Vũ Hạnh và những tác phẩm lý luận
phê bình văn học ở
miền Nam trước 1975
“Vũ Hạnh là một trong những cây bút khá nổi bật với rất nhiều
bài viết, nhiều công trình lý luận - phê bình được xuất bản trên sách báo ở miền
Nam, trong đó hai công trình tiêu biểu là Đọc lại Truyện Kiều (Cảo
Thơm xb, 1966) và Tìm hiểu văn nghệ (Trí Đăng xb, 1970)”.
1. Nếu hình dung lý luận - phê bình văn học ở miền Nam trước
1975 là một dòng sông có nhiều nhánh chảy qua những bãi bờ khác nhau, thì
khuynh hướng lý luận - phê bình Mác-xít là một nhánh sông hiện hữu như một thực
thể sinh động trong dòng sông lý luận - phê bình ấy.
Nhà văn Vũ Hạnh
Sự phát triển của một bộ phận văn học không chỉ được
xem xét ở lĩnh vực sáng tác mà còn phải xem xét đến hoạt động lý luận - phê
bình. Chính ở lĩnh vực này, bao giờ cũng thể hiện sự chín chắn và bền vững của
bộ phân văn học ấy. Vì vậy, sự hình thành khuynh hướng lý luận - phê bình chịu ảnh
hưởng của tư tưởng Mác-xít trong đời sống văn học ở miền Nam lúc bấy giờ đã khẳng
định sự trưởng thành của bộ phận văn học yêu nước và cách mạng mà điều dễ nhận
biết là sự hình thành đội ngũ các nhà lý luận - phê bình. Trong đội ngũ này có
một số cây bút lý luận - phê bình mà ảnh hưởng không chỉ trong khuynh hướng phê
bình mác xít mà còn ảnh hưởng đối với cả đời sống lý luận - phê bình văn học
như: Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Trần Triệu Luật, Cô Thanh Ngôn, Lê
Nguyên Trung… Trong đó, có thể nói, Vũ Hạnh là một trong những cây bút khá nổi
bật với rất nhiều bài viết, nhiều công trình lý luận - phê bình được xuất bản
trên sách báo ở miền Nam, trong đó hai công trình tiêu biểu là Đọc lại
Truyện Kiều (Cảo Thơm xb, 1966) và Tìm hiểu văn nghệ (Trí Đăng
xb, 1970). Nhưng có lẽ Đọc lại Truyện Kiều là một trong những tác phẩm
phê bình để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc nhất không chỉ ở tư
duy độc đáo, mà còn ở vẻ đẹp ngôn ngữ phê bình với nhiều cá tính sáng tạo.
2. Đọc lại Truyện Kiều cho thấy một bút lực sung
mãn, một tư duy phê bình tinh tế, nhạy cảm và sắc sảo. Những vấn đề đặt ra
trong tác phẩm luôn đem đến cho người đọc những bất ngờ thú vị từ những liên tưởng
do tác giả gợi lên. Các bài viết như “Đứa con của nàng Kiều”, “Từ Hải sự lỡ tay
của thiên tài”, “Những khuôn mặt tình yêu trong Truyện Kiều” là những bài
viết như thế.
Có thể nói, việc nghiên cứu Truyện Kiều của Nguyễn
Du ở miền Nam trước 1975, không chỉ có Vũ Hạnh mà còn có một số công trình của
các tác giả khác như Trần Thanh Hiệp với “Để giải quyết mâu thuẫn trong Đoạn
trường tân thanh” (Sáng tạo số 6/1957); Nguyên Sa với “Nguyễn Du trên những
nẻo đường tự do” (Sáng tạo số 12/1957), Nguyễn Văn Trung với Vụ
ánTruyện Kiều… Nhưng ở Đọc lại Truyện Kiều mọi vấn đề được Vũ Hạnh
nhìn nhận từ một hệ qui chiếu khác so với các nhà phê bình ở miền Nam. Đó là hệ
qui chiếu của kiểu phê bình xã hội học chịu ảnh hưởng mỹ học Mác xít. Ở đây ông
không giải mã Truyện Kiều theo quan điểm duy tâm siêu hình mà giải mã
nó trên cơ sở của quan điểm duy vật. Vì vậy Đọc lại Truyện Kiều của
Vũ Hạnh đem đến cho độc giả một cái nhìn mới, một cách nghĩ mới so với các bài
viết về Truyện Kiều ở miền Nam lúc bấy giờ. Những vấn đề được ông nói đến là những
vấn đề có ý nghĩa xã hội, liên quan đến số phận con người. Chẳng hạn vấn đề
”Đứa con nàng Kiều” được tác giả đặt ra không chỉ là sự trào lộng hay lạ
hóa mà đó là vấn đề mang tính nhân văn về quyền được làm vợ, làm mẹ của người
phụ nữ. Và đây cũng là một bi kịch trong chuỗi bi kịch của đời Kiều đã bị xã hội
tàn bạo ấy vùi dập. “Trong cái cảnh ngộ làm vợ hờ thường trực của người mình
yêu tha thiết, Kiều sẽ có dịp thường xuyên để thấy thân phận đàn bà chịu thiệt
thòi của nàng. Xã hội phong kiến thấy nàng hy sinh quá nhiều cho trật tự ấy suốt
mười lăm năm, nên đã cho nàng tái ngộ như một tặng thưởng. Nhưng đấy chỉ là một
huy chương giả. Bởi vì (….) Rốt cuộc, Kiều chẳng có chồng, Kiều chẳng có con,
chỉ có mỗi một mớ danh từ tuyệt đẹp” [1]. Vũ Hạnh cũng rất tinh tế và có
lý khi chỉ ra thực chất cái ngày gọi là “đoàn viên” mà Nguyễn Du tạo nên trong
Truyện Kiều: “Nếu ta nghĩ kỹ về cái tội ác mà chế độ ấy gây nên cho Kiều, và
nghĩ kỹ nữa về cái ân huệ đoàn viên mà nó ban phát cho Kiều, ta sẽ thấy rằng
chung qui là để làm lợi cho chế độ ấy mà thôi. Đày đọa con người vào tủi nhục,
rồi ve vãn người nuốt lấy tủi nhục, đó là thực chất của chế độ phi nhân với hai
đặc tính: tàn bạo và điêu ngoa” [2]. Lý giải về tình yêu trong Truyện
Kiều, Vũ Hạnh đã không siêu hình hóa tình yêu, mà nhìn nó trong mối quan hệ với
cuộc đời thực. Ông không những nhìn thấy một khuôn mặt tình yêu mà thấy nhiều
“khuôn mặt tình yêu” trong Truyện Kiều với những dằn xé, khổ đau, những hạnh
phúc và bất hạnh đan xen nhau vây khốn cuộc đời bé nhỏ của Kiều. Ông chỉ rõ chế
độ xã hội đã chà đạp cuộc đời Kiều. Từ đó, ông khẳng định một vấn đề có tính
qui luật, trong xã hội thối nát sẽ không có chỗ cho con người lương thiện tồn tại.
Và tất nhiên, xã hội ấy không thể dung nạp được “cái đẹp” cho dẫu đó là cái
đẹp của tình yêu: “Đoạn Trường Tân Thanh đã cho ta thấy nàng Kiều là người tình
nhân tuyệt vọng. Phần kiểu mẫu ấy thuộc hẳn về nàng. Vì nàng biết yêu - như đã
trình bày - một cách chủ động bình đẳng, với những ý tình tha thiết và một ý hướng
bảo vệ lâu dài. Phần tuyệt vọng ấy thuộc về cuộc đời, bởi vì xã hội sâu xa
không thể tiếp nhận ý tình tốt đẹp. Truyện Kiều xét trên bất cứ khía cạnh nào
cũng thấy biểu hiện của sự hủy hoại, hủy hoại do một khung cảnh dơ bẩn không
dung nạp được con người trong sạch” [3]. Ở đây, Vũ Hạnh không nhìn khổ đau
của đời Kiều với điểm nhìn duy tâm siêu hình mà ông đã nhìn vấn đề này dưới góc
nhìn xã hội. Do đó, theo ông, muốn có hạnh phúc, muốn bảo vệ được tình yêu chân
chính đòi hỏi con người phải đấu tranh không ngừng, không chỉ đấu tranh cho
tình yêu của mình, mà còn đấu tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Vì “đấu
tranh cho con người yêu đương lý tưởng không thể nào tách biệt khỏi sự nghiệp đấu
tranh cho một xã hội có những điều kiện bảo đảm hữu hiệu cho sự tồn tại, phát
triển của con người ấy” [4].
Đối với nhân vật Từ Hải, Vũ Hạnh cũng có nhiều nhận xét khá
tinh tế và sâu sắc khi cho rằng: “Từ Hải là sự lỡ tay của thiên tài Nguyễn Du”.
Ông đã nhìn thấy ở Từ Hải khát vọng của tự do và công lý. Từ Hải không chỉ là
“sự bù đắp cho Kiều” mà theo Vũ Hạnh “Từ là hiện thân của một phản ứng, của
lòng khao khát đền bù của một đòi hỏi quân bình có thể đồng nghĩa với sự đòi hỏi
công bình, một thứ công bình lý tưởng về người, về đời, vọng lên bất cứ nơi nào
còn có đày đọa tủi hờn” [5]. Chính vì vậy, Vũ Hạnh rất xót xa trước cảnh Nguyễn
Du để cho Từ Hải đầu hàng. Như thế, Từ Hải đã trở thành một thứ ”ảo ảnh”
của một thứ bọt xà phòng và nguy thay “cái bọt xà phòng Từ Hải đã chạm khung cửa
đầu hàng. Ảo ảnh đi vào thực tại trông thực vô cùng nghễnh ngãng. Từ Hải chung
qui là sự lỡ tay của cụ Nguyễn Du” [6]. Rõ ràng với những gì đã phân tích, Đọc
lại Truyện Kiều đã thể hiện rõ ảnh hưởng tư tưởng phê bình Mác xít. Đây
không chỉ là tác phẩm phê bình văn học có giá trị của lý luận - phê bình văn học
ở miền Nam mà còn là của nền lý luận - phê bình văn học dân tộc.
Bên cạnh Đọc lại Truyện Kiều, Vũ Hạnh còn có Tìm hiểu
Văn nghệ. Đây là tác phẩm được viết trên cơ sở ảnh hưởng tư tưởng của mỹ học
Mác xit, tiêu biểu ở các bài: “Văn nghệ, một hình trạng ý thức”, “Chức vụ cao cả
của văn nghệ”, “Văn nghệ tác động như thế nào”, “Văn nghệ phản ánh bản chất thực
tại”, “Bên trong văn nghệ sĩ và bên ngoài cuộc đời”. Đặc biệt, trong bài “Một số
biểu hiện tiêu cực trong văn nghệ”, xuất phát từ quan điểm văn học phải gắn với
thực tại, Vũ Hạnh đã phê phán tính chất thoát ly ở những tác phẩm văn chương của
miền Nam lúc bấy giờ, đó là: “Sự thoát ly bằng một ngã lối êm đềm, ngã lối
ái tình” trong những tác phẩm tiểu thuyết diễm tình; là “sự thoát ly bằng
một ngả lối mơ hồ của loại sách hoang đường quái đản”, trong các tiểu thuyết võ
hiệp; là “sự thoát ly vào những con đường dĩ vãng để ngồi ôn lại chuyện cũ,
tích xưa hầu dễ dàng lãng quên cuộc đời trước mắt”; là “sự thoát ly bằng cách
trốn vào con đường ngóc ngách của những tâm lý cá nhân”; là “sự thoát ly vào những
dặm đường khúc mắc của những quan niệm triết học lỗi thời“. Vũ Hạnh cho rằng:
Tất cả những biểu hiện trên làm cho đời sống văn nghệ ở miền Nam “héo hắt, rời
rạc, thiếu hẳn sinh khí, sinh lực”, ảnh hưởng xấu đến người tiếp nhận, làm giảm
đi “ý thức tự tin, tự cường nơi lòng người đọc, đem cái phù phiếm, phiêu lưu
thay thế cho cái nhiệt tình chính đáng cùng những ảo ảnh xa vời che dấu cả cái
thực trạng cần được cải thiện không ngừng” [7]. Từ đó, tác giả xác định rõ trách
nhiệm của người làm văn nghệ là phải “có ý thức về sứ mệnh của mình, phải đứng
về phía đông đảo con người chịu những thiệt thòi để đấu tranh cho tự do dân chủ
chân chính. Đó là con đường vinh quang của văn nghệ sĩ” [8].
Ngoài hai tác phẩm trên, do nhiệm vụ của người chiến sĩ hoạt
động trên lĩnh vực báo chí và văn học, nên ngòi bút phê bình của Vũ Hạnh còn
tung tẩy trên tất cả các thể loại từ phê bình thơ, truyện, tiểu thuyết, kịch,
khảo luận văn học… như phê bình bộ ba tác phẩm tiểu thuyết: Dì Mơ (1959), Mùa
ảo anh (1963), Những người đang đi tới (1964) của Đỗ Thúc Vịnh,
hay thế giới tiểu thuyết của Sơn Nam với những tác phẩm tiêu biểu như Hương
rừng Cà Mau, Chim Quyên xuống đất và Hình bóng cũ. Với Sơn Nam,
ngòi bút phê bình của Vũ Hạnh đã có những phát hiện tinh tế, những lời phê bình
bóng gió xa xôi nhằm thức tỉnh lòng yêu nước và ý thức về tổ quốc quê hương: “Ở Chim
Quyên xuống đất, tác giả viết về anh Sĩ nhưng điều đáng tiếc là không hiểu rõ
được anh Sĩ - hoặc không dám hiểu anh ta nên chỉ vẽ một nhân vật chơi vơi, ngơ
ngác giữa cái không khí mơ hồ đầy những chuyện xưa tích cũ xen kẽ những lời kêu
gọi đâu đây về một tổ quốc cũng mơ hồ nốt, trong khi hai chân kéo lê trên những
quãng lầy lội của một cuộc sống thét gào cơm áo hằng ngày” [9].
Không chỉ thức tỉnh lòng yêu nước, tinh thần hướng về nguồn cội
mà trong những bài phê bình, Vũ Hạnh luôn khẳng định quan điểm văn chương của
mình, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của người cầm bút. Với ông nhà văn là
“con người nhưng phải là con người ý thức” [10]. Vì thế, Vũ Hạnh đã phân tích một
cách sâu sắc yếu tố “thác loạn” trong tác phẩm của Chu Tử mà theo ông “ trong
các món hàng gọi là ăn khách của Chu Tử người ta thấy một cuộc sống thác loạn,
bừa bãi chi phối bởi hai động cơ chính yếu là Tình và Tiền. Nhân vật trong truyện
đều không có một lý tưởng nào hết - dù có bảo rằng đã thất vọng vì lý tưởng -
và hầu như không có một lý trí rõ rệt. Đó là mẫu loại con người hư hỏng, ngụy
biện, ích kỷ và sa đọa có nhiều xuẩn động bản năng hơn là suy tưởng vững chắc” [11].
Ở lĩnh vực kịch ông cũng phê bình tình hình phát triển kịch ở
miền Nam trong những năm 1959, 1960, 1961… trong đó đi sâu tìm hiểu, đánh giá
hai vở kịch nổi lên trong năm 1962 là vở Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc
Khoan và Người viễn khách thứ mười của Nghiêm Xuân Hồng.
Với Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc Khoan, Vũ Hạnh cho
rằng: “Thành Cát Tư Hãn có thể phản ánh một tấn bi kịch trong tâm hồn của
Vũ Khắc Khoan” [174, tr.92]. Còn với vở Người viễn khách thứ mười của
Nghiêm Xuân Hồng, ta bắt gặp một thứ “ảo tưởng quá dày quá lớn về mình và ở cuối
đường đuổi bắt phiêu lưu, họ sẽ gặp niềm tuyệt vọng như là định mệnh” [12]. Về
thể loại thơ, bên cạnh những bài phê bình mang tính tổng kết về thơ của một số
năm, Vũ Hạnh cũng viết một số bài phê bình thơ như “Bàn về con đường tri thức”
trong tập thơ Từ Thức của Đoàn Thêm; “Người yêu tôi khóc” của Thế
Viên; “Trăng treo đầu súng” của Tường Linh… Ngơài ra, ông cũng phê bình một số
công trình khảo cứu như: Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, một
cuốn sách quá tồi tệ bởi tính cẩu thả và kém chuyên môn của người biên soạn.
Cho nên, theo Vũ Hạnh việc “tiễu trừ thi phẩm nầy là một nhiệm vụ vô cùng cần
kíp như sự tiễu trừ phiến loạn” [13]. Còn khi phê bình Lược khảo văn
học của Nguyễn Văn Trung (Bách Khoa số 179 /1964), Vũ Hạnh đã chỉ ra
những điều mà theo tác giả là ông Nguyễn Văn Trung đã có mâu thuẫn trong tư duy
lý luận của mình.
Có thể nói, những bài phê bình của Vũ Hạnh đều thống nhất
trên quan điểm đấu tranh chống văn học phi nhân bản, phi dân tộc, đề cao lòng
yêu nước, tinh thần tự hào, ý thức trách nhiệm của người cầm bút trước cuộc sống
và trước vận mệnh dân tộc. Cảm hứng chủ đạo này đã ám ảnh suốt hành trình sáng
tạo của nhà văn, không những ở lĩnh vực lý luận - phê bình mà cả trong lĩnh vực
sáng tác. Đây cũng là mặt tích cực thể hiện tính chiến đấu của ngòi bút Vũ Hạnh
trong tình hình văn học phức tạp ở đô thị miền Nam. Nhưng từ đây cũng nảy sinh
những điểm hạn chế vì có một số vấn đề tác giả còn cực đoan, khi lý giải theo
quan điểm tư tưởng chính trị mà chưa chú trọng đến tính khoa học văn chương. Những
hạn chế đó là điều tất yếu, nhưng mặt thành công trong các bài phê bình của ông
vẫn là mặt cơ bản. Ta hãy nghe Vũ Hạnh tâm sự “Đối với tôi, một cái biến cố
quan trọng trong cuộc đời viết lách mười năm qua, là lĩnh vực phê bình. Đó là
công việc vừa thú vị lại vừa nguy hiểm, đem lại cho bản thân tôi khá nhiều bạn
bè thân thiết và những kẻ thù, cùng vô số những kỉ niệm sâu xa” [14].
3. Dẫu trong quá trình hoạt động văn học cả trong sáng tác lẫn
lý luận - phê bình Vũ Hạnh gặp nhiều điều rắc rối và nguy hiểm nhưng ông vẫn
không chùn bước. Ngược lại, ngòi bút phê bình của ông ngày càng sắc bén hơn,
tính chiến đấu cao hơn. Vì thế, trong phê bình, ông không tránh né bất cứ nhà
văn nào, tác phẩm nào, thể loại nào. Khi đánh giá về tác phẩm của một số nhà
văn được xem là “có giá” ở đô thị miền Nam lúc bấy giờ như Võ Phiến, Nhật Tiến,
Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Mạnh Côn, Linh Bảo, Mặc Thu… Vũ Hạnh
cho rằng ở những nhà văn này có những tác phẩm nhiều khi “quá thiên về sự đẽo gọt
hình thức, không cần cốt truyện, dễ đưa đến sự suy tưởng vớ vẩn, hư không, làm
như cuộc đời không có chuyện gì đáng nói nữa” [15]. Cho nên, có thể khẳng định
Vũ Hạnh là một trong những gương mặt tiêu biểu không chỉ cho khuynh hướng phê
bình chịu ảnh hưởng quan điểm Mác Xít mà còn là gương mặt phê bình tiêu biểu của
lý luận - phê bình văn học ở miền Nam trước đây cũng như của nền lý luận - phê
bình văn học dân tộc hôm nay. Việc đọc lại những tác phẩm lý luận - phê
bình văn học của Vũ Hạnh miền Nam trước 1975, thiết nghĩ cũng thức
nhận cho chúng ta những điều lý thú và bổ ích trong việc xây dựng
nền lý luận - phê bình văn học dân tộc trong thời đại hội nhập và
phát triển.
Chú thích:
(1) (2) (3) (4) (5) (6) Vũ Hạnh, Đọc lại Truyện
Kiều, Nxb Cảo Thơm, SG, 1966, tr. 30-31, 110, 77, 92, 58, 48
(7) (18) Vũ Hạnh, Tìm hiểu Văn nghệ, Nxb Trí Đăng, SG,
1970, tr. 110-111, 113
(9) Cô Phương Thảo, “Đọc Chim quyên xuống đất của
Sơn Nam”, Bách Khoa thời đại số 153/1963, tr. 111
(10) Cô Phương Thảo, “Đọc Sui cô nương của Mặc
Đỗ”, Bách Khoa thời đại số 56/1959, tr. 5
(11) Cô Phương Thảo, ”Chu Tử và tác phẩm hiện tượng
sách bán chạy của Chu Tử trong năm 1963 có ý nghĩa gì” Tin Văn số
13/1966 tr. 10
(12) Cô Phương Thảo, “Đọc Người viễn khách thứ mười“, Bách
Khoa thời đạisố 153/1963, tr.60
(13) Nguyên Phủ, ”Điểm sách Thi nhân hiện đại của
Phạm Thanh”, Bách Khoa thời đại số 67/1959, tr. 69
(14) Vũ Hạnh, “Mười năm cầm bút”, Bách Khoa thời đại số
243/1967, tr. 86
(15) Vũ Hạnh, “Hoàn cảnh sáng tác và điều kiện sống hiện
thời của văn nghệ sĩ”, Bách Khoa thời đại số 120/1962, tr. 50.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét