Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021

Mùa hoa cúc bên sông

Mùa hoa cúc bên sông

Chẳng biết cái tên đó ai đặt cho nó tự hồi nảo hồi nào, chỉ nghe ông nội nó gọi nó là Đực rồi người ta cứ thế kêu theo. Đực tốt mã, bảnh trai nhưng hơi bị lù khù, tháo vát dữ lắm nhưng cũng chỉ ba cái chuyện đồng áng nhà nông. Người ta bảo nó có hiếu nhất nước hổng chừng, thời buổi này mà có đứa đạo đức vậy, quá hiếm.
Gần bốn chục tuổi đầu làm thuê cuốc mướn, một chữ rách cũng không có nói chi đến chuyện văn chương thơ phú. Ấy vậy mà câu ca dao nào nó cũng thuộc làu làu như máy tuốt lúa, nghĩ phục. Lụi cụi suốt ngày ngoài đồng, tối thui mới về tới nhà, lại chui vô bếp, lại phải nấu nướng, cực nhưng nó lúc nào cũng cười, cái cười như đóng kịch. Con Nẫm mê nó lắm, nghe đâu mẹ nó chửi cho mấy trận ra trò nhưng nhắm chẳng ăn thua gì: “Bộ mày hết đường rồi sao chui đầu vô cái hốc bà tó đó, hở con. Đất cát không có tí bụi, làm thuê quần quật, mai mốt thiên hạ mua máy nọ, máy kia thì làm gì ăn? Mày nuôi nó chắc?”. Con Nẫm chẳng nói gì, nó biết rõ mẹ nó như lòng bàn tay, “bả nói chán rồi cũng huề“. Ở quê có tiền như bà không nhiều, nhưng mẹ nó đâu biết chính vì đồng tiền đó mà nó ở giá quá lâu rồi còn gì. Nó nghĩ chỉ cần có người biết ăn, biết làm thì sẽ nên chuyện cứ gì phải có nhiều tiền, có học thức cao. Khối gì người giàu sang ra đó mà con cái có ra gì đâu, vợ chồng thừa chắp dư vá, chẳng qua chưa bỏ nhau là bởi cái gia tài quá kếch sù. Chê người ta hay người ta coi mình chẳng ra gì, liệu người ta có thèm để ý tới mình không mà tính tới tính lui, chỉ có đêm đen mới biết được lòng nó rối rắm thế nào.
Số là, thằng Đực thường ghé cái quán ốc tiêu của nó để mua vài ba thứ lăng nhăng cho bữa cơm tối cho hai ông cháu. Khi thì miếng đậu, quả trứng vịt, khi thì chút đường, chút tiêu, chút hành ngò… Họa hoằn lắm mới thấy thằng Đực mua chút thịt cho ông nó. Nó nghĩ chắc ông thằng Đực bịnh, nó nhìn vào mắt thằng Đực chẳng thấy gì, chỉ một màu đen thăm thẳm. Chẳng có gì mà cả làng cứ râm ran chuyện nó với thằng Đực yêu nhau da diết đến thế, lẽ nào thằng Đực không hay biết gì. Chắc nó không biết thật, nó cứ phơn phỡn ra đó.
Con Nẫm lân la: “Sao ông nội không đi hỏi vợ cho anh“, “Có ma nào thèm đâu mà hỏi“. “Tại anh không để ý đó thôi“ “Ừ, kệ“.
Đã vậy nó còn trêu con Nẫm đến tội nghiệp: “Sao bà không lấy chồng cho rồi, lấy quách thằng nào cũng được, ai mà con gái băm tới băm lui hoài… nát bét“. “Nè nè, ăn nói đàng quàng nghe ông kia, ông mới ế đó, không khéo mai mốt già vác xác lên giữ đình“.
Thằng Đực cười hí hí, khi nó đi rồi con Nẫm mới rơm rớm nước mắt, nó giận thằng Đực, nó giận cả buổi chiều đáng ghét phía bên kia sông. Nó nhìn ra mé lộ, cái lộ bé tẹo vừa lọt chiếc xe bò, hai bên gai bồ kết tua tủa mỗi khi xe rơm kềnh càng đi qua, rơm mắc đầy lên đó, gió phất phơ bay trông ngồ ngộ. Và cứ thế, chiều nào như chiều nào, nó đợi thằng Đực ghé qua quán nó.
Mấy hôm rồi chứ chẳng chơi, thằng Đực biệt vô âm tín. Con Nẫm lòng như lửa đốt, nó hỏi thăm hết người này tới người nọ, ai cũng tủm tỉm cười bảo thằng Đực đi cưới vợ tuốt làng trên rồi. Con Nẫm đánh liều, chạy xộc vô xóm trong. Gọi là xóm cho văn vẻ chứ lèo tèo ba, bốn nóc nhà lá tuềnh toàng, trong đó có nhà thằng Đực. Đường đi cha ơi là cỏ dại, bông cỏ cao lút đầu gối, nó sợ dính quần, xắn lên, cỏ cắt da rát rạt, mẹ nó mà biết chắc rầy cho đã. Cắm đầu, cắm cổ nó chui lọt tỏm vào nhà thằng Đực lúc nào không hay, líu qua líu quíu như kẻ trộm. “Nẫm đó hả“ tiếng ông nội thằng Đực dò xét. “Dạ, ông bịnh à“, “ Không…”, “Sao ông nằm thừ ra thế kia“, “Ông bị rít cắn con à, sốt quá không dậy nổi, thằng Đực có rịt thuốc gà gì đó nhưng vẫn nhức lắm. Tội nghiệp nó xoay đâu ra tiền mà mua thuốc Bắc cho ông nữa đó. Nó mượn chỗ con phải không?”. “Dạ không!“. Ông nhìn nó như muốn nói gì nữa, lại thôi.
Bây giờ con Nẫm mới định hồn, nó nghe mùi thuốc thơm thoang thoảng, siêu thuốc phun khói sè sè, lửa già quá, nó lấy chút tro bếp rắc lên chỗ mấy cục than rực hồng. Tiện tay, nó giở mấy cái nắp nồi ra xem, cái này là cơm nguội chắc thằng Đực nấu từ sáng, cái này là nồi cháo trắng đến tinh khiết, lõng bõng nước. Chẳng thấy nồi thức ăn đâu cả, nó nhìn quanh quất, trống trơn một màu ám khói. Mẹ nó nói đúng, chẳng có gì ngoài cái bàn thờ kê giữa nhà lạnh lẽo và hai cái giường xập xà, xập xệ kê hai bên… Thằng Đực chắc chạy đi đâu đó. “Bà ở đây mà tui tưởng…Tui tính mua cái trứng vịt đánh cháo cho ông ăn…” Ủa, không có ai ngoài quán à?“, “Không“ “Sao anh không lấy đại đi, bộ không thấy hả“, “Có, trong rổ mà, nhưng sao lấy được“, “Thì cứ lấy, hồi nào… trả sau có sao đâu“. Thằng Đực không nói gì, nó rót cho con Nẫm ly nước trà lá nguội ngắt, hình như tay nó run run.
Ông Tó là ông nội thằng Đực, năm nay chắc gần tám chục, người khô đét nhưng rắn chắc. Ông không để râu như người ở tuổi này thường làm. Ông giỏi nghề thả lờ, chụp cá nên người ta gọi ông cái tên xấu xí đó chăng?. Con Nẫm không biết. Ông hiền tính, dễ cười, chưa hề mắc lòng ai bao giờ. Nhà ông có cây ổi Tàu sum suê những trái là trái, trẻ con thích lắm, miệng vừa xin “ông Tó…” thì tay chúng đã bứt lia, bứt lịa ra rồi. Ông bảo chúng hái trái chín thôi đừng hái trái xanh chua lắm, ăn không được bỏ phí của ông. Rồi trái xanh cũng chín, lũ trẻ chẳng bao giờ vắng và ông chẳng có trái nào ngâm rượu. Hình như đó là niềm vui của ông thì phải, ông cười, nụ cười rất Phật.
Ông Tó mê tuồng cổ dữ lắm, hôm nào có đoàn hát về làng ông cũng đi xem. Ông chuẩn bị một bó hoa vườn tươm tất để tặng cô đào nào hát hay mà trẻ đẹp. Phải đẹp nhất cơ!. Cả làng này từ cụ già đến trai tráng đều ngồi ngớ ra, chẳng ai dám làm cái việc “nho nhã“ ấy đâu. Họ kháo nhau: “Bao nhiêu tài tật ông nội nó lấy hết cả rồi, chả trách thắng cháu cứ đờ như ngỗng“. Thằng Đực nghe mà vẫn cười híp mắt, trong lòng nó phục ông nội nó sát đất. Kháo nhau chán người ta đâm ra phục ông. Người ta biết ông mồ côi vợ từ hồi nảo hồi nào, khăn gói tới đây lập nghiệp lúc thằng Đực bé tẹo, còn xin sữa bú thép, vậy mà ông có lạo tẹo với bà nào đâu, nếu có thì giờ đã con đàn cháu đống. Ở đâu mà chẳng có bà góa. Xóm này góa hơi bị nhiều, chiến tranh có trừ ông bà nào đâu. Người ta càng phân tích, càng thấy ông bí mật. Trông vẻ ngoài xuề xòa của ông mà nhận định này nọ có khi hỏng bét, hẳn là ông có một mối tình thật đẹp và cũng rất bi thương. Nhìn thằng Đực thì đủ biết, ba mẹ nó phải cao ráo, bảnh bao như thế nào! Ông bà nội nó chắc phải tuyệt vời hơn thế. Cũng có thể người ta ngại phải vất vả nuôi nấng thằng Đực mà từ chối ông chăng? Chẳng ai biết, thằng Đực cũng chẳng biết cha mẹ nó là ai, khi hỏi ông ông chỉ lắc đầu, chết cả rồi, tuyệt nhiên không nói gì thêm nữa.
Bây giờ, con Nẫm mới có dịp quan sát ông thật kỹ. Bộ pijama tuy cũ nhưng phẳng phớn, tóc tai gọn gàng chứng tỏ thời trai trẻ ông có cuộc sống sung túc, ngăn nắp không vì cái nghèo mà nhếch nhác buông xuôi. Ông sống đạm bạc trong hoàn cảnh không thể khác được. Đánh bắt ven bờ bằng những phương tiện thô sơ nhất nước thế này thì rất nhọc, mà chẳng thể dôi dư tí nào. Vài ba con rô, con lóc… quanh quẩn chợ làng đổi gạo, đổi rau chẳng bõ bèn gì. May mà thằng Đực trời thương không đau yếu, không cảm nắng cúm mưa nên cũng đỡ vất vả. Vừa nuôi cháu, vừa chạy ăn như ông, nhiều người mủi lòng. Xóm này nghèo từ muôn thuở, hun hút xa thị thành, rẻo đất mom sông nằm lọt thỏm giữa bạt ngàn lau lách, tiếng thùng gõ gọi nhau trong đêm là tiếng kêu cứu cuối cùng. Đợi thiên hạ đốt đuốc, vác gậy tới cứu mình thì đã cốt. Nghĩ mà rợn. Bây giờ người có đông hơn chút xíu, đường xá có khang trang hơn chút xíu nhưng là cái khang trang của nơi sơn cùng hải tận, muốn ra tới trung tâm huyện phải đi bộ mất nửa ngày đường. Muối là mặt hàng quý hiếm ở đây trong những năm chiến tranh, người ta không dám xa xỉ dùng nó để muối dưa, muối măng, muối cá. Tất cả sản vật nào đó muốn để dành thì phải phơi khô, treo giàn bếp là được. Khi ăn thì ăn luôn mùi khói khét lẹt, mùi thịt thum thủm, mùi bồ hống nhân nhẩn nhưng quen riết cũng đâm ghiền. Khi bắt được con cá to ông cũng không ăn một mình, khi bẫy được con thú dữ ông thường chia cho cả xóm. Thảo ăn như ông là vậy nên thằng Đực cũng được thơm lây. Khi nào có giỗ quẩy gì đó người ta cũng gói cho thằng Đực cái bánh, miếng xôi nhờ ông mang về. Ấy vậy mà mấy hôm rày ông đau chẳng ai biết, chẳng ai thăm hỏi, con Nẫm thấy mình có lỗi với ông nhiều lắm. Nó nhìn ông, ông nhìn nó, chẳng ai nói gì nhưng trông ánh mắt ông, nó vừa gặp ánh mắt của một người cha đau khổ tột cùng đang muốn tâm sự gì với nó lại thôi.
Bữa đó con Nẫm bị bố nó nện cho một trận ra trò, hai mắt sưng húp, bầm tím. Thằng Đực biết tỏng chuyện gì. Nó đau lòng lắm mà không nói, ông nội nó cũng im lặng, hai mắt âng ấng nước trợn trừng. Chỗ rít cắn sưng tấy lên, đỏ mọng, sốt cao, ông rên hừ hừ đắp mấy chăn cũng kêu lạnh, thằng Đực chẳng dám rời ông nửa bước. Đêm nào nó cũng ôm ông thật chặt cho ông khỏi run, rồi khi nó ngủ thiếp đi, hình như ông chỉ chờ vậy, ông trút hơi thở cuối cùng.
Thêm hai mùa cúc quỳ vàng nữa, con Nẫm vẫn chưa lấy chồng, thằng Đực bây giờ như tảng đá độc không nói, không rằng. Nó chỉ về ngang qua quán con Nẫm khi trời đã tối kín mặt, đi nép sát bên kia đường, lầm lũi. Rồi ngày giỗ ông cụ cũng đến, bà con chòm xóm tíu tít rất đông lo chuyện chay đàn. Thằng Đực lăng xăng như gà mắc đẻ, ai bảo gì làm nấy, không thì xớ rớ đâu đó mà chẳng biết làm gì. Tội nghiệp. Con Nẫm có cớ mang hoa quả sang nhà.
Nhớ ngày nào, khi bàn hương án ông Tó vừa chỉnh tề, người ta bảo thằng Đực đọc tên họ và ngày tháng năm sinh của ông cụ để ghi vào giấy tiếp. Thằng Đực lắc đầu nguầy nguậy, chừng như nhớ ra điều gì, nó mang cả chồng thư tín của ông cụ để lại và mấy cuốn sách đã cũ mèm ra lục lục, tìm tìm…
- Đưa đây tao xem nào. Ai đó dõng dạc.
- Chẳng thấy gì.
Rồi ông hạ giọng khi đã cầm xấp gì đó trên tay:
- Cháu đã đọc chưa?
- Chưa ạ!
- Cháu đọc đi…
Thằng Đực ấp úng. Lúc này có trăm con mắt tò mò nhìn nó, người thì nghĩ ông cụ để lại của cải, người thì nghĩ ông cụ trăn trối nợ nần, thằng Đực thì vã mồ hôi hột, may sao con Nẫm nhanh nhảu: “Để em đọc cho“, thằng Đực mừng rơn.
Eo Gió, ngày… tháng… năm…
Ta là Tó, không, Phan Ngọc Núi ở Hòa Châu, Cẩm Lệ… Lưu lạc vào đất này từ năm 1955, mang theo đứa con trai bốn tháng tuổi, đứa con mà mẹ nó là người làm thuê của gia đình ta sinh ra. Nó tên là Đực là Phan Ngọc Đức. Gia đình ta vốn nhiều đời khoa bảng nên không thể chấp nhận ta đứa con trai thứ, hư đốn. Ta ra đi hai bàn tay trắng và một mầm sống vô tội… Bất đắc dĩ phải gọi con là cháu bởi lúc đó ta đã ngoài năm mươi. Nhìn đâu ta cũng thấy miệng lưỡi thế gian răng nanh tua tủa, ta sợ… Ta sợ không ai đồng cảm, hiểu và thương mình. Càng sợ hơn nữa khi nghĩ liệu những người đàn bà trẻ đẹp kia có cho con mình bú nhờ, một khi biết mình là người cha không nên nết!
Và  ta chọn giải pháp này: nhận con là  cháu.
May sao ai cũng thương tình cho cha con ta còn có chốn dung thân…
Thằng Đực gục xuống nghẹn ngào, lần đầu tiên nó được gọi cha thì cha không còn. Con Nẫm nhớ lại ánh mắt của ông cụ nhìn nó hôm nào, cũng quỳ phủ phục xuống bàn thờ ông kêu gào thảm thiết. Mắt hàng xóm cũng rơm rớm đỏ. Bây giờ, họ mới thấy ông cao thượng đến nhường nào, chung thủy chung tình nhất mực, hy sinh cuộc sống giàu sang phú quý để giữ lấy hòn máu bé bỏng do mình tạo ra. Một nghĩa cử mà chỉ có tình thâm thiêng liêng mới làm nổi.
Bây giờ mọi chuyện đã an bài, thằng Đực hết buồn rồi. Nó đang vui lắm, nó tíu tít rót rượu mời mọi người, nó huyên thuyên đủ chuyện, hình như nó đang yêu. Thêm một mùa hoa cúc vàng chờ đợi. Con Nẫm liếc nhìn thằng Đực tình tứ, hình như bây giờ nó mới hiểu ra. Nó gật đầu. 
Lý Thị Minh Châu
Theo http://vietvanmoi.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...