Thứ Hai, 30 tháng 3, 2020

Đừng cố tình áp đặt phương ngữ Nam bộ vào Truyện Kiều

Đừng cố tình áp đặt phương ngữ 
Nam bộ vào Truyện Kiều!
Thời gian gần đây ông An Chi (AC) trình làng quyển Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb TH TPHCM), trong phần lời nói đầu ông cho biết: ‘Quyển sách này ra đời là để thảo luận với quyển Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872 của Nguyễn Tài Cẩn và quyển Truyện Kiều - Bản Nôm Duy Minh Thị của Nguyễn Quảng Tuân’. Và điều này ông đã thể hiện qua bài Lắt léo chữ nghĩa: 'Truyện Kiều' bản Duy Minh Thị 1872 và phương ngữ Nam bộ (báo Thanh Niên, 16/2/2020) (1), trong đó ông viết: ‘Bản Duy Minh Thị 1872 của Truyện Kiều có những chỗ thuộc từ ngữ, cách nói của Nam kỳ mà vì không nắm vững nên hai nhà Kiều học hàng đầu của ta là Nguyễn Tài Cẩn và Nguyễn Quảng Tuân đã phạm sai lầm khi phiên âm’. Sau khi đọc bài này chúng tôi thấy người ‘phạm sai lầm khi phiên âm’ lại chính là ông AC, trong bài có 10 mục từ thì ông đã sai hết 6 mục từ. Song trước khi chứng minh những cái sai ấy, chúng tôi mời bạn đọc tìm hiểu sơ lược về Duy Minh Thị và bản Kiều 1872.
Có tài liệu cho rằng Duy Minh Thị tên thật là Trần Quang Quang, nguyên quán huyện Duy Minh (thuộc tỉnh Bến Tre ngày nay), từng có thời gian sống ở vùng Gia Định và có thể là người Minh Hương. Bản Kiều 1872 do ông trùng san được in ở Trung Quốc, phổ biến chủ yếu ở miền nam. Về sau Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872 còn được tái bản 3 lần: ‘Bảo Hoa các (1879), Văn Nguyên đường (1879) và Thiên Bảo lâu (1891). Các lần tái bản sau đều khắc đúng như bản in lần thứ nhất’ (theo Nguyễn Tài Cẩn).
Có lẽ từ những dữ kiện trên nên ông AC cho rằng ‘bản Duy Minh Thị 1872 của Truyện Kiều có những chỗ thuộc từ ngữ, cách nói của Nam kỳ’ để rồi suy diễn dẫn tới... ‘phạm sai lầm’. Chúng tôi sử dụng những dẫn chứng chủ yếu từ 5 bản Truyện Kiều của Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm (2) để phản biện quan điểm của ông AC.
Để tiện theo dõi bài, mời bạn đọc xem quy ước của ông AC: ‘c. là câu, TL là thảo luận, NTC là Nguyễn Tài Cẩn, NQT là Nguyễn Quảng Tuân, HTC là Huình-Tịnh Paulus Của’.
Chúng tôi trích nguyên văn từng mục từ của ông AC để tiện trao đổi.
AC: Áng bất bằng, c.1635. - NTC, NQT: Án bất bằng. TL: Viết án [按] nhưng đọc áng vì đây là chữ Nôm miền Nam. Đây là một từ cổ, như trong áng can qua, áng công danh, áng đao binh... Chữ áng ở đây tương đương với chữ nỗi trong nỗi bất bằng của nhiều bản khác.
VTH (Vương Trung Hiếu): Đây là sự suy diễn hết sức võ đoán của ông AC, không thể cho rằng viết án [按] rồi đọc áng để quy kết đây là chữ Nôm miền nam như trong áng can qua, áng công danh…, bởi vì trong chữ Nôm, ‘án’ được viết là 按 (bộ thủ 手) hoàn toàn khác chữ ‘áng’盎 (bộ mãnh 皿) như trong ‘áng can qua’/盎干戈 (câu 2941 trong bản Kiều 1870,1902); áng công danh/盎功名 (trong bài Tự thán/自歎 của Nguyễn Trãi).
AC: Bạt lụy, c.909. - NTC, NQT: gạt lệ. TL: Nôm ghi hẳn hoi là bạt lụy [拔]. Bạt lụy là “chùi lau nước mắt” (HTC). Xin chú ý đây là hai chữ/tiếng có thật trong phương ngữ Nam bộ, không thể đổi thành gạt lệ.
VTH: Trên thực tế thì bạt lụy [拔] là từ Hán Việt, có nguồn gốc từ Hán ngữ, được chuyển thành chữ Nôm theo phép giả tá. Trong chữ Nôm, bạt 拔 còn được đọc là gạt, nghĩa là ‘lấy tay gạt ngang, quệt ngang’; lụy  còn được đọc là lệ (nước mắt), do đó việc đổi bạt lụy thành gạt lệ là hoàn toàn chính xác. Tại sao ông AC cho rằng không thể? Thử hỏi nếu giữ nguyên từ bạt lụy thì người đọc hiện nay làm sao có thể hiểu là ‘gạt’ lệ’ hay ‘chùi lau nước mắt’?
AC: Đã chành, c.516. - NTC, NQT: đã dành. TL: Chành là “mở rộng ra về bề ngang [thường nói về môi, miệng]”(Vietlex). Ở đây là lòi ra một cách méo mó. Chành ra ba góc da còn thiếu (Hồ Xuân Hương). Phương ngữ Nam bộ có từ tổ đẳng lập lòi chành, có nghĩa là để lộ ra vì muốn giấu mà không giấu được. Nôm khắc trình [呈] để đọc thành chành. Ý nói ngay lúc đó thì lòng rẻ rúng đã “lòi” ra một bên rồi.
VTH: Bản 1872 ghi là 呈. Theo Tự Điển Chữ Nôm Dẫn Giải của TSKH Nguyễn Quang Hồng thì chữ này (呈) có thể phiên thành: ‘chành’ trong chòng chành (nghiêng ngả, lắc lư); ‘dành’ trong câu ‘Mà lòng rẻ rúng đã dành một phen’ (Kim Vân Kiều tân truyện/金雲翹新傳); ‘rình’ trong rập rình; ‘trành’ trong tròng trành (chòng chành) và ‘trình’ (thưa bẩm, báo cáo, giãi bày với bề trên). Như vậy, NTCNQT phiên là ‘đã dành’ đâu có gì sai. Chữ ‘chành’ theo cách giải thích của ông AC là ‘mở rộng bề ngang’, ‘lòi ra’ thì không phải là chữ ‘chành’呈 ở đây. Chữ chành đó được viết bằng 2 chữ Nôm là:
- ‘Chành’浧 trong chành bành (dàn trải ra hết mức theo bề rộng). Thí dụ: ‘Rành rành ba góc chành chành. Khi thì khép lại, khi chành bành ra: Là cái quạt’/停停1111. 
Ngày 12/03/2020
Vương Trung Hiếu
Theo https://trieuxuan.info/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...