho cảnh vật: sự mỏi mệt say sưa của con thuyền lúc trở về bến, nỗi khổ đau chất chứa trên toa hàng nặng trĩu, những vui buồn sầu tủi của một con đường. Tế Hanh luôn nói dến những con đường. Cũng phải. Trên những con đường ngưng lại biết bao nhiêu bâng khuâng hồi hộp!
Nhưng Tế Hanh sở dĩ nhìn đời một cách sâu sắc như thế là vì người sẵn có một tâm hồn tha thiết. Hôm đầu gặp người thiếu niên ấy, người rụt rè ngượng nghịu như một chàng rể mới. Nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt. Đôi mắt nồng nàn lạ. Tôi nghĩ ở một người như thế những điều cảm xúc, những nỗi đau xót quá mực thông thường và có khi khác thường. Như khi yêu, người thấy:
Kìa em, lên! Rực rỡ bốn phương trời;
Đôi mắt to ném lửa sáng nơi nơi;
Vừng trán rộng, hào quang loà chói rực,
Ta thấy sáng! Hồn phiêu diêu thoát tục,
Lòng lâng lâng không muốn ước mơ chi,
Mắt lim dim đầu cúi gục chân quỳ...
Tuy lời thơ còn có gì lệch với hồn thơ nhưng không có một tâm hồn đắm đuối không thể viết nên nhưng lời thơ như thế.
Khi thất vọng thi nhân ước cho người yêu chết đi để được ngồi trên mồ nhỏ từng giọt nước thấm xuống tấm thân lạnh lẽo.
Tệ hơn nữa, người muốn hưởng cái thú tàn nhẫn được thấy người yêu "đau quằn quại", được nghe tiếng khóc của người yêu, tiếng khóc.
Rách đau thương như lụa xé tơi bời.
Chúng ta sẽ ngạc nhiên và băn khoăn không biết ở những chỗ sâu kín trong lòng ta có gì giống như thế không. Đầu sao, sự thành thực của thi nhân không thể ngờ được.
Nhưng tôi chưa muốn nói nhiều về Tế Hanh. Tế Hanh còn trẻ và cũng mới vào làng thơ, chưa có thể biết rõ những con đường người sẽ đi.
Avril 1941
QUÊ HƯƠNG
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới :
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông .
Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng ,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá .
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồn giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thân góp gió ...
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng lũ lượt kéo ghe về
"Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe ",
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng 
Dân chài lưới lần da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vó.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Mầu nước xanh, cá bạc, cánh buồm vôi .
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi ,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn qúa!
(Nghẹn Ngào)
Lời con đường quê
Tôi, con đường quê nhỏ chạy lang thang,
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng.
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng
Hương đồng quyến rũ hát lên vang.
Từ đấy mình tôi cỏ mọc đầy,
Giọc lòng hoa dại ngát hương lây.
Tôi ôm đám lúa, quanh nương sắn,
Bao cái ao rêu nước đục lầy...
Những buổi mai tươi nắng chói xa
Hồn tôi lóng lánh ánh dương sa,
Những chiều êm ả tôi thư thái
Như kẻ nông phu trở lại nhà.
Tôi đã từng đau với nắng hè:
Da rôi rạn nứt bởi khô se,
Đã từng điêu đứng khi mưa lụt:
Tôi lở, thân tôi rã bốn bề.
San sẻ cùng người nỗi ấm no
Khi mùa màng được, nỗi buồn lo
Khi mùa màng mất, tôi ngây cả
Với những tình quê buổi hẹn hò.
Và thế đời tôi hết cái buồn
Trong làng. Cực khổ đắm say luôn,
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn.
(Nghẹn ngào)
Vu vơ
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi, đến những ga .
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt .
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa .
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau:
Có chi vương víu trong hơi máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau .
Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ
Lòng của người đi réo kẻ về .
Kẻ về không nói bước vương vương...
Thương nhớ lan xa mấy dặm trường
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ ,
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương .
(Nghẹn ngào)
Ao ước
Anh là kẻ say mê nhưng nhút nhát,
Không hiểu giùm em lại nỡ cho anh
Là không yêu, là một kẻ vô tình;
Anh tức qúa đem lòng ao ước lê;
Nếu em chết chắc là anh có thể
Tỏ mối tình lặng lẽ qúa sâu thâm;
Anh tìm nơi em nghỉ giấc ngàn năm
Ngồi điên dại, sầu như cây liễu rũ.
Anh không uống, không ăn, không ngủ,
Anh khóc than, than khóc đến bao giờ
Nước mắt anh lầy lội cả nấm mồ,
Nhỏ từng giọt xuống thân em lạnh-lẽọ
Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo;
Linh hồn anh thất thiểu dõi hồn em.
-Và ở đâu kia, ở cõi đời đêm
Chắc em chẳng nghi ngờ tình anh nữạ…
(Nghẹn ngào)

Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam
Theo http://diendan.vtcgame.vn/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm nhận ngàn đêm

Cảm nhận ngàn đêm MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp nhau. Trong bộ phim nổi tiếng “Bao giờ cho đến Thá...