Đôi mắt trên mù sương dốc núi
Lần đầu lên bản Hưa cũng là lần đầu tôi được hòa vào cuộc sống
núi rừng quanh năm mây phủ. Từ nhỏ tôi chưa đi đâu xa hơn chặng đường toàn đèo
dốc như lần ấy. Bước xuống xe, tôi say đất đến hai ngày, người luôn ở tình trạng
thiếu ô xi. Một vùng đất vô cùng lạ lẫm hiện hữu. Những đứa trẻ, cụ già, mẹ và…
A Viên. Rồi sớm ấy A Viên lên nương, tôi gùi đá sỏi về xuôi.
A Hươr, vùng đất khô cằn sỏi đá. Tôi chỉ thấy các cô gái, các
chị, các bà các ông gùi dụng cụ lên rẫy, còn thanh niên hình như họ chỉ một việc
chăm cà phê cho nông trường. Ở nhà, A Viên có gần một ngọn đồi cà phê, tha hồ
chăm sóc, tha hồ làm cỏ, tha hồ cực khổ. Nhưng A Viên không buồn. Đêm trên nhà
rông, tôi thấu được cõi lòng người thiếu nữ miền sơn cước. A Viên chưa hề có một
manh tình. Những tấm zèng dệt áo tân hôn vẫn trinh nguyên. Đêm bản Hưa, tiếng
lũ khỉ gọi đàn từ tiền sử… Bạn của A Viên là A Phen. Phen thua Viên ba tuổi
nhưng tôi dễ dàng nhận ra sự từng trải chừng như đánh rơi mất sự hồn nhiên thiếu
nữ.
– A Phen định khi nào lấy chồng? Mười bảy là lấy chồng được rồi
phải không? Ở đây con gái lấy chồng sớm lắm mà.
– Không ai ưa. Muốn lấy lắm.
Đêm khởi đầu trên đất bản Hươr, A Phen dúi vào tay tôi
một mảnh giấy: “A Phen đã có người yêu nhưng A Phen chưa đồng ý. A Phen đang
nghĩ đến người khác. Ngày nào tim A Phen đập mạnh là A Phen biết mình yêu người
đó…”.
A Phen ngồi với tôi với A Viên một lúc thì bưng đúa rau tàu
bay ra rửa ngoài vòi nước. Má A Viên kê lên đầu gối, tia qua tôi ánh nhìn
thương cảm. A Phen có đi qua cửa bếp hai lần nữa, không ngó vào, rồi nói tiếng
Pacoh với ai đó. Cũng có lần tôi thấy A Viên trả lời, hình như điều gì đó về
tôi…
Ngôi nhà rông được dựng ngay giữa bản, phía trước là khoảnh đất
phẳng rộng bằng tiêu chuẩn một sân bóng chuyền. Khởi công bắt đầu vào tháng 7
năm 1999 đến năm 2000 mới hoàn thành. Nếu tính theo giá thị trường, để có được
một ngôi nhà rông bề thế như vậy cũng phải tốn trên 3 trăm triệu; nhưng dự án
NEV chỉ “gợi ý” cho bản chưa tới một phần mười! Toàn dân bản Hưa vẫn quyết tâm
làm. Việc khó nhất là lấy gỗ. Gỗ trong thời điểm khan hiếm; và để chọn được gỗ
tốt, từ già đến trẻ bản Hưa đã cơm nắm sắn lùi gùi theo gần nửa ngày đường mới
tới chỗ. Chọn được gỗ, chặt rồi còn phải “vác” về bản… Tôi hình dung những
khuôn mặt dân bản Hưa với đoàn người hùng hục kéo từng khối đá về xây dựng Kim
tự tháp trên sa mạc cổ đại, trong đó có A Viên.
A Viên bảo phải về để ngày mai đi rừng sớm. Tôi ngủ lại nhà
rông và không quên dặn A Viên đến thức tôi đi cùng. Tôi chỉ chợp mắt quãng ngắn,
rồi tỉnh. Tưởng những đồng nghiệp vẫn còn ngủ bên tôi trong cái đêm cách mấy
năm về trước. Nhưng không, trên sàn nhà rông chỉ mình tôi. Dân bản đã chìm sâu
vào giấc ngủ; điện vẫn được thắp, ánh sáng xuyên qua những mái tranh, mưa rây
như tuyết. Tôi đã nhầm. Thời gian không xóa nổi hình bóng của A Viên trong tôi.
Viên chỉ tạm ẩn náu trong tâm thức, bản Hưa chỉ tạm chìm trong mù sương khi mặt
trời chưa thức giấc…
Hửng sáng. Mưa lun phun. Tôi mang một a chói nhỏ
theo A Viên đi lấy măng rừng. A Viên bảo em phải ghé thăm nương rẫy gia đình.
Chúng tôi đi qua các đồi cà phê mênh mông kỳ chín bói. Dải sương mù nối nhau
giăng kín những mỏm đồi xa tít. A Viên chỉ tay. “Măng rừng trên kia kìa”. Tôi
điều chỉnh nhịp thở đã nhộn hơn, cố bước nhanh theo. A Viên xăn quần quá gối,
nước da mịn. Mưa có dày hơn. Hết đoạn đường lau sậy, chúng tôi bắt đầu leo dốc.
Rồi lại tuột xuống một ngọn đồi, gặp khe nhỏ có hai cây gỗ bắc qua, nước mấp
mé, trong và lạnh toát. A Viên đi đôi dép cao su có quai hậu, đầu bặn ngang chiếc
khăn zèng, đội trên chiếc mũ lưỡi trai. Những con đường quanh co, nhỏ chỉ vừa một
người đi, tôi không bước bên A Viên được. Nắng đã lên, trải dài mênh mang rẫy
lúa còn đẫm sương. Từ trên những cành cây um tùm, một bầy khỉ chuyền cành tán
loạn cả lên. “Ở đây vẫn còn khỉ hoang hả A Viên?” “Còn. Ngày trước trong bản
súng nhiều lắm. Giờ bản thu hết rồi. Không bắn thú nữa”. Khoảng im lặng quá
dài, một lúc A Viên thấy tôi liền cười. Nụ cười thường là bật ra, như một viên
sỏi khẽ bắn vào vũng nước tù đọng trong trái tim ai. Rất nhiều lần, tôi đứng ngẩn
ra nhìn A Viên theo dốc đồi - phía dưới. Tôi đứng rất lâu. Sau đó thì tôi không
làm gì nữa, cứ đứng nhìn A Viên. A Viên nhìn lên, quay chậm ánh nhìn chỗ khác,
tưởng có thể đốt cháy tờ giấy ẩm. Tôi nhìn những đồi lúa thoai thoải dốc, cứ
nghĩ ở quê có cho không người ta cũng lắc đầu. Cả đêm ngồi trên nhà rông uống
rượu, già làng cho hay: mùa mưa lớn, nước đào luôn cả nương lúa ở các sườn núi
lùa xuống khe. Mất trắng.
A Viên chỉ lên đồi lúa nhà mình có trồng xen bắp và hoa màu;
thứ đã gần như vắt cạn sức lực của đồng bào mà chẳng cho năng suất bao nhiêu. A
Viên quay nhìn tôi: “Anh bám lấy gốc cây mà lên”. Thấy A Viên thả dép, tôi làm
theo. Độ dốc tương đối lớn. Tôi cố tránh không dẫm cây lúa nào. “Lúa đây sao gặt
được A Viên?” “Không gặt. Khi chín thì truốt bỏ vào gùi thôi. Xong thì phát rồi
đốt”. Không như A Viên, tôi thận trọng vin vào những gốc cây, lém xém than đen
mà leo lên. Tay A Viên rất mạnh. Tôi hình dung A Viên với người đàn bà
trong Mùa hoa – “thừa sức vác người đàn ông chạy băng băng lên núi”.
Một con chim vút qua bầu trời, tôi vuột nhìn theo. “À… tối A Viên ghi giùm bài
hát của đồng bào về tình yêu nghe!” “Em ghi…”; sau đấy là một tràng tiếng
Pacoh. Tôi chau mày: “Em nói xấu anh à?” A Viên lại cười. “Em không dám dịch ra
đâu”. Tôi lại nhìn A Viên chặt cây, thực khó hiểu: ở một nơi kham khổ, tối ngày
làm lụng mà A Viên vẫn hồn nhiên đến vậy.
Hai chúng tôi gặp bụi chuối mọc lên từ vũng nước rộng hàng
trăm mét vuông, có cây cao hơn chục thước. “Chuối hoang hả A Viên?” “Ai mà trồng
ở đây anh. Chuối rừng đó. Bắp chuối rừng ngon lắm”. Tôi nhìn những buồng chuối
chỉ được dăm ba nải; đoạn cồi dài nửa mét mới đến cái bắp nhỏ nhắn, xinh xẻo,
hình như nó không nở ra nữa. Một bụi măng tua tủa hiện ra. A Viên vẻ mặt không
mừng, chỉ nhìn thoáng, rồi bước tiếp. Thấy lạ tôi hỏi sao không bẻ măng? A Viên
nói: “Mình phải đi tìm nữa. Chừng đó chưa được nửa a chói. Đường còn xa,
còn leo dốc. Phải lấy măng từ trên núi lấy xuống, không thì sức đâu mà cõng
anh”. Tôi hiểu. Lại đi. Bên tôi, A Viên thoăn thoắt, vừa leo đồi vừa hát. Tôi
thương lạ kỳ sự vui vẻ đó. A dô a no ơi! A dô a no ơi!… (thương anh
thương anh, em thường mơ về anh/ Thương anh thương anh…). Lại nhớ đêm bên bếp lửa
tại nhà rông năm trước, A Viên đã hát cho chúng tôi nghe. Giọng hát trong vắt.
Tiếng hát của A Viên vọng giữa núi rừng hoang vu. Chất giọng
trầm buồn lẫn trong giai điệu bài dân ca người Tà ôi, những nương bắp rẫy lúa
hiện ra trong mơ màng sương sớm. Tiếng hát của A Viên là nguồn sống. A Viên là
đội phó đội văn nghệ của bản; đội văn nghệ đã góp phần mang về cho thôn Bằng
Công Nhận Làng Văn Hóa do Thủ tướng Chính phủ tặng. Tôi từng được xem cuốn băng
quay lễ hội khánh thành nhà rông bản Hưa. Một chương trình với nhiều tiết mục
văn nghệ đặc sắc. Đừng khóc các đồng chí ơi, mình nhớ gia đình mình gửi lá
thư. Đừng khóc các đồng chí ơi, mình nhớ quê hương mình gửi lời thăm… Đừng khóc
các đồng chí ơi nhớ tới nhiệm vụ mình phải thực hiện cho nhanh… Đừng khóc các đồng
chí ơi mình hy sinh nhân dân đều nhớ… A dô a no ơi – A dô a eem ơi… mang
hương rừng gió rẫy và vũ điệu hoang dã trong mỗi lời ca.
“Anh xăn quần cao đi, không vắt bò lên không biết mô”. Tôi chột
dạ, đang đi liền đứng lại, cúi xăn quần. Bao nhiêu quả thầu đâu tôi và A Viên
nhặt đổ khỏi miệng a chói, lăn xuống con dốc mà chúng tôi vừa vất vả leo
lên. A Viên cười, còn tôi tiếc ngẩn: “Quà anh muốn mang xuống phố đó!” “Thôi, hồi
về em nhặt cho”. Lại đi. Đường trơn, nhưng nhờ rễ cây ở hai bên đâm ra nhiều
nên có độ bám.
A Viên luồn vào bẻ măng, tôi theo. Những con vắt vẫn búng
tanh tách vào mình. Măng rừng chụm thành từng bụi, bậm bạp và non. Măng tre gọi a
bung, còn có măng lồ ô cũng nhiều. A Viên bảo “măng tre ngon hơn, chỉ lấy a
bung thôi”. Rồi cười thật hiền. A Viên bóc xong măng sắp vào giù. Vừa khẳm.
Nhân lúc A Viên bẻ thêm bắp, tôi ngồi xuống luồn dây gùi vào vai. Nhưng, chưa
nhổm người lên gùi măng đã kéo tôi bật ngửa. A Viên quay lại… cười.
– Tối nay em sẽ mời khách dưới xuôi một bữa toàn măng.
Măng tươi xắt vào nước lã, luộc hơn tiếng đồng hồ thì vớt ra
để nguội, sau đó trộn với “muối”. Người bản Hưa lấy quả kỳ rĩ thay mỡ.
Cây kỳ rĩ to cao như cây gỗ rừng, quả bằng nắm tay, xanh; khi chín
chuyển qua màu đen, rụng. Bản Hưa có một cây ở bên phải con dốc cuối cùng. A
Viên nhặt về chẻ ra - trong mỗi quả chỉ được hai hạt (quả cái); quả nào một hạt
là quả đực. Hạt kỳ rĩ bằng ngón chân cái, vỏ cứng như vỏ dừa tuy mỏng
hơn. Đem hạt vào bếp than nướng lên rồi đập ra, lấy nhân đâm với muối hột, ớt,
mì tinh - thành “muối”. Món măng trộn nhờ “muối” mà dòn, ngon lạ.
Già làng mang ra vò lớn rượu đoác ngâm ủ lâu ngày, chuyển màu vàng sậm, đặc sánh. Già giao cho tôi một sừng trâu: “Phải uống hết sừng trâu đó bản Hưa mới ưng cái bụng”… Cứ thế, cuộc rượu đoác kéo dài tới khuya. Tôi phải lăn lên giường nhắm mắt lại. A Viên bỏ dở tấm zèng đang dệt, xuống bếp nấu cháo măng. Khi nước sôi, A Viên cho măng vào (măng tươi ngâm hai ba ngày, vắt khô); sôi lại thì cho sắn xắt nhỏ và gạo vào. Gạo bắt đầu nở búp mới nêm “muối”.
Già làng mang ra vò lớn rượu đoác ngâm ủ lâu ngày, chuyển màu vàng sậm, đặc sánh. Già giao cho tôi một sừng trâu: “Phải uống hết sừng trâu đó bản Hưa mới ưng cái bụng”… Cứ thế, cuộc rượu đoác kéo dài tới khuya. Tôi phải lăn lên giường nhắm mắt lại. A Viên bỏ dở tấm zèng đang dệt, xuống bếp nấu cháo măng. Khi nước sôi, A Viên cho măng vào (măng tươi ngâm hai ba ngày, vắt khô); sôi lại thì cho sắn xắt nhỏ và gạo vào. Gạo bắt đầu nở búp mới nêm “muối”.
Mười một giờ A Viên thức tôi dậy ăn cháo măng. Tôi ăn hết tô
cháo nóng, thấy người nhẹ hẳn. Nằm xuống, tôi đã có thể chuyện trò, nhìn A Viên
dệt zèng. A A Viên không ngần ngại hứa: “Giờ không mấy ai dùng khố nữa nhưng A
Viên sẽ dệt tặng người dưới xuôi một cái khố”.
Mắt tôi ríu lại, nhưng khuôn mặt A Viên vẫn sáng rõ. Khuôn mặt
ấy đã không thể tẩy xóa khỏi trí não kể từ mấy năm trước, tôi cùng đoàn công
tác rời bản Hưa sau mười ngày vui cùng dân bản. Lúc tiếng xe lên đón chúng tôi
rú lên từ nhà rông, mặt A Viên tái nhợt. A Viên xếp tấm khăn zèng do chính tay
mình dệt ba năm trước được xếp phẳng phiu trong tráp. Sáng ấy A Viên mặc bộ váy
truyền thống; khuất sau khuôn mặt ủ ê vẫn trinh nguyên những đường cong thiếu nữ.
Tôi ngưng lại, sự im lặng nhân lên bội lần. Tiếng suối sau nhà tuôn mạnh. A
Viên vẫn cúi gục. Tự dưng, điều tôi không ngờ tới, tôi không tin nổi: A Viên
hát! Dọng A Viên trầm, trong vắt như nước suối đêm và… lạnh. A dô no ơi! A
dô no ơi… Thương anh em nấu cơm chờ anh về… Em thương anh nướng cho anh những
gì anh thích ăn nhất… Em thương anh em dệt zèng… bây giờ anh lại bỏ em…






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét