Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021

Tiểu luận về Trần Tế Xương

Tiểu luận về Trần Tế Xương

THƠ TÚ XƯƠNG
Một thành tựu lớn của thơ Tú Xương là cái tôi văn học được tô đậm hơn bao giờ hết thông qua sự khắc họa một điển hình nhân vật của thời đại. Nhân vật đó không phải ai khác, chính là bản thân Tú Xương! Một nhân vật có tâm hồn cao đẹp và lãng mạn (phong nguyệt tình hoài, giang hồ khí cốt), có “ngạo cốt” với phẩm cách cao cường (quắc mắt khinh đời), có tài năng lỗi lạc (được Nguyễn Khuyến thừa nhận là người kế tục ông, đứng đầu làng văn của cả nước), có cặp mắt thần nhìn rõ chân tướng của thời đại và nhân sinh (thiên hạ xác, nhân tình trắng). Nhưng tiếc thay, đó lại là nhân vật bất phùng thời (cho nên suốt đời chống đối với cuộc đời), bế tắc không tìm thấy con đường dẫn đến lý tưởng, rốt cuộc trở thành một nhân vật bi kịch, luôn day dứt, uất hận, đau buồn, chán chường, và rồi chết yểu.
Cái tôi - nhân vật điển hình ấy được Tú Xương đặc tả bằng một bức chân dung sau đây:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành,
Mặt thời lơ láo mắt thời lanh.
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh…
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ,
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh…
(Tự cười mình)
Một bức chân dung độc đáo trong đó những “sự phi thường” ràng rịt với đủ thứ thói hư tật xấu, nhưng như thế mới đúng là chân dung thật của một nhân vật sống ngoài vòng cương tỏa như Tú Xương! Rõ ràng nhà thơ đã vứt bỏ tất cả mọi thứ điển phạm lẫn phong cách của văn chương cổ điển để đi đến với cái thật của một mẫu người phóng lãng dám vượt ra khỏi những khuôn sáo cổ truyền! Chủ trương ấy của ông đã đồng nhất với chủ trương của nhà thơ vĩ đại Pháp Baudelaire quyết sống và sáng tạo những cái thật sự mới cho thế giới, không giẫm chân vào “vết xe cũ” của những người đi trước.
Thường đã nói đến cái tôi là nói đến một tính cách mạnh mẽ, sắc bén, ưu việt, đầy cá tính. Chính vì vậy, cái tôi trước hết thuộc về “những đấng tài hoa” trong đời.
Tú Xương là người có đầy đủ bản lĩnh để khẳng định cái tôi của mình:
Ta nghĩ như ta có dại gì?
Ai chơi chơi với chẳng cần chi!
Kìa thơ tri kỷ đàn anh nhất,
Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì.
Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế,
Giang hồ cho biết mặt tương tri…
(Tự đắc)
Mặc dù gặp phải một hoàn cảnh vô cùng khắt khe nhưng cái tôi ấy vẫn ngang nhiên tồn tại như một sự thách thức với định mệnh, với cuộc đời. Trong hoàn cảnh trớ trêu ấy, Tú Xương đã dùng tiếng cười để giải tỏa tất cả. Nhà thơ bèn mang chính mình ra châm chọc, biến cái bi thành cái hài, bởi vì hình như với ông, cuộc đời chẳng khác gì một hí trường để tất cả mọi người cùng đến đó vui chơi đú đởn:
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi.
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời…
(Tự cười mình)
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,
Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không.
Một tuồng rách rưới con như bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng…
(Mùa nực áo bông)
Hỏi ra quan ấy ăn lương… vợ
(Quan tại gia)
Hoặc:
Thầy đồ thầy đạc
Dạy học dạy hành
Vài quyển sách nát
Dăm thằng trẻ ranh…
Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát, vả lại vừa gàn vừa dở…
Trông thầy
Con người phong nhã
Ở chốn thị thành
Râu rậm bằng chổi
Đầu to tầy giành.
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh.
Nhà lính tính quan, ăn rặt những lạp xường, (…)
mặc rặt những quần vân kim tuyến,
Đất lề quê thói, chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc,
ngoài hiên cũng cánh xếp mành mành…
(Phú thầy đồ dạy học)
Tính bi hài kịch của cái tôi Tú Xương phản ánh số phận mà ông không tài nào “giãy ra” được. Trước hết là sự hành hạ ác liệt của cái nghèo:
– Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo.
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu…
– Van nợ lắm khi tràn nước mắt,
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi…
– Khách hỏi nhà ông đến,
Nhà ông đã bán rồi.
Vợ lăm le ở vú,
Con tấp tểnh đi bồi…
Bên cạnh đó là cái khổ nạn thi cử mà xưa nay có lẽ không ai phải chịu điêu đứng như ông:
Trách mình phận hẩm lại duyên ôi,
Đỗ hết hai trường hỏng một tôi!
Tế đổi làm Cao mà chó thế,
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ơi!
(Hỏng thi khoa Quý Mão)
Bụng buồn còn muốn nói năng chi?
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì!
(Buồn thi hỏng)
Cho đến trọn đời, Tú Xương vẫn không tìm được niềm an lạc như Nguyễn Khuyến. Cái tôi của ông đã đắm vào một nỗi buồn chán vô cùng tận, nhiều khi tưởng phát điên phát rồ:
Người bảo ông điên ông chẳng điên,
Ông thương ông tiếc hóa ông phiền.
Người yêu kẻ ghét hay gì chữ,
Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền…
Khi cười khi khóc khi than thở,
Muốn bỏ văn chương học võ biền!
(Thói đời)
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ?
Giương mắt trông chi buổi bạc tình?
(Đau mắt)
Nằm nghe tiếng trống trống canh ba
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta?
(Chợt giấc)
Và cuối cùng, dường như cái tôi của Tú Xương đã không còn chung đụng được với cái cuộc đời rối ren vô nghĩa thời buổi bấy giờ nữa, nó đã lặng lẽ bỏ đi trong một cơn buồn lai láng:
Trời không chớp bể với mưa nguồn,
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng,
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông.
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện,
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng.
Ngủ quách, sự đời thây kẻ thức,
Bên chùa chú trọc đã khua chuông.
(Đêm buồn)
Nhưng điều đáng nói ở Tú Xương là ông không phải một người hiếu bi (thích cái buồn) như căn bệnh của một số nhà thơ lãng mạn thời tiền chiến sau này. Tú Xương căn bản là một người lạc quan, yêu đời. Cái nết “ham chơi” của ông vượt xa Nguyễn Khuyến và không hề thua kém các thi nhân như Lý Bạch, Nguyễn Công Trứ… Đó chính là cội nguồn tạo nên cả một mảng thơ đáng kể mang nội dung “Phong nguyệt tình hoài, giang hồ khí cốt”, trong đó cái hoan (vui) hết sức nổi trội và thú vị, át hẳn cái bi (buồn). Đây là một màn kịch vui đặc sắc vào ngày Tết:
Nhập thế cục bất khả vô văn tự,
Chẳng hay ho cũng húng hắng lấy một vài
Huống thân danh đã đỗ tú tài
Ngày Tết đến cũng phải một hai câu đối.
Đối rằng:
Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài;
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
Viết vào giấy dán ngay lên cột,
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?
Thưa rằng: hay thực là hay!
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài?
Xưa nay em vẫn “chịu” ngài!
(Tết dán câu đối)
Trong màn kịch ấy, người ta thấy Tú Xương đang vui, đang cao hứng, đang phát tiết thiên tài, thấy bà Tú cũng bị lôi cuốn và nhập cuộc vào niềm vui lớn đó, tuy rằng trên môi bà vẫn đọng một nụ cười hóm hỉnh pha chút mỉa mai: bà “chịu” tài của chồng, cái đó thì đã hẳn, nhưng bà cũng còn “chịu”, còn “vái dài” cả cái nết ăn chơi bạt mạng và nết “ngông” của chồng nữa!
Lý Bạch có câu: “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan” (Vui cho đẫy khi ta đắc ý). Tú Xương với bản chất đặc biệt sống động, còn làm được hơn thế: ông đã tận hưởng niềm vui đời ngay cả trong khi ông gặp toàn những điều “thất ý” chứ không phải là “đắc ý”, đúng như lời của văn hào Nga L. Tolstoy: “Khó khăn hơn cả và hoan lạc hơn cả là biết yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”. Tú Xương không giấu giếm cái lòng ham hố vui sống của mình:
Một trà một rượu một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…
(Ba cái lăng nhăng)
Tú Xương cũng là một “tay chơi” có hạng trong làng “hát ả đào”. Ông tán thưởng hình thức sinh hoạt văn hóa dân tộc này mà ông thấy rất “hay” và “không đến nỗi tệ hại”, trong khi ông cực lực phản đối việc đàn bà con gái Việt Nam lấy Tây cũng như trò đồng bóng:
Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay,
Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày.
Năm canh to nhỏ tình dơi chuột,
Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây…
(Thú cô đầu)
Ngày xuân mừng quí khách,
Khi vui, lọ đàn phách!
Chuyện nở như pháo rang,
Chuyện dai như chão rách,
Đổ cả bốn chân giường,
Xiêu cả một bức vách!
(Tết tặng cô đầu)
Lòng ham vui, yêu đời ấy quả thật là nét nổi bật của cái tôi nơi Tú Xương khiến hình ảnh ông mãi mãi không phai mờ trong tâm tưởng của chúng ta.
Một con người có bản tính vui tươi như thế mà rốt cuộc phải lìa đời trong những nỗi buồn bã chán chường: điều ấy cho thấy cái xã hội thời Tú Xương đã tàn tạ, ảm đạm và ngột ngạt đến mức nào!
Trước Tú Xương, cái tôi văn học đã manh nha từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, đã có dáng vóc rõ ràng với Hồ Xuân Hương, đã trở nên sắc sảo, nổi trội với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến. Nhưng phải đến Tú Xương, cái tôi văn học mới thật sự đạt tới đỉnh cao, mới mang đậm những sắc thái phong phú của một tính cách cụ thể, mang đậm hơi thở tâm hồn của một con người cá biệt, thậm chí còn chứa đựng cả những thông điệp về số phận riêng của nhà thơ nữa. Chẳng hạn, trong bài thơ “Đêm buồn” vừa nêu trên, câu “Ngủ quách, sự đời thây kẻ thức” như một lời tiên tri về cái chết của Tú Xương xảy ra vào ngày hôm sau, khi bài thơ vừa viết xong còn chưa ráo mực! Đủ biết cái tôi văn học ở đỉnh cao sẽ hoàn toàn hòa làm một với con người tác giả, như người xưa đã nói văn là người. Điều đó không thể có được với những loại văn học ước lệ tầm thường và văn học xu thời luôn xa rời sự thật.
Không chỉ là nhà thơ hiện thực trào phúng, Tú Xương còn là nhà thơ trữ tình lớn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Chất trữ tình đã được thể hiện rất đậm đặc trong hình tượng “một nhân vật của thời đại” với cái tôi văn học mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Ngoài ra thơ Tú Xương còn hàm chứa cả một thế giới tâm tư sâu sắc:
Nỗi thương tiếc xót xa đối với cảnh tang thương của đất nước:
Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
(Sông Lấp)
Nỗi lo âu về sự suy thoái của nền văn hóa giáo dục dân tộc trong sự suy vong chung của đất nước. Chúng ta cần biết, ở thời đại của Tú Xương, ông chưa được chứng kiến những ảnh hưởng tích cực của văn hóa Phương Tây đối với văn hóa nước ta như trong thời Tiền Chiến sau này.
Đạo học ngày nay đã chán rồi,
Mười người đi học chín người thôi…
(Than đạo học)
Nỗi đau xót trước những cảnh thiên tai địa ách, trước nỗi thống khổ của đủ mọi lớp người trong một xã hội đầy khốn khó gieo neo:
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ,
Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa…
(Lụt năm Bính ngọ)
Người đói ta đây cũng chẳng no,
Cha thằng nào có tiếc không cho!
(Thề vơi người ăn xin)
Bài thơ cho thấy Tú Xương có tấm lòng nhân ái thật là rộng rãi: cùng một cảnh nghèo với người ăn xin, ông đã nhìn hắn như thể một kẻ “cùng hội cùng thuyền”!
Tú Xương cũng là nhà thơ tiên khu ở thời đại mới viết về số phận của những người con gái làm nghề ca kỹ mà sau này sẽ được thơ văn nửa đầu thế kỷ XX tiếp tục khai thác:
Chị chị hỡi, năm nay túng lắm,
Biết làm sao, tết đến nơi rồi?…
Chị em ta cùng nhau giữ giá,
Đến bây giờ ngã cả chẳng ai nâng.
Cũng liều bán váy chơi xuân…
(Tết cô đầu)
Tú Xương - với trái tim đặc biệt nhạy cảm của nhà thơ, với cặp mắt sắc sảo nhìn thấu bản chất các sự vật, hiện tượng, với lập trường mang tinh thần nhân văn sâu sắc - có lẽ là nhà thơ đầu tiên trong thời cận đại đã “phát hiện” tính bi kịch của những người con gái vì hoàn cảnh éo le mà phải chôn vùi hạnh phúc nhân bản của mình để xuất gia đi tu nơi cửa Phật:
Con gái nhà ai dáng thị thành,
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh?
Nhạt màu son phấn, say mùi đạo,
Mở cánh từ bi khép cánh tình…
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh!
(Thiếu nữ đi tu)
Sự phát hiện quý báu của Tú Xương đã là tiền lệ để những nhà văn nhà thơ lớp sau như Tản Đà, Nguyễn Công Hoan, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử… tiếp tục viết về thân phận đáng thương cảm của những “ni cô”.
Trong mảng thơ trữ tình của Tú Xương lấp lánh một viên ngọc quý và bất hủ: đó là bài thơ Thương vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!
Cái “thần” của bài thơ chính là ở cái “thật” đến không ngờ và sự sâu sắc lạ thường của nó. Mặc dù người đàn bà Việt Nam đích thực với thiên chức làm vợ, làm mẹ, chỉ là người bình dân sống cuộc đời giản dị, thậm chí đơn điệu, vậy mà tạo nổi một bức chân dung xác thực, viên mãn về họ luôn là thách đố lớn cho bất kỳ nhà văn nhà thơ nào! Tú Xương, vẻn vẹn chỉ cần tám câu thơ đã hoàn tất được bức chân dung hoàn thiện của mẫu “người đàn bà Việt Nam của muôn đời”, nói cách khác, người đàn bà Việt Nam truyền thống điển hình:
Sự làm lụng vất vả quanh năm ngày tháng, hầu như luôn chỉ có một thân một mình và thật đáng thương cảm (Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo xèo mặt nước buổi đò đông); trách nhiệm quá mức nặng nề đối với một người thuộc phái “chân yếu tay mềm” (Nuôi đủ năm con với một chồng); sự an bài của số phận khắt khe (Một duyên hai nợ âu đành phận); nết “nhẫn”, tức đức tính chịu thương chịu khó và lòng quả cảm đáng khâm phục (Năm nắng mười mưa dám quản công); và nỗi cay đắng, đau khổ ngấm ngầm vì không được yêu thương, không được đền đáp xứng đáng (Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không).
Có thể nói, phải có một “cặp mắt thần”, một tâm hồn chan chứa những tình cảm sâu sắc và một tài năng thực sự mới nhìn ra nổi và miêu tả nổi bản chất con người, số phận đượm màu sắc bi kịch cũng như những nỗi niềm ẩn giấu trong đáy lòng sâu thẳm thẳm, kín như bưng của một người đàn bà bình thường nhưng tuyệt vời cao quý như bà vợ Tú Xương!
Tú Xương quả đã bỏ rất xa thứ văn chương hời hợt, thiếu chiều sâu, thiếu chất đời, thiếu xúc cảm. Đó chính là lý do để bài Thương vợ đến tận bây giờ vẫn còn làm rung động người đọc.
Tú Xương từng được tôn là bậc “thần thơ thánh chữ”, bởi vì ông có biệt tài dùng chữ rất “đắt” và đắc địa, không kém Hồ Xuân Hương xưa kia. Ông đã có công lớn phát huy khả năng to lớn và đặc thù của Tiếng Việt, một ngôn ngữ sắc bén, có sức công phá mạnh mẽ và vô cùng “hóm”. Ông có biệt tài dùng những từ ngữ cửa miệng của người bình dân để sáng tác nên những bài thơ đặc sắc mang phong cách hoàn toàn riêng biệt của ông. Tài nghệ ấy có lẽ chỉ có Nguyễn Bính sau ông kế tục được. Ví dụ:
– Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…
– Chí cha chí chát khua giày dép,
Đen thủi đen thui cũng lượt là.
– Một tuồng rách rưới con như bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
– Biết thân thuở trước đi làm quách,
Chẳng ký không thông cũng cậu bồi.
– Ông cử thứ năm, con cái ai?
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai! 
v.v…
Là người con rứt ruột của một dân tộc vốn thích cười, ưa trào lộng, Tú Xương đã sử dụng và phát huy cao độ lợi khí sắc bén của tiếng cười để gây ra những “cú chết bất ngờ” cho bất kỳ một đối tượng nào mà ông muốn hạ gục. Chính vì thế, ngay lúc sinh thời của ông, tất cả những ai, kể cả những nhân vật tai to mặt lớn trong xã hội, một khi đã bị ông cho ăn đòn, dù tức hộc máu cũng đều phải chịu một phép, không dám ho he chống cự. Họ biết rất rõ rằng không thể nào chống cự nổi một con người sắc nước quá chừng như Tú Xương. Hoặc giả họ cho rằng Tú Xương giống như một “Chí Phèo” trong làng văn chăng? Chẳng hạn quan tri phủ Xuân Trường (đâu phải là một chức vụ tầm thường!) đã bị ông lột mặt nạ và giáng cho một đòn chí tử:
Chữ thôi chữ cứu không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ tiền!
Quan huyện Đ (một chức vụ đâu phải không ghê!) nhân được cử làm chủ sự một kỳ thi ở thành Nam đã bị ông chửi thẳng vào mặt:
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy,
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì?
Quan trường là người có trách nhiệm trọng đại tuyển chọn nhân tài cho quốc gia được ông miêu tả bằng một bức biếm họa:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Một nhà sư của cái thời nhố nhăng ấy bị ông… chọc sườn:
Quảng đại từ bi cũng phải tù
Hay là sư cũng vụng đường tu?
Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển
Ý hẳn còn quên một phép phù?
(Sư ở tù)
Còn dân đồng bóng thì bị ông đập cho một gậy tưởng có thể gãy xương sống:
Đồng giỏi sao đồng không giúp nước?
Hay là đồng sợ súng thần công?
(Lên đồng)
Một đóng góp đặc biệt khác của Tú Xương về phương diện nghệ thuật: cũng giống như Vũ Trọng Phụng sau này, ông thường bê nguyên xi (không cắt gọt, trau chuốt) những mảng hiện thực hoàn toàn trần trụi của cuộc sống vào trong thơ. Vậy mà dưới những ngón tay phù thủy của ông, chúng lại tạo nên một tác phẩm văn chương đích thực kèm cái cười sảng khoái cho người đọc, chứ không hề nhảm nhí. Rõ ràng Tú Xương có cả một nghệ thuật cao cường không dễ gì học đòi được. Ví dụ:
Ấm không ra ấm, ấm ra… nồi,
Ấm chạy lăng quăng ấm chẳng ngồi.
Chán cả đồ chuyên cùng chén mẫu,
Luộc giò, ninh thịt lại đồ xôi!
(Ông ấm)
Khen ai khéo vẽ sự lên đồng,
Một lúc lên ngay sáu bảy ông.
Sát quỷ ông dùng thanh kiếm… gỗ,
Ra oai bà giắt cái… khăn hồng!
Cô giương tay ấn tan tành núi,
Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông!…
(Lên đồng)
Lúc sinh thời, Tú Xương mải mê “bắn phá”, chọc đời, mải mê sống, vẫy vùng và cả… chơi bời, cho nên ông hầu như không có thì giờ suy nghĩ về cái gọi là “sự nghiệp văn chương” của ông. Tương truyền ông sáng tác rất nhiều, thường là xuất khẩu thành thi, tức “ứng tác tại chỗ” với bạn hữu rồi ông quên ngay, không hề ghi chép. Sở dĩ thơ ông còn được lưu giữ đến nay là nhờ vợ ông và bạn bè ông, vì quá yêu thích và trân trọng thơ ông nên đã ghi nhớ được. Bản thân ông, mặc dù là con người “văn chương nết đất” nhưng cũng đã từng có những ý nghĩ hết sức bi phẫn:
Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì!
Thế nhưng, trái ngược hẳn với ý nghĩ tuyệt vọng đó mà ông biểu lộ sau một lần hỏng thi, lịch sử đã xác nhận: ông là một nhà thơ dân tộc lỗi lạc đứng bên cạnh Nguyễn Khuyến, tạo thành hai đỉnh thơ cao nhất của Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hai ông là những người khai sinh ra dòng văn học trào phúng - trữ tình, dòng văn học chiếm vị trí chủ đạo của văn học nước ta thời kì đó. Bản thân Nguyễn Khuyến lúc sinh thời đã công nhận vị trí hàng đầu đó của Tú Xương. Ông nói: “Kẻ kế tục ta là Xương chăng?” (Trên thực tế, chính Tú Xương mặc dù kém Nguyễn Khuyến tới 35 tuổi nhưng lại mất trước Nguyễn Khuyến 2 năm).
Trong thời buổi đất nước rơi vào cơn thảm họa bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ, nền văn hiến cùng tất cả những giá trị truyền thống của dân tộc ta đang đứng trước nguy cơ bị băng hoại. Cũng như các sĩ phu, chí sĩ và quần chúng nhân dân yêu nước đương thời, Tú Xương và Nguyễn Khuyến, đứng trên tầm cao của trí tuệ và nhân cách Việt Nam ở lĩnh vực văn học, đã nhìn thấy tất cả thảm trạng đó, đã vô cùng lo lắng, đau xót, và đã xả thân làm hết sức mình cho đến hơi thở cuối cùng để cứu vãn lấy phẩm giá của dân tộc. Trước nguy cơ không ít người “không còn là cái giống người” nữa, Tú Xương đã điên cuồng đánh phá vào tất cả những gì xấu xa, nhơ bẩn, hèn hạ, đồi bại và lố bịch của họ. Hành động của ông không có mục đích nào khác là để làm sáng lại lương tri và phẩm giá Việt Nam. Đối với ông, đó là biện pháp hiệu nghiệm nhất để bảo vệ chân giá trị vốn có của Việt Nam - cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Ông hiểu được rằng chỉ khi nào tất cả người Việt Nam thoát ra khỏi cơn mê chướng của thời đại và khôi phục lại được sức mạnh cố hữu, họ mới có thể thực hiện được công cuộc vĩ đại là “xúm tay vào kéo lại non sông”. Cho nên, tuy đứng trên địa hạt văn học nhưng Tú Xương mang tầm vóc chung của các lãnh tụ tinh thần của dân tộc ta thời đại ấy. Thơ ông, cũng như thơ của thi hào Đỗ Phủ, mặc dù nói nhiều những chuyện riêng tư, nhưng cái mà thơ toát lên lại chính là một vấn đề vô cùng trong đại: số phận, sự nhục vinh và sự tồn vong của một đất nước, một dân tộc. Những ai tưởng rằng Tú Xương chọc phá cuộc đời chỉ để “lỡm đời chơi” hoặc chỉ để thỏa mãn cái cá tính “ngang ngược, ngông nghênh” của ông, người đó thực chưa hiểu gì về bản chất con người Tú Xương, về cái tâm sự vô cùng u uất, về những nỗi đau đời ghê gớm ông mang nặng trong lòng. Thơ Tú Xương là thứ thơ đau buồn, uất hận, bất đắc chí với thời cuộc, trong đó có sự bất đắc chí về mặt cá nhân.
Cùng với Nguyễn Khuyến, Tú Xương thực thi trách nhiệm cao cả của người cầm bút: đánh thức lương tri Việt Nam, làm cho họ thấy rõ cái nhục, cái sai quấy, cái lố lăng vô nghĩa, cái kiếp sống thừa trong nô lệ và ngu muội, khơi gợi những giá trị tinh thần cao quý của dân tộc.
Trong rất nhiều nhà thơ Việt Nam, Tú Xương là một trong số rất ít người được tôn vinh danh hiệu Nhà thơ dân tộc bởi vì thơ ông, cả nội dung lẫn hình thức, đều chất đọng bản sắc Việt Nam, không bị pha tạp với văn chương cổ điển Trung Hoa như phần đông các nhà thơ xuất thân cựu học, khoa cử.
Trải qua gần một thế kỷ nhưng những tác phẩm thơ trào phúng - trữ tình của Tú Xương vẫn tiếp tục hấp dẫn người đọc. Đặc biệt, những bài thơ trào phúng của ông đến nay vẫn “nóng hổi tính chất thời sự”. Bởi vì, giống như vòng quay của một chiếc đèn cù, trong xã hội Việt Nam hiện đại lại xuất hiện những hiện tượng gần như “một đồng một cốt” với những tấn tuồng xã hội thời Tú Xương. Nổi cộm nhất là những biểu hiện lố lăng, xuống cấp về nhân cách, đạo đức, đi ngược lại và làm phai lạt bản sắc Việt Nam. Ngoài ra là những “sản phẩm” hiện đại khác như hiện tượng lai căng, sùng ngoại, chủ nghĩa hình thức (chỉ có cái vỏ lòe loẹt bề ngoài nhưng bên trong thì rỗng tuếch), chủ nghĩa thực dụng (coi những mối lợi nặng hơn nhân phẩm), thái độ coi trọng vật chất, coi nhẹ tinh thần…
Chúng tôi cho rằng công việc cứu vãn và chấn hưng bản sắc và lương tri Việt Nam mà Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã làm trước đây, ngày nay càng cần phải được phát huy hơn nữa.
Cuối cùng, có một điều không thể không nhắc đến: chắc chắn vì sự hấp dẫn mãnh liệt của thơ trào phúng Tú Xương mà theo gót ông đã xuất hiện liên tục cả một dòng họ Tú, mãi đến cuối thế kỷ XX vẫn không có dấu hiệu chấm dứt, trong đó người nổi bật nhất là Tú Mỡ. Hiện tượng đặc biệt ấy cũng là bằng chứng hùng hồn cho vinh quang chói lọi của nhà thơ trào phúng bậc thầy Tú Xương.
Tiểu sử
[Theo Wikipedia]
* Trần Tế Xương, tên húy là Trần Duy Uyên.
+ Sinh ra vào ngày 5/9/1870 (tức 10 - 8 AL)
tại số nhà 247 phố Hàng Nâu thành phố Nam Định
+ Ông thuộc dòng dõi nho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần
là bởi vào đời Nhà Trần lập công lớn được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua).
+ Ông nội Trần Tế Xương tên là Trần Duy Năng.
+ Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng là một nhà nho, thi nhiều khoa không đậu, sau làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng.
+ Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương đều không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú được người bạn học là hạc phong Lương Ngọc Tùng viết trong bài thơ “Nhớ rõ hình dung…”
. Cùng làng, cùng phố, học cùng trườn
. Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương,
. Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết,
. Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương.
. Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú,
. Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường.
. Mấy chục năm trời đà vắng bóng,
. Nghìn năm còn rạng dấu thư hương. [4]
+ Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Hồi mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho bé Uyên một câu đối: “Đình tiền ngũ sắc hoa” (trước sân có hoa năm sắc), Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối: “Lung trung bách thanh điểu” (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài “đời thằng bé lại luẩn quẩn như chim nhốt trong lồng “. Ông học chữ Hán cụ kép làng Thành Thị, tên là Trần Chấn Thái, ngồi bảo học ở thành Nam.
* Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh nam kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương lên 3 thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn công lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mất nốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. các phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi thương đó.
* Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.
* Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Các tài liệu khác chép nhầm là khoa Ất Dậu (1885) [5]
* Ông mất ngày 29 tháng 1 năm 1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện.
Cuộc sống sự nghiệp
Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho “dài lưng tốn vải” như trong bài Hỏi ông trời của ông:
Ta lên ta hỏi ông trời:
Trời sinh ta ở trên đời biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết gì:
Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi
Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành
Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cáu lên:
Tế đổi làm cao mà chó thế,
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!
Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.
Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài (1894) thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu (nay là phố Minh Khai) bị cháy. Cụ Nhuận làm lại xây bằng gạch Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu, câu thơ đó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này, nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai An chiếm đoạt. Tú Xương đã phải than: Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền.
Gia đình
Họ Phạm làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có nhiều người đỗ đạt. Tú Xương nhắc Chẳng những Lương Đường có thủ khoa là nhắc đến làng quê của vợ ông. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời sang sinh sống ở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là từ hoàn cảnh gần gũi đó. Bà sinh cho ông được 8 người con, trong đó có 6 trai và 2 gái. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sống cho gia đình của bà là buôn bán nhỏ (tiểu thương). Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.
Khi mất ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông nội và bố để lại. Gia đình ông Tú chuyển đến nhà số 280 cùng phố mà sau này địa phương đã xếp hạng là di tích lưu niệm Tú Xương chính là do mẹ vợ nhà thơ (bà Hai Sửu) chia cho con gái.
Tác phẩm
Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp. Không có di cảo. Không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Thành Nam thủa ấy còn có nhiều người hay thơ và thơ hay, cùng nỗi niềm và khuynh hướng với Tú Xương như Trần Tích Phiên, Phạm Ứng Thuần, Trần Tử Chi, Vũ Công Tự… Thơ họ cũng được phổ biến không ít. Lại 3 năm một lần thi hương, sĩ tử cả Bắc Kỳ tụ hội về đây, thơ hay được lan truyền càng rộng rãi. Vì thế thơ Tú Xương càng dễ bị lẫn lộn.
Lúc đầu chỉ là các bài sưu tầm đăng giải rắc trên tạp chí Nam Phong (các năm 1918, 1919, 1920, 1926). Tiếp đến sách “Văn đàn bảo gián (quyển 3)” của Trần Trung Viên, Nam Ký thư quán Hà Nội 1926, giới thiệu 79 tác phẩm, trong đó phần lớn đã được đăng ở Nam Phong. Từ đó ,lần lượt xuất hiện những sách chuyên đề về Tú Xương. Có 2 văn bản chữ nôm hiện còn lưu giữ ở thư viện Hán - Nôm đó là Vị thành giai cú tập biên (ký hiệu AB.194) ghi rõ “Nam Định Vị Xuyên tú tài Phượng Tường Trần Cao Xương Tử Thịnh trước tập” và Quốc văn tùy ký (ký hiệu AB.383). Có 10 lần xuất bản bằng chữ quốc ngữ với những văn bản sau:
1/ Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán 1931 (sau có tái bản), giới thiệu 174 tác phẩm gồm thơ, phú, câu đối. Mà sau này các sách khác thừa hưởng kết quả. Nhưng chép nhầm tên ông là Trần Kế Xương.
2/ Trông dòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương) của Trần Thanh Mại; Trần Thanh Địch 1935 lần thứ nhất ở Huế sau tái bản nhiều lần.
3/ Tú Xương thi tập, do nhà sách Phúc Chí, 95 Hàng Bồ, Hà Nội 1950, giới thiệu 75 bài thơ. 
4/ Thân thế và thơ văn Tú Xương của Vũ Đăng Văn, Nhà xuất bản Cây Thông, Hà Nội 1951. Đính chính tên nhà thơ là Trần Tế Xương (không phải Kế) và giới thiệu 181 tác phẩm.
Những sách này là từ trước 1954, sưu tầm thơ Tú Xương còn hết sức tùy tiện và hầu như không có chú giải cần thiết. Việc khảo cứu về nhà thơ cũng chưa được đặt ra, nếu không kể đến cuốn Trông dòng sông Vị.
5/ Văn thơ Trần Tế Xương Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1957. Giới thiệu chính thức 125 bài và đưa 55 bài vào phần tồn nghi.
6/ Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương, nhà xuất bản Nghiên cứu cục xuất bản, Bộ văn hóa Hà Nội 1957 của Trần Thanh Mại nhân dịp lần thứ 50 ngày giỗ Tú Xương.
7/ Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ, nhà xuất bản Văn hóa 1961 Giới thiệu 193 bài chính thức, 17 bài tồn nghi.
8/ Thơ Trần Tế Xương , Ty văn hóa Nam Hà, 1970. Bài tiểu luận của Xuân Diệu in lần đầu tiên ở đây, có nhiều phát hiện lý thú. Còn tác phẩm chỉ tuyển chọn chẵn 100 bài. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ.
9/ Thơ văn Trần Tế Xương, nhà xuất bản Văn học, 1970 có sự tham gia của Nguyễn Công Hoan chọn 151 tác phẩm và 22 bài tồn nghi.
10/ Thơ văn Trần Tế Xương, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 1984. Cuốn này sao gần như hoàn toàn cuốn 9.
Chỉ có cuốn Tú Xương tác phẩm giai thoại của nhóm Nguyễn Văn Huyền (chủ biên), Đỗ Huy Vinh, Mai Anh Tuấn và người giới thiệu giáo sư: Nguyễn Đình Chú, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh - 1986 là một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng và công phu. Loại ra các tác phẩm không phải của tác giả, so sánh, đối chiếu các bản đã in ở những lần xuất bản trước, chọn ra 134 bài là của Tú Xương và loại ra 68 bài (có chú dẫn nguyên nhân loại ra cho từng bài một). Bài viết này lấy tư liệu chủ yếu ở cuốn sách đó.
Sau này nhất là thời mở cửa việc xuất bản tràn lan không được kiểm định kỹ đã lấy tư liệu ở các nguồn khác nhau kể trên, điều đó cũng giải thích tại sao các Blog lại đưa ra các tư liệu khác nhau về Tú Xương.
Tiểu luận về TRẦN TẾ XƯƠNG
Về đánh giá tác phẩm
[Theo Wikipedia]
Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy.
Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ
Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau ba thi hào dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương) và Đoàn Thị Điểm
Tản Đà khi còn sống “trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương” (Xuân Diệu kể vậy). Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình “mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ vèo trong bài thơ Cảm thu, Tiễn thu của ông: Vèo trông lá rụng đầy sân. Nguyễn công Hoan cũng kể vậy.
Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam
Với Tú Xương, còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam: Tú Xương Có “môn Phái”, “môn đệ”. Tên của ông là Trần Tế Xương. Có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ xương với nghĩa “thịnh vượng” (còn có nghĩa là đẹp, thẳng). Sách xưa có chữ “Đức giả xương” (người có đức, thịnh vậy). Không phải là xương theo nghĩa xương thịt. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và “xuyên tạc”, gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương (thịt) lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20 bỗng nhiên có một “môn phái” gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và thêm “chi phái”: Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả. Vinh dự thay cho vị tổ sư Tú Xương!
Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực của xã hội thực dân - nửa phong kiến là như vậy! Cảm hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những cái tốt lành, những cái thuộc về sức sống, về bản lĩnh của dân tộc, của nhân dân, dù có bị ẩn kín xuống nhưng vẫn không bao giờ mai một trong hoàn cảnh lịch sử tang tóc đó. Thi sĩ Tú Xương biết buồn đau trước vận nước vận dân. Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
Vịnh khoa thi Hương
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. [6]
Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra. [7]
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!
Giễu người thi đỗ
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không [8]
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng! [9]
Tính trào phúng được đẩy lên mức cao khi Tú Xương vừa phản ánh cái hiện thực vừa như trả đũa lũ quan lại nhũng nhiễu bằng cách giúi đầy phân vào miệng chúng như bài:
Ông cò
Hà Nam danh giá nhất ông cò [10]
Trông thấy ai ai chẳng dám ho.
Hai mái trống toang đành chịu dột [11]
Tám giờ chuông đánh phải nằm co [12]
Người quên mất thẻ âu trời cãi [13]
Chó chạy ra đường có chủ lo [14]
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được [15]
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to
Đặc biệt bài thơ có một sức khái quát lớn về cả lũ quan lại và văng một tiếng chửi vào Hoàng Cao Khải, tên đại Việt gian cho Pháp thời đó:
Phường nhơ [16]
Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ [17]
Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ
Nào sọt, nào quang, nào bộ gắp [18]
Đứa bưng đứa hót đứa đang chờ [19]
Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản,
Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ
Ngán nỗi hàng phường khi cúng tế,
Vẽ ông ôm đít để lên thờ [20]
Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài, mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân.
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Sự trân trọng, tri ân ấy còn được ông nâng lên đến mức làm hẳn một bài “Văn tế sống vợ”
Văn tế sống vợ
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
Người ung dung, tính hạnh khoan hòa, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ
Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu
Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở
Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.
Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ
Trần Tế Xương là cây Đại bút, chữ nghĩa giản dị nhưng điêu luyện, thần tình, đôi khi tục nhưng không thô, phá cách nhưng đầy dụng ý, không chút non nớt tầm thường đúng như Xuân Diệu viết về ông:
Ông nghè ông thám vô mây khói
Đứng lại văn chương một tú tài.
Kiều Văn
Theo https://doanthuan.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...