Trong nghiên cứu về thời bình minh của văn học chữ quốc ngữ,
chúng tôi đã khẳng định vai trò quan trọng của báo chí trong quá trình hình
thành và phát triển của nền văn học đó. Khác với thời lịch triều trước, từ năm
1865, mối liên hệ báo chí - văn học ngày càng mật thiết. Sự hình thành của nền
văn học mới chữ quốc ngữ đã cho thấy có ảnh hưởng và liên hệ giữa sự phổ biến dễ
dàng với phương tiện in ấn theo Tây phương với "tiến bộ" hiện đại hóa
của văn học và báo chí. Ảnh hưởng đó không chỉ đơn thuần văn hóa mà cả trong đời
sống chính trị Nam kỳ lục tỉnh rồi cả nước và còn ảnh hưởng qua đến thế kỷ sau,
thế kỷ XX. Từ Gia Định Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Nam Kỳ Địa Phận,... đến Đăng
Cổ Tùng Báo, Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ Nữ Tân Văn,... rồi Phong
Hóa, Ngày Nay,..., báo chí đã tích cực đồng hành với nền văn-học mới, hiện
đại và cập nhật theo con người và thời đại.
Sau khi hiệp định Genève 20-7-1954 chia đôi đất nước, một cuộc
di cư từ Bắc vào Nam đưa theo nhiều nhân tố quốc gia (và cả nằm vùng)
sẽ giúp mạnh thêm nền văn học của miền Nam tự do 1954-1975. Những năm
đầu sau 1954, ở trong Nam và nhất là Sài gòn hết còn nóng lửa chiến tranh,
nhưng cuộc chiến vẫn âm ỉ, thời lập thuyết đấu tranh ý thức hệ bắt đầu, với những
mặt trận văn hóa, những Phạm Thái, Thiếu Sơn, Hồ Hữu Tường, Ngô Đình Nhu,... Cũng là thời của các tạp chí Đời Mới, Nhân Loại, Mùa Lúa Mới,... - thời của những người quốc gia đa nguyên đa dạng! Nhưng thất bại của
những hợp tác và khó khăn của đồng thuận chính trị khiến chính quyền đệ nhất cộng
hòa quyết liệt vạch một lối đi văn hóa để thu phục nhân tâm của miền Nam và
tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa cộng sản ngoại lai cũng là để những kẻ đứng
núi này trông núi nọ phải nhận chân và dứt khoát con đường phục vụ đất nước.
Trong chiều hướng đó, tạp chí Xã Hội của ông Ngô
Đình Nhu đình bản cuối năm 1956 có thể do nội dung quá lý thuyết không đến được
với cán bộ và quần chúng. Rồi sau hai tạp chí Sáng Tạo và Chỉ Đạo cũng
ra mắt cùng tháng 10 năm 1956, là tạp chí Bách Khoa số 1 ra mắt
ngày 15 tháng 1 năm 1957 và số cuối 426 ra ngày 20 tháng 4 năm 1975. Tòa soạn đặt
ở số 160 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Năm 1957 là năm có nhiều biến cố
văn-hóa và chính trị quan trọng: Đại hội Văn hóa diễn ra ở Huế do chỉ đạo của cố
vấn Ngô Đình Nhu từ ngày 6-1-1957. Viện đại học Huế cũng được mở cùng năm
(khánh thành ngày 12-11) và Văn Bút cũng được thành lập ngày 21-10. 1957,
năm của một khởi đầu văn hóa miền Nam tự do!
Tạp chí Bách Khoa xuất thân từ Hội Văn-hóa Bình dân
(có trường Bách khoa bình dân) và theo Nguyễn Hiến Lê, nhóm chủ trương “xin được
nhãn báo (manchette) của tờ Bách Khoa bình dân đã chết từ số 2, cắt
hai chữ “Bình dân” đi; rồi hùn nhau để tục bản” (1). Bách Khoa trong
Thay Lời Phi Lộ số ra mắt 15-1-1957 xác định mục đích của tạp chí: “quy tụ mọi
người không cần cùng một tôn giáo, một quan điểm chính trị, một tổ chức chính
trị chặt chẽ mới có thể trở thành bạn đường trong lúc tìm kiếm bất chấp đến dĩ
vãng nếu hiện thời đi cùng một con đường” đồng thời cho biết bài vở “không
cứ phải cao siêu, vì trải nghiệm của người lao động cũng quan trọng như lý thuyết
của học giả” mà cũng không nhất thiết “chỉ nói về một tôn giáo, vì đạo đức của
Phật giáo cũng đáng để ta tôn trọng như lòng nhân ái của Chúa Jesus”. Trong số
đầu tiên này Phan Mai (Nguyễn Văn Trung) giới thiệu 'người' trong tác phẩm của
Saint-Exupery, Huệ Châu nói đến địa vị của nhạc Jazz trong nghệ thuật hiện đại,
Văn Quỳ viết về văn chương nước Mỹ; ngoài ra Huỳnh Văn Lang và Bùi Văn Thinh
nói đến kinh tế, thương mại, Phạm Ngọc Thảo cho biết thế nào là quân đội mạnh,
v.v... Hoa Kỳ đã để lại dấu ấn ngay từ những số đầu - một cuộc chiến văn hóa
tranh với ảnh-hưởng Pháp!
Tạp-chí Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều khiển và
viết bài về kinh tế; Phạm Ngọc Thảo viết về quân sự, chính trị,... Năm 1958,
Lê Ngộ Châu điều hành khi ông Lang đi tu nghiệp ở Mỹ, nhưng báo vẫn đứng tên Huỳnh
Văn Lang cho đến tháng 2-1965 dù sau đảo chánh 1-11-1963, ông Lang bị đảo chánh
bắt vì tội... Cần Lao. Bách Khoa cũng từ tháng 2-1965 phải đổi
thành Bách Khoa Thời Đại, Lê Ngộ Châu đứng tên chủ nhiệm, và đến
tháng 1-1970, lấy lại tên Bách Khoa. Thời đầu tạp chí được tài trợ và
nhận quảng cáo liên tục từ các công ty lớn, về sau một số các cơ quan, công ty
vẫn tiếp tục đăng quảng cáo cùng được sự hổ trợ của các viên chức cao cấp và cuối
cùng là do độc giả ở Sài Gòn và miền Trung ủng hộ. Tuy nhiên sau vụ Tết Mậu
Thân 1968, độc giả miền Trung bị giảm, mà vì giấy báo, nhân công nhà in theo đà
vật giá gia tăng do đó Bách Khoa phải giảm số in; thời 1959-1963
mỗi số bán được từ 4500 đến 5000 trong đó 1000 độc giả mua dài hạn 100 ở ngoài
nước (2), sau 1968 xuống còn phân nửa và nhân viên tòa soạn chỉ còn hai người,
cho đến ngày đình bản, cuối tháng 4/1975. Và hình như Bách Khoa là tạp chí
duy nhất của miền Nam thời này mà các số đầu phải in lại theo nhu cầu
của độc giả!
Xét chung trong số các tạp chí đã thật sự có ảnh hưởng,
vai trò đối với văn học miền Nam thời 1954-1975, thì Bách Khoa là một
trường hợp đặc biệt. Được sáng lập để thực hiện chính sách văn hóa và chính trị
của chính quyền đệ nhất cộng hòa muốn xiển dương thuyết cần lao, nhân vị (Huỳnh
Văn Lang lúc đó là Giám Đốc Viện Hối Đoái và là bí thư Liên Kỳ Nam Bắc Việt Nam
của đảng Cần Lao Nhân Vị, điều khiển Hội Văn hóa bình dân), tạp chí Bách
Khoa đã chuyển hướng đi sâu hơn vào văn-chương học thuật, dĩ nhiên
chính trị vẫn bao trùm vì không thể làm khác trong thời buổi phải đương đầu và
chiến tranh với một ý thức hệ ngược hẳn. Dù ý hướng nhân bản, khai phóng và đa
nguyên đã bị một số người len lõi xâm nhập, viết bài có lợi cho kẻ thù - một số
lộ ngay, một số sau này mới rõ.
Lê Ngộ Châu là linh hồn của tạp chí, từ năm thứ nhì đến
số cuối; ông mất ngày 24-9-2006 tại Sài Gòn. Lê Ngộ Châu (1922-2006) đã là một
chủ nhiệm điều hành giỏi và được sự quí mến, tôn trọng của nhiều người, cộng
tác viên cũng như tác giả và người đọc. Ông có cảm tình với kháng chiến, như
Nguiễn Ngu Í và Nguyễn Hiến Lê (2), có thể nhờ vậy nên không bị làm khó dễ gì
sau ngày 30-4-1975, nhưng tòa soạn Bách Khoa phải hạ bảng và cá nhân
ông bị phá sản (và theo Châu Hải Kỳ, ông đã từ chối sự giúp đỡ của bạn thân như
Nguyễn Hiến Lê (3)). Cũng theo Nguyễn Hiến Lê, ông Châu “có tinh thần trách nhiệm,
làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi tờ báo suy, biết
xét người, xét văn và có tình với người cộng tác. Ai gặp tai nạn gì
thì lại nhà thăm, tìm cách giúp đỡ” (4). Trong một bài viết, ông Nguyễn Thụy
Hinh đã vinh danh: “Ông Lê Ngộ Châu: Kẻ thừa kế làm nên sự nghiệp - Không
phải đợi đến năm 1963, ông Lê Ngộ Châu mới chính thức được giao vai trò chủ nhiệm Bách
Khoa. Thực ra, thời gian ông Huỳnh Văn Lang đi du học từ năm 1958 đến
tháng 5/1959 ở Mỹ. mọi công việc tòa sọan, bài vở đều do ông Lê Ngộ Châu một
mình quyết đoán cả. Theo ông Huỳnh Văn Lang thì cuối năm 1955, bộ tài chánh giới
thiêu ông Hoàng Minh Tuynh làm phó cho ông ở Viện Hối Đoái. Lúc đó ông HVL đang
cần một thư ký tòa sọan.
Ông Tuynh bèn giới thiệu ông Lê Ngộ Châu. Cứ như lời xác nhận này của ông HVL thì tôi có cảm tưởng ông Lê Ngộ Châu làm thư ký tòa sọan Bách Khoa có thể là ngay từ đầu? Và sau này, có thể nói, không có bất cứ nhà văn nào mà không có lời lẽ trân trọng đối với ông LNC. Khen và trân trọng hết lời. Theo Nguyễn Văn Trung, (bài báo đầu tiên đăng trên BK là bài Tự tử, ký biệt hiệu Hoàng Thái Linh), thì ông Lê Ngộ Châu có thể đọc bài, sửa bài rồi đề nghị cắt hay thay đổi một đoạn. Mặc dầu không viết bao giờ, ông có khả năng thuyết phục cao, có bon sens, hiểu biết từng nhà văn, nắm được tất cả. Cuối cùng thì ai ai cũng đồng ý để ông sửa và cắt bài. (…). Theo ông Nguyễn Hiến Lê, trong Hồi ký của ông, trang 545 thì: «Khi báo có uy tín rồi, từ 1960 trở đi, Ông Châu tập hợp thêm được một số cây viết trẻ, từ đó báo đăng nhiều bài có giá trị cả biên khảo lẫn sáng tác và chính nhờ hợp tác với Bách Khoa mà những cây viết đó nổi tiếng như Vũ Hạnh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cô Liêu, Ngu Í, Phạm Việt Châu, Phan Văn Tạo, Đoàn Thêm (hai người sau là những nhân viên cao cấp trong chính quyền Ngô Đình Diệm), nhất là các nữ tiểu thuyết gia Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Thụy Vũ, Túy Hồng» (5).
Ông Tuynh bèn giới thiệu ông Lê Ngộ Châu. Cứ như lời xác nhận này của ông HVL thì tôi có cảm tưởng ông Lê Ngộ Châu làm thư ký tòa sọan Bách Khoa có thể là ngay từ đầu? Và sau này, có thể nói, không có bất cứ nhà văn nào mà không có lời lẽ trân trọng đối với ông LNC. Khen và trân trọng hết lời. Theo Nguyễn Văn Trung, (bài báo đầu tiên đăng trên BK là bài Tự tử, ký biệt hiệu Hoàng Thái Linh), thì ông Lê Ngộ Châu có thể đọc bài, sửa bài rồi đề nghị cắt hay thay đổi một đoạn. Mặc dầu không viết bao giờ, ông có khả năng thuyết phục cao, có bon sens, hiểu biết từng nhà văn, nắm được tất cả. Cuối cùng thì ai ai cũng đồng ý để ông sửa và cắt bài. (…). Theo ông Nguyễn Hiến Lê, trong Hồi ký của ông, trang 545 thì: «Khi báo có uy tín rồi, từ 1960 trở đi, Ông Châu tập hợp thêm được một số cây viết trẻ, từ đó báo đăng nhiều bài có giá trị cả biên khảo lẫn sáng tác và chính nhờ hợp tác với Bách Khoa mà những cây viết đó nổi tiếng như Vũ Hạnh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cô Liêu, Ngu Í, Phạm Việt Châu, Phan Văn Tạo, Đoàn Thêm (hai người sau là những nhân viên cao cấp trong chính quyền Ngô Đình Diệm), nhất là các nữ tiểu thuyết gia Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Thụy Vũ, Túy Hồng» (5).
Về vai trò chủ bút/ thư ký tòa soạn Bách Khoa, ông
Huỳnh Văn Lang đã đính chính về bài báo trên báo Tân Văn (CA, số 6,
1-2008): “Khi nói về tiến trình hình thành BK, TV đã bỏ qua một giai đoạn
mà có 2 người đã đóng một vai trò thiết yếu không thua gì nguời sáng lập. Tôi
muốn nói đến chị Phạm ngọc Thảo hay Phạm thị Nhiệm, em gái của giáo sư Phạm Thiều,
truờng Pétrus Ký, Saigon. Người đầu tiên giữ chức vụ thư ký toà soạn và giới
thiệu, nếu không nói là đem vào BK, những nhà văn Nguyễn hiến Lê, BS Nguyễn văn
Ba, BS Duơng Quỳnh Hoa... và nhứt là anh Nguyễn hữu Ngư (Nguyễn ngu Í), chính
anh nầy là em nuôi của GS Phạm Thiều, đã giới thiệu thêm Bùi Giáng, Nguyễn thị
Hoàng v.v... Chị Thảo còn viết bài cho BK bút hiệu Minh Phong. Và nguời thay mặt
tôi trực tiếp làm việc với chị Thảo là anh Hoàng minh Tuynh, lúc bấy giờ còn là
phó Giám đốc Viện Hối Đoái cho tôi. Lúc tôi vắng mặt, chính anh Tuynh đã thay mặt
tôi như là chủ nhiệm chủ bút làm việc với anh Châu, lúc không còn có chị Thảo nữa.
Cho nên nói rằng anh Châu làm từ lúc đầu là sai hoàn toàn. (Chị Thảo hiện sống ở
Cali, nếu thấy cần xác nhận điều tôi nói trên, chắc chắn chi Thảo sẽ vui lòng
trả lời, chị đang ngồi xe lăn và yếu lắm, nhưng còn minh mẫn và nói chuyện điện
thoại đuợc)” (6). Đặng Văn Nhâm, một cộng tác viên của Bách Khoa từ
những số đầu, cũng xác nhận sự việc này: “... Huỳnh Văn Lang bận công vụ,
nên ngay từ đầu đã trao việc tổ chức biên tập, chọn lọc bài vở, trông coi việc ấn
loát và phát hành tờ Bách Khoa cho bà Phạm Ngọc Thảo, khuê danh Phạm
Thị Nhiệm, bút hiệu Thái Hoa Phong, em của giáo sư Phạm Thiều. Cộng tác mật thiết
với bà Thảo (…) còn có nhà văn Nguyễn Ngu Í, tên thật Nguyễn Hữu Ngư, với
tác giả sách này (tức Đặng Văn Nhâm) ...”(7).
Khi viết về văn học miền Nam thời này, Võ Phiến nói đúng
nhưng không đủ, có thể vì ông ở trong cuộc - Võ Phiến xem ông và Nguyễn Hiến Lê
là hai cây bút chính của tạp-chí Bách Khoa (8), khi cho rằng: "... Bách Khoa là một tạp chí dung hòa rộng rãi mọi khuynh hướng. Không có chủ
trương "văn nghệ cách mạng" cũng không chủ trương "vượt thời
gian", nó đăng bài của các lão thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách Tấn, Vũ
Hoàng Chương, lẫn truyện của Thanh Tâm Tuyền, Trùng Dương... Về mặt chính trị,
sức dung hòa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói đùa: Bách Khoa là một vùng xôi đậu.
Nó đón nhận cả Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Vũ Hạnh, lẫn Võ Phiến, Vũ Bảo..."(9).
Võ Phiến viết như vậy vì ông đã không đánh giá đúng khi cho rằng chính quyền đệ
nhất cộng hòa không có chính sách văn hóa! Ai cũng đã rõ rằng tạp chí Bách
Khoađược hình thành chính vì một chính sách văn hóa nhân vị, cần lao và hồi
chánh - tiếp thu và tạo cơ hội cho những người kháng chiến cũ, nhất là những
người chưa thật sự tỉnh thức hoặc hết... kháng chiến!
Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), một cộng tác viên của Bách
Khoa có số bài nhiều nhất đã ghi nhận về tạp chí: "Trong lịch
sử báo chí của nước nhà, tờ Bách Khoa có một vị trí đặc biệt. Không
nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám
năm, từ 1957 đến năm 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều
cây bút giá trị như tờ Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng
một trăm. (…) Tuy nhiên phải nhận rằng Bách Khoa không có ảnh hưởng
lớn như Nam Phong, Phong Hóa Ngày Nay trong dân chúng. (…) Lại
thêm Bách Khoa không có một chủ trương mới mẻ, mạnh mẽ cải cách cả về
tư tưởng lẫn sự trình bày như tờ Phong Hóa - Ngày Nay, trước sau vẫn giữ lập
trường ôn hòa, đứng giữa, không theo Cộng, không theo Mỹ, như vậy làm sao nói
nó như một phong trào mà ảnh hưởng tới quốc dân được như Tự Lực? Thời đó có một
nhóm nhà văn trẻ ở Bắc di cư vào lập nhóm Sáng Tạo, muốn làm một cuộc cải
cách, nhưng họ không đủ kiến thức tài năng, chỉ hô hào chống Cộng, điểm này
không có gì mới cả - mà cũng không sâu sắc, vì họ ít đọc sách báo ngoại
quốc; và đã đảo lối viết của nhóm Tự Lực trước kia, mà người cầm đầu Sáng
Tạo - Mai Thảo - lại có bút pháp cầu kỳ "làm duyên, làm dáng" -
không hợp thời chút nào, chính bọn họ cũng không theo. Rốt cuộc chẳng được tiếng
vang nào cả'' (10).
Trong hơn 18 năm, Bách Khoa xuất hiện đều đặn ngay
cả những năm cuối phải đổi thành giai phẩm tuân theo luật 007 gắt gao
hơn của bộ Thông tin vì hoàn cảnh chiến tranh và đấu tranh chính trị. Độc giả của Bách
Khoa do nội dung và nguồn gốc xuất xứ thuộc về những thành phần chọn lọc
hơn những tạp chí văn nghệ khác.
Bán nguyệt san Bách khoa ban đầu quy tụ các trí thức
và chuyên viên cao cấp liên hệ xa gần với đảng Cần Lao hoặc chính quyền. Huỳnh
Văn Lang chủ nhiệm với tinh thần bình dân học vụ và văn hóa cần lao nhân vị.
Phạm Ngọc Thảo, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến, Nguiễn Ngu Í,... là những người cựu
kháng chiến. Phạm Ngọc Thảo đã đóng góp trong những năm đầu khoảng 20
bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, quân sự,
chiến-tranh không đổ máu, đánh giặc không giết người, du kích chiến, Trần Hưng
Đạo, binh pháp Tôn Tử,...
Nguiễn Ngu Í (Nguyễn Hữu Ngư, 1921-1979) đã chứng tỏ là
một nhà báo chuyên nghiệp, nhiều công tâm và tài năng. Ông còn có những bút hiệu
khác: Ngê Bá Lí, Tân Fong Hiệp, Phạm Hoàn Mĩ,... Từ những số Bách
Khoa đầu ông đã có nhiều đóng góp đáng kể. Trước hết là hai cuộc phỏng vấn
về truyện ngắn Việt và ngoại quốc hay nhất, bắt đầu từ ngày 15-11-1958, và cuộc
phỏng vấn thứ nhì về quan niệm sáng-tác của các nhà văn, từ số 101
(11-3-1961). Sau đó, là phỏng vấn các nghệ sĩ nhạc, họa,... và từ giữa năm
1964, nhà văn Nguiễn Ngu Í tiếp tục cuộc phỏng vấn cá nhân một số nhà văn thơ.
Sau xuất bản trong tuyển tập Sống Và Viết Với... Nếu Lê Phương Chi một
sân một chiếu về phỏng vấn trên tờ Tin Sách của Hội Bút Việt thì Nguiễn
Ngu Í đã tỏ ra nhiều tài năng về nghệ thuật phỏng vấn, phần lớn “tam cố thảo
lư”, có tài gợi chuyện, hỏi chuyện rồi hỏi lại cho chắc ý, ghi nhận rồi đưa cho
người được phỏng vấn xem lại, khiến cho nhiều bài hết mang hình-thức cổ điển 'hỏi đáp'
mà trở thành một loại bút ký - không như ở hải-ngoại sau 1975, phỏng vấn là để
người phỏng vấn được... thơm lây, mà phương tiện cũng dễ dàng hơn, bằng điện
thoại, điện thư, phần lớn như cắt/ dán từ những trả lời. Nguiễn Ngu Í còn phỏng
vấn và đàm thoại về một số phong trào, biến cố chính trị như về “Đại học Huế
tranh đấu chống chế độ cũ qua 2 giờ nói chuyện với giáo-sư Lê Tuyên (BK
171-172, 15-2 & 1-3-1964), các phỏng vấn và “đàm thoại” với các tác giả như
với Ngô Thế Vinh (BK 370, 15-6-1972), v.v... Ông chủ trương một lối viết tiếng Việt
hợp lý hơn (theo ông) nhưng đã không được đáp ứng (ngoại trừ vài người như Nguyễn
Hiến Lê có vẻ theo lối viết i ngắn thay y trong nhiều trường
hợp, nếu không phải đổi phát âm và phần nào đã khiến độc giả đọc khó hơn
(nguiên nhân, nguiễn, ngèi xanh, i tế,...).
Võ Phiến từng ở Khu 5 kháng chiến, cộng tác với Bách
Khoa từ năm 1960, với nhiều bút hiệu: Võ Phiến, Tràng Thiên và Thu Thủy
(lúc đầu là 2 biệt hiệu dùng chung với các cộng tác viên khác), qua nhiều thể
loại: truyện, tùy bút, phê bình sách, tổng kết văn học, giới thiệu văn học nước
ngoài, dịch truyện,... Võ Phiến viết nhiều thứ nhì thứ ba nhưng không bao giờ
đóng vai chủ biên của tạp chí Bách Khoa. Huỳnh Văn Lang, chủ nhiệm tờ Bách
Khoa trong hồi ký Nhân Chứng Một Chế Độ đã cho biết lịch sử xuất bản
tờ Bách Khoa và vai trò của Võ Phiến: "Võ Phiến chỉ là cây
bút viết đều, viết nhiều cho Bách Khoa, không hề giữ vai trò quy tụ, điều hành
nào của tờ báo này" (11).
Nguyễn Hiến Lê, cũng như Lê Ngộ Châu là những người cẩn mực,
có văn hóa và tin người, nhưng cố chấp về thế nào là yêu nước và xây dựng miền
Nam dân chủ tự do. Riêng Nguyễn Hiến Lê vì tự tin đã tẩy chay giới cầm quyền
chính trị văn hóa thời cộng hòa và có cảm tình với những người cộng sản dưới áo
khoác bảo vệ văn hóa dân tộc kiểu Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lương, ... cộng
tác với Tin Văn ("Văn chương và dân tộc tính", số 10,
1966). Sau 1975 thì Nguyễn Hiến Lê đã thức tỉnh và nhẹ nhàng phê chế độ cộng sản
phớt qua trong Hồi Ký (vẫn bị kiểm duyệt ấn bản in trong nước). Theo
ông Nguyễn Thụy Hinh, “có lẽ không ai viết nhiều hơn Nguyễn Hiến Lê. Bách
Khoa ra cả thảy được 426 số thì trong đó có 242 số đả có bài của Nguyễn Hiến
Lê. Bài cuối cùng ông đăng trên Bách Khoa số cuối 424. Cho nên, nói đến chuyện
ai là linh hồn của tờ Bách Khoa thì phải nói ai bây giờ? Phần
Nguyễn Hiến Lê, tự ông đã trả lời như sau: "Vì tôi cộng tác đều đều với
Bách Khoa, từ đầu tới cuối, lại viết nhiều về nhiều vấn đề, nên độc giả có người
cho tôi là cây viết cốt cán của tạp chí, tưởng tôi là một nhân viên quan trọng
trong tòa soạn nên có bài muốn gửi đăng thì gửi cho tôi nhờ tôi giới thiệu
với ông chủ nhiệm Lê Ngộ Châu.
Tôi đọc kỹ những bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với ông Châu, nhưng cũng cho họ biết sự quyết định đăng hay không là ở cả ông Châu...(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 553)”(12).
Tôi đọc kỹ những bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với ông Châu, nhưng cũng cho họ biết sự quyết định đăng hay không là ở cả ông Châu...(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 553)”(12).
Bách Khoa còn là đất vẫy vùng của những nhà văn nằm vùng
hoặc cảm tình viên Việt cộng (Mặt trận giải phóng miền Nam và Bắc Việt)
như Thủy Thủ, Đông Trình, Vũ Hạnh, Vân Trang, Thiếu Sơn, Trần Thúc
Linh, Hợp Phố, Lưu Nghi, Nguyễn Huy Khánh,... Người cộng-sản cũng như quốc gia
và yêu nước không tả không hữu đều đã dùng người khác làm bình phong để thao
túng, như với Bách Khoa, hay với Sinh Lực, Mai (Hoàng Minh
Tuynh), v.v... hoặc đã dùng những chủ trương bình phong lành mạnh hóa xã hội, bảo
vệ thuần phong mỹ tục, bình dân học vụ, hội Khổng học,... Nhưng chúng
tôi không đồng ý với nhận xét cho rằng những nhà văn trẻ của thời cuộc
chiến và văn thơ ca nhạc chống chiến-tranh cao độ nhất như Trần Hoài Thư, Kinh
Dương Vương, Hồ Minh Dũng, Ngô Thế Vinh, ... bị cộng sản lèo lái đưa vô tròng.
Dĩ nhiên những người khác hoặc có kẻ hở, ngây thơ, háo thắng hoặc mạng nhện
tình lý đã bị dùng như con cờ; đó là những Thế Nguyên, Ngụy Ngữ, Nguyễn Trọng
Văn, Trần Hữu Lục, Bảo Cự, Trần Vàng Sao, ... bên văn thơ, và những Trịnh Công
Sơn, Miên Đức Thắng, Nguyễn Đức Quang, Phạm Thế Mỹ, ... bên nhạc.
Vũ Hạnh cộng tác viên thứ tu, thứ năm có nhiều bài
trên Bách Khoa, và viết cho nhiều tờ báo dưới nhiều bút hiệu Nguyên
Phủ, Minh Hữu, Hoàng Thanh Kỳ, cô Phương Thảo, hoạt động trong Văn
Bút Việt Nam, tổng thư ký Hội Bảo vệ Văn hóa Dân tộc, một tổ chức ngoại vi của
Việt cộng, viết phê bình, điểm sách và lý luận, tranh luận văn nghệ (Tìm Hiểu
Văn Nghệ 1970, ...) trước sau một ý cưỡng ép văn nghệ vị nhân sinh và làm
chính-trị một chiều, ý đồ lèo lái những người làm văn hóa 'dân tộc'; ông dùng cả
biệt hiệu tác giả A. Pazzi lẫn dịch giả Hồng Cúc (cùng tên với người phụ trách
tòa soạn Tin Văn) dịch cuốn Người Việt Cao Quí để lừa người đọc
(thật ra chẳng có nguyên tác tiếng Ý nào cả!), cuối cùng bị bắt ở tòa báo Bách
Khoa (7/1967) - nhưng được chế độ pháp quyền và nhân đạo miền Nam buông thả
(cùng áp lực của LM Thanh Lãng chủ tịch Văn Bút tin người và "ngây
thơ" về cộng sản!). Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Vũ Hạnh đã từng bị cơ quan an
ninh bắt vì y là cán bộ cộng sản. “Tổng hội Giáo giới đẵ đề nghị tha, và nhận
bão lãnh giáo viên tên Dũng có bút hiệu là Vũ Hạnh” (13), như Nguyên Sa đã ghi
lại trong tập Hồi Ký xuất bản năm 1998. Nguyên Sa cũng cho biết
chính Vũ Hạnh đã báo cáo với Hoàng Hà người phụ trách Tuyên Nghiêm Huấn của
Thành đoàn thanh niên Sài Gòn Chợ Lớn, ra lệnh cho nhóm Đặc công quyết tử Thành
Đoàn “Bắn chết Chu Tử để trả thù cho Vũ Hạnh” (nhưng ám sát hụt) sau khi Chu Tử
viết bài phản ứng lại bài Vũ Hạnh phê bình đánh phá tiểu thuyết Yêu của
Chu Tử, thứ phê bình một chiều “không phải cứ tác phẩm đề cao giai cấp công
nông, ngợi ca căm thù giai cấp, tung hô vô sản chuyên chính, giang hồ trường trị
đương nhiên là tác phẩm có giá trị và những văn thơ khác đều là đồ bỏ” (Sđd.
Tr. 33). Nguyên Sa đã gọi thứ phê bình của Vũ Hạnh (và của Lữ Phương, Nguyễn Ngọc
Lương) là “sa đích”: “phê bình hiện thực xã hội của Vũ Hạnh là cộng-sản trong
hình thức thô bạo và bán khai nhất, kiểu văn thơ nào không đúng với đường lối
là tiểu tư sản, là phản động, là “văn hóa Bolsa”, là cánh cửa Lý Bá Sơ đã hé mở”.
Thứ phê bình đề cao người cùng phe phái, tập đoàn của mình mà bôi đen, xóa bỏ người khác này Nguyên Sa đã gọi đích danh là “sa đích văn-nghệ”: “sa đích là tên bị bệnh cuồng dâm, biết mình yếu kém, bất tài vô tướng … trở thành những tên thù hận nhan sắc, giết chết người đẹp, bằm vào khuôn mặt giai nhân rồi hãm hiếp, để tìm thấy trong hành động man rợ cả quyền uy lẫn thỏa mãn dục tình. Phê bình hiện thực xã hội là đỉnh cao của phê bình “sa đích” văn nghệ” (Tr. 221).
Thứ phê bình đề cao người cùng phe phái, tập đoàn của mình mà bôi đen, xóa bỏ người khác này Nguyên Sa đã gọi đích danh là “sa đích văn-nghệ”: “sa đích là tên bị bệnh cuồng dâm, biết mình yếu kém, bất tài vô tướng … trở thành những tên thù hận nhan sắc, giết chết người đẹp, bằm vào khuôn mặt giai nhân rồi hãm hiếp, để tìm thấy trong hành động man rợ cả quyền uy lẫn thỏa mãn dục tình. Phê bình hiện thực xã hội là đỉnh cao của phê bình “sa đích” văn nghệ” (Tr. 221).
Các nhà văn và cộng tác viên khác thuộc nhiều thế hệ, nhiều
người đã bắt đầu trước khi viết cho Bách Khoa, người khác mới với Bách
Khoa, có thể kể: Á Nam Trần Tuấn Khải, Bùi Giáng, Bình Nguyên Lộc,
Bùi Vị Xuyên, Châu Hải Kỳ, Cung Giũ Nguyên, Đặng Trần Huân, Đặng Văn Nhâm, Đoàn
Thêm, Đông Hồ, Đông Xuyên, Đỗ Trọng Huề, Dohamide, Giản Chi, Hoàng
Xuân Hãn, Hoàng Minh Tuynh, Hồ Hữu Tường, Hư Chu, Huy Lực, Huỳnh Đức Quang, Lê
Phương Chi, Lê Hương, Lê Văn (Vĩnh Điền), Mang Viên Long, Mặc Thu, Nguyễn Văn
Xuân, Nguyễn Sung, Nguyễn Anh Linh, Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Xuân Lan, Lm Nguyễn
Huy Lịch, Nguyễn Đồng, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Minh Hoàng, Nguyễn Tạo Lâm, Nguyễn
Sinh Duy, Nguyễn Xuân Quang, Như Phong, Phạm Trọng Nhân, Phạm Việt Châu (Trăm
Việt Trên Vùng Định Mệnh), Phạm Long Điền, Phan Văn Trí, Phan Văn Tạo (Vũ
Bão), Phan Lạc Tuyên, Quách Tấn, Trần Văn Khê, Trần Hà, Tạ Ký, Thái Tuấn, Thiên
Giang, Thiếu Sơn, Thuần Phong, Trần Thúc Linh, Trần Văn Khê, Tường Linh, Võ
Quang Yến, Vi Huyền Đắc, Việt Phương, Cô Liêu Vũ Đình Lưu, Văn Quang, Vương Hòa Đức, Võ Hồng, Vô Ưu, Vũ Ký, Vũ Tam Tư, Vương Hồng Sển, các giáo sư Đoàn Nhật Tấn,
Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Quý Bảo, Lm Nguyễn Phương (Việt Nam thời khai sinh),
Nguyễn Văn Trung (Hoàng Thái Linh), Phạm Hoàng Hộ, Phan Khoang, Lm Trần Thái Đỉnh
(Trần Hương Tử), Trần Kim Thạch, Trần Trung Lương,... các BS Nguyễn Văn Ba, Trần
Ngọc Ninh, Trần Văn Tích,…
Trong số có những tác-giả xuất hiện lần đầu với văn giới và
người đọc hoặc những cây bút trẻ đã đăng bài trên Bách
Khoa như về thơ là Nguyễn Nho Sa Mạc, Thành Tôn, Hoàng Lộc, Đynh
Hoàng Sa, Tần-Hoài Dạ-Vũ;... về văn, đó là những Lê Tất Điều, Trần Hoài
Thư (với truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ), Kinh Dương Vương, Hồ Minh
Dũng, Đỗ Tiến Đức, Nguyễn Mộng Giác, Túy Hồng, Hoàng Đông Phương (Nguyễn Thị
Hoàng), Thế Uyên (Tiền Đồn), Y Uyên, Hoàng Ngọc Tuấn, Lữ Quỳnh, Nguyễn Thị
Thụy Vũ, Trùng Dương, Minh Quân, Phạm Công Thiện (từ năm 13 tuổi!), v.v...
Bách Khoa cũng từng là đất xác định sự nghiệp của Võ Phiến,
Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Võ Hồng, Vũ Hạnh, cũng như Đoàn Thêm, Mộng Trung, Tường
Linh, Minh Đức Hoài Trinh, v.v... Những năm cuối trước 1975 là thời của Nguyễn Mộng
Giác, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Phạm Long Điền,... Các tác-giả có bài
đăng nhiều nhất - nhiều tựa hoặc nhiều trang báo, theo thứ tự có thể ghi nhận:
Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Trung, Nguiễn Ngu Í, Võ Phiến, Vũ Hạnh,...
Về nội dung các bài viết, như tên báo hay nói như
nhà văn Nguiễn Ngu Í, “đã mang cái nghiệp... bách khoa” (BK 121, tr. 163), bao
gồm nhiều lãnh vực. Lúc đầu chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, lịch sử, triết
học và văn học nhiều hơn văn chương, về sau văn học, văn chương nặng và chiến
nhiều số trang hơn các lãnh vực kia. Nhưng nói chung đường lối chủ trương có
tính thuần nhất, một phần nhờ người chủ nhiệm kiêm quản lý Lê Ngộ Châu, phần
khác nhờ uy tín chính trị và văn hóa tích lũy bên cạnh những tờ khác đoản số hoặc
đường lối không bền. Phần nữa nhờ sự cộng tác của nhiều giáo sư và chuyên viên
trong nhiều lãnh vực, gây thêm uy tín. Ngay cả khi có những tranh luận hay bút
chiến thì tương đối ôn hòa, trí thức hơn là nếu xảy ra ở những tờ báo khác. Như
bút chiến về vụ “Ngọc Hân đầu độc vua Quang Trung” năm 1963 giữa giáo sư Bửu Kế
với tạp chí Phổ Thông của Nguyễn Vỹ. Vụ bút chiến về Trương Vĩnh Ký
giữa Hồ Hữu Tường với Phạm Long Điền và Nguyễn Sinh Duy năm 1974 (BK 404,406,
408) - vụ sau này sôi nổi nhưng thời đó tranh luận gay gắt nhưng có văn-hóa,
không như sau này ở hải-ngoại!
Trong 18 năm đó, Bách Khoa đã có những công trình
văn học đáng ghi nhận. Trước hết là hai cuộc phỏng vấn của nhà báo Nguiễn Ngu
Í: cuộc phỏng vấn thứ nhất về truyện ngắn Việt và ngoại quốc hay nhất, bắt đầu
từ ngày 15-11-1958, và cuộc phỏng vấn thứ nhì về quan niệm sáng tác của các nhà
văn, từ số 101 (11-3-1961). Cuộc phỏng vấn sau đã giúp người đọc và các nhà
văn học sử lúc bấy giờ cũng như sau này hiểu các nhà văn thơ hơn về quan niệm
sáng tác, mục đích sáng tác và cả những chuyện bên lề (cũng như scandale) về
văn nghiệp mỗi người (khoảng 70 nhà văn đã trả lời phỏng vấn). Nhà báo Nguiễn
Ngu Í đã cho biết ý định của cuộc phỏng vấn là “muốn tìm hiểu mục đích của các
nhà văn khi viết, vì mục đích sẽ soi sáng nguyên nhân; vả lại công trình
sáng tác chỉ có giá trị trọn vẹn khi nó đã gây được ảnh-hưởng gì đối với người
xem, kẻ đọc, chớ không phải vì cái cớ đã thúc đẩy người nghệ sĩ bắt
tay vào việc” (14). Tổng kết cuộc phỏng vấn cũng cho biết “đa số nhà văn
viết cho mình trước, mà trong cái 'cho mình' cũng có cái 'cho thiên hạ' phần
nào, một số ít nhà văn không rõ mình viết cho ai, một số vừa viết cho mình vừa
viết cho người”. Và “phần nhiều là viết cho bây giờ, không muốn nghĩ hoặc không
dám nghĩ đến mai sau; một số ít không đặt thành vấn đề” (Bđd tr.
169). Nhà báo Nguiễn Ngu Í kết luận rằng: “Nhà văn nước ta phần đông
viết vì một sự ngẫu nhiên nào đó và để thỏa mãn 'cái tôi' hơn là vì xã hội.
(...) Viết để thỏa mãn mình, viết để nói đến 'cái tôi' là một điều chánh đáng.
Nhưng chúng tôi e rằng nếu chỉ viết mãi về mình, chỉ khai thác bản ngã mình thì
sau rồi sẽ đưa đến nghèo nàn vì “Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu,/
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người./ Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười,/ Môi nhắc
lại chỉ có ngần ấy chuyện” (Huy Cận, Lửa Thiêng) sẽ đưa đến sự bất lợi cho
tác-giả và người đọc (nhà văn viết cho riêng mình, không cần người khác hiểu, dễ
trở thành tối tăm, bí hiểm.
Cho nên chúng ta sung sướng được biết một số nhà văn trước viết
vì mình, sau vì người, một số nhà văn cố đánh dấu thời đại đặc biệt của chúng
ta, cố nói lên những điều băn khoăn, rạo rực, những nỗi chua xót, bất bình cùng
những đòi hỏi khẩn thiết của thế hệ hiện thời, thế hệ chùng ta. Nhưng theo
chúng tôi, kết quả quan trọng nhất của cuộc phỏng vấn này, là chúng ta được một
số tiêu chuẩn để định đoạt giá trị của một công trình sáng tác văn nghệ, điều rất
có ích cho người viết cũng như người đọc.
Nhờ bảy chục nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch đã vui lòng cho biết quan niệm và kinh nghiệm của mình mà giờ chúng ta có thể nói: “muốn dựng một công trình văn nghệ có giá trị, người cầm bút trước hết phải chân thành, thiết tha, rồi hiểu hoàn cảnh mình định gợi, thấu rõ nhân vật mình tạo, sao cho chất Sống của cuộc đời linh động bàng bạc trong tác phẩm; sau đó, diễn tả cho trung thực, và tránh việc “làm văn-chương””(15).
Nhờ bảy chục nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch đã vui lòng cho biết quan niệm và kinh nghiệm của mình mà giờ chúng ta có thể nói: “muốn dựng một công trình văn nghệ có giá trị, người cầm bút trước hết phải chân thành, thiết tha, rồi hiểu hoàn cảnh mình định gợi, thấu rõ nhân vật mình tạo, sao cho chất Sống của cuộc đời linh động bàng bạc trong tác phẩm; sau đó, diễn tả cho trung thực, và tránh việc “làm văn-chương””(15).
Nhiều bài viết có giá trị đã xuất hiện trên Bách Khoa như
về ngữ học Việt Nam, cải tổ nền giáo dục và chương trình giáo dục, dùng Việt ngữ
làm chuyển ngữ ở các đại học, v.v... (Nguyễn Hiến Lê), về tư tưởng Việt
Nam, cơ cấu Việt ngữ, ý nghĩa và cơ cấu Truyện Kiều (Trần Ngọc Ninh), quan niệm
mới về tiểu thuyết: chữ đẻ ra chữ (Bùi Hữu Sũng), thơ văn miền Nam (Nguyễn Văn
Hầu), v.v... Ngoài ra nhiều bài vở về một số vấn đề, biến cố như tranh luận vể
nguồn gốc dân-tộc Việt Nam, về ngữ học, v.v... Bách Khoa còn là đất thử
mùa của chủ nghĩa hiện sinh, với những bài viết về trào lưu văn học và triết
học cũng như một số tác giả, triết gia. Giáo-sư Nguyễn Văn Trung với bút
hiệu Phan Mai, Hoàng Thái Linh đã giới thiệu các triết thuyết và triết gia hiện
sinh ngay từ những năm đầu của Bách Khoa và tiếp tục đến những số báo
cuối (“Vũ trụ”
chữ nghĩa của JP Sartre, rồi cả Sartre trong đời tôi, về Luân lý trong tiểu-thuyết
của F. Sagan,...). Giáo-sư Trần Thái Đỉnh (bút hiệu Trần Hương Tử) viết một
loạt bài về chủ nghĩa hiện sinh (từ 10-1961 đến 9-1962, sau xuất-bản thành tập Triết
học hiện sinh (1967), từ bộ mặt thực, hai ngành chính, các đề tài của triết
học này cũng như các chủ thuyết của như K. Jaspers, Jean-Paul Sartre, F.
Nietzsche, Kierkegaard, Husserl, Martin Heidegger. Hai ông cùng với các tác-giả
khác như Trần Quý Thành, Nguyễn Anh Linh cũng đóng góp bài về Ludwig Feuerbach,
Marleau-Ponty, Cơ cấu luận, Claude Lévi-Strauss, v.v... Các tác-giả và trào lưu
văn-học mới như kịch và “tiểu-thuyết mới” cũng được Bách Khoa giới
thiệu: Nguyễn Văn Trung (hoặc Hoàng Thái Linh) về kịch Bertolt Brecht, tiểu thuyết
Nathalie Sarraute, Michel Butor, Alain Robbe Grillet, v.v... hoặc về vai trò và sứ
mạng của nhà văn, cái chết của Marilyn Monroe, người quán rượu, triết lý về về
cái nhìn, hối hận, thông cảm, e lệ, tự tử, về tâm ca Phạm Duy, v.v... Tràng Thiên
thiên về tiểu thuyết hiện đại, về một số tác giả Tây phương,... Miền Nam tự do
tư tưởng, do đó trên Bách Khoa đã có những bài viết về chủ nghĩa
Lênin (BK 321, 15-5-1970), v.v...
Người đọc cũng không thể quên những bài về sinh hoạt văn nghệ
và xuất bản, như các tổng kết cuối năm do Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hạnh (cô Phương
Thảo), Nguiễn Ngu Í, Võ Phiến (Thu Thủy), rồi Nguyễn Mộng Giác, các bài điểm
sách của Đặng Tiến, Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hạnh, Cô Liêu, Thế Nhân, Nguyễn Văn
Trung (Frantz Fanon, Nghiêm Xuân Hồng,... ), v.v... Một số bài thuyết trình, nói
chuyện ở hội Bút Việt và các câu lạc bộ văn-hóa cũng được đăng lại trên Bách
Khoa. Và những mục liên tiếp nhiều kỳ và đặc biệt như “Nếp sống hôm nay của
văn nghệ sĩ”, v.v...
Về sáng tác, thơ xuất hiện trên Bách Khoa thật đa dạng,
từ thơ Đường đến thơ mới, thơ tự do, Bách Khoa từ giữa thập
niên 1960 đến số cuối số nào cũng có thơ của các nhà thơ trẻ miền Trung (mà độc
giả Bách Khoa ở miền Trung cũng chiếm đa số nếu so với dân số miền
Nam).
Văn chương phản kháng và phản chiến cũng chiếm phần quan trọng
trên Bách Khoa nhất là vào những năm cuối với những Kinh Dương Vương
(Tai Ương,...), Thế Uyên (Tiền Đồn, Ông Thầy Tội Nghiệp,...), Trần Hoài Thư, Hồ
Minh Dũng (Người Đền Nợ Nước,...), v.v... Chúng tôi đã và sẽ trở lại đề tài này
một dịp khác.
Hình thức Bách Khoa trang trọng, khô khan dù nội dung
nhiều bài hực lửa, nóng bỏng. Từ những số đầu, họa sĩ Phạm Tăng vẽ bìa và trình
bày vừa dân tộc vừa cổ điển, đã góp phần tạo thêm tính đứng đắn. Những năm sau
cùng, họa sĩ Văn Thanh điểm thêm vẻ hào nhoáng và hiện đại hơn với những phối hợp
hình chụp với minh họa nhất là bìa những số đặc biệt và Tết.
Nếu miền Nam cộng hòa không bị Hiệp định Paris 1973 dẫn đến
thua trận, tạp chí Bách Khoa có thể sẽ tiếp tục xuất bản trong một
sinh hoạt văn nghệ bình thường của một quốc gia và hôm nay sẽ được một thế
hệ đã được chuẩn bị để tiếp nối sứ mạng văn hóa theo định luật trẻ già
măng mọc và cũng sẽ theo khuynh hướng toàn cầu hóa văn chương học thuật.
Nhưng biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã xảy ra, Bách Khoa đã phải
đình bản, nhóm thực hiện cũng như các tác giả và cộng tác viên phần lớn đã phải tan
nhà nát cửa, nhân thân bị đày đọa, tủ vong và lưu xứ. Toàn bộ của hơn 18
năm Bách Khoa dù vẫn là gia tài văn hóa dân tộc, nhưng nay tiếc thay
vẫn phải xem là di sản văn hóa văn học của miền Nam và cả nước Việt
Nam!.
Chú thích:
1. Nguyễn Hiến Lê. Hồi
Ký (Tp. HCM: NXB Văn Học, 1993). Tr. 415.
2. Nguyễn Hiến Lê. Sđd. Tr.
416-7.
3. Theo Châu Hải Kỳ. Nguyễn
Hiến Lê, Cuộc Đời và Sự Nghiệp (Tp. HCM: NXB Văn Học, 1993). Tr. 328.
4. Theo Châu Hải Kỳ. Sđd. Tr.
324.
5. Nguyễn Thụy Hinh. “Từ Huỳnh
Văn Lang đến Lê Ngộ Châu đến các tác-giả viết cho Bách Khoa”. http://namkyluctinh.org/
6. Huỳnh văn Lang. “Viết về Tạp
chí Bách Khoa (1957–1975)” (05-01-2008). http://namkyluctinh.org/
7. Đặng Văn Nhâm. Lịch-sử
Báo Chí Việt Nam Từ Khởi Thủy Đến Hiện Tại (1861-1999) (Calif.: Việt Nam
Văn Hiến, 1999). Tr. 493.
8. Võ Phiến. Văn học Miền
Nam Tổng Quan. Westminster CA: Văn Nghệ, 2000, tr. 11 và 240 (Xuất bản lần đầu
năm 1986 với tựa Hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975). Nguyên
Sa đã đơn giản hóa nhân buổi vinh danh “Ngày Võ Phiến” nói rằng “nhóm Bách Khoa
của Võ Phiến” là một trong bốn “khối lớn” của văn chương miền Nam. Võ Phiến
đã ghi lại nhận xét đó từ tờ Đời số tháng 10-1985 (Trích theo Võ Phiến.
Sđd. tr. 243). Khác với thời sau 1975, tháng 4-1965, khi trả lời phỏng vấn của
Lê Phương Chi trên Tin Sách, thì Võ Phiến cho biết “hiện tôi đang còn
cộng tác (với Bách Khoa) như anh đã biết”.
9. Võ Phiến. Sđd. tr. 239.
10. Nguyễn Hiến Lê. Sđd. Tr. 415,
418-419.
11. Huỳnh Văn Lang. Nhân Chứng Một Chế Độ (Tập
1. Tác-giả xuất-bản, 2000), tr. 420.
12. Nguyễn Thụy Hinh. “Nhìn lại một số vấn đề của tờ
Bách Khoa”. http://namkyluctinh.org/
13. Nguyên Sa. Hồi Ký (Irvine CA: Đời, 1998). Tr.
221-3.
14. Nguiễn Ngu Í. “Tổng kết cuộc phỏng vấn về quan niệm
sáng-tác của các nhà văn”. Bách Khoa 121, 15-1-1962, tr. 165.
15. Bđd. Tr. 175.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét