Thứ Năm, 25 tháng 10, 2018

Gian nan kiếm nẻo thơ về

Gian nan kiếm nẻo thơ về
1. Đời người ai cũng muốn vươn tới con số 100. 99 bài thơ thơ trong tập Thơ chọn lọc của Hồng Nhu hẳn không nằm ngoài mong ước đó. Nhà văn “liều mạng” dấn thân đến với nàng thơ ở tuổi 53, vậy là, xem như “nửa đời bị tình yêu tàn phá”.
Bước vào cõi thơ Hồng Nhu, xin phép được dừng lại ngắm câu thơ lạ: Tôi gọi em hộ cho ai đó đợi chờ. Người ta thương em, đợi em. Đợi trong lặng câm mòn mỏi. Không hờn giận, chỉ có niềm hy vọng gần như tuyệt vọng. Và tác giả bài thơ “Đầu ngày” là người làm chứng từ một góc khuất, để chuyển giao tới “em” mảng tình câm. Còn ông? Giá ai đó làm chứng cho ông giữa đêm khuya:
Một mình tôi quá sớm
Một mình tôi muộn màng
Một mình tôi ngang trái
Một mình tôi lang thang
Trăng cuối tuần không đến
Một mình tôi ra về
(Viết trong sương mù)
Người lỗi hẹn ở đây được ví với trăng cuối tuần - cái đẹp đầy huyễn mộng.
Bài thơ “Khác lạ”, thật lạ với những hình ảnh:
– Chấm lên trên tường nước mắt thời chưa xa
– Có mấy đốt tay gầy em bấm chết thời gian
Tinh tế hơn:
– Chấm lên cành lá vệt trăng mưa sau bão
Đây là bài thơ tiêu biểu của thơ Hồng Nhu. Đọc “Khác lạ”, đàn ông vẫn dễ dàng nhập vào tâm trạng của người phụ nữ: Em nghe tiếng từ quy kêu hoài trong ngực. Người thiếu phụ kia, dường như sống chỉ có một nhiệm vụ gọi người tình trở lại, khắc khoải, thê thiết (như chim Từ quy). Nỗi cô đơn kiệt cùng như tro của tờ giấy nguyên. Người đàn ông bừa bộn và tàn nhẫn trong tình yêu, xem hạnh phúc chỉ là một vết nứt mơ hồ trên trái tim người phụ nữ.
Đêm không biết chờ mong cứ dài trong huyền thoại. Người phụ nữ một mình ngồi với bóng đêm, và đêm cứ dài ra. Chị ngồi chờ, còn đêm đâu có chờ ai, đêm cứ dài trong huyền thoại. Từng kỷ niệm được chị lật dỡ, mỗi kỷ niệm là một niềm đau.
Que diêm xòe lửa xanh ngập ngừng níu kéo
Soi một lần cho rõ kỷ niệm rồi thôi
Đốt không nỡ vò những trang khô héo
Hình dung về chị xoẹt lên từng que diên, ánh sáng quét rõ một phần trên bề mặt niềm đau. Ở đấy hình bóng người tình lấp ló, trong sáng, lãng mạn, âu yếm… rồi que diên cháy hết mình. Chị lại xoẹt que diêm khác, cho tới que diêm cuối cùng mà cuộc đời chị có. Lo âu. Từ Người không biết dối lừa, chuyển qua Người có thể sắp dối lừa…Giá như người trong “Khác lạ” nói lên lời chia tay trước lúc đi không trở lại, rằng anh phải tìm một thiên đường khác (rất có thể mù mịt); hoặc là bật lên sự dối lừa, để cho chị đốt tất cả những kỷ niệm vàng son, để có cái mà vô vọng!
Tứ của bài thơ cô đọng trong hai câu:
Người không biết dối lừa đã đi không trở lại
Có mấy đốt tay gầy em bấm chết thời gian.
Thiếu phụ đợi. Thiếu phụ cô quạnh, buồn, bấm đốt tay đếm từng giây phút kể từ lúc người ấy không biết dối lừa mình, lại dứt áo ra đi. Có mấy đốt tay thôi mà ngồn ngộn thời gian chồng chéo sắp bặn lên đó, đến ngạt thở, chết!
Chấm lên cành lá vệt trăng mưa sau bão
Bật ra lời của nhịp đập trái tim đau
Vệt trăng ở đây có thể hiểu như nước mắt của người thiếu phụ, chấm lên cành lá sau luồng giật tả tơi của bão. Đấy, là tín hiệu bi kịch dần lộ rõ, lúc chị bật ra lời của nhịp đập trái tim đau.
Bài thơ dường như không có khuôn mặt của tác giả, chỉ là sự “thương vay”, “đau giùm” cho một người thiếu phụ đứng trước sức tàn phá của tuổi xuân: Trắng hận thù trắng hối tiếc trắng cả yêu thương. Cùng nghĩa nhà thơ tự “rước” sự ray rứt của người khác vào mình, như là một dự báo cho những đổ vỡ, chia ly của họ. Với người phụ nữ trong “Khác lạ”, nhà thơ đã dùng thơ để xé nát những gì vuông tròn giả tạo - tức vạch mặt sự thờ ơ, vô cảm của một người đàn ông trước tình duyên. Đấy cũng là nỗi đau của chính tác giả khi phác thảo nên một “em” hoàn toàn khác lạ nhưng rất đỗi gần gũi và đáng thương giữa cõi trần này.
2. Sự khác biệt lớn nhất trong thơ Hồng Nhu nếu so với văn, là ở thế đứng của hiện thực. Thơ Hồng Nhu khàn đặc tiếng nói hiện thực: hiện thực con người, hiện thực thiên nhiên, hiện thực quá khứ/tương lai, hiện thực tình yêu, hiện thực nỗi buồn, hiện thực khói sương… Hiện thực trong thơ ông như “Mưa trên sông Tiền Đường”, có mùa lá, có cồn sóng, có mồ chúng sinh, có khúc đoạn trường của kiếp hồng nhan lênh đênh duyên phận. Tuy nhiên sau lưng bão ông biết nhặt chút nắng trời… viền lên khát vọng. Đấy chính là sự gom nhặt chính bản thân nhà thơ sau những đổ vỡ, sau những tiểu bi kịch để không trở thành một bi kịch lớn. Mà muốn vậy trước hết phải đối diện với sự thật - dẫu nghiệt ngã.
Là đầu lọc nói để ngăn chất độc
Nhưng chính nó không cho mình nghe hơi thuốc thiệt
Như đẩy xa ra sự thật với con người.
(Hút thuốc lá)
Cũng như các cụ xưa (như Nguyễn Tuân miêu tả) “nhịn đói” để uống rượu trước lúc khới chút kẹo mạch nha bám quanh hòn đá cuội; vậy mới thấm thấu được chất men, mới bật mầm sự sống. Đối diện với sự thật, cũng chính là không dùng tay che lương tâm mình. Với Hồng Nhu, một ngày nọ, ông ra chợ và chứng kiến cảnh đám trẻ em vây quanh những đống rác. Thoạt đầu ông định làm người dửng dưng nhưng khốn nỗi, ông không điếc không mù:
… tôi quay ngoắt lại
Chạy xô tới những đống rác ấy.
(Các em nhỏ và những đống rác)
Nỗi đau của ông không hẳn chỉ là việc đám trẻ con phải bươn bả kiếm sống. Mà là, mới chừng ấy tháng năm, chúng đã giằng nhau miếng ăn bẩn thỉu; đã biết thét lên: “Thằng nào đụng vào tao giết”! Chỉ vài phút ray rứt thôi, trái tim ông như bị trẻ cào ứa máu. Giá trị sự thật ở chỗ đó; là sự mắc nợ của thi nhân…
… có một mùa thu phân vân, để đông tràn về bắt đầu bằng một làn gió lạnh. Sắc trắng tần ngần của đóa hoa Nhài đã gửi hết cho mùa hạ. Chỉ còn một bông nữa đang là nụ.
– Thôi rồi, đóa hoa không kịp nở
Nhỏ nhoi như một dấu chấm qua hàng…
(Nhân một khóm hoa nở muộn)
Lời thảng thốt não nề. Cứ như Nhài là tên người con gái nào đó đã từng gieo vào tâm hồn ông mầm sống của loài hoa trinh bạch.
3. Đời văn thì vô cùng. Không ai lại muốn “thủ phận” dựa vào tuổi tác, vào những tuyển tập hay toàn tập. Như chính Hồng Nhu từng tâm sự: Tôi ngước nhìn lên… một khoảng vô cùng… Ông từng buông lời hóm hỉnh: “Bây giờ viết cái nào là lời cái đó”. Vậy, ông dại gì dừng lại ở lưng vốn. Lưng vốn bỏ ra trong hơn bảy chục năm trời trên một đời người. Quá đắt! Thế nên ông mới chúi mũi từ sáng đến tận khuya/ Mồ hôi não giọt to như hạt đậu (Cây sét đánh). Nói về tính khổ lụy của lao động trí óc (mà lại là văn chương) chưa ai dùng cụm từ đắt như Hồng Nhu: Mồ hôi não. Cũng bởi, có những điều không thể viết ra trên tờ giấy trắng. “Tờ giấy trắng như đàn ngựa già lang thang trên miền không suối nước” (thơ Ngô Kha). Ấy là những nỗi oan khiên mờ trời đất (Với chính mình hôm nay). Hẳn, ở Huế lâu năm Hồng Nhu mới có được câu thơ thâm thúy như vậy. Huế mưa mờ trời đất (hay mờ mắt ẩn sĩ); câu thơ là sự so sánh ngầm giữa mưa Huế với nỗi oan khiên. Kể cả bàn tay nàng thơ cũng khó che nổi mưa mùa trên một khúc quanh của Huế.
Nỗi oan khiên ngoài đời ám ảnh cả vào giấc mơ của ông. Không viết được! Nên ông mới an ủi: những điều mơ không bao giờ là thật. Nhưng, như nén hương trên bàn thờ không nói gì chỉ cháy, nó, mang một sự thật riêng lóng lánh như cườm… (Mắt vô hình). Vâng, chỉ một đêm suy tưởng không thôi, mái tóc “người khuya” đã chuyển màu… tàn thuốc lá (Khuya đông đọc Bạch Cư Dị).
Tôi vùi mái tóc vào bàn tay
Những sợi đen trong kẽ ngón tay hiện ra trắng lóa
Màu sáng này giờ tôi biết búng đi đâu ngoài cửa sổ…
(Cửa sổ)
Trang giấy trắng, trở thành “bản án” dành riêng cho thi nhân. Để khi ai đọc hết bản án đó thì, mồ hôi não tứa ra…
26/10/2006
Nhụy Nguyên
Theo https://nhuynguyenblog.wordpress.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những mùa nắng Nha Trang

Những mùa nắng Nha Trang Nếu tôi là họa sĩ, có lẽ những giọt nước mắt xa Nha Trang sẽ được vẽ bằng một mầu sắc nào đó rất lung linh trong mộ...