Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

Truyện ngắn Nguyễn Cẩm Hương: Rừng thiêng

Truyện ngắn Nguyễn
Cẩm Hương: Rừng thiêng

Bản Cóm nằm cheo leo trên đỉnh núi Tà Khuông, đỉnh núi cao nhất huyện biên giới của tỉnh, quanh năm mây mù bao phủ trắng xóa như một tấm khăn sô. Trông xa chỉ thấy mây, trông gần cũng chỉ thấy cây rậm rì xanh thẳm. Trên bản đồ huyện, bản Cóm có cũng như không vì chỉ là một chấm nhỏ ngay sát đường biên.
Thực ra tổ tiên của bản Cóm lại là những cư dân đầu tiên của vùng đất rẻo cao này. Người già nhất bản kể cho con cháu nghe về cụ tằng tổ của họ vốn là những người từ bên kia biên giới chạy loạn. Lúc đầu họ phải sống y hệt cái thuở khai sinh lập địa của loài người. Rồi sau cũng có nương ngô, nương sắn, cũng biết gieo cái hạt lúa trên thửa ruộng bậc thang, biết thuần dưỡng con trâu, con lợn… cũng có già làng trưởng bản, con cháu đề huề. Nhưng bản Cóm vẫn luôn như một mảnh quá khứ bị bỏ quên giữa rừng. Cái ánh sáng văn minh chỉ leo lên đến được lưng chừng núi lại bị tuột xuống. Thế nên bước sang thể kỷ 21 rồi mà bản Cóm vẫn âm âm u u như chẳng thèm thiết gì đến những tiến bộ của nhân loại. Lớp trẻ trong bản cũng được đi học, nhưng chữ đực chữ cái rơi lổn nhổn như đá cuội dưới khe sâu. Cái lớp học duy nhất của bản gồm đủ mọi trình độ, mọi lứa tuổi. Thầy giáo là những chiến sĩ biên phòng thay phiên nhau đến dạy. Có khi trò phải đợi thầy vì thầy cũng còn nhiệm vụ khác nữa. Có khi thầy đến rồi lại phải đợi trò, vì trò còn đang mải mê bẻ ngô, trồng sắn trên nương khi đang mùa vụ. Cả bản chỉ có thằng Khếnh và con Mua là đi học đều. Nhà thằng Khếnh có của ăn của để, có nhiều đàn ông khỏe mạnh, nên nó không phải lo đến miếng ăn, chỉ suốt ngày rong chơi, mà chơi mãi cũng chán, nó coi việc học như một thú chơi, đến đó nó có thể chọc ghẹo đứa này đứa nọ, vỗ vào cái mông nây nẩy của con Mua. Còn con chữ, nó chả để ý, trừ phi thầy dọa nếu không học bài, thì thầy đuổi học, là nó sợ. Con Mua, nhà nghèo, nhưng nó lại thích học lắm. Chả biết nó nghe ai khuyên, phải biết cái chữ để đổi đời, để làm giàu, thế là nó học, lăn ra học, kể cả khi đi nương, đi củi, cả khi hai con mắt nặng trĩu như đeo đá trên lưng.
Nhà văn Nguyễn Cẩm Hương
Khếnh hơn tuổi Mua nhưng học kém hơn Mua, nên trong khi học đôi khi Mua phải làm cô giáo dạy lại cho thằng Khếnh. Lớp học trứng gà trứng vịt đó do thầy Kiên biên phòng phụ trách. Thầy dạy đến đâu, còn đâu chúng tự dạy cho nhau. Với cái Mua thầy bảo thầy hết chữ rồi em phải xuống thị trấn học tiếp. Khếnh không muốn Mua đi, nó ấm ức thầy như ăn cục xôi nuốt không trôi qua cuống họng. Nó đang mơ đến cái hội xuân sắp tới, nó sẽ dắt tay con Mua chạy vào rừng, hai đứa ở với nhau một đêm, mặc cho ông cố nội can ngăn. Vì nó nghe thầy Kiên giảng rồi là thời bây giờ lấy nhau là do tình yêu, chứ cha mẹ không sắp đặt được. Khếnh cãi lại bố và ông cố nội:
– Tôi thích con Mua, tôi sẽ lấy nó.
– Không được!
Ông cố nội Khếnh nằm lẫn trong đống chăn cũ nát, lờ nhờ như một đống tro bếp, vội nhỏm cái đầu không tóc như cái đầu lâu ho một chặp mới nói được rồi lại nằm vật xuống như người ta đánh rơi tảng thịt trâu khô treo gác bếp. Song, ông vẫn đủ uy lực, để mỗi mệnh lệnh phát ra từ cái hố miệng méo mó ấy vẫn khiến đám đàn ông trong nhà phải tuân theo răm rắp. Chỉ có thằng Khếnh- thằng chắt bất trị của ông là dám phản kháng. Nó luôn bất bình bởi cái tảng thịt khô kia mà vẫn có thể nắm vận mệnh cả nhà.
Nhưng Khếnh làm sao biết được, tảng thịt khô đã có thời là một người đàn ông cường tráng, với cơ bắp cuồn cuộn rắn như thân lim, đôi chân nhanh hơn con hoẵng, đã từng được dân bản tôn là vua săn hổ của cái vùng rừng sâu núi thẳm này. Đó chính là A Khun, A Khun mà bước chân đi trong rừng thì như mang theo bão gió, cây cối đổ rạp, muông thú chạy tán loạn. Ngay đến chúa sơn lâm cũng phải lủi vào hang sâu trốn biệt. A Khun đã cầm ná lên rừng là kiểu gì cũng có vài sinh linh từ giã cõi đời. Nhưng A Khun chỉ săn những con vật phục vụ cho nhu cầu sinh tồn của dân bản thôi, chàng dùng nó để đổi lấy những bữa cơm, manh áo từ bàn tay những người phụ nữ trong vùng. Chàng vốn mồ côi cha mẹ, cha chàng là thầy lang đã chết vì rơi xuống vực khi leo lên đỉnh núi tìm lá thuốc. Mẹ chàng cũng vì đi tìm cha mà cũng chịu chung số phận với cha. A Khun mồ côi nhưng chàng được thừa hưởng một gia tài vô cùng quý giá từ cha mẹ, đó là sức vóc mạnh mẽ của cha và sự dẻo dai khéo léo của mẹ. A Khun là niềm mơ ước của các cô gái bản. Nhưng chàng vẫn chưa lấy được vợ, có lẽ vì chàng nghèo quá, tài sản của chàng chẳng có gì ngoài căn nhà vách nứa dùng cho chàng trú chân trong những ngày mưa gió
Song, cuộc đời chàng đã rẽ sang một trang khác khi bỗng nhiên xuất hiện đám người nai nịt gọn gàng, quần áo xống xếnh, họ mang theo hòm xiểng, bị gậy chăn đệm đã lặn lội băng rừng leo núi lên tận cái bản tít mù khơi này để tìm gặp A Khun. Té ra cái tiếng đồn về A Khun, một tay săn thiện xạ nhất vùng rừng sát trời mây này không hiểu theo ngọn gió nào mà bay đến tận nhà quan tri châu dưới huyện lỵ. Quan Châu muốn chàng săn hổ bán cho nhà quan, để nhà quan nấu cao. Nhà quan sẽ trả cho A Khun nhiều bạc nén, chăn đệm. A Khun từ khi cha sinh mẹ đẻ ra tới giờ chưa được trông thấy những thoi bạc trắng lấp lánh như thác đổ dưới trăng thế này, chàng không dám nhận. A Khun chỉ bị mê hoặc bởi những tấm khăn thổ cẩm đẹp mê hồn, nó như hình bóng của những cô gái đẹp mà chàng đang mơ ước. Song chàng không thể không nhận lời vì đây không chỉ là sự trao đổi bán mua mà còn là mệnh lệnh của quan Châu. Bởi nếu chàng không đáp ứng yêu cầu của nhà quan thì cả bản Cóm sẽ phải nhận hậu họa. Chàng thì không sợ nhưng dân bản sợ. Họ muốn chàng thực hiện yêu cầu của nhà quan, vì họ không còn con đường nào để chạy trốn được nữa, phía trước là khu rừng thiêng rồi, khu rừng đầy ma quái với một lời nguyền bất khả xâm phạm.
A Khun chưa bao giờ săn hổ, vì dân bản không có nhu cầu ăn thịt hổ. Do đã bao đời dân bản Cóm luôn phải đối mặt với cuộc chiến sinh tồn, nên người ta phải dựa vào rừng để sống và tránh né sự đụng độ với những vị chúa tể của rừng xanh hòng mong một cuộc sống bình yên với loài thú dữ. A Khun đắn đo lung lắm, từ trước tới nay, lũ hổ vẫn tập trung trong khu rừng thiêng là nhiều, chúng không bao giờ đến quấy phá bắt gà bắt lợn của dân bản. Vậy tại sao bây giờ lại đi lùng sục sát hại chúng? Vả lại khu rừng thiêng là một lãnh địa đầy bí ẩn mà từ đời nào rồi người dân bản không dám bước vào để săn bắn, hay lấy bất cứ thứ gì của khu rừng. Chuyện về khu rừng thiêng đến đời A Khun cũng chỉ biết nghe người già trong bản kể lại rằng cách đây đã rất lâu rồi khi dân bản Cóm còn ở cái thời loạn lạc, thường phải bồng bế nhau vào rừng sâu để tránh sự săn đuổi của giặc, yên bình lại trở về bản làm ăn. Có một gia đình kia có hai đứa con một trai một gái còn nhỏ, người vợ lại đang mang thai nên không thể đi lại được, người chồng đành ở lại rừng sâu cất một căn chòi trên chạc cây cao rồi đưa cả vợ con lên đó để tránh thú dữ. Hàng ngày người chồng đi đào củ mài, bẻ đọt măng và săn bắn thú nhỏ về nuôi vợ con. Cho đến một hôm, không biết do người chồng đi lạc hay bị thú dữ ăn thịt mà mãi chẳng thấy trở về. Ba mẹ con cứ ngồi đợi trên chạc cây hết ngày này đến ngày nọ, thức ăn dự trữ cũng đã hết, nước từ những giọt sương tụ lại trên ngọn cây cũng cạn, người mẹ đành tụt xuống đi kiếm quả rụng về cho con ăn, rồi được vài hôm cũng không thấy trở lại chạc cây nữa. Đứa em gái khóc đòi ăn, đòi mẹ, thằng anh phải tụt xuống tìm cách để nuôi sống đứa em. Trong lúc người anh đi kiếm cái ăn trong rừng đứa em gái trên chạc cây buồn quá, nó chơi với lũ khỉ đang nhảy lách chách quanh người, lũ khỉ con dường như cũng thích chơi với cô bé, lâu dần chúng trở thành bạn của nhau. Đứa em gái không đói nữa vì được ăn những quả cây cùng với lũ khỉ. Năm tháng qua đi, hai anh em cũng đã lớn, người anh trai trở thành một trang nam nhi lực lưỡng, đứa em gái cũng là một thiếu nữ dậy thì đẹp mơn mởn như đóa hoa rừng. Tình anh em đã biến thành tình chồng vợ, rồi sinh con đẻ cái, chỉ hiềm nỗi những đứa trẻ sinh ra chẳng khác gì những con khỉ vẫn nhảy nhót trong khu rừng. Cho đến một hôm có người đi săn đã phát hiện ra chỗ ở của cặp vợ chồng nọ. Ông ta về báo với dân bản, người già bản lẩm nhẩm tính và khẳng định đó chính là hai đứa con của người thiếu phụ năm nào trước khi tắt thở đã thều thào kêu cứu hai đứa con chị ta trong rừng sâu. Những người thợ săn hồi đó đã đi tìm nhưng không tìm được, và họ nghĩ rằng hai đứa trẻ có thể đã bị thú dữ ăn thịt nên không đi tìm nữa.
Già bản nghĩ chắc bây giờ chúng đã lớn rồi, phải đưa chúng về thôi nên đã tập hợp trai tráng vào rừng để cứu hai đứa trẻ khốn khổ đó. Nhưng đến nơi họ mới ngã ngửa rằng hai đứa trẻ đã trở thành một đôi vợ chồng có cả một bầy con đông đúc, những đứa trẻ mặt người thân khỉ đang nhảy nhót, vắt vẻo trên các cành cây rồi nhe răng cười khanh khách như trêu ngươi lũ người. Người già bản mắt vằn đỏ vì tức giận, ông quyết định phải giết hết lũ người lai khỉ kia bởi tội đã phạm vào điều răn của dòng tộc. Thế là một cuộc tàn sát đẫm máu đã xảy ra trong khu rừng trước đó chỉ có cây xanh. Hai vợ chồng người anh em đã chống trả quyết liệt để bảo vệ những đứa con của mình và cuối cùng cũng bị những người thi hành mệnh lệnh của già bản giết chết. Tất cả đều bị chôn chung trong cái hố bẫy gấu. Khi toàn bộ khu rừng chỉ còn lại tiếng âm u, rên rỉ, tiếng tru nức nở của loài khỉ thì đoàn người mới yên tâm ra về, hoan hỉ vì đã trừng phạt được những kẻ phạm vào điều cấm kỵ của tổ tiên, giữ vẹn luật lệ của dòng tộc. Song, đoàn người thực thi pháp luật đó chưa kịp về đến bản thì bỗng nhiên một trận cuồng phong khủng khiếp nổi lên chưa từng xảy ra bao giờ ở vùng núi cao này. Gió như lưỡi dao chặt phăng phăng những ngọn cây cao, hết gió lại đến mưa, mưa như những ngọn roi quất vào người đau buốt, mưa như trời thủng trút nước ào ào xuống cánh rừng làm trôi tuồn tuột hết mọi máu me của cuộc trừng phạt đẫm máu vừa qua, như một sự rửa sạch ám khí, tanh tưởi cho núi rừng. Trong chốc lát cái bản gần đó cũng bị xóa sạch. Rồi tất cả lại yên bình như cũ, như một sự tắm táp của trời đất. Một thời gian khá dài sau, cái bản cũ mới dần hình thành trở lại, còn khu rừng nơi hai anh em nhà kia sinh sống thì đã trở nên um tùm rậm rạp một cách kỳ lạ. Có điều nếu ai lỡ bước chân vào đó, khi trở về thể nào cũng bị ốm đau bệnh tật, còn người nào không may bẻ một cành cây, hái một nắm rau rừng, và hơn thế bắn một con chim rừng thôi thì thể nào ra về cũng bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử. Lời nguyền mà theo như một người dân bản còn sống sót sau trận cuồng phong đó kể lại là trong cơn giông ông ta nghe được tiếng la hét nguyền rủa của cặp vợ chồng tội nghiệp kia rằng: Mồ chôn của chúng ta ở đây thì khu rừng này là của chúng ta, không một ai được phép bước vào, không một ai được đụng vào bất cứ một thứ gì của rừng, nếu không chúng bay sẽ chết… sẽ chết. Lời nguyền đó đã có linh nghiệm ngay từ thời ấy. Người bản Cóm đã điêu đứng vì không ít người gặp nạn bởi đã trót quên lời nguyền, rồi họ đành phải lánh xa khu rừng, mặc dù biết nơi đó là một kho của cải vô tận.
Ngay A Khun cũng được chứng kiến cái chết của A Sàng cách đây không lâu. A Sàng cũng là tay săn thiện nghệ, tuy nhiên chỉ được cái sức khỏe chứ còn độ tinh anh khôn khéo thì còn lâu mới bằng A Khun. A Sàng không nghe theo lời can ngăn của A khun, vì tham mà đã liều lĩnh mò vào khu rừng thiêng để tìm thú quý. A Sàng trở về nhà chưa đầy một ngày sau đã bị trượt chân ngã xuống vực đá khi leo lên núi tìm tổ ong mật.
A Khun tiếng là một tay săn sát thú như vậy nhưng chàng chỉ dám mon men bên ngoài khu rừng chứ chưa bao giờ dám bước chân vào. Lời nguyền ấy A Khun vẫn nhớ như in nhưng A Khun cũng không dám chống lại lệnh của nhà quan, lệnh của quan châu là ý trời. Vả lại A Khun cũng muốn làm một việc gì đó để trả cái ơn đối với dân bản đã có công cưu mang chàng trong suốt thời thơ ấu. A Khun bàn bạc với dân bản rồi được sự đồng tình của những người trai khỏe mạnh, có tay săn thiện nghệ, chàng đã lập ra một đội đi săn hổ có tổ chức quy mô hẳn hoi. Với sức vóc của những chàng trai đang độ sung sức, và một bộ óc thông minh tài trí của A Khun, chẳng bao lâu họ đã hạ gục được một con hổ, nhưng chỉ được con hổ đang độ tuổi thiếu niên ngờ nghệch vì mất cảnh giác lâu nay. Người nhà quan trả cho A Khun và dân bản ít vải, gạo và muối. Những thứ mà đối với một cái bản nghèo heo hút này nó như một báu vật. Từ đó A Khun và những chàng trai bản trở nên thích thú và say mê với việc săn hổ. Những con hổ từ chỗ ngờ nghệch vô tư với việc tự cho mình là kẻ chỉ biết nắm quyền sinh tử của kẻ khác chứ không bao giờ chịu để kẻ khác nắm sinh tử của mình đã trở nên vô cùng hung dữ, tinh ranh và cảnh giác. Ban ngày chúng trốn tít trong các hang sâu trên núi cao, ban đêm mới mò ra hoành hành dữ dội. Người dân bản cứ chập choạng mặt người là phải nhốt lợn gà, trâu bò, rấp cây gai quanh nhà. Từ chỗ chúng chỉ vồ lợn gà trâu bò của bản, chúng đã biết vồ cả người. Người đó là một cô gái, vì mải bẻ măng trong rừng cho đến khi trời sập tối nên không kịp về nhà, cô gái bị hổ vả cho đến nát bấy rồi bỏ lại chứ không thèm ăn thịt. Nỗi đau thương tức giận của dân làng đã làm cho A Khun và đội săn hổ thêm hăng máu trong việc đi truy tìm loài thú ăn thịt người.
Theo kinh nghiệm của A Khun thì con hổ vồ chết cô gái không phải là con hổ trong các khu rừng quanh đây, nhìn vết chân A Khun biết nó rất lớn. Mất mấy đêm liền treo mình trên cành cây bên suối A Khun mới bắt gặp được con hổ đi uống nước, mùi hôi tanh của nó phả ra làm vẩn đục cả một đêm trăng thanh mát. Trong ánh sáng bàng bạc, A Khun nhận ra con hổ phải nặng đến vài tạ, nó to gần bằng con trâu mộng, lông xám trắng giống như người già bạc tóc, có thể con hổ cũng đã già vì hai mắt nó đỏ như hai hòn than đang cháy đượm. Song, già thì già, nó vẫn còn đầy sức mạnh, với dáng đi chậm rãi vững chắc và uyển chuyển đầy từng trải. Trong những lần đi săn hổ cùng đội săn hổ của bản, A Khun chưa bao giờ thấy bóng dáng con hổ nào như thế, dù ban ngày hay ban đêm. Loài hổ của những cánh rừng gần đây không có con nào có một vẻ oai phong lẫm liệt như thế, nó như một vị chúa tể của loài chúa sơn lâm. Hay nó từ trong khu rừng thiêng được thần rừng phái ra đây để hãm hại dân bản. Chắc đã có ai phạm vào lời nguyền rồi chăng? Nghĩ vậy nhưng A Khun vẫn nung nấu một quyết tâm phải giết bằng được con hổ này để trả thù cho cô gái và dân bản, hơn thế, con hổ này còn là một món hàng lớn để A Khun có thể trao đổi với nhà quan lấy nhiều gạo, nhiều muối hơn, cứu dân làng một mùa đói kém sắp tới. Nhìn con hổ to lớn và với một vẻ bình thản đáng ngờ, A Khun tính toán con hổ này không thể đặt bẫy thông thường như những lần săn trước, vì không thể có một hầm chông nào nhốt nổi nó. Mà dùng cung nỏ thì chả thấm vào đâu với con hổ sức vóc này, cùng lắm nó có thể chỉ bị thương, và như vậy nó sẽ càng hung hăng hơn. Hơn thế lệnh của nhà quan là không được dùng mũi tên tẩm độc, độc ngấm vào xương tủy, nhà quan không nấu cao được. Suy nghĩ nát óc mấy ngày, trước sự hy vọng chờ đợi của dân bản, A Khun lập một kế hoạch diệt con hổ một cách hết sức sáng tạo.
Cũng tại đoạn con suối mà A Khun đã từng rình rập, anh đặt một con mồi nhử là một chú hoẵng non tơ mà anh chỉ mới bắn cho què chân thôi, con hoẵng được buộc chân dưới gốc cây, vì chân đau nên nó ngại đứng mà chỉ nằm một chỗ, trông xa cứ như nó đang nghỉ ngơi dưới bóng cây trong buổi chiều tà sau một ngày ăn no. Loài hổ vốn có tật rất hay giữ thói quen, dù đó là một thói quen nguy hiểm. Nó đã quen uống nước ở đoạn suối này rồi nên nó cứ thế giữ đúng lệ. Hôm nay, nó ngạc nhiên sao lại có một con vật ngu đần đến mức mang thân đến nộp mạng cho nó vào một buổi hoàng hôn đẹp trời thế này. Khi lũ chim bỗng ráo rác bay vụt lên khỏi những ngọn cây cao, con hoẵng mới ngơ ngác chồm dậy, nhưng muộn mất rồi, mắt nó lạc đi khi trông thấy một con hùm tinh lạ lẫm đang lù lù tiến lại, rất nhẹ nhàng, rất bình thản, như kiểu mày không là cái đinh gì, yên tâm đi tao chưa thèm ăn thịt mày ngay đâu. Con hoẵng tội nghiệp khiếp đảm đến mức khuỵu xuống chứ không đứng được nữa nói gì đến vùng chạy. Con hổ chậm rãi đi lại, nó cũng đang đói nhưng không đến mức háu ăn nên phải vờn một lúc ăn mới ngon. Màn hành hình diễn ra từ từ vô cảm với một bên là một sinh linh bé nhỏ với một kẻ ăn săn mồi lão luyện, con hoẵng cứ bị quăng đi quật lại, không có vết máu mà cái thân hình đã bấy ra như miếng thịt hầm nhừ. Đúng lúc nó định ngoạm con hoẵng lôi đi thì bị vướng đoạn dây giữ lại, con hổ không vội dứt ra vì có lẽ nó còn tiếc từng miếng thịt của con mồi ngon, nên thả con mồi xuống và tìm cách cắn sợi dây, khi nó đang day sợi dây đầu ngửa lên để dứt đứt thì nó thấy một cái vòng tròn cứ hươ hươ trước mắt làm nó rất vướng víu, thế là nó chồm lên để cắn sợi dây và cả cái đầu nó chui tọt vào cái thòng lọng, chỉ chờ có thế trên cành cây cao A khun chỉ việc thắt cái thòng lọng lại, con hổ dãy dụa khủng  khiếp đến rung cả gốc cây, sợ nó giật đứt gãy cả cành cây, A khun vội trèo xuống liên tiếp bổ những nhát dao vào đầu con hổ, cùng lúc đó những người khác cũng nhảy vào tiếp sức, họ đâm liên tiếp vào cổ vào bụng con vật, máu phun ra tung tóe đẫm một vùng và sự dãy dụa của nó làm cả rừng cây nhuốm đỏ máu. Đó là một con hổ cái, hình như nó đang nuôi con, bầu vú tuôn dài thõng thượt.
A Khun cùng đội săn đem con hổ xuống nhà quan tri châu và được nhận về rất nhiều gạo muối và vải vóc. Riêng A Khun được quan châu thưởng cho một cô hầu trong đội xòe về làm vợ cùng với nhiều áo váy chăn đệm. Có vợ đẹp, có quần áo đẹp, A Khun trở thành người giàu nhất bản. A Khun đã biết giá trị của những sản vật trong rừng có thể biến chúng thành vàng bạc để tích trữ, để mua những vật dụng phục vụ cho cuộc sống gia đình. A Khun cất một căn nhà gỗ thật đẹp để xứng với nơi ở của người vợ đẹp. Hàng ngày chàng vẫn vào rừng để săn thú, nhà quan còn muốn A Khun phải săn cả gấu, cả trăn, cả chồn hương, tê tê nữa…những con thú có thể đem lại cho nhà quan rất nhiều vàng bạc và A Khun cũng có thêm vàng bạc.
Cuối năm sau A Khun lại có thêm một niềm vui nữa, vợ chàng đã sinh một đứa con trai rất kháu khỉnh. A Khun sung sướng đến mức hét váng cả núi rừng, thấu đến cả trời xanh. Dân bản cũng mừng cho A Khun, người ta đến chúc mừng và có người nhắc: Nhờ con hổ mà mày có vợ đẹp con khôn đấy nhé. A Khun sực nhớ và nghĩ: Con hổ cái ngày đó với bầu vú thõng thượt, nếu con nó còn sống thì bây giờ chắc cũng đã trở thành một con hổ lớn khôn rồi. Phải tìm nó thôi, kẻo đứa khác lại hớt tay trên mất. Thế là A Khun lại mải mê lùng sục suốt ngày đêm trong rừng, vũ khí của anh bây giờ đã là một cây súng săn rồi chứ không còn là con dao quắm và cung tên nữa, anh có thể hạ gục bất cứ con vật nào bất chợt gặp trong rừng, nhưng A Khun vẫn say máu hổ nhất, anh được tôn là vua săn hổ, là khắc tinh của loài ăn thịt. Song A Khun vẫn chưa mãn nguyện lắm. Anh vẫn nung nấu phải hạ gục được con hổ ngang ngửa với con hổ cái ngày trước. Nhiều lần A Khun đã mon men đến khu rừng thiêng. Anh đứng tần ngần trước cửa rừng hồi lâu, anh đoán chắc loài hổ dữ chỉ có trú ngụ trong khu rừng rậm rạp âm u này, nơi có thể đã hàng trăm năm không ai dám bước chân vào, thế nhưng lời nguyền cấm kỵ lại văng vẳng bên tai: Mày sẽ chết, mày phải chêt…khiến A Khun rùng mình chững lại. Màn đêm sập xuống một cách nhanh chóng khiến A Khun không kịp nhận ra nữa thì tất cả không gian đã nhuốm một màu khói xám mờ mịt. Khu rừng như chìm trong một màn sương kỳ ảo và bảng lảng những bóng ma. Người cứng vía như A Khun mà cũng bắt đầu run, A Khun vội quay đầu ù té chạy về nhưng màn sương dày đặc như bưng tầm mắt anh và lối về như biến mất. Biết không thể về kịp trước khi trời tối nữa rồi, A Khun chỉ còn cách leo lên một cành cây cao kiếm nơi tá túc qua đêm nơi gần rừng thiêng này. Đêm ở đây thật rùng rợn, như thể mọi loài ma quái trong cánh rừng mới bắt đầu tràn ra, chúng rong chơi, chúng nhảy nhót, chúng cười man dại. Có khi âm thanh lúc réo rắt, lúc rền rĩ cứ phả vào tai A Khun khiến anh luôn cảnh giác và không tài nào chợp mắt được. A Khun trải qua một đêm dài khủng khiếp và nặng nhọc, khi anh nhận ra trên trời hình như đang sáng dần ra thì cũng là lúc anh phát hiện một mùi hôi thối đặc trưng của loài hổ. Chắc chắn con hổ đang ở đâu quanh đây, và cùng lúc ấy là tiếng đập cánh bay rào rào của loài vũ cầm, và tiếng báo động của các loài thú nhỏ. Loài hổ bước đi thường rất nhẹ nhàng không mấy khi phát ra tiếng động ầm ĩ, nó rất uyển chuyển khi di chuyển. Nhưng một cái bóng to lớn đang trườn qua đám cây dại, khiến A Khun ngờ vực. Đúng là một con hổ rồi, con hổ rất lạ, nó có màu lông xám trắng, anh ngờ vực như đã nhìn thấy nó ở đâu, thôi đúng rồi phải chăng nó là con hổ dòng giống của con hổ bạc ngày trước mà anh đã hạ được. Anh mừng run lên. Con hổ quả thực đã trưởng thành, nó còn to hơn cả mẹ nó ngày xưa và chắc chắn là trông nhanh nhẹn hơn. Song, bây giờ A Khun cũng đã có vũ khí lợi hại hơn ngày trước. Con hổ như vừa đi săn mồi về, nó chỉ kịp bước vào khu rừng thiêng một đoạn là nằm xuống và lăn ra ngủ như chết, tiếng nó ngáy ưồm ưồm đều đặn, chứng tỏ nó đã ngủ say. A Khun vẫn ngồi trên cành cây theo dõi. Trời đã bắt đầu sáng rõ, anh suy nghĩ phải bắn nó một phát thôi là phải trúng tim, không thể để cho con vật có cơ phản kháng nó sẽ tìm cách tấn công anh ngay. Nhưng vị trí của anh trên cây không thuận lợi vì xa quá và cũng không thể bắn vào đúng tim. Nó đang ngủ say, một cơ hội thuận lợi hiếm có phải hành động không thể chần chừ và cũng không thể để sai sót. Chính vì thế A Khun đã tụt xuống và tìm một vị trí thích hợp khác, mải tìm vị trí mới, A Khun đã bước vào khu rừng thiêng từ lúc nào, anh mải mê ngắm bắn và đúng như anh đã dự tính. Phát đạn găm vào ngực con hổ ở một vị trí gần nhất. Con hổ gầm lên một tiếng, máu ộc ra xối xả và nó từ từ gục xuống khi chưa kịp phát hiện ra kẻ đã kết thúc đời nó. Con hổ nằm bất động như một tảng đá trắng. A Khun sung sướng nhảy cẫng lên, anh hình dung ra bao của cải sẽ lại tuôn từ nhà quan về nhà anh. Anh định vác con hổ về nhưng nặng quá. Phải về bản gọi mọi người ra khiêng mới được. Cả đêm qua mất ngủ anh đã quá mệt rồi. Con đường về bản như đi trong mây, bước chân A Khun như không chạm đất, nhưng con đường cứ dài ra, dài ra mãi như đang đi lên trời. Cho mãi tới khi bóng chiều ập xuống A Khun mới nhìn thấy thấp thoáng những căn nhà trong bản. Nhưng lạ quá, sao bản chiều nay lại tĩnh lặng như một khu nhà mồ vậy, không tiếng trẻ cười đùa trên sân, không tiếng các cô gái giặt giũ tắm táp bên những mó nước, không tiếng rít thuốc của người già… Người đầu tiên nhìn thấy A Khun, mình mẩy đầy máu me đã la toáng lên:
– A Khun đã về rồi dân bản ơi, thế là mày đã trả thù được cho vợ mày rồi phải không?  Xác con hổ ấy đâu?.
– Sao mọi người biết tôi… Chưa kịp nói hết câu thì A Khun nhìn thấy phía nhà mình mọi người đang xúm lại đông nghịt, và có tiếng khóc như dao dọc nứa của đứa con trai. A Khun như đờ người, hai con mắt như trật lòng đen ra ngoài khi nhận ra người vợ xinh đẹp của mình nát bấy không còn rõ mặt người nữa, thân thể nham nhở những vết cắn xé. Đích thị là đã bị hổ vồ, nhưng nó chỉ vầy chứ không thèm ăn thịt. A Khun quẳng cây súng và hét một tiếng vọng đến tận trời xanh rồi gục xuống. Phải mấy ngày sau A Khun mới tỉnh lại được để nghe dân bản kể rằng: Vợ mày chờ mãi không thấy mày về, nên sốt ruột vào rừng tìm kiếm, vợ mày bị hổ vồ ở ngay con suối mà ngày trước mày giết được con hổ cái bán cho nhà quan đó.
Khi tỉnh lại A Khun như biến thành một con người khác. Cái thân thể cường tráng ấy như chỉ còn cái xác, còn hồn vía thì như ma bắt rồi. Nhắc đến hổ là run bần bật, sức vóc biến đi đâu mất đến nỗi nhấc một bó củi cũng không xong. Từ đó A Khun chỉ quanh quẩn với mảnh vườn, con lợn, đàn gà anh không đi đâu ra khỏi bản lấy nửa bước chứ nói chi đến vào rừng săn bắn. Vua săn hổ chỉ còn là kỷ niệm.
Thằng Khếnh bỏ học, nó không thèm cả nói với thầy Kiên một câu, vì sao nó bỏ nữa, nó chán vì còn động lực đâu để mà đến lớp nữa, con Mua đã được thầy đưa xuống trường học nội trú dưới huyện rồi. Có lần thầy cũng khuyên nó: Em phải học cho vững con chữ đi rồi thầy sẽ giới thiệu xuống trường huyện. Nhưng nó chả thiết, học để làm gì, đi săn con nai con hoẵng, bắn con chim con thú trong rừng thì đâu cần đến con chữ, nó chỉ cần lấy được con Mua thôi. Mà sao cả nhà ai cũng ngăn cấm nó. Nó hỏi riết nên ông nội phải nói: Con Mua cũng là chắt ngoại của cố nội Khếnh, bà nội nó là em gái ông nội Khếnh. Vậy ra nó với con Mua là cùng một cội, là anh em họ sao lấy nhau được. Khếnh buồn lắm, mà sao từ trước tới giờ trong nhà Khếnh không ai nhắc đến người bà cô này của Khếnh. Khếnh hỏi mãi ông nội mới kể rằng dạo bà cố nội Khếnh bị chết, ông Khun đổ bệnh không nuôi nổi con nên người em gái của vợ phải đến giúp. Ở một thời gian khi đứa cháu trai đã biết chạy nhảy khắp bản, thì bà dì cũng sinh cho ông Khun thêm một đứa con gái nữa.
Khếnh chỉ còn niềm vui là vào rừng, tìm niềm vui ở thú săn bắn chim muông. Thú lớn bây giờ ở rừng không còn nhiều. Những cánh rừng rậm rịt ngày xưa đã trở nên trống trải thưa thớt, nhường chỗ cho những nương sắn nương ngô. Đứng ở đầu bản có thể phóng tầm mắt nhìn được cả tới cánh rừng thiêng. Khếnh biết mình cũng thừa hưởng được cái gien của ông cố nội, có tài săn bắn bẩm sinh và bước chân vào rừng cứ nhanh như con hươu con hoẵng.
Khếnh dậy từ gà gáy, dắt nắm cơm, đeo cây súng và dắt bên sườn con dao quắm, nó lững thững đi vào rừng. Mỗi lần thấy Khếnh chuẩn bị như vậy, ông cố nội Khếnh lại rên hừ hừ dặn nó đừng đi xa, nhưng Khếnh chả thèm nghe cái lời của một con ma xó. Nó bước đi hăm hở và đầy hào hứng, cứ như rừng mới là nơi để nó tung hoành. Khếnh gặp thầy Kiên ngược chiều với con đường lên núi, trên vai thầy cũng có một cây súng, không cần hỏi Khếnh cũng biết thừa thầy vừa đi tuần tra về rồi rẽ vào bản dạy luôn như mọi khi, nhưng Khếnh vẫn thù thầy nên không hỏi. Còn thầy lại tươi cười chào Khếnh:
– Khếnh đi săn đấy à, cẩn thận phía đỉnh Tà Khăm mưa đêm qua đường còn trơn lắm đấy. Nhưng hôm nay Khếnh nổi hứng nó không đến rừng Tà Khăm mà muốn đi đến phía rừng thiêng, nơi từ lâu rồi vẫn cuốn hút nó. Nó vẫn thắc mắc sao dân bản không dám vào rừng thiêng, họ truyền nhau kể những điều thật ghê rợn nhưng phi lý, Khếnh không tin lắm, nó đã hỏi các thầy giáo biên phòng, thầy bảo đó chỉ là câu chuyện huyền thoại thôi, bộ đội biên phòng vẫn vào đó đi tuần tra nhưng có ai việc gì đâu, nếu vào rừng với một ý thức bảo vệ rừng thì rừng sẽ che chở chứ không bao giờ làm hại. Khếnh thấy có lý, nó nghĩ bụng nếu mình vào rừng để chơi thì chắc cũng không sao. Nghĩ thế nó mạnh dạn hăm hở tiến về phía khu rừng vẫn còn chìm trong màn sương dày đặc. Mãi quá trưa nó mới tới nơi. Ôi so với những khu rừng quanh bản thì đây là một thiên đường của đại ngàn. Cây cối rậm rịt xanh rì, có nhiều cây cổ thụ thân to đến hàng chục người ôm không xuể, càng đi sâu vào rừng như càng sa vào mê cung nhưng Khếnh như người đang say, Khếnh cứ đi mãi đi mãi vào khu rừng như kẻ mộng du cho đến lúc chợt tỉnh ra thì xung quanh cây cối như đang vây chặt. Phía trên không còn thấy ánh nắng mặt trời nữa, lá cây đan dày như một chiếc ô khổng lồ, khỉ từng đàn nhảy rào rào trên các cành cây, ném vào người Khếnh những trái cây rừng chín nhũn. Khếnh soi la bàn để tìm lối ra, nhưng chưa kịp quay lại thì một cái đầu bù xù từ trong bụi cây gần đó bỗng hiện ra nhe hàm răng đen xỉn cười nhăn nhở. Khếnh suýt hét lên, thì bàn tay dài ngoằng của thằng đàn ông lạ đã bịt chặt lấy miệng Khếnh:
– Đừng sợ, anh bạn trẻ, đừng la lên mà mất mạng đấy.
– Mày là ma à?
– Không phải ma, tao là người, cũng là người Mông giống mày, nhưng tao ở phía bên kia rừng thiêng, ở nước láng giềng với nước mày. Ừ nó nói đúng, nó cũng nói được tiếng Mông mà.
– Thế tao sắp đi qua rừng thiêng rồi à, nhưng mày ở nước khác sao lại vào rừng thiêng của chúng tao làm gì?
Thằng người Mông nước láng giềng lại cười nhe hàm răng đen xỉn nhày nhụa cặn đồ ăn, nó nói:
– Chúng tao muốn giúp người Mông nước chúng mày được giàu sang sung sướng, mày có muốn giàu có không?
– Giúp thế nào? Cái thằng người Mông mặt mũi râu tóc lông lá như người rừng kéo Khếnh đi phăm phăm khiến Khếnh có cảm tưởng như đang bị ma ám. Khếnh muốn giằng ra nhưng không nổi. Nó đưa Khếnh đến một căn lều được cất tạm bợ trong một bụi cây kín mít, bảo đến đó cho an toàn. Đêm đó Khếnh phải ở trong căn lán của thằng người Mông, và được nó tiếp bằng những đồ ăn lạ lẫm với Khếnh, những thức ăn đều được lấy ra từ những chiếc hộp sắt, những túi nhựa, những gói ni lông in hình sặc sỡ. Những món ăn mà từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ Khếnh chưa bao giờ được biết đến, nó lạ lẫm nhưng ăn ngon tuyệt trần, và cả thứ rượu màu nâu như mật ong mà uống vào toàn thân như bốc lửa. Thằng người Mông bảo rằng nó ở đây không phải chỉ một mình mà còn một bọn người nữa nhưng đang có công việc cả rồi. Nó bảo Khếnh ở lại đây giúp nó làm quen với người dân bản, để trao đổi hàng hóa, nó đưa ra những món đồ cũng rất đẹp, rồi nó đưa cho A Khếnh một cái vật gì nom như hòn cuội dưới suối, nó nhấn một cái vào cái vật đó bỗng nó sáng lên và hiện những con chữ li ti bằng thứ tiếng Khếnh không đọc được, nó bảo đó là cái điện thoại di động, có thể nói chuyện với người đang ở rất xa, nếu Khếnh làm tốt giúp nó được việc nó sẽ tặng cho Khếnh một chiếc. Khếnh gật đầu lia lịa, tưởng gì khó chứ đưa thằng người Mông này đến làm quen với người dân bản của nó thì có khó gì.
– Thế mày cần bản chúng tao bán cho mày cái gì? Thằng người Mông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
– Trước hết là bán cho chúng tao mật ong, mật gấu, các loại da chồn báo. Chúng tao sẽ cung cấp cho chúng mày những đồ điện tử như đài, ti vi, quần áo, xe đạp, xe máy.
– Nhưng bản của tao chưa có điện.
– Thì dùng pin, bán cho chúng mày những đồ thưởng thức như rượu ngoại, thuốc hút, bánh kẹo và các đồ gia dụng rất tiện lợi và đẹp mắt, chúng tao còn một thứ mà chỉ cần hít vào thôi là người như được lên tiên luôn chứ không cần phải say sưa như uống rượu. Khếnh há hốc mồm ra nghe và chưa được thưởng thức cũng đã thấy mê rồi. Nó đang hình dung sẽ mặc đồ đẹp, cưỡi xe máy, dắt điện thoại, nó sẽ xuất hiện trước mặt con Mua, thể nào cũng làm nó lác mắt.
Ngày hôm sau Khếnh dẫn người bạn mới quen xuống núi đi về bản Cóm. Nó dẫn về nhà chưa kịp giới thiệu thì từ trong góc nhà ông cố nội Khếnh đã trợn tròn hai cái lòng trắng mắt lên, miệng cứ ú ớ mãi trong cơn ho khù khụ: “Đi, đi ngay, không được đưa con ma rừng về nhà”. Khếnh phủi tay trấn an người bạn:
– Lão già ma xó ấy mà, đừng lo.
Người bạn Mông bên kia biên giới tên là Lầu A Chá tỏ vẻ khá thân thiện với con trai trong bản, chỉ có người già là nhìn nó với vẻ không thân thiện cho lắm. Hắn dạy Khếnh cách dùng điện thoại, dạy Khếnh chơi trò chơi điện tử trong cái máy cầm tay, bấm nó cứ kêu bíp bíp nghe rất vui tai, cho Khếnh xem những bức ảnh có các cô gái đẹp như các nàng tiên mà Khếnh thấy nóng trong người như có lửa đốt.  Chá còn hứa đến một lúc nào đó nó sẽ dẫn Khếnh đến chỗ có những cô gái y như trong ảnh. Khếnh bất chấp lời đe của ông cố nội, nó đi theo thằng A Chá suốt ngày đêm lặn lội trong khu rừng thiêng, nó thấy rừng thiêng chẳng có gì đáng sợ nữa, Khếnh không bắn con thú nào, nó cũng không lấy gì của rừng thì rừng có cớ gì mà hại nó được. Nó đi theo A Chá chỉ mỗi việc giúp A Chá làm quen với con trai các bản, kéo đám con trai đi chơi và hít một thứ khói trắng mỏng nhẹ như mây bay mà lúc đầu không quen Khếnh thấy chóng mặt lắm nhưng sau quen rồi thì thấy rất dễ chịu, cứ như được bồng bềnh trôi trên mây ấy. Dần dần Khếnh không thể rời xa A Chá được, nó cặp kè với A Chá như hình với bóng. Giúp A Chá đưa cái thứ bột đốt ra cái làn khói trăng trắng mảnh như mây ấy đến đám con trai Mông các bản lân cận.
Mấy lần về bản nó được nghe thầy Kiên muốn tìm gặp A Khếnh nhưng Khếnh luôn tránh mặt, nó vẫn còn âm ỉ giữ mối thù với thầy. Thằng A Chá biết chuyện, nó bày cách để hại thầy giáo nhưng Khếnh cứ ậm ừ, chưa quyết.
Hôm ấy Achá dặn Khếnh tối nay phải băng rừng về bên kia để lấy hàng, nó muốn Khếnh cùng đi để vác đỡ vì hàng nhiều và nặng. Khếnh bảo: - Sao phải đi đêm, nhỡ lạc thì sao, hay để tao về lấy ngựa thồ hàng cho đỡ nặng.
– Không được, vì bộ đội Việt Nam không cho bọn tao mang hàng này sang, vì không muốn cho trai Mông biết hưởng cái sung sướng. Chúng nó ngăn cấm và bắt nếu ai mang hàng này. Tao biết mày không ưa bộ đội biên phòng nên tao tin tưởng mày sẽ không báo cho chúng biết.
– Nhưng bộ đội biên phòng vẫn đi tuần đêm ở khu rừng này.
– Tao biết nhưng nó chỉ đi vào lúc tờ mờ sáng thôi, chứ ban đêm nó cũng ngủ mà. A Khếnh bần thần nhớ lại có lần thầy Kiên có nói: “Tối mai thầy bận đi tuần, nếu về kịp sáng sớm hôm sau thầy sẽ rẽ về bản dạy các em, cứ chờ thầy nhé”. Nó định kể với A Chá nhưng nghĩ sao nó lại thôi. A Chá chuẩn bị khá kỹ càng, Khếnh thấy nó dắt con dao nhọn hoắt dài chỉ độ gang tay, và nhỏ như cái lá nứa vào mạng sườn. A Chá đã khoe và phô diễn màn phóng dao điệu nghệ của hắn cho Khếnh xem làm Khếnh thích mê tơi và hắn hứa sẽ dạy Khếnh cách phóng dao trăm phát trăm trúng, thật là hơn đứt cái tài thiện xạ của Khếnh.
Hai thằng ăn uống thỏa thuê suốt buổi chiều, rồi chờ đến quá nửa đêm, khi tiếng những con thú đi ăn đêm, tiếng cáo chồn hú gọi bạn tình, tiếng gà rừng cất tiếng gáy đầu tiên, A Chá và Khếnh mò mẫm lên đường. A Chá thuộc khu rừng thiêng như lòng bàn tay, đi trong đêm mà mắt nó tinh hơn con cú mèo. Hai người lầm lũi đi suốt đêm. Khi đến một con suối có con thác nhỏ với tiếng nước dội ầm ầm xuống vách núi, A Chá dừng lại bảo: Đây là hết đia phận của nước mày rồi, lội qua bên kia con suối là nước tao, nhưng chúng ta dừng lại đây, nghe ngóng tình hình, nếu không thấy bộ đội biên phòng thì tao sẽ lội sang bên kia lấy hàng, mày ở lại đây làm cảnh giới, nếu mọi việc yên ổn thì mày hú lên ba tiếng theo tiếng của con vượn nhé. Khếnh làm theo lời A Chá, nó chẳng thấy có dấu hiệu gì khả nghi, chỉ có tiếng gọi nhau của bầy thú, tiếng thác nước chảy ào ào, tiếng những con chim đi ăn đêm về lích chích trên tổ cây. Bỗng nó nghe tiếng hú của A Chá từ phía núi bên kia suối, nó cũng hú lại ba tiếng để báo sự bình yên, một lúc nó nhìn thấy A Chá vác một gùi nặng trên lưng đang lấm lét lội qua con suối. Khi nó vừa lội lên khỏi mặt nước đặt cái túi xuống trước mặt Khếnh, thì đột nhiên một tiếng quát dõng dạc vang lên: A Chá mày đã bị bắt. Khếnh giật mình ngẩng lên thì lạ quá, đó chính là thầy Kiên của nó, thầy chỉ có một mình và đang giương khẩu súng về phía A Chá. Một thoáng định thần A Khếnh chợt nhận ra A Chá không tỏ vẻ sợ hãi mà hắn rất bình tĩnh, với khuôn mặt không để lộ cảm xúc, nhưng bàn tay hắn đang lần lần vào thắt lưng. A Khếnh không kịp nghĩ gì cả nó bỗng nhớ tới con dao sắc nhọn như lá nứa và tài phóng dao thiện xạ của hắn, nhanh như cắt Khếnh đạp tung con dao vừa kịp rút ra khỏi túi quần, con dao trong tay phải của Khếnh văng ra, nhưng tay trái của Khếnh vẫn kịp rút ra một con dao khác cũng nhanh như cắt đâm phập vào lưng A Khếnh, khi Khếnh lao lại phía thầy giáo để đẩy thầy tránh né. Một phát súng nổ như xé toang cả khu rừng vừa tảng sáng, thằng A Chá ôm chân ngã khuỵu xuống bờ con suối khi hắn định bỏ chạy về phía bên kia biên giới
A Khếnh chẳng còn nhớ gì nữa, nó cứ nghĩ như thời gian qua nó vừa ngủ một giấc dài và bị ma rừng thiêng dẫn lối. Khi tỉnh dậy, khuôn mặt nó nhìn thấy đầu tiên là con Mua. Nó ngơ ngác vì đang nằm ở một nơi rất lạ, có chăn đệm và toàn một màu trắng toát, nó tưởng nó đã về với trời rồi. Con Mua nói nó vẫn chưa tin hẳn. Mua bảo: May mà có thầy Kiên tiếp máu, nó mới được cứu sống, vì đường xuống bệnh viện huyện xa quá, Mua còn mơ ước sẽ cố gắng học lấy cái nghề chữa bệnh để bản có người ốm hay bị thương sẽ được cứu chữa ngay. Người thứ hai nó trông thấy là cha nó, nhưng cha nó đến thăm nó với gương mặt rầu rĩ để báo tin: Ông cố nội nó mất rồi, ông nó mất ngay khi hay tin nó sống lại. Sao lại thế hả cha? Cha nó bảo cố trước khi đi đã cười tươi, nụ cười mà đã hàng nửa thế kỷ rồi ông cất kỹ. Ông còn nói rất rõ không hề ho hắng: Thế là ta nhắm mắt được rồi, chắt ta đã giải được lời nguyền rồi, nó đã không làm điều ác trong rừng, nó được sống.
– Nhưng cố vẫn chưa đồng ý cho con lấy con Mua, con vẫn hận cố. Mua ngồi bên vội vàng nói luôn:
– Khếnh yên tâm đi, Mua cũng hỏi bà nội rồi, bà bảo hai đứa không có dòng họ gì hết. Khi cố nội đến để chăm sóc cho ông A Khay khi còn nhỏ thì cố đã có mang bà nội rồi, đó là một người cố không tiện cho biết, nhưng bà nội của Mua không phải là em gái của ông nội Khếnh. Cha nó còn cho Khếnh biết, chính cố nội đã báo cho bộ đội biên phòng đi bắt cái thằng A Chá.
21/4/2021
Nguyễn Cẩm Hương
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi… Nói đến làng quê Việt Nam là chúng ta nhắc đến những dòng sông, bến nước, con đò đã gắn bó từ xa xưa...