Xuân, hạ, thu, đông lời bình của Thuận Nghĩa
và GS. Cao Huy Thuần
Xuân, Hạ, Thu, Đông
Hôm nay VTN sang nhà Thuận Nghĩa, thấy có bạn còm bên đó đưa
đường dẫn đến bài bình về bộ phim Xuân, Hạ. Thu. Đông của GS. Cao Huy Thuần.
Để tiện theo dõi và đánh giá về bộ phim này, VTN đưa bài đó về
đây để bà con cùng đọc và hiểu thêm về bộ phim.
Tuần vừa qua, một cuốn phim Ðại Hàn ra mắt khán giả Paris, được
khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là: Xuân Hạ Thu Ðông … rồi Xuân (1).
Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên
thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông… rồi xuân
thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân
trên một ngôi chùa nhỏ… trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
Thơ và đẹp là chuyện của phim. Bằng im lặng, cảnh nói thay
người, vì người chẳng có gì để nói. Chẳng có gì để nói giữa ông thầy và chú tiểu.
Chẳng có gì để nói giữa chú tiểu và cô gái. Giữa ba nhân vật là một chiếc thuyền,
có khi có người chèo, có khi không có người chèo vẫn trôi, trôi từ bờ bên này
qua bờ bên kia, từ thế giới bên ngoài không hiện diện qua thế giới ngôi chùa
không ai cần nói với ai. Chiếc thuyền là nét động duy nhất giữa tĩnh lặng mênh
mông, là vùng vẫy giữa lắng đọng. Nói gì? Có gì để nói? Nói gì giữa chú tiểu
và cô gái? Chuyện xảy ra là chuyện tất nhiên, bình thường như xuân hạ thu
đông, bốn mùa trôi qua trên mái chùa.
Mới hôm qua, mùa xuân, chú tiểu hãy còn là búp măng, con ai
đem bỏ chùa này, ngây thơ đùa nghịch với cóc nhái, rắn rít. Hôm nay, khi cô gái
đến, tuổi đời của chú đã bắt đầu vào hạ. Ðất trời ấm mùa hạ, cô gái ấm mùa hạ,
chú cũng vậy. Chuyện gì xảy ra tất phải xảy ra, chú tiểu hay ai cũng vậy thôi,
đất đá cũng biết, nói gì, có gì để nói, bình thường như xuân hạ thu đông, bốn
mùa trôi qua.
Cô gái đến chùa để ở lại chữa bệnh. Khi đến, cô u sầu. Dưới mặt
trời mùa hạ, trời ấm, người ấm, cô rạng rỡ. Ông sư nói: “Cô lành bệnh rồi đấy,
về nhà được rồi”. Ông biết hết, nhưng thản nhiên, như không, có gì để nói? Cô
gái xuống thuyền, thuyền đưa cô từ bờ bên này của núi non qua bờ bên kia của một
thế giới chẳng ai biết. Ðó là thế giới chú tiểu sắp bước vào, bởi vì, sau khi
cô gái đi, chú tiểu cũng khăn gói rời chùa, làm con bướm đuổi theo mùi hương.
Trong khăn gói, chú cẩn thận nhét thêm tượng Phật. Nằm trong gói, chắc tượng Phật
nói thầm: “chú tiểu ơi, chẳng sao đâu, chú đi như thế cũng tốt như ở, bình thường
thôi, xuân hạ thu đông”.
Chùa hai người, bây giờ chỉ còn một. Một ông sư già và một
con mèo con. Mặt trời dịu lại, mùa hạ cũng ra đi. Mùa thu dần đến, núi non vàng
rực một màu.
Nhưng chẳng mấy chốc, chú tiểu trở về. Chú về với râu, với
tóc, với tướng mạo hiên ngang của thanh niên đô thị. Và với con dao! Con dao
mà chú đã thọc vào cổ của người yêu bây giờ là người phản. Chú vào chùa, giận dữ
bốc cháy người chú. Trong tay chú, con dao như muốn thọc vào cả núi non. Thản
nhiên như không, ông sư càng già càng ít nói. Chỉ nói: “Chú khổ thì người
khác cũng khổ”. Nghe chừng như chuyện khổ cũng tất nhiên, nói gì, có gì để
nói, chỉ là xuân hạ thu đông.
Cũng tất nhiên, cảnh sát đến chùa bắt kẻ sát nhân. Cảnh sát
có súng. Sát nhân có dao. Dao ấy hươi lên trước súng. Máu sẽ đổ chăng? Ðổ trên
sân chùa? Ðổ trên lưng ông già đang lom khom nắn nót viết chữ trên sân? Ðâu
có! Không rời bút, cũng chẳng nhìn lên, ông bảo chàng thanh niên buông dao.
Dao buông xuống thì dao hết là dao. Dao hết là dao thì súng cũng hết là súng, cảnh
sát hết cảnh sát, thanh niên hết râu tóc. Chỉ còn chữ viết trên sân. Với con
dao đã buông, ông bảo chú thanh niên tiếp tục khắc chữ trên nền sân, khắc theo
chữ ông viết. Chú khắc suốt ngày và suốt đêm. Khắc rách da tay, khắc kiệt sức.
Khắc: sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc,
thọ tưởng hành thức diệc phục như thị… Bài kinh Bát nhã.
Sáng hôm sau, cảnh sát dẫn chú lên thuyền qua bên kia bờ. Mọi
chuyện xảy ra như chẳng có gì để nói, chẳng có gì để nói nhiều, tất nhiên như
thế. Trừ bài Bát nhã...
Mùa thu trôi qua, tuyết mùa đông phủ trắng núi non. Một mùa
tuyết, hai mùa tuyết, chẳng biết bao nhiêu mùa tuyết trôi qua, chỉ biết ông sư
già đã tịch. Giữa băng giá phủ kín mặt hồ, bỗng một hôm, giữa mùa tuyết như thế,
một người đàn ông đứng tuổi hiện ra, đi từ bờ bên kia qua bờ bên này của ngôi
chùa bỏ hoang. Cũng một người ấy thôi, mãn giấc bướm, mãn tù, mãn cuộc đời,
quay về chùa cũ. Cũng một người ấy thôi, nhưng không phải người ấy nữa. Người ấy
bây giờ là sư.
Có sư, chùa sống lại. Tượng được đặt trên bàn thờ, bế lên
núi, ngự trên chóp đỉnh, tạc cả vào băng. Giữa băng giá, sư mình trần leo núi,
thách đố với trời đất, thách đố với cả chính mình. Sư thắng. Sư đã từ giã bờ
bên kia. Sẽ không còn ai biết sư là ai nữa, kể cả con thuyền khi hết băng giá sẽ
nối lại hai bờ, kể cả chính sư. Nhưng từ giã cuộc đời bên kia đâu có phải là diệt
nó. Trái lại, phải sống với nó. Mà cuộc đời ở bên kia cũng chẳng để cho sư quên
sư đâu. Nó nhắc nhở hành trình của sư ở chính cái chỗ bắt đầu: ở tiếng khóc
khi bắt đầu sự sống. Cho nên, giữa giá băng như thế, một buổi sáng, chùa chưa mở
cửa, bỗng vang dội tiếng khóc sơ sinh trước sân. Một thiếu phụ, chẳng biết ai,
dấu nước mắt, đem con lên bỏ chùa này, giao cho chùa giọt máu chắc hẳn là kết
quả của một hạnh phúc không bền hơn sương tan đầu cỏ. Tiếng khóc! Trẻ thơ! Câu
chuyện của chính ông sư, có lẽ của cả mọi người, sẽ lặng lẽ diễn ra hàng ngày
trước mắt ông. Câu chuyện đó, ông đã quá biết rồi, cho nên có gì xảy ra chắc
ông đều sẽ thản nhiên, chẳng nói một lời, nói gì, có gì để nói, bình thường như
xuân hạ thu đông trôi qua trên mái chùa của ông.
Ðấy, băng giá tan rồi, mùa đông đã trôi qua, một mùa đông,
hai mùa đông… Rồi mùa xuân! Trẻ sơ sinh đã thành chú tiểu nhỏ, ngây thơ đùa
nghịch với cóc nhái, rắn rít đang bò ra khỏi hang. Chỉ chừng mươi mùa xuân nữa
thôi là chú tiểu sẽ vào tuổi hạ. Coi chừng, chú sắp rút dao. Sắp khắc trên nền
gạch :“có chẳng khác không, không chẳng khác có…” Nói gì nữa, có gì để nói?…
Ðáng lẽ người kể chuyện chấm dứt ở đây. Nhưng xem phim mới lại
nhớ phim cũ. Nhớ quá, không cắt hai phim ra được, cho nên phải thêm. Cũng tại
bài kinh Bát nhã, năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư. Dứt trừ hết khổ
ách, chân thật không hư. Tại sao bài kinh Bát nhã có công năng như vậy? Tại vì
kinh nhắc chữ có cho ai mê muội về không, nhắc chữ không cho ai mê muội về có.
Cứ thử mê muội rồi thấm Bát nhã.
“Xuân Hạ Thu Ðông… rồi Xuân” được sáng tác giữa thời đại mà
dục tính phơi tràn trên màn ảnh. Ái dục là đề tài của phim, vấn nạn của nhân vật.
Tôi không biết đạo diễn có lấy hứng từ phim cũ không, nhưng tôi liên tưởng đến
một phim nổi tiếng của Nhật, Quái Ðàm (Kwaidan) (2), chiếu cách đây trên 35
năm, rút từ một chuyện thiền, chẳng có gì giống phim mới ngày nay, trừ bài Bát
nhã. Chuyện như sau, tôi kể theo trí nhớ.
Một chú tiểu mù sống trong một ngôi chùa vắng với một ông sư
già. Chú chơi đàn tỳ bà rất hay, tiếng đàn ai oán, ai nghe cũng rơi lụy. Một buổi
tối mùa hè đầy sao, chú tiểu đang ngồi trước sân tư lự với sao trên trời, bỗng
nghe bước chân lạ của ai đến bên cạnh. Tiếng áo giáp khua. Rồi giọng một võ sĩ: “Chú đừng sợ. Nữ chúa của ta nghe danh cây tỳ bà của chú nên bí mật tới đây
cùng với cả triều đình của ngài để mời chú đến đàn cho nghe khúc nhạc kể lại trận
thủy chiến ngày xưa xảy ra trong vùng này. Ta đưa chú đi”.
Chú tiểu ngần ngại quá, sợ kẻ lạ, sợ đêm khuya, thầy quở,
nhưng võ sĩ nắm tay chú kéo đi. Chú được dẫn đến trước một cung điện nguy nga,
tráng lệ. Cả một triều đình bá quan văn võ, quý tộc, công nương, lễ phục oai vệ,
uy nghiêm, ngồi lặng yên chờ chú. Trên ngai, chủ trì một nữ chúa, trang phục cực
kỳ lộng lẫy. Chú tiểu so dây, lựa khúc, gảy bản đàn nổi tiếng, rồi cất tiếng ca
não nùng kể lại trận đánh. Cả triều đình thương cảm, rơi lệ.
Gần sáng, võ sĩ đưa chú về lại chùa, hẹn tối mai sẽ trở lại,
sẽ đàn, sẽ yến tiệc, sẽ trả công, sẽ gả người đẹp cho chú, nhưng cấm chú tuyệt
đối không được hé miệng kể cho ai nghe chuyện này.
Tối hôm sau. Lại tiếng khua của áo giáp. Lại võ sĩ đến tìm. Lại
triều đình oai vệ. Lại đàn hát, nỉ non, ai oán. Trận thủy chiến hiện ra qua bài
hát, giáo mác, lửa đạn, thây người, máu chảy, cả triều đình thất trận nhảy xuống
sông, nữ chúa gieo mình xuống nước, tự vẫn…
Ðêm hôm đó, đêm hôm sau, đêm sau nữa, cứ đến đêm là ông sư
già để ý thấy chú tiểu ôm đàn ra khỏi chùa, đến gần sáng mới về. Ông thầy lo
quá, thấy chú tiểu tái xanh, ngớ ngẩn, xa vắng; Chẳng lẽ chú tới nhà gái? “Này,
tiểu, nhỏ nào hớp hồn chú vậy?”. Chú tiểu lắc đầu, câm miệng, khiến thầy càng
nghi. Tối đó, sư cho người theo dò, nhưng lạ quá, tiểu đi như lướt trên đất, chẳng
đường sá gì cả, vừa mới theo bóng chú đã lạc đâu rồi, mất hút. Quay về lối cũ,
bỗng nghe thoảng ra, từ nghĩa trang gần chùa, tiếng tỳ bà. Vào nghĩa địa thì
chú đấy, đang ngồi đàn một mình trước mộ hoang của phe thất trận thủy chiến
ngày xưa. Mưa đẫm ướt áo, chú vẫn đàn say mê. Gọi, chú chẳng nghe. Lay, chú vẫn
ngồi. Vẫn đàn, như không biết gì khác. Phải lôi chú, kéo chú về chùa.
Thế này thì tiểu bị ma bắt rồi - sư nói. Thất trận mấy trăm
năm, oan hồn vẫn chưa tan. Vẫn triều đình, vẫn bá quan văn võ, vẫn nghi vệ oai
phong, vẫn lộng lẫy nữ chúa. Vẫn thủy chiến. Dưới trời sao. Trước nấm đất
hoang. Ông sư mài mực, chấm bút, bảo chú tiểu cởi hết áo quần, viết trên toàn
thân kín mít chữ, từ chỏm đầu đến mút chân. Chú tiểu bây giờ chỉ còn là bài
kinh biết đi, sắc bất dị không, không bất dị sắc… Sư nói: “tối nay nó lại đến
tìm chú nữa đấy; cứ tĩnh tọa chú Bát nhã”.
Tối, võ sĩ lại đến, nhưng chẳng thấy chú tiểu đâu cả, chỉ thấy
cây tỳ bà vẫn gác nơi vách. Nhìn quanh cây đàn, trống không, chẳng bóng ai,
nhưng ô kìa, sao lại có hai cái tai vễnh lên trước mắt, đúng là tai của chú tiểu.
Võ sĩ kéo tai; chú tiểu nhịn đau, chú Bát nhã. Không làm được gì hơn, võ sĩ
rút gươm, cắt tai, mang đi. Sư phụ ơi, sư phụ ơi, người đã tuyệt vời năng trừ
nhất thiết khổ, chân thật bất hư kín mít toàn thân, từ chỏm đầu đến mút chân,
chỉ quên khuấy yết đế trên hai tai!
Không mắt, không tai, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, chú tiểu
bây giờ chỉ còn là cây đàn, tai mắt chú là cây tỳ bà, cây tỳ bà là tai mắt chú,
người và đàn là một. Trong chuyện thiền mà cuốn phim lấy hứng, chú tiểu trở
thành danh cầm bậc nhất thiên hạ.
Hai phim, hai chuyện chẳng giống gì nhau, chỉ cùng mượn hứng
từ bài Bát nhã. Sự đời! Trăm vạn chuyện khác nhau đến mấy, rốt cuộc rồi cũng một
chữ ấy mà thôi, không ngộ thì mê, không mê thì ngộ, nói gì, có gì nữa để nói?
Chú thích:
(1) Printemps, été, automne, hiver… et printemps (tên Hàn ngữ
là Bom, yeorum, gaeul, gyeowool, geurigo, bom, 2003), đạo diễn: Kim Ki-Duk
(2) Phim của Masaki Kobayashi, Nhật Bản (1964). Câu chuyện
tác giả kể lại là một trong 4 chuyện hợp thành cuốn phim Kwaidan.
Lời giới thiệu về bộ phim của VTN.
Cuộc đời con người như bốn mùa của một năm: Xuân, Hạ,Thu,
Đông. Cứ như thế, như thế, người này chết đi người khác lại sinh ra. Mùa
Đông qua đi lại một mùa Xuân mới đến.
Cách đây 5- 6 năm. Nghĩa, người dẫn chương trình” Những tác
phẩm điện ảnh” của VTV2 có giới thiệu cho tôi xem bộ phim ”Spring,
Summer, Autumn, Winter”.
Nhiều năm trôi qua không làm cho tôi quên được bộ phim này.
Dù rất hay về nội dung và cách thể hiện nhưng bộ phim này vẫn
không được chiếu trên sóng VTV.
Đây là một bộ phim của Hàn quốc mang nặng yếu tố Phật giáo. Bối
cảnh của phim chỉ diễn ra trên một ngôi chùa nổi. Ngôi chùa độc nhất vô nhị này
tọa lạc trên một cái hồ. Hồ nước nhỏ này nằm gọn trong một thung lũng kín đáo
quanh năm xanh trong.
Nhân vật chính trong phim là một cậu bé, sau này cậu ta
lớn lên trở thành một thanh niên. Nhân vật trung tâm của câu chuyện là một Nhà
sư. Cuộc sống mấy chục năm của hai người đàn ông chỉ diễn ra trong chùa, trên hồ
nước và những cánh rừng quanh đó.
Bộ phim chỉ có 11 vai diễn, 7 nhân vật nhưng gần hết trong số
đó qua đi mà không để lại ấn tượng, họ chỉ làm nền cho nhân vật chính.
Chỉ có 3 người: Hai người đàn ông, một vị sư già, một môn đệ
trẻ. Một thiếu nữ trẻ xinh đẹp được gia đình gửi lên chùa chữa bệnh.
Phim đã để lại cho ta những ấn tượng đẹp. Không có những pha
gay cấn đến tắc thở thì có những pha ”Làm tình làm tội”
nhau một cách lãng mạn.
Tất cả đều có nhưng vừa phải, đúng với khung
cảnh Thiền tự của bộ phim.
Nhân và quả trong bộ phim được đạo diễn khắc họa rất rõ nét.
Kẻ tu hành đã quyết dành cả phần còn lại của cuộc đời mình cho Đạo Phật
phải làm những gì, phải trả giá cho cuộc đời như thế nào.
Tình yêu nam nữ như là tạo hóa đã ban cho con người. Kẻ
tu hành có thoát được lưới tình…
… Có thể thoát được mảnh lưới của Pháp luật,
nhưng có thể thoát được lưới Trời, luật Trời hay không?
Người không tu hành, người tu hành cũng có thể xem bộ phim
này như là xem một bộ phim giải trí.
Khuôn hình đẹp. Âm nhạc rất Thiền, cảnh quan rất Thiền, nhân
vật cũng rất Thiền và Thiện.
Bộ phim cũng rất nhẹ nhàng, dịu dàng như một ngôi chùa cổ….
Việc chọn được một cảnh quay rất khó, nhưng chọn được hai
nhân vật lại càng khó.
Tất cả những chi tiết đáng chú ý trong phim như:
– Cổng chùa: Không hàng rào nhưng mọi người ra vào chùa đều tự
giác mở cánh cửa để đi qua cổng chùa.
Có một hàng rào vô hình.
– Trong ngôi nhà: Không có vách ngăn, nhưng mọi đi lại sang
gian bên cạnh đều phải đi qua cửa.
Có những vách ngăn vô hình...
Điều đó cũng như Phật pháp, Luật pháp, Gia pháp, Gia phong…
cũng như một ngã tư đường phố không có cảnh sát giao thông. Nhưng nếu mọi người
trong xã hội dù to dù nhỏ không tôn trong luật thì điều gì sẽ xảy ra, chắc ai
cũng biết.
Điều đó là nhân quả.
Đúng như tác giả của bộ phim đã nhận định:
”Đôi khi hiện tại của chúng ta lại phải gánh những gánh nặng
từ những việc làm trong quá khứ“.
Lời giới thiệu có lẽ đã hơi nhiều. Để khỏi mất thời gian của
các bạn. Xin mời các bạn xem phim.
Rất tiếc bộ phim này không có phụ đề và bản thuyết minh tiếng
Việt.
Mời các bạn xem tạm bộ phim qua phụ đề bằng tiếng Anh.
Bộ phim dài tổng cộng khoảng 90′.
Kính mời các bác xem lời bình về bộ phim Xuân, Hạ Thu, Đông
qua lời bình của Thuận Nghĩa.
Entry này đã được Blog của thầy Đồ Gàn đăng lại:
Vài lời thêm: Tôi hoàn đồng ý với đánh giá của nhà bình luận
điện ảnh VTN, nhưng chỉ có vài lời nói thêm
Bộ phim này đã được chiếu đi chiếu lại rất nhiều lần trên
truyền hình Đức. Đặc biệt là kênh truyền hình N3, một kênh truyền hình chuyên về
Nghệ Thuật của Đức, hầu như năm năm nào cũng có chiếu lại, nhất là vào các tiết
giao mùa.
Riêng tôi không có lần nào truyền hình chiếu lại phim này mà
tôi không xem lại. Vẻ đẹp kỳ tuyệt về ngôn ngữ điện ảnh của phim này dù xem đến
lần bao nhiêu cũng không chán.
Về nội dung phim thì không không có gì mới lạ, tình tiết phim
thật ra cũng không có gì đột phá, gay cấn cả. Nhưng cách thể hiện ngôn ngữ điện
ảnh thì thật là tuyệt vời.
Cả bộ phim chỉ có vài mẫu đối thoại. Cộng hết lời phát ngôn của
tất cả nhân vật cao lắm không đến trăm chữ. Cho nên dù bộ phim chỉ có phụ đề tiếng
Anh, nhưng tất cả mọi người, dù không biết một chút tiếng Anh hay tiếng Hàn,
thì vẫn hiểu nội dung của phim. Và thực chất mấy mẫu đối thoại của các nhân vật,
cũng không phải là điểm nhấn trọng tâm của phim. Tất cả nội dung của phim, sự
lôi cuốn hấp dẫn của phim nằm ở nơi cách thể hiện ngôn ngữ điện ảnh thật tuyệt
vời.
Sự thể hiện tài tình của những nhà làm phim thông qua biểu hiện
nội tâm của nhân vật, thông qua cử chỉ hành động và những hình ảnh ẩn dụ, kết hợp
với ngôn ngữ thể hiện của thiên nhiên và những tình tiết không lời đã làm cho bộ
phim có một sức hút kỳ lạ và gây ấn tượng sâu sắc về cảnh giới Chân Thiện Mỹ
của đạo Giải Thoát.
Đây là một trong những bộ phim về đề tài Phật Giáo hay nhất
mà tôi đã được xem. Cách thể hiện ngôn ngữ điện ảnh làm tôi nhớ lại bộ phim
“Mùi Đu Đủ Xanh” của đạo diễn Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng.
Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan là đất nước của Phật Giáo,
và có nền điện ảnh khá hoành tráng. Nhưng phim của họ chỉ thành công trong các
loại phim hành động dã sử. Và phim của họ mang đậm dấu ấn của ngôn ngữ sân khấu.
Còn để đạt đến cảnh giới tuyệt vời về ngôn ngữ điện ảnh như phim này của Hàn Quốc
và phim “Mùi Đu Đủ Xanh” của Trần Anh Hùng thì có lẽ phải đợi đến thế kỷ thứ
22.
Phim này chỉ có 11 diễn viên, diễn xuất cho 7 nhân vật. Mà những
nhân vật phụ của phim xuất hiện trong những trường đoạn rất ngắn, và chỉ vai
trò làm “nền” của họ cũng không thật sự quan trọng.
Phim chỉ xoay quay có 3 nhân vật, mà vị sư già trung tâm của
phim và ngôi chùa nổi giữa hồ. “Trường phim” cũng chỉ có ngôi chùa cổ nằm giữa
vùng sơn thủy nhỏ hẹp ấy mà thôi. Nhưng giá trị nghệ thuật của phim thì thật
“hùng vĩ”.
Những nhà làm phim nước mình thường đổ lỗi cho điều kiện đầu
tư, kinh phí làm phim hạn hẹp hoặc những điều kiện “nhạy cảm” khác, nên
không có phim hay, và phải cho ra đời những bộ phim nhạt như nước ốc, và có thể
nói “sỉ nhục” cả nghệ thuật điện ảnh.
Nhưng thực sự với “quy mô” về trường quay, “quy mô” về dàn diễn
viên… như phim này thì Việt Nam quá đủ điều kiện, thậm chí là còn dư nữa là đằng
khác. Nhưng tại sao lại không thể nào có những bộ phim có “đẳng cấp” như thế
này được. Đó là một dấu hỏi lớn và cũng là một nỗi đau nhức nhối cho nền điện ảnh
Việt.
Thuận Nghĩa.
Phụ lục bài hát trong phim
8/7/2011
Văn Thành Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét