Cây cối, hoa lá qua
xuân hạ thu đông
xuân hạ thu đông
Chao ơi thu đã đến rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào
(Chế Lan Viên)
Thu trước vừa qua mới độ nào
(Chế Lan Viên)
Mùa thu lại trở về với giá heo may se lạnh, với mưa bay nhè
nhẹ, với lá vàng rơi lả tả làm lòng người cũng chùng theo cùng sương giăng lủng
thấp, khói tỏa hồ xanh... Không mùa nào làm cho cõi trần thêm bàn bạc mơ hồ như
mùa thu.
Hình như càng lớn tuổi, con người hay trầm tư chiêm nghiệm về
cuộc đời như thị để cố ngộ và đạt được sự an lạc, sau bao "xuân hạ thu
đông" bon chen đuổi bắt những ảo ảnh quyền, lợi, danh, vọng... đến mệt
nhoài.
Càng để tâm quan sát cảnh sắc đổi thay của bốn mùa, thăng trầm
của nhân thế, mất còn của vật đổi sao dời không ai không khỏi nhận ra qui luật
vô thường của đời sống. Sinh, họai, trụ diệt cứ thế mà xoay vòng luân hồi mãi
mãi. Phải chăng đó cũng là điều mà nhà Phật luôn nhắc nhở trong 'tứ pháp ấn':
Vô thường, Khổ, Không và Vô Ngã; trong đó lãng đãng 'Duyên Khởi' đan bện trùng
trùng. Đó cũng là sự thực của vũ trụ và nhân thế; nên Tâm Kinh Bát Nhã đã từ
lâu nhắc nhở "hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thiết khổ ách..."
Con người là loại sinh vật duy nhất có tư tưởng, trí nhớ và mộng
mơ nên vô tình đã tự hành hạ mình và làm cho cuộc sống thêm phức tạp. René
Descartes (1596-1650) một tư tưởng gia Pháp ở đầu thế kỷ 17 đã thốt lên một câu
bất hủ "Je pense, donc je suis!" (Ta tư duy tức ta hiện hữu - Cogito,
ergo sum) trong các tác phẩm triết học của mình. Con người luôn tự tra vấn, để
còn thấy mình hiện hữu, về thân phận, về sự có mặt tạm bợ của mình trong thế
gian này với mục đích gì. Mọi triết lý, tôn giáo hay học thuật đều do con người
bày ra hoặc là để phục vụ hoặc là để khống chế nhân sinh đang sống; hoặc là
giúp cho xã hội nâng cao đạo đức mà sống chung hòa hợp, hoặc là tạo ra những cộng
đồng cuồng tín, cuồng sát bất dung. Ngoài ra không có ý nghĩa gì khác. Kẻ cai
trị hay người bị cai trị, thú săn mồi hay mồi bị săn một ngày kia cũng cùng biến
mất trên cõi đời này trả cấu chất lại cho đất. "Ba vạn sáu ngàn ngày
là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười" (Cao Bá Quát). Vì thế
chuyện bản ngã luân chuyển qua đời sau, kiếp trước; hay linh hồn bất diệt mãi
mãi càng ngày là điều khó tin. Tôn giáo nào áp đặt tín điều phục vụ thần linh
siêu nhiên huyền hoặc đều là dối gạt cốt tranh tư lợi.
Duy tuệ thị nghiệp! Tuệ ở đây không hẳn là mức độ học trình
cao thấp quy định qua bằng cấp của học đường mà là sự bừng sáng của lý trí rốt
ráo để nhận ra "thân phận" của mình và những nghiệp thiện ác do mình
tạo tác trong đời đang sống, hòng làm lành tránh dữ để tâm tư an lạc. Sự giáo dục
của học đường cũng là một vốn liếng quan trọng không kém để đương đầu sinh kế
trong một xã hội phồn tạp ngày nay. Và cũng nhờ khoa học mà ta có thể liên hệ
chặt chẽ hơn khi lý giải được những hiện tượng vật lý trong cõi ta bà để không
bị lầm lạc.
Khoa học dĩ nhiên là do con người sáng tạo từ tiến bộ của tư
tưởng cốt để giải thích những hiện tượng tự nhiên thấy được và không thấy được
bằng mắt thường. Con người qua quá trình quan sát các hiện tượng trong trời đất,
thấy rằng chúng tuần hoàn lập đi lập lại nên đặt ra những phép đo đạt tính
toán, lập nên những giả thuyết, định đề và đặt tên cho các thành tựu theo quy ước
để tiện thông tin cho nhau và kiểm nghiệm một cách khách quan để trao truyền
qua các thế hệ.
Nhìn cây cối, hoa lá qua Xuân Hạ Thu Đông; người xưa Á Đông
thường bảo "Xuân tăng, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn". Nó cũng ứng với
những thay đổi trong đời mà ngày xưa đức Khổng Tử luôn nhấn mạnh đến việc giáo
dục và kiến văn: "Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu Học (Đến 15 tuổi, ta mới
có thể tự mình chuyên tâm vào việc học); Tam Thập Nhi Lập (Đến 30 tuổi
thì sức tự lập mới vững vàng); Tứ Thập Nhi Bất Hoặc (Đến 40 tuổi mới
hết nghi hoặc chuyện đời, có thể hiểu thấu mọi sự lý trong thiên hạ, phân biệt
được việc phải hay trái); Ngũ Thập Nhi Tri Thiên Mệnh (Đến 50 tuổi có
thể thông suốt quy luật của tạo hóa, tức là hiểu được mệnh của trời); Lục
Thập Nhi Nhĩ Thuận (Đến 60 tuổi thì đạt đến độ hoàn hảo về mặt tri hành
nên khi nghe thấy điều gì người ta không cảm thấy trở ngại); Thất Thập Nhi
Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ (Đến 70 tuổi, con người sẽ thấu triệt về cách xử
thế; làm việc gì cũng chừng mực).
Những phát kiến của khoa học còn luôn tiến hành liên tục, bởi
con người hình như không bao giờ thỏa mãn với những thành tựu trí tuệ của mình.
Sự tich lũy tri thức của các học thuật của nhân lọai đã giúp cho con người tìm
hiểu sâu xa hơn về sự sống từ vũ trụ cho đến tế bào. Ít ra khoa học ngày nay
cũng giúp con người có được nhiều câu trả lời thỏa đáng cho những điều nan giải
đối với các thế hệ xưa ở vài trăm năm trước; ngay cả đức Khổng Tử vốn được
thiên hạ tôn xưng là 'vạn thế sư biểu' còn lúng túng không giải quyết được khi
nghe hai đứa bé cãi nhau về việc mặt trời gần hay xa hơn hai mươi lăm thế kỷ
trước. (Chuyện Liệt Tử - Cổ học tinh hoa - Nguyễn Văn Ngọc). Khoa học, vì
thế cũng đã làm cho những giá trị tôn giáo, nhất là thần học của Tây phương bị
lỗi thời một cách thảm hại.
Châu Âu mãi đến thế kỷ 18 mới ra khỏi thời đại tăm tối (Dark
Age) để đạt đến "thời đại giác ngộ (hay khai sáng)" (Enlightenment
Age) với những khuôn mặt lớn John Locke, Herbert of Cherbbury, François
Voltaire, Thomas Paine... đã thay thế chuyện 'thiên khải' bằng 'lý trí'; như
nhà tríết gia Immanuel Kant nêu châm ngôn "Dare to know", đã làm một
cuộc cách mạng tư tưởng ở Anh và châu Âu. Không biết đến bao giờ nhân loại mới
có được thời đại thực sự giác ngộ để tự giải phóng và thời đại của mình?
Hãy nghĩ, vũ trụ đã được hình thành khoảng 15 tỷ năm trước; mặt
trời và quả đất có mặt khỏang gần 5 tỷ năm trước; và con người... nhỏ bé đầu
tiên, chỉ xuất hiện khỏang 1.5 triệu năm trước; và chuyện 'sáng thế ký' lại được
truyền tụng khoảng hơn hai mươi sáu thế kỷ trước đây mà thôi. Ai tạo dựng ra
ai?.
II. Cuộc cách mạng tư duy
Muốn tra vấn về nguồn gốc sự sống và con người, không khỏi bắt
nguồn từ vũ trụ. Nói về vũ trụ thì những hiểu bíết hiện nay vẫn chỉ còn nằm
trong giới hạn của tương đối. Đa số các nhà thiên văn và toán học dùng từ 'vũ
trụ' khi nói đến 'vũ trụ quan sát được' vì mọi dữ kiện quan sát và trình bày là
do con người làm nên và truyền lại hiểu biết ấy cho đồng chũng; như thế có
nghĩa là điểm đối chiếu là từ quả đất, cho nên nhiều nhà thiên văn thường bảo rằng
chúng ta ở tại tâm của vũ trụ quan sát được.
Nên phân biệt với cái nhìn của thần học lỗi thời mà bấy lâu
nay nhiều người vẫn bị lầm lạc là 'quả đất là trung tâm của vũ trụ và mặt trời
quay quanh quả đất'. Khái niệm này đã được ghi trong Cựu Ước, và đến năm 150 có
Ptolemy [Claudius Ptolemaeus (83 - 161 AD)] đề xướng phụ họa qua tác phẩm
Almagest. Chỉ đến giữa thế kỷ 16, Miko³aj Kopernik (Nicolaus Copernicus), một
nhà thiên văn người Ba Lan đã can đảm bác bỏ thuyết này và quả quyết rằng 'quả
đất quay quanh mặt trời' thì ngành thiên văn mới bắt đầu được khai phóng.
Khi cuốn sách của Copernicus được xuất bản vào năm 1543, nó
phủ nhận chuyện mặt trời quay quanh quả đất trong Cựu Ước (Joshua 10:13) một lần
nữa đã làm chấn động châu Âu. Để làm dịu sự phẩn nộ của hàng tăng lữ Ky tô, một
giáo sĩ tên Andreas Osiander đã viết trong lời giới thiệu rằng cuốn sách chỉ
nêu ra một giả thuyết toán học, chứ không phải là sự thật của thực tế.
Câu chuyện về lý thuyết mới của Copernicus cũng mang nhiều bí
ẩn. Ý tưởng đến với Copernicus không phải từ việc bản thân quan sát các hành
tinh, mà từ đọc sách về hai tác giả Aristarchus và Philolaus vào thế kỷ thứ 3
TTL bàn về chuyện này. Trong một thủ bản còn lưu giữ được của ông ta,
Copernicus đã viết "Philolaus đã tin chuyện quả đất quay, và nhiều
người khác đã bảo Aristarchus của xứ Samos cũng tin như thế." Nhưng không
hiểu vì lý do gì câu này bị cắt bỏ trong sách được in sau đó. Không những thế,
trong vài luận bản quan trọng Copernicus còn bàn đến các tác phẩm của nhiều nhà
thiên văn Ả Rập như Nasir al-Din Tusi, Mo'ayyeduddin Urdi, Ibn al-Shatir,
Ibn Battuta và Averroes trong khoảng các thế kỷ 13, 14.
Trước đó, đã có nhiều chứng cớ cho thấy thuyết 'nhật tâm'
(heliocentric model) hay 'quả đất quay quanh mặt trời' đã được nói đến lừ lâu ở
Á châu; ví dụ trong nhiều kinh của Vedas bằng tiếng Sanscrit như Aitareya
Brahmana và Shatapatha Brahmanangay trước thế kỷ thứ 7 TTL. Luận bản Vishnu
Purana ở thế kỷ thứ 1 cũng đã nói kỹ về khái niệm này.
Ngòai ra còn có Aristarchus xứ Samos vào thế kỷ thứ 3 TTL đã
phát triển thêm các lý thuyết về chuyển động của quả đất trên trục của nó do
Heraclides Ponticus đề ra trước đó, và cả quyết thêm là các hành tinh Thủy và
Kim tinh cũng quay quanh mặt trời. Tác phẩm này của ông đã bị thất truyền; về
sau chỉ được biết qua sách của sử gia Plutarch, theo đó thì có một kẻ cùng thời
với Aristarchus đã buộc tội ông là nghịch đạo khi 'bắt quả đất quay. Nhà thiên
văn Ấn Aryabhata đã đi trước khám phá của Copernicus 1 thiên niên kỷ, và còn biết
thêm là ánh sáng từ mặt trăng và các hành tinh khác là do phản chiếu lại ánh
sáng mặt trời.
III. Nguồn gốc của vũ trụ
Các hiện tượng vật lý nằm ngoài khoảng vũ trụ quan sát được
không có tác động gì đến chúng ta. Vũ trụ quan sát được, mà ta biết có thể có tác
động đến bất kỳ cấu hợp của nó kể cả con người kể từ Vụ Nổ Lớn (Big Bang) khỏang
14.7 tỷ năm trước.
Vụ nổ ấy đã tạo ra môi trường khí quark-gluon plasma và những
phần tử và phản phần tử cơ bản; tiền thân của vật chất và phản vật chất hiện hữu
trong vũ trụ như ta thấy. Có ba dạng vật chất được biết đến nhờ những khảo sát
của WMAP (Wilkinson Microwave Anisotropy Probe); đó là vật chất tối lạnh; vật
chất tối nóng và vật chất baryon; trong đó dạng vật chất tối lạnh chiếm 80%
tòan thể vũ trụ.
Sau Big Bang vũ trụ đã qua khỏi thời kỳ hỗn độn tràn đầy khí
chất bị nén chặt với năng lượng, áp suất và nhiệt độ cực lớn; để rồi nguội dần
và giãn ra, rồi do hấp lực hơn kém mà thu hút lẫn nhau tạo nên vô số thiên hà,
tinh tú và thiên thể. Vũ trụ đi vào một quy trình vận hành trật tự hơn; có
nghĩa là theo đúng quy luật của vật lý học chứng minh được. Lạ thay, 6 ngàn năm
trước điều này đã được triết học Ấ Đông đề cập đến trong ý niệm về Vô Cực
Nguyên Thủy tiến dần đến Thái Cực, tức là ở trạng thái của vũ trụ tại thời điểm
Big Bang xảy ra. Từ đó sáng tác ra Thái Cực đồ, hay Âm-Dương đồ (yin-yang) miêu
tả quan hệ giữa hai trạng thái của vô thường.
Lý thuyết về Big Bang thành hình và được đa số nhà khoa học
tán đồng vào đầu thế kỷ 20, nhờ những phát hiện vũ trụ giãn nở của Hubble vào
những năm 1920. Qua viễn vọng kính hiện đại trên đỉnh núi Wilson, sau một thời
gian dài quan sát ông nhận thấy các thiên hà đang dần xa nhau ra; như thế chứng
tỏ rằng trong quá khứ xa xôi chúng ở rất gần nhau và có thể cùng phát xuất từ một
vụ nổ lớn. Vụ nổ này đã tạo nên một phông nền bức xạ vi ba (cosmic microwave
background radiation) mà Arno Penzias và Robert W. Wilson tình cờ phát hiện khi
hai ông dùng ăng-ten sừng (Horn Antenna) ở Phòng thí nghiệm Bell tại New Jersey
vào năm 1965. Ta học đươc gì ở đây? Mọi khảo nghiệm trong "vũ trụ quan sát
được" chỉ biết được tại điểm khảo sát và đi ngược về trước. Điều này có
nghĩa là trong tiến trình giãn nở cho đến nay, vũ trụ đã lưu lại vết tích của
quá khứ. Tương tự với cõi nhân sinh, người ta chỉ biết được hiện tại và dĩ
vãng; tương lai là một khoảng không-thời gian chưa rõ. Ai bảo con người không
là một tiểu vũ trụ?
Nhưng thời gian, luôn liên tục, thực sự có những điểm mốc được
gọi tên như thế không? Bởi cái mà ta vừa gọi là hiện tại đã trở thành quá khứ
ngay trong sát na vừa lên tiếng. Do đó nhiều nhà tư tưởng đã nói "không ai
tắm trong cùng một giòng nước hai lần." Mọi sự mọi vật đều luân hồi và vô
thường.
Ban đầu có hai lý thuyết giải thích nguồn gốc vũ trụ được bàn
cãi gay gắt. Đó là mô hình vũ trụ dao động Milne còn gọi là 'vũ trụ học không
chuẩn' (non-standard cosmologies) do Frederick Fiedman, một nhà thiên văn học
Nga gợi ý; rồi đến năm 1931, lại trớ trêu là do George Lemaitre, một tu sĩ
Ca-tô người Bỉ tán đồng đề xướng. Lý thuyết kia gọi là "mô hình vũ trụ ổn
định" (steady state model) do nhà thiên văn Fred Hoyle nêu ra; và trong một
cuộc phỏng vấn trên đài BBC năm 1950 Hoyle lại chế nhạo lý thuyết của Fiedman
và Lemaitre là "ý tưởng nổ" (this big bang idea!). Ai ngờ câu
nói giễu cợt này trở thành tên gọi cho một lý thuyết đầy thuyết phục và trở nên
cơ bản cho ngành vũ trụ học ngày nay vì nó được đo đạt kiểm chứng bởi những viễn
vọng kính không gian. Nhưng Big Bang vẫn là một lý thuyết, dù thắng thế, nhưng
hiện nó đang bị thách thức bởi những lý thuyết mới là 'các mô hình chọn lựa
khác về vũ trụ" (alternative cosmological models).
Vũ trụ quan sát được chứa khoảng 100 tỷ thiên hà, trong đó có
Dải ngân hà (Milky Way Galaxy); và mỗi thiên hà lại chứa hằng trăm tỷ ngôi sao.
Trong Dải ngân hà (Milky Way Galaxy) lại có hệ mặt trời; gồm có quả đất và 8
hành tinh khác cùng quay quanh mặt trời. Bốn hành tinh gần mặt trời nhất theo
thứ tự là Thủy Tinh (Mercury), Kim Tinh (Venus), Quả đất (Earth) và Hỏa Tinh
(Mars). Như thế trong hằng hà sa số tinh tú thì quả đất trông thực nhỏ nhoi và
lạc lõng; thế nên cõi nhân sinh lại càng mong manh, thóang chốc. Nhưng vì cái tự
ngã luôn là quan trọng cho nên cái gì từ "ta" cũng đều... vĩ đại cả;
do đó nhà Phật mới dạy giáo lý "vô ngã" để chế ngự ngã mạn cho thân
tâm được an lạc. "Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất
tịnh, bất tăng bất giảm ..." là thế!.
IV. Trời và Đất
Mặt trời xuất hiện khoảng 4.6 tỷ năm trước. Cấu tạo của mặt
trời gồm 4 khối bao quanh nhau mà khối năng lượng luôn chuyển động phát nhiệt từ
27 triệu độ F. ở trung tâm đến khỏang 10 ngàn độ F. ở bề mặt. Hãy so sánh với
thân nhiệt ở người là 98.7 độ F. Khí hậu dễ chịu là 70 độ F. Đấy là chưa bàn đến
những hiện tượng thường xảy ra trên bề mặt của mặt trời như 'lóe sáng' (flares),
'khí dội lên' (prominences), 'cung từ trường' (coronal loops), 'chất bắn ra'
(coronal mass ejections), 'gió mặt trời' (solar winds) v.v... luôn ảnh hưởng đến
đời sống trên quả đất. Nguồn năng lượng của mặt trời (lửa) là một trong những
duyên tố cơ bản của sự sống, ngoài 'đất, nước và gió'.
Quả đất là một khối đất đá văng ra khỏi mặt trời khi hệ thái
dương được thiết lập cũng khoảng 4.6 tỷ năm trước từ một đám bụi vũ trụ hay còn
gọi là tinh vân, rồi nguội dần đi. Các định luật cơ học cho thấy kết quả của các
lực hấp dẫn, áp suất khí và lực ly tâm trong chuyển động quay khiến cho đám bụi
bắt đầu trở nên dẹt thành hình một cái đĩa quay tròn với một chỗ phình lên ở giữa,
gọi là đĩa bụi Mặt Trời. Mặt phẳng trung bình của đĩa bụi này rất gần với mặt
phẳng hoàng đạo sau này.
Quả đất vừa quay quanh nó tạo nên ngày và đêm; rồi cùng các
hành tinh khác quay quanh mặt trời tạo nên chu kỳ của một năm. Do những chuyển
động này và cộng thêm từ trường của lõi và lớp khí quyển bao bọc đã tạo ra trọng
lực làm cho mọi vật đều phải bám vào mặt đất. Mọi sinh vật vì thế mà phải sống
thích nghi với hiện tượng tự nhiên ấy.
Quả đất có diện tích khoảng 197 triệu dặm vuông; trên bề mặt
chứa 71% nước (trong đó đại dương đã chiếm gần 70%), và 29% đất; nghĩa là bề mặt
của đất hiện ra chỉ khoảng 58 triệu dặm vuông. Qua đó điều lạ kỳ là cơ thể con
người cũng chứa khoảng từ 65 đến 70% nước.
Tương tự như cấu tạo của mặt trời, quả đất gồm 5 phần: ở tâm
là một lõi đặt cực nóng, lớp kế bao quanh gọi là 'lõi ngoài', kế đến là 'lớp
choàng dưới' tương đối cứng rồi 'lớp choàng trên' là một vùng nham thạch nóng lỏng
dày khoảng 415 dặm, và ngoài cùng là 'lớp vỏ' đất đá nguội mà trên đó tất cả
các sinh vật chung sống, dày khoảng từ 10 đến 25 dặm. Bao quanh mặt đất là một
bầu khí quyển dày khoảng 37 ngàn dặm; trong ấy chứa 78.1% chất đạm (Nitrogen),
20.9% dưỡng khí (Oxygen) và 1% còn lại gồm hơi nước và các khí khác.
Năm 1915, nhà địa chất người Đức tên Alfred Wegener đề xuất
thuyết các đại lục di chuyển. Giới khoa học thời bấy giờ cười chế nhạo; mãi đến
khi các tầng kiến tạo (tectonic plates) được khám phá vào năm 1960, ý này mới
được chấp nhận. Theo đó thì qua quá trình kiến tạo mặt quả đất, các đại lục đã
chuyển dịch thay đổi chứ không như bản đồ ngày nay ta thấy. Giới khoa học địa
chất chia các thời kỳ ấy là Thời địa đại Pangaea, khỏang 250 triệu năm trước,
các đại lục nằm gần nhau, sau đó dần cách xa ra. Khoảng 230 triệu năm trước gọi
là Triassic; 200 triệu năm trước gọi là Jurassic; 100 triệu năm trước gọi là
Cretaceous; cho đến nay thì giữa các đại lục là đại dương rộng lớn.
V. Cung Hằng
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh.
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
(Xuân Diệu.)
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
(Xuân Diệu.)
Trăng từ đâu mà ra? Và cuộc sống sẽ tẻ nhạt biết chừng nào nếu
thiếu vắng hằng nga!. Biết bao vần thơ tự cổ chí kim của nhân loại đã tuôn ra để
ca tụng vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh sắc trần thế dưới trăng. Ánh trăng chỉ là sự
phản chiếu ánh mặt trời từ mặt trăng xuống quả đất về đêm. Cũng lạ là ngôn ngữ
nhân gian chỉ thấy "mặt" của trăng đẹp mà chẳng hề gọi là "quả
trăng" dù hình thể của nó cũng tròn như quả đất.
Theo một lý thuyết hiện đang được nhiều nhà thiên văn học đồng
ý là cách nay khoảng 4,5 tỷ năm, có một hành tinh được đặt tên là Theia có cùng
độ xa khoảng 150 triệu km từ mặt trời, tương tự với khoảng cách của quả đất. Khối
lượng của quả đất dần càng lớn nên do sự lắng đọng của bụi vũ trụ nên sức hấp lực
càng tăng làm cho quỹ đạo quay của Theia dao động đến một lúc va mạnh vào quả đất
theo một góc thấp và chéo làm cho quả đất bị sứt mẻ văng ra một phần nhỏ biến
thành mặt trăng, và trở thành hành tinh của quả đất. Nó tiếp tục quay quanh quả
đất và trong khoảng một năm thì hình dạng của nó dần biến thành hình cầu. Chính
sự va chạm này đã làm cho trục của quả đất bị nghiêng đi 23,5°, và trục quay
nghiêng khác nhau đã gây ra bốn mùa khác nhau trên quả đất. Nó cũng đã làm tốc
độ quay của quả đất tăng thêm và khởi động những kiến tạo địa tầng.
VI. Sự Sống
Các nhà khoa học tin rằng sự sống, hay ít nhất là các cấu chất
hữu cơ, có thể đã đến quả đất từ vũ trụ; tuy nhiên những cơ cấu làm cho sự sống
có thể được phát sinh trên quả đất phải có nguồn gốc từ quả đất vào khoảng 3 tỷ
năm trước. Nhiều người tin rằng những tế bào ban đầu đó có thể đã tham gia cùng
với các chất thoát từ miệng núi lửa dưới đáy biển. Nhưng trong vô số những tế
bào hay những tiền tế bào này chỉ có một số còn sống sót.
Trong một thời gian khá lâu sau khi quả đất được thành hình
không có một sinh vật nào xuất hiện. Dần dần khi nhiệt độ đạt đến một khoảng khả
dĩ thích hợp cho sự sống thì sinh vật mới bắt đầu có mặt. Dĩ nhiên còn có vô
vàn duyên tố phụ trợ khác (trùng trùng duyên khởi), mà duyên tố cơ bản là khoảng cách giữa mặt trời và quả đất. Cho đến nay như ta đã biết là sự sống không thể
có mặt trên những hành tinh khác trong thái dương hệ chỉ vì gần hay xa mặt trời
quá (làm ta nghĩ đến Trung Đạo).
Khi mặt trăng được thành lập đã tạo ra bốn mùa khác nhau trên
quả đất; kéo theo những hiện tượng tự nhiên luôn chuyển đổi như hơi nước, mây,
gió, mưa, bảo, sấm, sét, núi lửa, thảo nguyên, lục địa chuyển dịch, đất trồi, đất
sụt, sông ngòi, biển cả, rừng rậm v.v...
Có lẽ các sinh vật chưa có nhân từ đại dương đã chinh phục mặt
đất ngay từ 2,6 tỷ năm trước. Khoảng 1.1 tỷ năm trước, thực vật, động vật, và
các loài nấm đều đã phân chia, dù chúng vẫn tồn tại như những tế bào đơn độc. Một
số sống thành các phức hợp, và dần dần một số chức năng bắt đầu diễn ra. Khoảng
1 tỷ năm trước, các thực vật đa bào đầu tiên xuất hiện, có lẽ là tảo xanh. Có
thể vào khoảng 900 triệu năm trước, đa bào động vật xuất hiện. Ban đầu có lẽ là
một thứ gì đó tương tự với đa bào của hải miên ngày nay.
Mọi sinh vật kể cả thực vật trên quả đất vì thế phải
qua một thời gian cả hàng tỷ năm tiến hóa từ những mầm sống nguyên sơ đơn bào từ
biển rồi mốc, meo, nấm, bào tử, ký sinh v.v... tự phân tách mà sinh sôi đưa dần
đến nguyên dạng đa bào lưỡng tính rồi thân dạng phân phái có đực và cái; rồi mới
đạt đến con người linh mẫn biết dùng trí khôn để chế ngự được thiên nhiên mà
sinh và lưu tồn hữu hiệu hơn.
Có lẽ tất cả các tế bào ban đầu đều là tế bào dị dưỡng nghĩa
là sử dụng những phân tử hữu cơ trong môi trường hay từ những tế bào khác như
nguồn năng lượng. Dần dần vì nguồn dinh dưỡng sút giảm, một số tế bào đã phát
triển cách hấp thụ ánh sáng mặt trời như một nguồn năng lượng mới vào khoảng 3
tỷ năm trước.
Quang hợp là một quá trình sử dụng năng lượng từ ánh sáng mặt
trời để biến carbon dioxide và nước vốn rất phong phú thành những phân tử hữu
cơ giàu năng lượng. Khí oxygen theo đó được sản xuất như một phế phẩm. Đầu tiên
nó liên kết với đá vôi, sắt, và những chất khoáng khác rồi sau khoảng thời gian
rất dài đã tích tụ trong khí quyển đã làm cho khí quyển quả đất trở thành giàu
oxygen. Một số oxygen phản ứng để thành ozone, tạo nên một lớp nằm ở phần trên
cùng của khí quyển. Tầng ozone đã trở thành một lớp chắn an toàn, hấp thụ một
lượng lớn bức xạ cực tím mà trước kia có thể xuyên qua khí quyển. Điều này cho
phép các tế bào di chuyển lên bề mặt đại dương và cuối cùng là đất liền.
Tuy vậy, oxygen cũng là chất độc cho phần lớn sự sống khác
trên quả đất và chúng đã đã biến mất khi lượng oxygen tăng lên. Các hình thái sự
sống thích nghi được đã tồn tại và phát triển, và một số đã phát triển khả năng
sử dụng oxygen để tăng cường sự trao đổi sinh chất và hấp thụ được nhiều năng
lượng hơn từ cùng loại thực phẩm.
Vì một lý do chưa xác định, trong sự hoạt động hóa học mạnh mẽ
thời kỳ đầu ở quả đất, một phân tử nào đó đã có khả năng tự phân chia thành các
bản sao DNA (Desoxyribonucleic Acid) của chính nó. Bản chất của phân tử này vẫn
còn chưa được biết tới, từ đó các chức năng của nó được truyền lại cho các thế
hệ bản sao về sau này; và một khi tồn tại có khả năng tiến hóa theo luật đào thải.
Giới khoa học chấp nhận lý thuyết giải thích nguồn gốc sự sống
ban sơ như sau: Năng lượng cao từ các núi lửa, sấm sét, và bức xạ tia cực tím
có thể gây những phản ứng hóa học tạo ra nhiều phân tử phức tạp hơn từ các hợp
chất đơn giản như methane và amoniac. Các hợp chất hữu cơ đơn giản là những
nguyên tố căn bản của sự sống. Những phản ứng tiếp diễn trong một thời gian
dài, thường là ngẫu nhiên với trùng trùng duyên khởi, đến khi nó bất ngờ tạo được
một phân tử mới: phân tử tái tạo, RNA (Ribonucleic Acid) vừa có thể lưu giữ
thông tin di truyền vừa làm xúc tác cho các phản ứng. Nó thúc đẩy các phản ứng
hóa học tạo thành bản sao của chính nó, và tiến trình phát triển thực sự bắt đầu.
Sự sống có nguyên liệu tái tạo dần được bao bọc bởi một màng tế bào để có thể
sinh tồn độc lập.
Thời gian những động vật đầu tiên rời đại dương hiện vẫn chưa
được biết chính xác: bằng chứng rõ rệt sớm nhất là những động vật chân đốt và
bò sát trên đất liền khoảng 450 triệu năm trước: Khoảng 380 tới 375 triệu năm
trước những động vật bốn chân đầu tiên xuất hiện từ loài cá và chúng đã tiến
vào đất liền trong những khoảng thời gian ngắn, và vẫn quay lại đại dương để đẻ
trứng. Đây là nguồn gốc của các động vật lưỡng cư. Khoảng 365 triệu năm trước,
một giai đoạn tuyệt chủng khác diễn ra, có lẽ là do sự đóng băng toàn cầu (ice
age). Khoảng 360 triệu năm trước, thực vật tiến hóa thêm hạt, giúp chúng tiến
sâu hơn rất nhiều vào đất liền.
Khủng long xuất hiện 350 triệu năm trước. Mười triệu năm sau
đấy, quá trình tiến hóa màng ối đã cho phép trứng được ấp trên đất liền, đó là
một lợi thế tồn tại cho phôi của loài động vật bốn chân. Điều này dẫn tới sự
phân nhánh động vật có màng ối ra khỏi động vật lưỡng cư. Rồi khoảng 320 triệu
năm trước sự phân nhánh giữa Synapsida (gồm các loài động vật có vú) với
Sauropsida (gồm các loài chim và những loài bò sát không bay hay không phải là
động vật có vú) diễn ra. Tất nhiên, những nhóm sinh vật khác tiếp tục tiến hóa
và phân nhánh thành cá, côn trùng, vi khuẩn và các loài khác, nhưng đến nay vẫn
chưa có nhiều thông tin chi tiết như các loài trên.
Khỏang 250 triệu năm trước; vào thời địa đại Pangaea, nhiều
loài khủng long chiếm vai trò thống trị loài động vật có xương sống. Vào thời địa
đại Jurassic, ranh giới giữa các loài khủng long bay và không bay là không rõ
ràng nhưng Archaeopteryx, được tin là một trong những con chim đầu tiên, sống
vào khoảng 150 triệu năm trước. Các loài động vật có vú đầu tiên xuất hiện và
cơ thể nhỏ giống như chuột chù ngày nay.
Khoảng 132 triệu năm trước, thực vật hạt kín tiến hóa thành
các loài có hoa. Khoảng 65 triệu năm trước, một thiên thạch có đường kính cở 10
cây số dường như đã đâm vào quả đất ngoài khơi bán đảo Yuca tán, tung một lượng
lớn vật chất và hơi nước lên không, che khuất ánh sáng mặt trời, ngăn cản quang
hợp. Đa số các loài động vật lớn, gồm cả những loài khủng long không bay bị tuyệt
chủng. Sau đó các loài động vật có vú nhanh chóng phân chia, trở nên lớn hơn và
chiếm vai trò thống trị trong số các động vật có xương sống.
Khoảng 63 triệu năm trước, vị tổ tiên chung của toàn bộ động
vật linh trưởng đã có mặt. Khoảng 34 triệu năm trước, các loài động vật có vú
trên mặt đất đã quay trở về biển để trở thành các loài động vật như
Basilosaurus sau này sẽ trở thành các loài cá heo và cá voi. Con người như hiện
đại (homo erectus) chỉ xuất hiện vào khoảng 1.5 triệu năm trước, sau thời kỳ
đóng băng toàn cầu khác.
Thu 2007
Trần Trúc Lâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét