Vũ điệu ý niệm trong cơn đau bản thể
Loài thỏ khoái cà rốt, nhưng nhiều lúc chúng vẫn ăn nhầm củ cải
trắng bởi đeo kính màu. Khoa học cũng đưa ra hiện tượng “mù màu” khi con người
nhìn về vũ trụ; bắt đầu bằng những báo cáo về cấu tạo mắt của động vật. Mỗi
loài, qua sự lồi lõm tròng mắt sẽ quy định cái nhìn khác nhau. Ngay trong cùng
loài, mắt nhìn sự vật như qua cái kính lồi, chỉ cần xê dịch chút xíu hiện tượng
đã biến đổi. Để thấy, mỗi người đều nhìn sự vật qua con mắt của riêng mình
không ai hoàn toàn giống ai. Năm đứa con đều thấy mẹ mình tốt nhất, song sâu xa
trong mỗi đứa đều lưu một hình ảnh mẹ khác xa. Công án Thiền về Tô Đông Pha. Sở
dĩ họ Tô nhìn sư Phật Ấn ngồi thiền như một đống phân, đơn giản vì ngay
lúc đó tâm thi sĩ này nhơ đục; còn sư Phật Ấn nhìn Tô Đông Pha giống Phật,
bởi tâm của sư tịnh sáng. Ở tầng cao hơn, kinh Lăng Nghiêm mô tả về loài quỷ chạy
bên bờ sông Hằng vẫn kêu gào khát cháy, vì ở cảnh giới của chúng nơi mênh mông
nước ấy lại là sa mạc. Vấn đề đặt ra: Liệu ta đã hiểu rõ về đối tượng mà mình
có thói quen phán xét? Dĩ nhiên, không. Vợ chồng sống gắn bó từ lúc cưới đến
đầu bạc nói hiểu nhau chân tơ kẻ tóc, thực tế họ chỉ hiểu phần tảng băng nổi.
Khoa học cho biết mắt người chỉ thấy [hiểu] được 2000/400 tỉ = 1/200 triệu tức
0,0000005% thực tại. Tiến sĩ khoa học Joseph Dispenza: “Chúng ta chẳng biết gì
về thực tại cả và tất cả cảm nhận về cái gọi là thực tại ngoài kia đều
đã được sàng lọc qua các giác quan của con người. Não bộ xử lý 400 tỉ bit thông
tin trong 1 giây nhưng chúng ta chỉ nhận biết được 2000 bit trong số đó”. Phật
pháp dạy, ta chỉ cảm được phần tướng, còn tánh muốn thấy phải chứng
ngộ, ngoài ra không còn cách nào khác. Mà tiến trình này phải bắt đầu từ việc
đoạn tâm vọng, tâm phân biệt và chấp trước mọi hiện tượng trong pháp giới.
Tánh là Tâm Phật. Tâm Phật vốn thâu toàn pháp giới vạn thể. Về
mặt tinh thần, chúng ta đang sử dụng vọng chứ không phải chân. Vọng
tâm như sóng trên mặt biển không ngừng dao động, và nghiệp lực là dòng cuồng
lưu phía dưới, nó dễ hợp với duyên (gió, bão) tạo nên sóng thần. Còn
thể xác chúng ta trên địa cầu, nhỏ đến mức không thể so sánh với một hạt cát
trong vũ trụ. Vọng tâm lại biến/hiện ra vô lượng cảnh giới khôn lường. Chỉ lúc
người tu đại ngộ mới rời vọng, trở về chân tâm, hiểu sơ đẳng giống như một người
đang giữa trận cuồng phong tàn phá kinh hoàng, bỗng trời yên biển lặng. Như
trong cơn ác mộng thức giấc, mồ hôi còn đầm đìa. Bỗng à lên, thì ra mơ. Sợ. Khiếp
quá. Đây không phải so sánh, mà thật. Đại ngộ là tỉnh mộng. “Trong mộng rõ
ràng có sáu cõi, tỉnh mộng rồi không cả đại thiên” (Đại sư Vĩnh Gia).
Chúng sanh đều đang trong một giấc mộng lớn. Hãy kiểm thảo, hiếm ai trong mơ lại
biết mình đang mơ. Vậy chúng ta đi đứng nằm ngồi, chúng ta véo mình thấy đau,
sao gọi là mơ. Điều này Duy Thức Phật giáo giải thích cặn kẽ, hiện thời còn được
ngành vật lý lượng tử minh tường. Chẳng hạn bóng đèn nê-ông bật sáng, dưới ánh
nhìn khoa học, ấy là sự tắt và đỏ của liên tục các điện tử nối tiếp.
Trong Kinh còn nêu thí dụ, quay tròn ngọn đuốc, ta thấy một vòng lửa, thật ra đó là sự tương tục của vô vàn điểm nối ngọn đuốc với nhau, nhanh quá nên mắt thường không nhận ra. Trong phim nhân vật bước một bước, đó là sự nối ghép của 24 hình/1 giây. Một giây, 24 hình tương tự tương tục ẩn hiện đã lừa được nhục nhãn; huống hồ trong một giây vọng tâm phát xuất hàng tỉ ý niệm vi tế. Sự tiếp nối đó tạo nên vạn vật chuyển động. Chuyển động sinh năng lượng. Năng lượng sinh vật chất. Vẫn là mộng. Lúc ai nằm mơ, là mộng trong mộng, thậm chí trong mộng của mộng lại có mộng nữa. Địa ngục chính là những cơn ác mộng nối nhau không ngừng; nó là sự phản chiếu của nghiệp lực ta gây trong kiếp trước và kiếp này. Sự công bằng của con tạo khiến người đời không thể tin. Tin, chính ở phước duyên sâu dày chủ yếu nhờ đời trước đã gieo nhân thiện, đã có tu.
Trong Kinh còn nêu thí dụ, quay tròn ngọn đuốc, ta thấy một vòng lửa, thật ra đó là sự tương tục của vô vàn điểm nối ngọn đuốc với nhau, nhanh quá nên mắt thường không nhận ra. Trong phim nhân vật bước một bước, đó là sự nối ghép của 24 hình/1 giây. Một giây, 24 hình tương tự tương tục ẩn hiện đã lừa được nhục nhãn; huống hồ trong một giây vọng tâm phát xuất hàng tỉ ý niệm vi tế. Sự tiếp nối đó tạo nên vạn vật chuyển động. Chuyển động sinh năng lượng. Năng lượng sinh vật chất. Vẫn là mộng. Lúc ai nằm mơ, là mộng trong mộng, thậm chí trong mộng của mộng lại có mộng nữa. Địa ngục chính là những cơn ác mộng nối nhau không ngừng; nó là sự phản chiếu của nghiệp lực ta gây trong kiếp trước và kiếp này. Sự công bằng của con tạo khiến người đời không thể tin. Tin, chính ở phước duyên sâu dày chủ yếu nhờ đời trước đã gieo nhân thiện, đã có tu.
Ta đều đang nhìn thấy một phần nhỏ chân lý tối thượng. Trái đất
lớn bằng ngôi sao, thì dải ngân hà có hàng tỉ ngôi sao; con người đã biết được
mấy sao theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa (như vừa đặt chân lên sao Hỏa); nói gì đến
trong vũ trụ có tỉ tỉ dải ngân hà. Ta thiển cận về toàn thể vũ trụ như thế nào
thì thiển cận với nhân sinh như vậy. Ngay đến thiên tài, họ cũng mới sử dụng những
năng lực phàm tình trong kho tàng vi diệu tự tánh. Mỗi ta đều có Phật tâm, cả
vũ trụ hiện trong ấy, sẽ không hề chạm tới được nếu chẳng thực tu. Alaya thức
chúng ta tích lũy vô vàn nghiệp thiện ác, dẫu qua bao nhiêu kiếp đầu thai đều
nguyên. Một lượng thông tin, nghiệp lực “nếu có hình tướng sẽ đầy cả hư không”,
gặp duyên sẽ hiện cảnh quá lợi hại. Phật giảng: không ân oán, không đền nợ trả
nợ đời trước sẽ không trở thành vợ chồng con cái trong kiếp này. Là sự hút nhau
tự nhiên như một dạng sóng cùng tần số. Trả nợ thì con hiếu thuận, đòi nợ ắt bất
hiếu; thậm chí còn trường hợp, con ngoan hiền song ốm yếu bệnh hoạn, cha mẹ bán
hết gia sản đến mạt vận, cũng là một cách đòi nợ! Hướng vào Phật pháp mới chuyển
được nghiệp bất hiếu (từ kiếp trước) thành có hiếu (trong đời này). Rồi nữa, một
ngày bỗng gặp người lạ giúp đỡ mình, ngược lại lần đầu tiên gặp mặt người đã muốn
đẩy ta đến đường cùng, đích thị duyên nợ tiền kiếp. Ta không nhận ra trước đã
gây nhiễu gì họ; họ cũng không hề biết, song nghiệp lực trong tàng thức vốn
“có mắt”, biết nhận dạng do đó nó thôi thúc họ trả thù. Dẫu vậy, sự đòi nợ thường
rất ít, gần như qua kiếp này oan gia chỉ đòi phần lãi (xóa phần nợ gốc).
Đòi lãi, ta (do chẳng tin nhân quả) nên tìm cách trả đũa mạnh bạo hơn, thành dư
báo! Chính ý nghĩ đòi lại “công bằng” là đầu mối của lục đạo, phần nhiều luân
hồi trong cõi quỷ, bàng sanh. Người giàu sang danh vọng, trước hết là nhờ
sự quy đổi từ phước nhiều đời; ngỡ nhờ tài năng của mình nên phồng bản ngã mặc
sức tiêu pha, coi khinh những người yếu hèn nghèo đói… Tiêu tiền thụ hưởng, vốn
là tiêu phước. Phước mỏng dần nghiệp báo sẽ hiện, mà tai nạn, bệnh tật luôn là
thước đo. Một nhân vật lừng danh, bỗng thân liệt trí mờ, bấn loạn mộng mị triền
miên; giữa lúc ngoài kia sản phẩm dán mác của họ vẫn ngồn ngộn đẻ ra tiền. Họ
chìm vào cõi cô đơn cùng tận cho tới lúc hồn dứt khỏi xác đau như “rùa sống lột
mai”. Thân mất, thức ấy không chịu quy định bởi vật chất thế gian nữa mà quy định
bởi phước đức. Hãy tưởng đến cảnh thân vừa mất, ta thấy ngay xác mình nằm đó dần
thối rữa. Ta biết mọi sự diễn ra, thấy họ hàng thân quyến đó lại bất lực trao đổi
bất lực sờ chạm. Ta đói không ăn được đồ cúng kiếng ngon lành bốc khói; ta lạnh
được cúng áo ấm đốt lửa vẫn lạnh, ta nóng (hồn) chui vào tủ đông vẫn nóng.
Và nếu (hồn) vẫn chấp trước về quan tài đắt tiền, nấm mồ sang trọng, cái ngã sẽ giữ họ ở lại trong thân trung ấm chịu khổ bội bội lần thảm cảnh cuối đời.
Và nếu (hồn) vẫn chấp trước về quan tài đắt tiền, nấm mồ sang trọng, cái ngã sẽ giữ họ ở lại trong thân trung ấm chịu khổ bội bội lần thảm cảnh cuối đời.
Phật vô ngã. Chúng sanh sở ngã. Cái ngã to đùng và nó không
ngừng lớn theo chút tài bé mọn. Ngã chấp càng lớn vô minh càng dày, càng che
khuất phần minh tuệ. Cống cao ngã mạn nhờ nói lưu loát mấy thứ tiếng? Xin phép
gạn ra lớp váng mê tín dị đoan để nêu sự thật: Một người nông dân lúc lên
đồng, vong nhập vào liền tuôn ra trôi chảy nhiều ngoại ngữ. Lúc hồn kia xuất lập
tức họ trở về sự thể ban đầu là người một chữ tây cắn đôi không biết! Đó dẫu
sao vẫn là tục đế. Xét về chân đế, người chứng quả Thánh đầu tiên đã
có thiên nhãn thông, nhìn thấu cảnh trời và địa ngục; chứng thêm nhị, tam, tứ
quả liền thấu suốt ý nghĩ của bất cứ ai, rồi đắc Thần túc thông, khởi ý niệm muốn
tới đâu liền có mặt ở đó. Người Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn có thể “tiền trạm”
tới cõi Cực Lạc, thế giới của Vô Lượng Thọ muốn bất cứ gì liền có nấy. Nhưng
trong nhà Phật không phải khuyên tu để đạt những thứ ấy lòe thiên hạ. Những vị
chứng càng cao, chúng ta sẽ càng không thể biết! Người được xem và tự cho mình
thông minh tỉnh táo hơn các bậc đại đạo sư, cho mình luôn làm chủ bản thân, là
nhầm. Khiến tự ngã thêm lớn. Một khi ta không ít nhất sai khiến được tập khí
phiền não, đơn giản cụ thể như không hóa giải nổi cơn giận là đang sống trong sự
lôi dẫn của nghiệp. Sống thuần vọng tâm, con người gọi đúng là con rối của
nghiệp lực.
Chúng ta có mặt trên đời bởi sự hội tụ kết tinh nghiệp từ tiền
kiếp. Có những đứa trẻ mở mắt sống chưa bao lâu đã nhận ngay nghiệp dữ quá khứ;
lý do khiến người đời thường gọi “trời không có mắt” gây oan giá họa. Thực tế
nhân quả tơ hào không sai. Lộ trình từ nhân tới quả luôn biến hóa; quả có thể
méo mó dị dạng khiến ta không nhận ra, tuy nhiên hiển nhiên nhân ác đã gieo,
không sớm thì muộn quả xấu sẽ đến. Thường tội lỗi (nhân đời trước) chưa hiện,
ta lớn dần theo cái nhìn và ý nghĩ của gia đình; lớn thêm bị quy định bởi tâm
thái nhìn nhận của bè bạn, xóm làng; với những người nổi tiếng họ còn “nối mạng
tư tưởng” với rất nhiều người trên địa cầu. Ý niệm câu thông, còn mạnh hơn bất
kỳ loại sóng nào khoa học từng khám phá. Ý niệm là yếu tố tiên quyết làm nền
móng tương lai mỗi sinh mệnh. Lúc thai nhi hình thành phải được thai
giáo. Người mẹ chẳng những nên sống trong một không gian nền nếp không có tạp
âm mà ngay đến ý nghĩ của mình cũng luôn thiện lương hòa ái. Ý niệm là mấu chốt
gieo nên nghiệp lực mạnh mẽ nhất. Tin nhân quả là bước đầu làm chủ vận mạng.
Nhân quả phải là bài học đầu tiên và xuyên suốt đời người. Được giáo dục về
nhân quả, đứa trẻ sẽ không nghĩ không nói xấu ác ai, sẽ không trộm cắp thứ
không phải của mình, lớn lên sẽ không sa đà nghiện ngập rượu chè hút chích, sẽ
không tà niệm với kẻ ngoài vợ mình. Đứa trẻ từ nhỏ được dạy không sát hại động
vật kể cả côn trùng muỗi kiến, ngược lại còn yêu thương mèo chó trong nhà đến
loài vật hoang trong rừng, làm sao chúng có thể khởi ý niệm hại người cho được.
Nhân quả cũng giống như giới luật. Sống trong nhân quả tức đang sống trong một
không gian thanh tịnh. Ta chưa hề thấy cố nội, qua ảnh cũng không, nhưng chắc
chắn tin có cố nội. Có cố mới có ông, có ông mới có cha… Nhân quả đời trước
cũng vậy, ta không thấy song cần tin sâu chắc. Phật dạy nhân quả xuyên ba đời.
Tin sâu tất cả mọi sự việc không như ý gặp phải tuyệt đối chẳng ngẫu nhiên, mà do nhân đời trước, phải tin và quán, và quán như thế mới không khởi tâm oán hận người đã phiền hà mình, không khởi tâm trả đũa. Người kia gây hại dù lớn đến đâu sẽ có nhân quả vũ trụ quản lý, sẽ bị báo ứng trừng trị chẳng sớm thì muộn, chớ bao giờ khởi niệm “thay trời hành đạo”, muốn chỉnh sửa, giáo huấn, trừng trị lại. Khởi ý niệm này nguy hiểm vô cùng, trước hết là tự hủy phước báu, nữa là khiến cho mạng lưới nhân duyên cộng đồng cũng bị tổn hại và chính ta lúc mạng chung sẽ lọt vào đọa xứ. Chưa hết, khởi loại ý niệm này các oan gia trái chủ vô hình trong nhiều đời sẽ có dịp thuận tiện càng tác ý giúp thêm cho ý niệm xấu của ta mãnh liệt. Mỗi người cơ bản đều có số lượng lớn oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp âm thầm theo sát; nhờ phước ta còn dày, họ chưa thể làm gì; không tu, phần đông nghiệp sẽ nhào tới lúc lâm chung. Nhớ hồi học đại học, tôi luôn mua thức ăn của một dì bán thịt heo. Bẵng đi rất lâu, một ngày hay tin dì ung thư. Dì nói thường thấy ai cầm dao băm chặt dưới chân… Những ngày cuối đời dì được đạo hữu gần đó khuyên niệm Phật; lúc tôi đến thăm dì còn bảo đọc Chú Đại Bi. Có người khác, cận kề cái chết đã thấy rành rành oan gia, sợ đến biến dạng mặt mày lật mình xuống giường, mà nào có trốn được. Pháp gọi hiện tượng này là hoa báo; hoa báo hiệu cho quả phía bên kia đời. Lúc sống, ai từng vùng mình khỏi cơn ác mộng (như bị truy đuổi chém giết, bị tra tấn hành hạ…), sẽ cảm được chút ít về địa ngục. Hơn thế, trí não ta chỉ mới tưởng đến cảnh hành lạc, tưởng đến cảnh sẽ phương hại người như thế nào, vào địa ngục cũng hiện lên như vậy để thọ nhận. Bạn trong đời không đánh đập ai, song đã từng giết cá hay bất kỳ loài vật nào như thế nào, lúc mất thân, hồn vào địa ngục sẽ (hiện) chịu lại nỗi đau như thế; chủ tâm giết tổ kiến từng con từng con, vào hỏa đồ nhận y xì. Ở đời cắt xẻ thịt động vật, vào địa ngục ta buộc phải “diễn lại”. Đây chỉ là điểm xuyến thoáng qua cảnh tượng nhân quả điệp trùng Phật thuyết trong kinh. Đau đớn đến trời đất cũng ứa máu! Biết làm sao. Thân động vật từ người đến loài vật nói chung đều có 27 chi pháp (trong sắc pháp) hệt nhau; trong danh pháp chúng cũng có tâm vui buồn tham sân. Bình đẳng. Nhưng ta đã gây nghiệp bất bình! Nghiệp ấy tự tạo tự chịu, không ai quy định cả. Đó là quy luật vĩnh hằng trong vũ trụ. Đức Phật chỉ nói lên sự thật trong vũ trụ. Một sự thật quá thảm, sự thật vượt khỏi lối suy niệm thông thường, nên nó trở thành hoang đường. Nhưng cái hoang đường đó vẫn thường ngày sống động trong nhân sinh thế tục, sống động tuyệt đỉnh trong mắt của bậc chân tu.
Tin sâu tất cả mọi sự việc không như ý gặp phải tuyệt đối chẳng ngẫu nhiên, mà do nhân đời trước, phải tin và quán, và quán như thế mới không khởi tâm oán hận người đã phiền hà mình, không khởi tâm trả đũa. Người kia gây hại dù lớn đến đâu sẽ có nhân quả vũ trụ quản lý, sẽ bị báo ứng trừng trị chẳng sớm thì muộn, chớ bao giờ khởi niệm “thay trời hành đạo”, muốn chỉnh sửa, giáo huấn, trừng trị lại. Khởi ý niệm này nguy hiểm vô cùng, trước hết là tự hủy phước báu, nữa là khiến cho mạng lưới nhân duyên cộng đồng cũng bị tổn hại và chính ta lúc mạng chung sẽ lọt vào đọa xứ. Chưa hết, khởi loại ý niệm này các oan gia trái chủ vô hình trong nhiều đời sẽ có dịp thuận tiện càng tác ý giúp thêm cho ý niệm xấu của ta mãnh liệt. Mỗi người cơ bản đều có số lượng lớn oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp âm thầm theo sát; nhờ phước ta còn dày, họ chưa thể làm gì; không tu, phần đông nghiệp sẽ nhào tới lúc lâm chung. Nhớ hồi học đại học, tôi luôn mua thức ăn của một dì bán thịt heo. Bẵng đi rất lâu, một ngày hay tin dì ung thư. Dì nói thường thấy ai cầm dao băm chặt dưới chân… Những ngày cuối đời dì được đạo hữu gần đó khuyên niệm Phật; lúc tôi đến thăm dì còn bảo đọc Chú Đại Bi. Có người khác, cận kề cái chết đã thấy rành rành oan gia, sợ đến biến dạng mặt mày lật mình xuống giường, mà nào có trốn được. Pháp gọi hiện tượng này là hoa báo; hoa báo hiệu cho quả phía bên kia đời. Lúc sống, ai từng vùng mình khỏi cơn ác mộng (như bị truy đuổi chém giết, bị tra tấn hành hạ…), sẽ cảm được chút ít về địa ngục. Hơn thế, trí não ta chỉ mới tưởng đến cảnh hành lạc, tưởng đến cảnh sẽ phương hại người như thế nào, vào địa ngục cũng hiện lên như vậy để thọ nhận. Bạn trong đời không đánh đập ai, song đã từng giết cá hay bất kỳ loài vật nào như thế nào, lúc mất thân, hồn vào địa ngục sẽ (hiện) chịu lại nỗi đau như thế; chủ tâm giết tổ kiến từng con từng con, vào hỏa đồ nhận y xì. Ở đời cắt xẻ thịt động vật, vào địa ngục ta buộc phải “diễn lại”. Đây chỉ là điểm xuyến thoáng qua cảnh tượng nhân quả điệp trùng Phật thuyết trong kinh. Đau đớn đến trời đất cũng ứa máu! Biết làm sao. Thân động vật từ người đến loài vật nói chung đều có 27 chi pháp (trong sắc pháp) hệt nhau; trong danh pháp chúng cũng có tâm vui buồn tham sân. Bình đẳng. Nhưng ta đã gây nghiệp bất bình! Nghiệp ấy tự tạo tự chịu, không ai quy định cả. Đó là quy luật vĩnh hằng trong vũ trụ. Đức Phật chỉ nói lên sự thật trong vũ trụ. Một sự thật quá thảm, sự thật vượt khỏi lối suy niệm thông thường, nên nó trở thành hoang đường. Nhưng cái hoang đường đó vẫn thường ngày sống động trong nhân sinh thế tục, sống động tuyệt đỉnh trong mắt của bậc chân tu.
Nhân quả hữu hình đã vậy, nhân quả vô hình quả đáng sợ biết
bao - đó là Ý Niệm. Ý niệm cũng có đồng minh bè phái. Ý niệm xấu khởi ra,
lập tức chiêu cảm cùng loại cuộn về như lốc tố, chiêu cảm ác niệm từ ác thần ác
quỷ, la sát. Ngược lại ta khởi tâm lành, nhẫn nhục, tha thứ cho đối phương thì
nghiệp chướng tiêu nhanh, sức khỏe ngày càng kiện khang trường thọ. Trong nhiều
buổi giảng cho Phật tử và giới trí thức, tiến sĩ Nguyễn Tường Bách cũng đặc biệt
nhấn mạnh điều này. Các bậc đại đức hiện thời thì kết hợp với những khám phá của
khoa học để hướng người đời cứu thế giới bằng việc giữ ý niệm thiện, thay thế
và loại trừ tà niệm. Ai không tin có thể đặt hai bát cơm, hai bát nước, hai loại
trái cây hay bất cứ “vật vô tri” nào ở hai căn phòng, một nghĩ xấu về nó, một
phát ý nghĩ yêu thương, thời gian sau sẽ thấy chúng biến đổi tươi ngon hay thối
úng. (Chỉ phát ý niệm thiện hay ác là đủ, không cần ra tiếng chưởi rủa hay lời
yêu thương). Những loại “vô tri” trên sẽ (bắt sóng) hiểu và biến đổi theo ý niệm
của chúng ta. Ý niệm chính là nhiên liệu tạo nên bản chất mỗi người. Nếu ý niệm
không thể hiện ra chân tay miệng, bề ngoài trong đời sống y không làm hại ai
song chớ nhầm tưởng y thiện lương. Trong tâm y mang ý niệm sân hận, luôn muốn
người ấy người kia sớm thân bại danh liệt mau già mau chết; và bởi góp vào vũ
trụ loại từ trường cực xấu, chẳng những y hại một người mà còn (góp phần) hại đến
cả nhân loại. Thầy Tuệ Hải trong một buổi giảng về Nhân Quả có đoạn: “Theo kinh
Địa Tạng, chúng ta chỉ cần tác ý liền có nhân quả. Mỗi khi mình nghĩ tốt, sẽ tạo
một dạng sóng trường tốt đưa ra vũ trụ, nghĩ xấu sẽ tạo sóng trường xấu mang
theo một dạng màu. Nghĩ thiện lành sẽ cho ra màu trong sáng, êm ái nhẹ nhàng,
đi hoài trong không gian không mất, thứ hai cái sóng trường thanh bình đó
sẽ chạm tới các cõi có chúng sanh đau khổ, khiến được mát dịu; ta được nhận
ngay phước. Nhưng mỗi lần sân si nghĩ xấu, sẽ tạo một sóng trường bất an mang
theo khí xấu, mang theo sự khó chịu cho người, khiến ta tổn phước. Thử lắng tâm
nghĩ xấu đến ai, là họ cảm giác khó chịu khi nghĩ tới mình liền… Trong Kinh
nói nhất niệm xuyên tam giới là sự thật. Một ý niệm chúng ta đi khắp
tam giới chứ không phải chỉ tới một vài người bình thường; và trong khoảng
cách từ mình đến đối phương còn có rất nhiều cõi, nhiều loài chạm phải, thì đã
có nghiệp, có quả báo dành cho ta rồi”. Nên nghĩ tốt về người. Loại ra những điều
xấu của người và thay bằng những lời nói, cử chỉ tốt của họ. Hành giả Tịnh
tông, không cứ thiện ác khởi lên, cứ phát tâm từ ái niệm “A Di Đà Phật” ắt lợi
đôi đường cả Đời lẫn Đạo. Niệm Phật (dẫu là niệm thầm) tai không nghe là miệng
niệm chứ không phải tâm niệm, mà tâm thực đang nhảy múa vũ điệu tập khí trần
ai. Niệm Phật tai không chịu lắng nghe câu mình niệm là chỉ ngửi mùi chứ không
thực ăn. Niệm Phật như vậy miệng niệm nhưng tâm vẫn nhìn lỗi thế gian. Lục tổ
Huệ Năng khuyến “không nhìn lỗi thế gian”. Người nào còn tin Ngài, với lời khai
thị này hẳn phải chạm khắc vào máu huyết. Còn nhìn lỗi thế gian, nên hiểu ngay
lúc đó chưa phải chân tu! Khoa học lượng tử lúc thấu tỏ lý này quả thực thấy…
đau đầu; cuối cùng đưa ra hướng giải quyết thật khế hợp với tinh thần kinh điển: Thay
vì chống chiến tranh, hãy ủng hộ hòa bình.
Tu, trước nhất ở Tâm; là sự thay thế ý niệm, khiến mọi vọng
niệm thế gian quy về chân niệm. Mức thấp nhất, hễ nghĩ ác nghĩ xấu lập tức biết
để thay vào những ý nghĩ thiện. Ý nghĩ chuyển, hành vi mới chuyển. Người lo
chuyển hành vi lại không chuyển ý niệm là gãi ngứa ngoài dày. Nên hướng vào kiểm
thảo từng ý niệm tung hoành tạo tác trong tâm. Nên nhìn lỗi mình sửa lỗi mình,
chớ nhìn lỗi người sửa lỗi người trong lúc mình soi gương tạo dáng nhiều lại
nhìn bản tâm quá ít. Hễ thấy anh kia rượu chè phè phỡn là chê bai bại hoại, lại
không nhìn mình đóng cổng tà hạnh. Thấy bà kia nhiều chuyện lại không thấy mình
nịnh nọt bợ đỡ. Thấy kẻ tham ăn lại không thấy mình tham ngủ nghỉ, tham danh.
Thấy người gặp nạn liền cho chắc hắn ở cơ quan sống chẳng ra gì, lại không nhìn
nhân xấu mình thường gieo và ngay vừa khởi cái ý niệm hả hê đó… Quán sâu sắc
chân lý, rằng ta chỉ hiểu người được một phần tỉ, không dễ khởi ý niệm phê
bình. Thế gian chẳng thiếu hàng Bồ tát, những vị Phật thị hiện tướng “phàm” tùy
duyên độ cho những chúng sanh đặc biệt, ta không biết nên cứ mặc nhiên phạm thượng
các ngài. Một vị Tổ khuyên xem tất cả chúng sanh đều là Phật, ngoại trừ ta (là
phàm phu).
Bậc chân tu thường ngày vẫn miên mật hạ thủ công phu lấy đó hồi
hướng cho những người như tôi và bạn, mà Đức Phật từ bi gọi là “đáng thương
xót”, nhưng dẫu sao vẫn là cứu vãn tình thế, trong lúc gốc bệnh của chúng ta
không ngừng gia tăng thông qua cấp số nhân của ý niệm bất chánh. Đây, là nguyên
nhân sâu xa khiến ngay đến bậc triệt ngộ với năng lực vô biên cũng
không thể ngày một ngày hai cứu vãn trong lúc chúng ta không chừng đã dật dờ
trên trần thế như một bóng ma.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét