Cánh đồng vàng những giấc mơ
Mỗi chiều lúc ông mặt trời giấu khuôn mặt úa vàng, lũ trẻ
trong xóm lại đưa những con diều ước mơ thả trên cánh đồng yên ả. Không còn nhớ
đã bao tháng ngày biền biệt xa quê, nơi con sông hiền hòa chảy vào đồng ruộng
ngút ngàn phù sa, nơi mà đoạn đê nào cũng in dấu chân người dân thuần phác.
Anh em chúng tôi buổi tới lớp, buổi lên đồng làm đủ việc. Nắng
còn chịu được, chỉ sợ cái rét cóng queo đôi tay nhổ cỏ giữa đám ruộng xanh thì
con gái. Quần quật suốt mấy tháng trời. Lúa vụ đông xuân, khi từng hạt đang bụng
sữa, thường chiều tôi dạo một vòng trên những khoảnh ruộng ngăn ngắt thưởng cái
hương vị ngọt ngào. Bông lúa phơi mao, như những hạt tuyết li ti rơi xuống sau
đêm thần thoại. Giữa bạt ngàn màu xanh lốm đốm trắng, ai cũng dễ nhận ra trong
gió nhẹ cái mùi hương khó liên tưởng với bất kỳ một loại hoa nào; nó ngai ngái
lùa vào tâm hồn rồi mau chóng loãng dần.
Một gánh lúa vàng hươm nai vác từ đồng xa về thả phịch giữa
sân, chao ôi sung sướng, đến quên cả đau nhức đôi vai trầy chợt. Những bó lúa
cuối cùng được cắt, tôi lại ngẩn người tiếc cho cánh đồng vàng hươm được mùa đẹp
vậy chẳng biết có còn lặp lại ở năm sau. Gặt xong, cũng mất nhiều ngày mới lúa
ra lúa rơm ra rơm. Khắp nẻo đường thôn ngõ xóm rải dày một lớp rơm vàng. Rơm mới
gặt gặp nắng trở nên óng ả, thơm phức, là chỗ thức ăn ngon cho trâu bò. Thứ rơm
mềm mại khô rồi tấp vào gian nhà gần ràn, mùa đông bắc thang lên nằm ấm lăn cù,
ngủ quên trời đất sấm chớp, quên luôn chú gấu lười nhác chờ xuân. Để dành rơm,
cha tôi cắm một cái cọc vững rồi tấp từng lớp rơm cho tới khi lút cọc; trên chỏm
được trùm ni lông buộc chặt để nước không thấm vào ruột. Lúc đói, trâu bò tự tới
ngoạm nhai cho đỡ… ngứa răng; cũng có thể chủ nhà rút từng nắm nhen lửa hay cho
người về lót ổ gà, rải xuống nền chuồng trâu bò được ấm ám sạch sẽ; cũng có thể
mưa gió bão bùng theo năm tháng khiến những đống rơm không còn nguyên vẹn. Nhờ
đó, thật lạ kỳ, tự chúng tạo cho mình một vóc dáng riêng. Có đống rơm mới
thoáng nhìn thôi đã bật cười trước cái ngô nghê điệu bộ.
Hồi còn ở quê mùa lạnh bếp nhà đun bằng rơm rạ, hàng tháng trời
ủ ê gian nhà chằng bồ hóng. Lửa rơm ấm sực người, táp cả vào mặt rát bỏng, ánh
lên trong mắt ngọn lửa ngỡ nếu vụt tắt tình người sẽ nguội lạnh. Mỗi đông về lại
nhớ, lại thấy ngứa ở gan bàn chân, lại thấy hụt hẫng một nỗi niềm khó thể vớt
vát. Nơi tôi đang sống bây giờ gần với vùng quê kham khó. Để rồi những khi muốn
tìm về đất mẹ trong mênh mang trí nhớ, tôi lại thẫn thờ giữa bạt ngàn sóng lúa,
vòng quanh thôn xóm nhìn trâu bò nằm nhai rơm khô. Nào đâu dễ quên khúc biến tấu
của đồng quê, khi mà mỗi hạt gạo đều thấm mồ hôi mặn. Đêm lạnh đầu đông năm
ngoái, tôi một mình trên những đường xóm. Vẫn còn nhiều lắm hình hài co quắp
trong chăn mỏng, mơ về hơi ấm của ngọn lửa rơm, hơi ấm của người dưng khi vòng
tay chợt ôm siết lạ lùng.
Nhớ cái không gian buốt giá cha mẹ cũng gánh mùn lên đồng ủ ấm
cho mạ. Chị em tôi dậy sớm đi nhổ rau cho lợn. Chúng tôi núp giữa những luống
khoai, dịch từng bước chân chứ không dám đứng dậy. Có bữa rét quá nhổ chẳng được
bao nhiêu, may thay mự hàng xóm cắt rau khoai về cho một rổ đầy, hai chị em mừng
rơn. Hôm sau cha bảo sẽ hạ mấy cây chuối non sắp trổ buồng xuống thái cho lợn;
còn bảo: năm tới toàn bộ vườn sau sẽ trồng khoai hết. Cái lạnh vào vụ cấy, mặc
hàng tá quần áo tròn như con quay lạnh vẫn khứa da đâm thịt. Rét quá mạ mọc
không nổi, mà ai cũng cuống lên lo cấy xong để còn chuẩn bị tết. 27 rồi anh em
tôi còn phải nhổ mạ, phát khóc vì lỡ phiên chợ tết ao ước cả tháng trời. Nước lấp
xấp, mạ không tách rời mà trỉn từng cục. Đập vào chân đến sưng tấy, rồi xổ nước,
rễ mạ vẫn không sạch, đành phải gánh ra sông xổ đến trắng rễ mạ mới thôi.
Nhớ tuổi thơ được thỏa chí vùng vẫy giữa con sông làng xanh
mát. Mùa hạn, nước sông chỗ sâu nhất chỉ ngang gối, tôi lại ụi đầm lầy bắt cá về
nuôi trong cái nhăng nước cổ xưa rêu bám ở góc sân. Tôi thua xa lũ trẻ làng ở
nước da ngăm đen nắng gió đồng quê ban phát. Đứa nào đứa nấy trùi trũi như cột
đình, khỏe ngang trâu mộng, chấp tôi một tay mỗi lần thách vật. Đều đã thành dĩ
vãng. Nhiều lúc chợt nhớ, giật mình, sợ tất thảy những hình ảnh đó sẽ xóa khỏi
ký ức. Như người nông dân bước lên phố, bao năm rồi tôi vẫn nhớ mùi rơm rạ, nhớ
những bữa cơm được nấu từ gạo do cha mẹ làm nên. Nhớ đám ruộng xa lắc, gánh được
hai bó lúa đến nhà cũng trụn lưng. Mùa chiêm trũng, tôi mang cái ghế gỗ táu đen
sì nặng chịch bì bõm lội ra dùng đặt lúa lên cột từng bó rồi vác lên bờ. Mệt lử.
Mà vui. Ở biền người dân quê thường trồng gạo chiêm, hẻo rằn, hạt tròn, cơm mềm
nhiều tinh bột. Năm đầu ở trọ, có lần tôi ghé vào ngôi nhà cũ trên con đường tắt
thân thuộc trong làng. Thân chủ là mệ ngoài bảy mươi sống một mình. Nhà mệ trùi
trũi giữa khu vườn rộng, lởm chởm gốc cây mục và đá. Mệ đẩy vào bếp bó củi lớn
nhặt nhạnh ngoài vườn, lửa rừng rực cháy. Mệ kể tôi nghe vô vàn mẩu chuyện trên
cánh đồng gom từ thời con gái. Mệ tiếc có một điều: ngày ông ra đi, không kiếm
đâu ra bát cơm nấu gạo chiêm tiễn đưa hồn muôn dặm.
Lúa chiêm được làm ở biền, khỏe là không cần làm cỏ, nhưng
quá cực lúc gặt. Gặp thời tiết không thuận, lúa bổ rạp, phải vớt lên từng nắm
nhỏ, đến trưa trật mới gặt được một khoảnh, đĩa bám đầy chân. Lúa ruộng cạn thì
phải làm cỏ mấy đợt, gặt rồi còn bứt toóc để cày lật đất cho vụ tới. Nước bơm
vào, người người tranh thủ mang cuốc lên làm cỏ sục bùn, vừa để kích thích rễ
lúa phát triển mạnh thêm. Lúa chiêm thường được cất giữ đến mùa đông mới mang
xay ăn dần. Kỳ giáp hạt lương thực vơi nhiều, gia đình trộn thêm khoai sắn cũng
không kéo dài hết mùa lạnh. Kho hợp tác mở bán giá rẻ cứu tế, phải xếp hàng mãi
mới mua được thứ gạo nấu lên thoang thoảng mùi mốc, anh em tôi chan nước mắm
hoài vẫn thấy nhạt miệng. Cơm ít, gạo lại xốp, đêm ngồi học bài lưng buổi đã thấy
đói. Nằm ngủ chợt mơ thấy mình dắt bò sao để nó ăn lúa, người ta la toáng thế
là về ăn đòn… Hồi đó giống lúa mới là Tạp Giao, cao hơn Khang Dân, gọi là lúa
vượt lũ, vẫn có nhà năng suất một sào đạt tới bốn tạ. Nhưng hai loại này chịu hạn
kém hơn Bao Thai thường được cấy vào hè thu. Vụ đông xuân, lúa trổ sớm chẳng
may gặp gió mạnh gây thiệt hại. Kinh nghiệm nhà nông được rút ra truyền lại cho
cả những đứa trẻ như tôi, rằng đừng thấy lúa chậm trổ mà vội bón đạm, chỉ nuôi
cây bậm, lá xanh tốt. Dưới gốc lúa có nước mát, trên đã phơi mao thường báo hiệu
vụ mùa bội thu. Chúng tôi gọi đó là lúc lúa vừa “mang thai”. Tuổi nhỏ chưa hiểu
nhiều, lũ chăn trâu vẫn thường nhổ những cọng bụ bẫm non tơ, bóc ra ăn thứ đòng
đòng ngọt lịm…
Nhớ cánh đồng cũng là nhớ lũ chim trời thường về đúng vụ nay
đã vắng. Mỗi chiều khi mặt trời tụt xuống, một vùng trời đỏ ối khép lại phía đầu
non, mùa màng râm ran trong tiếng hoan ca của lũ dế, ấy là thời điểm cánh đồng
đón những loài chim ghé thăm trong cuộc thiên di đầy khổ lụy. Chim én, chiền
chiện, cu đất… Cả khi cánh đồng chỉ trơ lại gốc rạ thì những chú cò, chim đũa vẫn
cúi nhặt từng hạt lúa rơi vãi một cách thản nhiên, lâu lắm mới nghển cổ như bất
chợt âm thanh từ một hành tinh khác đánh rơi ngang trời.
Lũ chim đưa nhau về vui cùng xóm thôn với ánh nhìn khờ dại
nguyên thủy. Nhiều năm trước, chim trong làng nhiều khôn kể. Người ta truyền miệng
trong lùm Bù Lú có ma, cũng nhờ vậy lũ chim mới tạm bình an. Trẻ con thanh niên
săn bắn ở đâu chứ chẳng dám lủi vào lùm. Các loài chim bị săn đuổi từ các nơi
bay về sống ngày càng nhiều. Nhưng rồi một hôm có hai thằng mặt lạ hoắc, ăn mặc
bụi đời, ngồi trên chiếc xe 78 lần mần sao lại xách súng hơi đến. Lùm Bù Lú có
hai con cú mèo. Mắt con nào cũng to, tròn xoe, nhìn từ dưới lên cứ vàng ọng.
Hai thằng mặt lạ chỉ bắn được một con. Khi nòng súng chỉa lên, mắt cú mèo không
chớp cho tới khi viên đạn xuyên vào. Từ đấy lùm Bù Lú bị quấy nhiễu thường
xuyên. Từ đấy không ai còn thấy con cú mèo còn lại đâu nữa… Bắn chim là thú
chơi số một của cái thằng tôi mất dạy thuở nào. Không được phép ra sông lấy bùn
nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn kiếm bùn ở các con mương hay bờ ruộng về vắt tròn nướng
lên làm đạn. Loại bùn màu vàng, dẻo, lũ trẻ thường vắt tròn, cho vào bếp suốt
buổi, chín đỏ quạch, cũng có nhiều viên đen sẫm như sành. Đã nhiều lần tôi làm
cho bếp lửa tắt, khói um, mẹ nạt nộ, xúc đống viên bi bùn đổ ra ngoài, tôi lại
chờ dịp vùi vô.
Lũ trẻ trong làng đi chơi hay lên đồng đều mang theo cây ná
bên mình. Có hôm cái thằng tôi chẳng biết trời xui đất khiến thế nào lại giương
ná bắn một chú gà choai bên bờ giậu, nghe “bộp” rõ to. Con gà tức thì đổ xuống,
hai chân chổng lên trời giẫy đành đạch rồi lật mình nằm im. Tôi hoảng hồn quay
trước nhìn sau.
Thật may chẳng ai lúc đó. Tôi nhảy tới ôm con gà vứt vào bụi rậm, chạy một mạch về nhà, tim đập rộn. Vẫn không yên, lo ngay ngáy, đi ra trở vô. Lúc sau tôi lén ra lại chỗ đã gây họa chờ lúc không có người ngó vào bụi. Lạ quá, con gà đâu rồi. Tôi không hề biết rằng nó đã sống lại và chạy biến. Vào mùa xuân, chim én về đầy đồng. Loài chim thứ hai thuộc nạn nhân của những chiếc bẫy là chiền chiện, xuất hiện vào cuối mùa xuân, khi bông lúa đã hạt non. Chiền chiện từng bầy sà xuống ruộng bắt sâu. Tôi làm một cái bẫy nom đơn giản: hai cọng tre vót nhỏ, xếp chéo hình chữ x, bôi nhựa. Chính giữa hình nạng có buộc một tăm tre ngắn, đầu cắm con mồi. Chim lao tới mổ mồi, đôi cánh dính nhựa. Có lần thấy chim mắc bẫy tôi lao từ trong bóng nhim ra như bò điên, chạy băng băng giữa đám lúa nhà ai trĩu hạt. Lúa quấn vào chân rụng vô kể, chân tôi cũng tươm máu.
Thật may chẳng ai lúc đó. Tôi nhảy tới ôm con gà vứt vào bụi rậm, chạy một mạch về nhà, tim đập rộn. Vẫn không yên, lo ngay ngáy, đi ra trở vô. Lúc sau tôi lén ra lại chỗ đã gây họa chờ lúc không có người ngó vào bụi. Lạ quá, con gà đâu rồi. Tôi không hề biết rằng nó đã sống lại và chạy biến. Vào mùa xuân, chim én về đầy đồng. Loài chim thứ hai thuộc nạn nhân của những chiếc bẫy là chiền chiện, xuất hiện vào cuối mùa xuân, khi bông lúa đã hạt non. Chiền chiện từng bầy sà xuống ruộng bắt sâu. Tôi làm một cái bẫy nom đơn giản: hai cọng tre vót nhỏ, xếp chéo hình chữ x, bôi nhựa. Chính giữa hình nạng có buộc một tăm tre ngắn, đầu cắm con mồi. Chim lao tới mổ mồi, đôi cánh dính nhựa. Có lần thấy chim mắc bẫy tôi lao từ trong bóng nhim ra như bò điên, chạy băng băng giữa đám lúa nhà ai trĩu hạt. Lúa quấn vào chân rụng vô kể, chân tôi cũng tươm máu.
Giữa khoảng không vô tận của bầu trời, cái thằng tôi phải gọi
đích danh là tội đồ của chim. Trên cánh đồng bình yên thủa nào, nay một tiếng động
nhỏ, những loài chim dạn nhất đã nhún mình bay vút để lại những vết hằn sâu bên
khóe mắt. Cũng không còn nhớ bao nhiêu loài từng đậu lại trong ký ức mà giờ đây
tuyệt nhiên quạnh vắng những đôi cánh thiên thần nâng tâm hồn tuổi thơ bay về
viễn xứ. Cái thú bắt chim thuở nào của tôi đã khiến nhiều loài sớm đi vào cổ
tích huyền thoại, sớm xếp cánh trong những trang sách màu của lũ trẻ và hiếm
hoi lắm mới thấy đôi con dại khờ vỗ cánh nhưng không còn bầu trời phía trước!
Gia đình tôi đã gửi trả ruộng đồng lại cho làng. Cái cày cái
cuốc, cái còn nằm chỏng trơ trên giàn bếp đen sì bồ hóng, cái mất khi ẩn khi hiện
trong trí não những lúc tôi ăn miếng cơm nấu từ gạo quê mùa mới. Con trâu dắt
đi bán thủa nào, ai đó nghĩa tình giữ lại nay cũng khó gặm nổi cọng cỏ già. Những
đám ruộng gia đình từng làm trước đây, liệu có còn dưới gốc lúa kia những giọt
mồ hôi mặn.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét