Tuổi thơ của tôi trôi qua trong chiến tranh. Thủa ấy miền Bắc
chưa có nhiều phương tiện nghe nhìn. Chúng tôi chưa trông thấy cái ti vi bao giờ.
Chiếu bóng thì xem ở ngoài bãi cỏ, sân đình, mà cả năm cũng chỉ vài ba lần. Cả
cái làng Nam Phú của tôi chỉ có hai cái đài bán dẫn: một của gia đình người từ
Tân thế giới mới về nước, một của ông chủ tịch xã.
Âm thanh thường xuyên dội vào thính giác của tôi là ba thứ rất
đối nghịch nhau: tiếng bom, tiếng chuông nhà thờ Thiên Chúa và tiếng hót của
các loài chim. Có thứ giọng hót của loài chim đã trở thành một phần quan trọng
trong đời sống tinh thần của tôi, nó ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ, đó là tiếng
hót của chim họa mi.
Hồi ấy, máy bay Mỹ đánh phá rất dữ, chúng tôi thường phải đi
học sớm ở nơi sơ tán. Kẻ báo thức cho tôi dậy đi học là con chim họa mi. Nói
cho đúng hơn: bắt đầu là tiếng chuông từ ngọn tháp ngôi nhà thờ Thiên Chúa
ngoài đầu xóm ngân nga báo lễ, sau tiếng chuông dứt một lát thì tiếng con họa mi bắt đầu cất lên ngay trên khóm cây sau nhà. Thoạt đầu tiếng chim còn dè dặt,
như thăm dò; càng về sau nó càng ngân nga, thánh thót, khoan nhặt, lên bổng xuống
trầm, thao thiết. Nghe tinh thì có cảm giác trong tiếng hót ấy có cả tiếng tí
tách của mưa, tiếng thầm thào gió, tiếng róc rách của nước suối rừng. Đến lúc ấy
thì không thể nằm nán lại thêm nữa, tôi bừng thức dậy trong niềm xao xuyến hân
hoan. Khi tôi cắp sách chạy ra đến đầu ngõ, tiếng chim họa mi vẫn vang vọng sau
lưng một khúc nhạc lưu luyến như nhằm tiễn chân tôi đến trường.
Có những thắc mắc của ngày ấy mà không ai có thể giải thích
giùm tôi rằng: tại sao chim họa mi lại hay hót vào lúc đêm nghiêng về sáng và
thường hót vào những đêm giá lạnh?
Sau này trưởng thành, tìm hiểu tôi mới biết, họa mi là loài
chim của xứ lạnh. Quê hương của nó ở hầu hết các nước châu Âu, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản... Tôi có đọc một số tác phẩm văn học mà trong đó nhắc đến con
chim họa mi. Nhà văn nổi tiếng người đông Đức Ecvin Stritmattơ, tác giả tiểu
thuyết Ôlê Biên kốp từng viết một truyện ngắn cũng khá nổi tiếng có tên là Họa mi xanh. Trong truyện, nhà văn hóa thân vào nhân vật "tôi" và giải
thích rằng thực ra trong cuộc sống không hề có con chim họa mi nào màu xanh,
nhưng vì tiếng hót của nó nâng giấc, nuôi dưỡng đời sống tinh thần của
"tôi" từ cái đêm người mẹ hoài thai ra "tôi" nên trong mắt
"tôi" họa mi mang màu xanh, là màu của trí tưởng tượng, của hy vọng.
Ecvin Strimattơ viết:
"... Theo những lời lãng mạn hoá của mẹ tôi thì một chú chim trên hàng rào hoàng dương mé đồi Ghê-oóc là lời khích lệ cho tôi được tạo ra trong căn gác xép một ngôi nhà nhỏ sát mép con sông lượn quanh thành phố..."
"... Khi cuộc đời nhỏ của tôi bắt đầu thì ở đó chỉ có họa mi trong một mùa xuân: người ta nghe thấy nó hót trong lùm đỗ tùng phía sau nghĩa địa khi những cây đỗ tùng thích rung rinh đóng giả người khổng lồ hoặc ma quỷ..."
"... Theo những lời lãng mạn hoá của mẹ tôi thì một chú chim trên hàng rào hoàng dương mé đồi Ghê-oóc là lời khích lệ cho tôi được tạo ra trong căn gác xép một ngôi nhà nhỏ sát mép con sông lượn quanh thành phố..."
"... Khi cuộc đời nhỏ của tôi bắt đầu thì ở đó chỉ có họa mi trong một mùa xuân: người ta nghe thấy nó hót trong lùm đỗ tùng phía sau nghĩa địa khi những cây đỗ tùng thích rung rinh đóng giả người khổng lồ hoặc ma quỷ..."
Trong kho tàng văn chương sáng giá của Anđecxen cũng có một
tác phẩm nhắc đến con chim họa mi rất hay. E bài viết sẽ dài, tôi xin không
trích dẫn.
Ơ nước ta, họa mi sống chủ yếu trên các tỉnh miền núi phía Bắc,
giáp với Trung Quốc. Đây là những vùng đất mà thời tiết một nửa năm lạnh giá, một
nửa năm thì mát mẻ, kể cả mùa hè. Những tháng mát mẻ vừa độ thì họa mi sống chủ
yếu ở những nơi "bản xứ" đó. Chỉ những dịp thật giá lạnh, họa mi mới
bay xuống đồng bằng, trong đó có vùng châu thổ sông Hồng quê tôi, để sinh tồn.
Từ đó tôi mới ngộ ra rằng, những buổi sáng lạnh giá, khi những loài chim khác
còn im lìm ngủ trong hang hốc, bờ bụi thì họa mi đã thức dậy vừa nhanh nhẹn
chuyền trên cành cây vừa thao thiết hót.
Nhiều buổi sáng chủ nhật, không phải đến trường, tôi đã dậy từ
sớm đứng nấp vào hồi nhà rình xem con chim họa mi nó mang hình dáng mỹ miều đến
nhường nào mà lại có giọng hót diệu huyền đến thế. Nhưng thật đen đủi cho tôi,
ngày nào cũng như ngày nào, con chim họa mi ở bụi cây sau nhà tôi cứ hót từ sau
lúc chuông nhà thờ báo lễ cho đến lúc tang tảng sáng là chúng lại bay đi đâu mất.
Tuy nhiên, cũng có ít nhất một lần tôi nhìn thấy nó, nhìn thấy cả đôi vợ chồng
nó. Đấy là cái buổi sáng chủ nhật không hiểu sao đôi họa mi sau khi cống hiến
những giai phẩm trác việt của âm thanh còn nán lại ở bụi cây sau nhà tôi đến tận
lúc trời sáng hẳn chúng mới bay đi. Khi nhìn thấy chúng, tôi đã hơi buồn và thất
vọng: hình dáng họa mi không diêm dúa, mỹ miều như tôi vẫn tưởng tượng. Nó giống
như con chim sáo đá. Lưng và đuôi màu đen phơn phớt nâu. Bụng nó màu nâu tươi
hơi ong óng vàng. Mỏ và chân thì vàng sậm. Xung quanh mắt có vành lông màu trắng.
Cảm giác của tôi là chim họa mi trông cũng "quê một cục" như những con
chích chòe, sáo đen, chào mào... tôi vẫn thường nhìn thấy trên những cánh đồng
và trong những khu vườn quê tôi mà thôi. Hóa ra không phải bao giờ y phục cũng
xứng với kỳ đức!. Hóa ra trời phú cho hoạ mi một tài năng trác việt về âm thanh
thì trời lại không thể cho nó thêm một bộ cánh thật đẹp. Tôi mang nỗi băn khoăn
đó nói với cha tôi thì cha tôi nói, đại khái, con họa mi phải có bề ngoài tầm
thường, giản dị như thế mới là thuận ý trời, thuận lẽ âm dương như trong Kinh Dịch;
như thế họa mi mới thoát khỏi những những dòm dỏ, đố kỵ, thị phi của những giống
loài khác để tồn sinh và tồn tại được cho đến ngày nay? Ví thử họa mi có một bộ
cánh diêm dúa như con chim long cơ hay con chim bảy màu thì rất có thể chúng đã
bị tuyệt diệt vì các loài chim ác!
Từ hôm nhìn thấy đôi chim họa mi, tôi còn vỡ nhẽ ra thêm một
điều nữa: họa mi thường sống có đôi, một trống một mái; nhưng chỉ có hoạ mi trống
là biết hót. Còn họa mi mái, khi nghe họa mi trống hót, nó chỉ há mỏ cho phát
ra những âm thanh thù thì như tiếng gió như một thứ "bè trầm" để phụ
họa theo tiếng họa mi trống mà thôi.
Khi tan mùa giá lạnh, hầu hết họa mi lại bay ngược trở lại với
núi rừng phương Bắc. Tuy nhiên, ở đồng bằng quê tôi mà làng quê nào có địa
hình, phong thủy phù hợp như nhiều gò đống, vườn hoang, cây cối xanh tốt um
tùm, con người hiền hòa... thì họa mi sẽ ở lại.
Những năm gần đây đời sống con người có khá giả hơn, nhưng mối
quan hệ giữa người với người nghiêng về lợi ích hơn là tình nghĩa. Vì thế mà
con người luôn bị rơi vào tâm thế bơ vơ, đơn độc. Bơ vơ ngay giữa cõi đời đông
đúc. Đơn độc ngay trong chính ngôi nhà của mình. Tâm thế ấy khiến người ta thèm
khát thiên nhiên, muốn tìm một sự cộng hưởng từ thiên nhiên. Người ta tìm đến với
vườn hoa, cây cảnh, chim muông. Người chơi chim ngày càng nhiều. Và không mấy
ai chơi chim tinh tường, sành điệu mà bỏ qua tiếng hót của con chim họa mi. Có
người còn khẳng định rằng, ai chơi chim mà chưa chơi họa mi thì xem như chưa biết
gì về chim. Kể cũng không ngoa!
Người ta đã thuần phục chim họa mi chịu được cả khí hậu nhiệt
đới. Những nhà buôn chim đã mang họa mi từ Bắc bộ vào tận Sài Gòn, sang tận đảo
quốc Singapore thuần dưỡng rồi bán. Ơ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... bây giờ
không ít người có lồng chim họa mi. Vì họa mi hót quá hay nên có người còn nuôi
con họa mi giữa những con chích chòe, chào mào, bạc má, yến... để những con này
tập hót theo giọng họa mi.
Thức ăn tự nhiên của hoạ mi là côn trùng, nhưng khi thuần hóa người ta có thể nuôi họa mi bằng hạt kê tẩm lòng đỏ trứng gà.
Hoạ mi có "máu nghệ sĩ" nên không chỉ hót hay mà đá nhau cũng rất dũng mãnh. Những người có tính hiếu thắng hay chọn nuôi những con họa mi to khỏe, trông ra dáng "võ biền" và huấn luyện cho nó những ngón đá rất hóc hiểm. Tôi đã chứng kiến hai người cho hai con họa mi đá nhau. Chúng dùng móng vuốt móc vào cổ họng, vào ức đối phương, khiến cuộc đấu kết thúc thì cả hai con máu me bê bết, có con mắt lồi hẳn ra. Một số người xem cảnh đó thì vỗ tay reo hò thích thú. Riêng tôi, tôi không sao chịu được. Vì trong tôi cứ bộn lên một câu hỏi: trời sinh ra họa mi để hót chứ đâu phải để đá nhau?.
Hoạ mi có "máu nghệ sĩ" nên không chỉ hót hay mà đá nhau cũng rất dũng mãnh. Những người có tính hiếu thắng hay chọn nuôi những con họa mi to khỏe, trông ra dáng "võ biền" và huấn luyện cho nó những ngón đá rất hóc hiểm. Tôi đã chứng kiến hai người cho hai con họa mi đá nhau. Chúng dùng móng vuốt móc vào cổ họng, vào ức đối phương, khiến cuộc đấu kết thúc thì cả hai con máu me bê bết, có con mắt lồi hẳn ra. Một số người xem cảnh đó thì vỗ tay reo hò thích thú. Riêng tôi, tôi không sao chịu được. Vì trong tôi cứ bộn lên một câu hỏi: trời sinh ra họa mi để hót chứ đâu phải để đá nhau?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét