1. Mùa xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy
nở, như là mới bắt đầu, có thể đang lên của sự hưng vượng, chưa
dừng lại và kết thúc quá trình. Nó là cái dương chưa trưởng thành
đầy đủ, và đó là điều khiến cho biết bao thi nhân giao cảm, giãi bày. Nếu
như Trần Nhân Tông (Thế kỷ XIII) thể hiện tâm thức Thiền trong ba bài thơ Xuân
hiểu, Xuân cảnh, Xuân vãn, thì Nguyễn Trãi (Thế kỷ XV) lại thể hiện tâm thức
của nhà nho trong thơ xuân viết bằng chữ Hán và chữ Nôm trong các bài Trại
xuân đầu độ (Bến xuân đầu trại), Mộ xuân tức sự (Tức cảnh cuối xuân), Tảo
xuân đắc ý, Trừ tịch, Vãn xuân…
2. Trại xuân đầu độ
Độ đầu xuân thảo lục như yên,
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
Cô chu trấn nhật các sa miên
(Dịch nghĩa: Bến xuân đầu trại: Cỏ xuân ở bến đò đầu
trại xanh như khói,/ Lại thêm có mưa xuân, nước vỗ vào nền trời/ Đường đồng
nội vắng tanh, ít người qua lại,/ Con thuyền đơn chiếc gác đầu lên bãi cát
ngủ suốt ngày)
Màu xanh của cỏ (thảo lục), của nước (thủy), của trời (thiên)
dường như càng xanh thẩm hơn bởi mưa xuân (xuân vũ)... có phải thi nhân xưa
đã gặp nhau trong thi tứ khi miêu tả sắc xuân, sau này Nguyễn Du cũng có câu
thơ nổi tiếng về mùa xuân: Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm
một vài bông hoa, và ý thơ đó cũng bắt đầu từ câu thơ cổ Trung Hoa: Phương
thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa...
Phép tu từ so sánh ở câu thơ thứ nhất nhấn mạnh không gian
mờ ảo như sương khói trong mưa xuân, cỏ xanh, trời xanh, nước xanh: Độ đầu
xuân thảo lục như yên... Sức sống mùa xuân thể hiện trong câu thơ
thứ hai ở ý thơ: thủy phách thiên – nước vỗ trời – không gian hai cực
dường như đối ứng nhau, xích lại gần nhau. Vừa mới miêu tả thảo lục như
yên, lại nhìn thấy thủy phách thiên thì đúng là lối miêu tả rất Ức
Trai trước thiên nhiên.
Mở đầu bằng hai câu tả cảnh và kết thúc bằng hai câu ngụ
tình, kiểu kết cấu quen thuộc trong thơ tứ tuyệt đời Đường: Dã kính
hoang lương hành khách thiểu,/ Cô chu trấn nhật các sa miên. Vẫn là ngụ tình
trong cảnh. Không gian vắng lặng, con đò đơn chiếc... dù muốn dù không khi
nhà thơ nói đến cô chu thì cảm giác cô đơn, quạnh quẽ đã xuất hiện.
Nhà thơ Lý Bạch khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng cũng từng viết Cô
phàm viễn ảnh bích không tận (Cánh buồm cô đơn trôi về xa phía chân
trời)... Sau này, Hồ Chí Minh trong lần bị giải đi vào lúc chiều tối cũng nhận
ra đám mây cô đơn trôi chầm chậm giữa bầu trời - Cô vân mạn mạn độ
thiên không...
Nơi nhà thơ ngắm sắc xuân, mưa xuân là bến đò nơi đồng nội
ít người qua lại – đó cũng là lý do để con đò cô đơn – cô chu. Nhưng vế
sau của câu thơ lại là trấn nhật các sa miên – gác đầu lên bãi cát
ngủ suốt ngày, thế mới nhàn tản, ung dung, thư thái, đó mới là ý tứ của Trại
đầu xuân độ. Có ung dung, nhàn tản mới ngắm được sắc xanh của cỏ xuân, nước
xuân, trời xuân, mới thấy không gian mờ ảo như sương như khói trong mưa
xuân... Đương nhiên người ngắm chúa xuân đã từng là cánh tay phải của Lê Lợi,
từng là trung tâm của cuộc kháng chiến, nay về ở ẩn ở Côn Sơn, tránh sao khỏi
cái cảm giác cô đơn vắng lặng khi ở bến xuân.
Bến đò, dòng sông, con thuyền... là nơi nhà thơ gửi gắm ẩn ức,
tâm sự, nỗi niềm của mình:
- Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
- Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
- Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then…
3. Mộ xuân tức sự
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
Đỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai
(Dịch thơ: Tức cảnh cuối xuân: Trong lúc nhàn nhã suốt
ngày khép cửa phòng văn,/ Ngoài cửa không có một khách tục nào tới / Trong
tiếng cuốc kêu, xuân sắp tàn,/ Đầy sân mưa phùn nhẹ rơi khi hoa xoan đang nở)
Không gian vắng lặng, con người nhàn nhã, có cảm giác như tất
cả đang ngưng đọng trong nỗi niềm ẩn ức của tác giả, thì đột nhiên hình ảnh
thơ chuyển hướng bất ngờ: Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai- Hoa xoan mưa
nhẹ nở đầy sân. Những giọt mưa xuân ấm áp lất phất rơi đã mở bung
những cánh hoa xoan trắng muốt trước sân. Màu trắng thanh tao của
những cánh hoa xoan li ti đã làm cho bức tranh mùa xuân thêm hoàn
thiện. Quan sát cảnh vật để rút ra những nhận xét tinh tế, tác
giả như muốn gửi gắm vào không gian mùa xuân niềm khao khát bù trì
của mình – Giọt mưa xuân mở những cánh hoa xoan, còn lòng
mình ai thấu hiểu đây? Ai mở nó ra đây?. Tình như một bức phong
còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem (Ba tiêu).
Mùa xuân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là nơi để nhà
thơ trải lòng mình trước những biến động của cuộc đời, khi mà nhà thơ thấm
thía: Non cao non thấp mây thuộc/ Cây cứng cây mềm gió hay… Đọc hai bài
thơ xuân bằng chữ Hán của ông, ta thấy có chút gì đó cô đơn, vắng lặng, nhưng
trong thi tứ lại tươi mới, đột phá, thể hiện nỗi khao khát bù trì của thi
nhân.
4. Nguyễn Trãi viết về mùa xuân bằng thơ Nôm nhiều
hơn. Cảm xúc tự do, biểu hiện bằng tiếng mẹ đẻ là lợi thế cho
nhà thơ bày tỏ sự tiếc xuân, thèm xuân, gây nên niềm xốn xang
rạo rực trong trái tim yêu cuộc sống của thi nhân và của cả độc
giả.
Mười hai tháng trọn mười hai,
Hết tấc đông trường, sáng mai
Hắc Đế, Huyền Minh đã đổi ấn
Sóc phong, bạch tuyết hãy đeo đai
Chong đèn chực tuế cay con mắt
Đốt trúc khua na đắng lỗ tai
Chẳng thấy lịch quan tua xá hỏi
Ướm xem dần nguyệt tiểu hay đài?
(Trừ
tịch)
Năm hết, Tết đến vẫn không ai tặng lịch để biết tháng giêng
đủ hay thiếu: Chẳng thấy lịch quan tua xá hỏi / Ướm xem dần nguyệt tiểu
hay đài? Nhưng con người ham sống, yêu đời vẫn rạo rực đón xuân: Chong
đèn ngồi đợi năm mới, mắt cay xè - Chong đèn chực tuế cay con mắt,/ Đốt
trúc khua na đắng lỗ tai - đó mới là con người nhập cuộc, con người háo
hức Nguyễn Trãi. Nhà thơ đã từng hân hoan, rạo rực khi viết về Cây chuối:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm – Tự bén hơi xuân đã tốt lại càng thêm tốt.
Nay thì chong đèn, đốt trúc...
Viết về mùa xuân cũng là cách để nhà thơ ký thác tâm sự, sự
ký thác thật tài tình khi sử dụng phép đối trong ngôn ngữ: cay con mắt >< đắng
lỗ tai. Đón năm mới mà cay con mắt, đắng lỗ tai, thì ra cay và đắng cũng
là nỗi niềm của quan Nguyễn Trãi bởi Tết rồi mà Chẳng thấy lịch quan tua
sá hỏi.
Nhà thơ đa tình, lãng mạn Nguyễn Trãi trong thơ gửi cho
Nguyễn Thị Lộ: Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng/ Đầm ấm thì thương kẻ lạnh
lùng/ Ngoài ấy dầu còn áo lẻ/ Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng; và còn lãng mạn
hơn với những câu thơ trong bài thơ Vãn xuân: Cầm đuốc chơi xuân
này khách nói/ Tiếng chuông chưa dóng ắt còn xuân – Thắp đuốc
lên mà chơi cho hết những giây phút cuối cùng trong cái đêm cuối cùng của 90
ngày xuân ấy bởi vì Xuân xanh chưa dễ hai phen lại/ Thấy cảnh
càng thêm tiếc thiếu niên (Bài 201), và Cướp thiếu niên đi
thương đến tuổi, Ốc dương hòa lại, ngõ dừng chân (Vãn xuân). Cầm
đuốc chơi xuân là ý tứ trong Xuân dạ yến đào viên tự của Thi
tiên Lý Bạch (Bỉnh chúc dạ du).
Cầm đuốc chơi xuân, tiếc xuân, 52 lần nhắc đến mùa
xuân trong 254 bài thơ Nôm càng chứng tỏ sự luyến tiếc của tác giả,
luyến tiếc một quá khứ đẹp, luyến tiếc tuổi trẻ, luyến tiếc
những gì đã qua một đi không trở lại, những gì đã qua là thỏa chí bình sinh cho chí làm trai của Nguyễn Trãi. Viết
nhiều về mùa xuân cũng chứng tỏ sự khác biệt trong thi pháp thơ
Nguyễn Trãi, bởi thi nhân xưa thường viết về mùa thu nhiều hơn.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét