– Thanh nhã và gợi tình từ một
thế giới văn hoá khác
– Điệu khiêu vũ lứa đôi tuyệt
vời nhất
Đi tìm dấu tích điệu nhảy gợi tình
muôn thuở của đất nước Á căn đình.
Phải nhìn nhận Tango là điệu nhảy gợi tình nhất với nhịp 2/4
Phải nhìn nhận Tango là điệu nhảy gợi tình nhất với nhịp 2/4
Cả thành phố
Buenos Aires như chìm đắm trong làn gió u hoài, sầu muộn. Kinh tế đất nước phá
sản, và những tâm hồn Á căn đình tự hào, cũng theo đó uất ức chao đảo… Nhưng
tiết điệu Tango vẫn nhịp nhàng trong mọi góc phố và hình như đang trong trào
phục hưng với bao niềm khát khao về thời đại huy hoàng đã qua!
Hai trái tim của Aurora và Jorge đập cùng chung nhịp 2/4 – nhịp của những bước
Tango. Tango là trò diễn xuất của những cảm xúc: „khát khao, thèm muốn, ghen
tuông, ruồng rẫy …“ – một tuồng kịch bi hùng nhảy múa trên sàn diễn.
“Hễ mỗi lần nghe tiếng‚ bandoneon’[[1]],
là toàn thân tôi cứ rờn rợn ngứa ngáy. Xúc cảm từ đâu bỗng tràn về dâng đầy cơ
thể. Và sau đó tôi hoàn toàn quên hết tất cả xunh quanh“, cô vũ nữ Tango chuyên
nghiệp thỏ thẻ. Gặp Jorge trên một sàn nhảy tại Buenos Aires cách đây hơn 20
năm, con tim Aurora bốc cháy vì Tango và vì chàng nghệ sĩ trẻ tuổi mang tên
Jorge. Cuộc hôn nhân nay đã gãy đổ nhưng tình yêu Tango vẫn kết chặt hai người
trên sàn nhảy những vũ trường giữa thành phố Buenos Aires. Tình yêu cho Tango
của hai người vẫn vĩnh viễn thở những hơi dài …
Ngắn gọn về
xuất xứ những bước chân
Lai lịch và
xuất xứ của Tango, điệu nhảy gợi tình của dân tộc Á căn đình vẫn mãi là đề tài
tranh cãi. Riêng về ý nghĩa tên gọi Tango không thôi đã có đủ luận cứ. Thuyết
thì cho rằng chữ Tango gốc gác từ Nhật bản và vũ điệu được kiều dân Nhật tại
Cuba chế tác. Ý kiến khác cho rằng từ tiếng la tinh „tango“ (chạm,
sờ, đụng vào). Hoặc cái trống Y pha nho mang tên „tambo“ cũng được
nhắc tới, lại có ý kiến cho rằng Tango xuất nguồn từ chữ Y pha nho “tañer”
(chơi, xử dụng một nhạc cụ) và chịu ảnh huởng làn điệu vùng Castilla[[2]].
Và nhịp phách trống Phi châu „tangú“ cũng được xem là cha đẻ của vũ
điệu …
Chỉ một điều
chắc chắn được biết là, ra đời cuối thế kỷ thứ 19, vào khoảng 1850 đến 1890,
cùng lúc trên hai thành phố Buenos Aires vàMontevideo[[3]] nằm
hai bên tả hữu ngạn dòng sông Rio de la Plata, điệu vũ tango
argentino tập hợp nhiều bước nhảy và làn điệu từ những vũ điệu dân
gian Habanera, Milonga và Tango andaluz.
Tại những "Milongas“[[4]],
những buổi tụ tập tự phát, nơi gặp gỡ của tầng lớp lao động khốn cùng tại khu
bến cảng La Boca [[5]],
miền namBuenos Aires, những cặp trai gái ôm sát lấy nhau cùng nhảy Milonga.
Điệu Milonga phổ biến khắp nước Uruguay và Á căn đình, xuất
thân từ một làn điệu đồng áng dân gian, điệu vũ vui tươi này mang đủ sắc thái
của cư dân da đen, da màu hòa lẫn với cá tính những nhóm dân nhập cư. Trong Milonga là
những tiết điệu âm nhạc Y pha nho trộn lẫn phách nhịp những làn điệu dân dã
châu Phi.
Habanera là một
điệu vũ Cuba nhập cảng vào La–Plata [[6]] thời
1860, dân bản xứ nhảy điệu Habanera như muốn nói lên nỗi niềm
của những kẻ bị thống trị. Mười năm trước đó điệu Tango andaluz cũng
đã được nhập cảng và không bao giờ vắng mặt trên những sân khấu bình dân trong
lòng thủ đô Buenos Aires.
Những điệu nhảy
sinh động này được xem là tiền thân của Tango Argentino hiện
nay.
Vào điểm giao
thời giữa hai thế kỷ 19 và 20 đất nước non trẻ Á căn đình ở giữa một thời đại
hoàng kim, Buenos Aires nở rộ trong phồn vinh và
được xem như là một Paris của Nam Mỹ. Từ các vùng nghèo khổ khắp châu Âu một
làn sóng di dân trổi dậy, dân chúng đổ xô về đây sinh sống khiến thành phố mới
này tràn ngập và muốn nổ tung dưới số dân nhập cư ngày càng tăng trưởng. Đông
nhất là dân Ý và Y pha nho, họ rời bỏ quê hương để tìm một tương lai tươi sáng
hơn trên vùng Mỹ châu đất hứa. Thời điểm này số di dân Ý tại Buenos Aires nhiều
hơn cả dân Á căn đình: không kham nổi vì quá tải, Á căn đình và Buenos
Aires cự tuyệt nhóm dân tị nạn ra mặt, không cho họ một cơ hội dẫu nhỏ
bé nào để mưu sinh vươn tới. Vỡ mộng, thất vọng, chán chường là điều đương
nhiên xảy đến cho thành phần này.
Rồi thì không việc làm, không địa vị, không uy tín, cuộc sống thiếu bóng phụ nữ, đám tị nạn cơ cực chỉ còn có một lối thoát tinh thần trong những không gian của tận đáy xã hội, tìm quên trong quán nhậu, ổ điếm, sòng bài … và âm nhạc. Tại đây, từ những quán nhậu, ổ điếm, sòng bài trong những phố ngoại thành và khu bến cảng của Buenos Aires, Tango mau chóng được những con tim giang hồ quấn quít nương tựa. Đến với Tango, họ được dịp rủ bỏ ngoài ngưỡng cửa những tranh đấu sống còn khắc nghiệt, họ tìm đến những giây phút buông thả đam mê, họ để cho đam mê diễn tả những cảm xúc cuộc sống, họ để hồn đến với nhau trong một thế giới chung đụng đủ mọi màu sắc văn hoá.
Rồi thì không việc làm, không địa vị, không uy tín, cuộc sống thiếu bóng phụ nữ, đám tị nạn cơ cực chỉ còn có một lối thoát tinh thần trong những không gian của tận đáy xã hội, tìm quên trong quán nhậu, ổ điếm, sòng bài … và âm nhạc. Tại đây, từ những quán nhậu, ổ điếm, sòng bài trong những phố ngoại thành và khu bến cảng của Buenos Aires, Tango mau chóng được những con tim giang hồ quấn quít nương tựa. Đến với Tango, họ được dịp rủ bỏ ngoài ngưỡng cửa những tranh đấu sống còn khắc nghiệt, họ tìm đến những giây phút buông thả đam mê, họ để cho đam mê diễn tả những cảm xúc cuộc sống, họ để hồn đến với nhau trong một thế giới chung đụng đủ mọi màu sắc văn hoá.
Những gì xảy ra trên sàn gỗ vũ trường, bar rượu tại Buenos Aires vào
thời điểm đó, cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, là những điều chưa bao giờ có
trong lịch sử và thế giới khiêu vũ cổ điển: qua Tango, màn khiêu vũ trở thành
một ‚el abrazo’[[7]]:
là hai thân hình ghì sát vào nhau trong tiếng nhạc thiết tha dìu dặt. Nhảy
Tango, thân thể cuộn siết lấy thân thể như muốn hòa tan hai khối hình hài làm
một. Dưới ánh đèn mờ ảo giữa không gian đong đầy tiếng nhạc, thỉnh thoảng khối
vật thể ấy chợt ngừng sững lại tạo một khoảnh khắc lắng đọng đợi chờ … tràn đầy
kích thích.
“Khiêu vũ những nỗi niềm
sầu muộn“
|
“Tango là
khiêu vũ những nỗi niềm sầu muộn“[[8]] câu
nói đi vào lịch sử Tango của Enrique Santos Discépolo, nhà nhạc sĩ
Tango nổi danh người Á căn đình. Thật vậy, tất cả hy vọng và nỗi niềm năm xưa
của đám người di dân vẫn ấp ủ trong mỗi điệu bước Tango. Dẫu phải mang chịu một
ít tai tiếng dèm pha, Tango vẫn luôn luôn thanh lịch tự mãn: Trên sàn gỗ gã vũ
khách ôm ghì lấy thân người phụ nữ, dìu những bước vũ bão nhưng hình như vẫn
chỉ muốn tự riêng mình thống thiết những tâm sự cô đơn. Tango không còn mang
làn điệu sinh động vui tươi như những bước chân của ngày đầu sơ khai nữa. Những
lãng mạn u sầu, thậm chí những khổ đau hiện diện rõ ràng qua những bước nhảy
cầu kỳ.
Và cuộc đời cũng khá khắc nghiệt với "Tango argentino“.
Tango, những vòng tay say đắm siết cứng lấy nhau, những bước chân đa tình kéo
lê chầm chậm giữa sàn, lập tức bị Vatican lên án là khiếm nhã
và xúc phạm thuần phong. Vua Wilhelm Đệ nhị (Đức) ra lệnh cấm
sĩ quan dưới triều không được nhảy Tango trong bộ quân phục. Trong qui chế
khiêu vũ của thành phố Vienna (thủ đô nước Áo) cho tới năm 1913
Tango vẫn không được ghi vào danh sách những điệu vũ chọn lọc. Ngay tại xứ sở
của mình, thành phần ưu tú và giới thượng lưu Á căn đình tẩy chay Tango vì nơi
chốn xuất thân không được mấy tốt đẹp của điệu nhảy. Người ta hổ thẹn với cái
sản phẩm bỗng đâu trỗi lên từ những ổ điếm, những cống rãnh của thành phố.
Từ những quán
rượu bên đường đến tầng lớp thượng lưu.
Nhưng sự việc
bỗng thay đổi hẳn khi Tango minh chứng được thành công rực rỡ của mình … tại Paris,
Tango được cuộc sống của Kinh đô hoa lệ đầy ánh sáng đón tiếp nồng hậu, một
cuộc sống, một nơi chốn mà dân cư vùng Rio de la Plata thuộc
mọi thành phần đều say mê khao khát. Kẻ nào đã buôn lậu Tango vào châu Âu, một
ả điếm, một gã buôn người hay một chàng nghệ sĩ; điều đó hiện giờ chả mấy ai
lấy làm thắc mắc. Chỉ biết rằng được du nhập vào Âu châu khoảng 1910, Tango
nhanh chóng cuốn hút linh hồn giới khách ăn đêm và trên sàn nhảy hàng loạt các
vũ trường thuộc những thành phố hoa lệ để từ đó đồng loạt dấy lên một cao trào
Tango trong các chốn ăn chơi sang trọng châu Âu và Paris nói riêng. Những lớp
học nhảy, những nhóm người yêu thích Tango mọc lên trên mọi ngõ phố từ xóm bình
dân cho đến khu thành sang trọng, Tango được mọi giới mở rộng bàn tay chào đón.
Và qua lịch sử bao năm của Á căn
đình đã chứng minh, không có gì ngạc nhiên khi giới thượng lưu Á căn đình lại
nhập cảng Tango ngược trở về cho xã hội của họ. Điệu vũ mà xưa nay ngay chính
họ ngần ngại, dèm pha và hắt hủi.
Rồi với thời
gian tiến hoá, những khu ổ chuột ven đô „Barrios“[[9]] của Buenos
Aires từ từ cải dạng thay đổi bộ mặt trở thành vũng nôi của điệu nhảy
Tango, điệu vũ gợi tình, da diết xuất thân từ những ổ điếm, xóm ngèo mang một
lý lịch không mấy tốt lành đã lớn lên cùng những đám anh chị bến cảng đâm chém
không gờm tay. Tango thoắt chợt được rủ bỏ bộ cánh mặc cảm tồi tàn, bay bổng
lên chiếm ngự tâm hồn mọi tầng lớp dân chúng Á căn đình nói riêng, Nam Mỹ và cả
thế giới nói chung, và cũng từ đó dần dần trở thành một biểu tượng cho văn hoá
Á căn đình về sau.
Những bước Tango chập chững đầu tiên, đơn sơ như một điệu nhảy
dân tộc, thường quyện lẫn trong những tiếng sáo, tiếng vĩ cầm theo giòng đệm
của chiếc guitare thùng, đôi khi được thay thế bởi một cây madoline hoặc cây
đàn harpe. Tại những tửu điếm sang trọng hơn, nhạc điệu Tango mới mẻ này được
độc tấu trên cây đàn dương cầm giữa quán. Những chàng nghệ sĩ lãng tử cùng các
giàn nhạc tay ba cứ hát và tấu tùy cảm hứng, mãi về sau này những nghệ sĩ dương
cầm tiếng tăm như Samuel Castriota và Rosendo Mendizabal bắt
đầu soạn nhạc và ghi chép lên giấy những tiết tấu, âm điệu.
Đàn Bandoneon – linh hồn của Tango
Không nhạc cụ nào gắn bó với Tango
hơn ‚bandoneon’.
|
Một ‚vòng tay
ghì siết’ El abrazo –cần thiết cho điệu nhảy biết bao, thì cây
‚bandoneon’ quan trọng không kém cho điệu nhạc Tango bấy nhiêu. "Một chất xúc tác, bandoneon thổi thêm sức sống vào điệu
Tango,“ dân Porteño [[10]] chính hiệu đều nhận định như vậy. Đến bây giờ
vẫn không biết được ai đã đem cây bandoneon đến xứ này. Có thể
do những thủy thủ, cũng có thể từ những di dân, chỉ biết là khoảng vào năm
1870, cùng với làn sóng nhập cư đầu tiên, ‚bandoneon’ nhập cảnh vào
Á căn đình – có lẽ qua ngõ USA. Mặc dầu thoạt đầu bị chê là ‚cosa de gringos’[[11]] , nhạc cụ lạ hoắc nhưng giản tiện này vẫn
chiếm lĩnh nhanh chóng địa bàn những quán Café, tửu điếm của khu bến cảng La Boca.
Hơn thế nữa âm hưởng của bandoneon chuyển biến tiết điệu Tango
dồn dập ngắt khoảng, sống động ban khai đó trở thành những bản Tango khoan thai
tha thiết, nỉ non thấm sâu vào hồn người.
Năm 1910 Á căn
đình kỷ niệm 100 lập quốc, dĩa nhạc Tango đầu tiên của tay đàn bandoneon mang
tên Vicente Greco được tung ra thị trường. Trong
cùng thời gian đó ngay tại châu Âu làn sóng nhạc và nhảy Tango làm xôn xao dư
luận Kinh đô ánh sáng Paris. Và từ đó trở đi làn điệu Tango
phát triển không ngừng.
Năm 1913 Robert Firpo kéo
thêm một cây dương cầm vào đồng tấu thường xuyên với giàn nhạc, những ban nhạc
khác hưởng ứng theo phong cách phối khí mới mẻ này. Từ đó những ‚Orquestas típicas criollas’[[12]] gồm bốn người xuất hiện ngày càng đông, dần
dần có mặt trên hầu hết trên các café vũ trường Buenos Aires.
Nhờ những đóng góp của đội quân lão luyện này; nào là những Roberto Firpo, EduardoArolas, Agustín Bardi và Francisco Canaro …
Điệu Tango hoàn toàn dứt bỏ được chuỗi ngày vô danh lây lất trong những ngõ đèn
mờ phố cảng.
Năm 1916 Francisco Canaro lôi
thêm một tay contrabass vào ban nhạc và lần đầu tiên một ‚sextetos típicos’ gồm
sáu thành phần với sáu nhạc cụ ra đời‚ mang một âm sắc mới, một phong thái nhạc
mới cho Tango. Đỉnh cao tiêu biểu của phong cách mới này được đại diện bởi bộ
sáu Sextett của Julio de Caro vào
giữa những năm 20 đầu thế kỷ 20. Gồm hai tay bandoneone, hai vĩ
cầm, một dương cầm và mộtcontrabass. Những cải tiến đột biến của thế hệ
nghệ sĩ này đẩy một làn gió mới vào phong cách trình diễn nhạc đệm cho Tango và
tạo hẳn một trường phái cho các giàn nhạc thế hệ Tango theo sau. Từ thời điểm
này thế giới Tango luôn nhắc đến ‚Guardia Nueva’ – đội
quân tiền phong gồm những tên tuổi như:
Với nhân sự mỗi
ngày hùng hậu hơn, giàn nhạc cho phép cá nhân có thể triển khai sở trường của
mình. Mỗi tay đàn qua đó có cơ hội tự khoe sắc màu, diễn tả những ý nhạc khác
nhau theo xúc cảm. Dòng nhạc không còn đơn điệu nữa, trái lại với phối khí hài
hoà, người nghe vẫn cảm nhận được những dũng mãnh của một Eduardo Arola sống
động hoặc của Agustín Bardi vui đùa, quyện vào đó
những làn điệu lãng mạn của Osvaldo Fresedo.
Đến thời Pedro Maffia,
khả năng phối âm của cây bandoneon được triển khai thêm. Âm
thanh mà Pedro Maffia lôi cuốn được từ câybandoneon và
cách chơi rubato[[13]] của chàng tạo thêm một phong cách mới cho
những tay bandoneon cùng thời đại. Cùng với PedroLaurenz,
tay đàn bandoneon với trình độ kỹ thuật có một không hai đương
thời, Pedro Maffia sáng chế một diễn đạt mới:
‚Song tấubandoneon’ – một chơi theo âm giai, một chơi phản điệu.
Tango cũng tạo
nên những huyền thoại được loan truyền cho đến đời sau: 1924, chỉ qua một đêm,
với bản ‚Recuerdo’, Osvaldo Pugliese, một tay
dương cầm non trẻ 18 tuổi leo cao lên đài danh vọng và ảnh hưởng lên phát triển
của Tango không ít với những bài như‚ La Yumba’và ‚Negracha’.
1918 Carlos
Gardel thâu vào đĩa bản‚ Mi noche triste’ (My sad night), giọng
hát Tango đầu tiên: Chàng thiếu niên túng thiếu sống giữa chợ Buenos Aires,
cũng chỉ qua một đêm vụt chốc trở thành thần tượng và ước mơ của cộng đồng di
dân nghèo khổ. Từ một con số khôngCarlos Gardel đến với huy hoàng
và danh vọng như một giấc mơ. Trở thành ngôi sao thế giới, qua đĩa hát, phim
ảnh và những buổi trình diễn, Gardel đã hoàn thành sứ mạng đưa
di sản văn hoá Á căn đình này đến với mọi người. Năm 1935 mất qua một tai nạn
máy bay, mới 45 tuổi, ông để lại trong trái tim dân Porteños nhiều
tiếc thương. Hiện nay bia mộ ông vẫn được những người ái mộ viếng thăm mỗi
ngày.
1937 chàng ‚bandoneonist’ Añibal Troilo ra
mắt công chúng cùng giàn nhạc tám người với thành phần ba cây bandoneone,
ba cây vĩ cầm, một dương cầm một contrabass và một giọng ca
của Fiorentino.
Và những soạn
nhạc gia tên tuổi của thế kỷ 20 như Igor Strawinsky, Paul Hindemith und Ernst Krenek cũng
liên kết tiết tấu Tango vào sáng tác của mình, mở cửa cho Tango bước vào sân
khấu hòa nhạc và thính phòng. Những nghệ sĩ trứ danh như nhạc trưởng kiêm danh
thủ dương cầm Daniel Barenboim, vĩ cầm gia Gidon Kremer,
cặp nghệ sĩ dương cầm Emanuel Ax và Pablo Ziegler,
danh thủ guitar Al di Meola, nữ ca sĩ người Ý Milva và
giọng ca thính phòng nổi tiếng Placido Domingo mỗi
người đều có sáng tác và phát hành tuyển tập Tango của riêng mình.
Rồi đến 1940,
trong khi Âu châu nằm dưới thảm họa chiến tranh, Á căn đình và Uruguay với nền
xuất khẩu da thuộc, thịt và len thô đạt được một cuộc sống kinh tế khá sung
túc. Số người bỏ làng mạc lên thành phố kiếm sống ngày càng nhiều. Trên mọi góc
phố Montevideo undBuenos Aires café,
vũ trường song song theo đó mọc lên như nấm, Buenos Aires thời
gian này có tới 600 giàn nhạc nhảy và nhiều đại vũ trường có thể lên chứa đến
2000 người. Và ở đâu cũng chỉ mỗi một điệu nhảy – Tango. Tango trở thành điệu
nhảy của đất nước. Cũng từ thời điểm này bước Tango chuyển biến đa dạng và
quyến rũ hơn, để từ từ trở thành nền tảng cho điệu Tango hiện nay. Tao nhã, tài
tình, một hình thái Tango hoàn mỹ.
Từ 1955, sau
ngày Perón [[14]] bị quân đội đảo chánh, Tango bỗng nhiên bị
chìm lắng xuống và đi vào lãng quên. Thê hệ trẻ quay lưng lại với Tango và chạy
theo làn sóng âm nhạc thời thượng, Rock, Pop, … Thời gian kéo dài cho đến thập
kỷ 70 thế kỷ trước. Đến 1982 cùng làn sóng tị nạn chính trị từ Á căn
đình và Uruguay tràn qua Âu châu, Tango được thổi
thêm một làn gió mới. Và Tango hồi tỉnh giữa xã hội châu Âu một lần nữa.
Tango hiện nay
xuất hiện trở lại với vũ khách không hẳn chỉ như một hoài niệm về không gian
xưa mà còn mang phong cách một vũ điệu thời trang cho tuổi trẻ. Không những
ngay tại quê hương mình mà khắp mọi châu lục, những trường dạy Tango mọc lên
như nấm. Đánh giá về làn sóng khám phá Tango trở lại, Jorge Firpo,
kép nhảy của Aurora Lubis đồng thời là một ông giáo nhảy đầm
Tango nổi tiếng thế giới:„Tôi không xem rằng đây là một cuộc hồi sinh. Theo
tôi trong thời gian qua, thời mà những đề tài xã hội, lãnh vực văn hoá cũng như
chính trị chiếm phần quan trọng hơn, Tango đã thiếp ngủ giấc dài như một nàng
công chúa. Vũ điệu Tango nép mình nghỉ yên trong một góc tĩnh mịch, để hôm nay
tỉnh giấc qua nụ hôn đánh thức, choàng dậy như Phượng hoàng bay vụt lên từ đống
lửa.“
[1] Bandoneon – “Band Union”: Tiền thân của
‚bandoneon’ là Konzertina, một ‚Harmonika kéo tay’ (loại nhạc cụ nhỏ kéo bằng
tay giống như cái accordeon bây giờ nhưng nhỏ và đơn giản hơn nhiều). 1840,
Heinrich Band, người Đức, nhà dạy nhạc và buôn bán nhạc cụ, cải tiến cây đàn
Konzertina và gọi những cây đàn được công ty ông bán ra, có đến 144 thanh âm,
là “Band Union” – tên gọi “Bandoneon” phát sinh từ đó. Cho đến nay những nhạc
cụ này vẫn được sản xuất chính gốc từ Đức, tại Buenos Aires chỉ có những cơ
xưởng sửa chữa mà thôi.
[2] Castilla: vùng trung nguyên trung thổ lớn, chính
giữa Y Pha Nho – gồm Castilla La Mancha, Madrid và Castilla y León.
[3] Buenos Aires: Thủ đô của nước Argentina (Á căn
đình). 1880 được tuyên bố là thủ đô, tách hỏi tỉnh có cùng tên Buenos Aires,
trở thành thành phố tự trị. – Montevideo: thủ đô của Uruguay, một quốc gia tại
Nam Mỹ.
[4] tiếng Y pha nho: milonga – tạm dịch: lộn xộn,
lẫn lộn; ám chỉ những cuộc chơi, hội vũ tự phát, ca hát và nhảy múa cùng nhau –
còn có tên là một điệu nhảy dân dã tại Nam Mỹ (Uruguay, Argentina, …).
[5] Tên khu phố cảng của thủ đô Buenos Aires nằm tại
cửa một nhánh sông con chảy vào Río de la Plata. Là khu phố gồm di dân gốc Ý
(nơi chôn nhau cắt rốn và lớn lên của đôi chân vàng Diego Maradona).
[6] La Plata: thủ phủ của tỉnh Buenos Aires (xem
[1]), nằm bờ hữu ngạn cửa sông Rio de la Plata.
[7] el abrazo – engl. the hug: ôm, quặp, ghì sát
nhau bằng hai chân.
[8] engl.: a sad thought, which one can dance.
[9] spain: khu phố – dùng trong engl. ám chỉ những
khu nhà nghèo ổ chuột của thành phố.
[10] tiếng Y pha nho – engl. Buenosairean: cư dân tại
Buenos Aires.
[11] ‚ba cái thứ đồ của tụi Âu châu’ – gringo: người
nước ngoài, ở đây ám chỉ dân châu Âu.
[12] engl. Creole typical orchestras.
[13] rubato còn gọi là tempo rubato (ital. rubare=
cướp đi, trộm) định nghĩa trong âm nhạc sự chủ ý kéo dài âm sắc nhưng vẫn giữ
cùng nhịp điệu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét