Thứ Ba, 31 tháng 3, 2020

Tội ác và trừng phạt 3

Tội ác và trừng phạt 3
Chương 27
- Piotr Petrovich! - bà kêu lên, - ít nhất cũng có ông bênh vực chúng tôi! Xin ông nói cho con mẹ ngu đần kia biết rằng nó không được ăn nói như vậy với một người quý phái gặp lúc sa cơ, pháp luật không cho phép như vậy… tôi sẽ kêu lên tận quan Tổng trấn tư lệnh… Mụ sẽ phải chịu trách nhiệm… Xin ông hãy nhớ đến sự tiếp đãi của cha tôi, xin ông che chở lũ trẻ côi cút.
- Xin lỗi bà… Xin lỗi, xin lỗi bà, - Piotr Petrovich xoa tay gạt đi, - bà cũng biết thừa rằng tôi không hề có cái hân hạnh được quen biết cụ nhà… xin lỗi bà! (có tiếng ai cười phá lên) còn như những chuyện cãi cọ liên miên giữa bà với bà Amalya Ivanovna thì tôi không có ý định cany dự vào… Tôi chỉ vì có việc cần… muốn thưa chuyện nga với con ghẻ của bà, cô Sofia… Ivanovna thì phải? Cho phép tôi vào…
Đoạn Piotr Petrovich vòng qua một bên Katerina Ivanovna, bước về phía Sonya đang đứng ở góc đối diện.
Bà Katerina Ivanovna đứng sững ra ở chỗ cũ, như bị sét đánh. Bà không hiểu nổi làm sao Piotr Petrovich lại phủ nhận sự tiếp đãi của cha bà. Sau khi bịa ra cái chuyện tiếp đãi ấy, chính bà cũng tin chắc rằng đó là một chuyện có thật, như tin một điều gì thiêng liêng. Cái giọng khô khan, có vẻ sự vụ, thậm chí lại đầy ý hăm doạ và khinh bỉ, cũng khiến bà choáng người đi. Và không hiểu sao ai nấy đều dần dần im lặng khi ông ta xuất hiện. Cái vẻ "chững chạc và trang nghiêm" của ông ta quá lạc điệu trong đám khách khứa nầy đã đành, nhưng ngoài ra còn có thể thấy rằng ông ta đến đây đã có một việc gì quan trọng lắm, chắc hẳn phải có một lý do gì khác thường mới có thể đưa ông ta quá bộ đến đây cho nên mọi người đều chắc mẩm rằng ngay bây giờ sẽ có một biến cố gì xảy ra. Raxkonikov, bấy giờ đang đứng cạnh Sonya, né sang một bên để nhường lối cho ông ta vào; Piotr Petrovich hình như không trông thấy chàng. Một phút sau Lebeziatnikov cũng hiện ra ở ngưỡng cửa; ông ta không vào phòng, chỉ đứng nhìn, vẻ tò mò đặc biệt, gần như ngạc nhiên; ông ta lắng tai nghe, nhưng hình như hồi lâu có điều gì không hiểu ra được.
- Xin lỗi các ngài, hình như tôi đến làm phiền các ngài, nhưng việc nầy khá quan trọng, - Piotr Petrovich nói trống không giữa đám khách; - tôi còn lấy làm mừng rằng ở đây có đông người chứng kiến. Thưa bà Amalya Ivanovna, tôi xin bà lấy tư cách chủ nhà mà chú ý đến những điều tôi sắp nói với cô Sofia Ivanovna đây. Cô Sofia Ivanovna, - ông ta quay sang nói với Sonya đang hết sức ngạc nhiên và chưa chi đã hoảng sợ - ngay sau khi cô rời khỏi căn phòng tôi ở với ông bạn tôi là Andrey Xemionovich Lebeziatnikov trên bàn tôi thấy mất một tờ ngân phiếu quốc gia trị giá một trăm rúp. Nếu cô có cách nào biết được và nói rõ cho tôi biết hiện nó ở đâu, thì tôi xin lấy danh dự mà cam đoan trước tất cả các nhân chứng ở đây rằng việc nầy sẽ không có hậu quả gì. Bằng không, tôi buộc lòng phải dùng đến những biện pháp rất cương quyết, và đến lúc ấy cô chỉ nên tự trách mình mà thôi…
Trong phòng im phăng phắc. Ngay cả mấy đứa trẻ đang khóc cũng nín bặt. Sonya mặt tái mét đứng im nhìn Lugin, không biết trả lời ra sao cả. Nàng có vẻ như vẫn chưa hiểu ra. Mấy giây rồi qua.
- Nào, cô định thế nào? - Lugin hỏi, mắt nhìn Sonya trừng trừng.
- Tôi không biết… Tôi không biết gì cả… - mãi hồi lâu Sonya mới nói, giọng yếu ớt.
- Không biết? Cô không biết ư? - Lugin hỏi lại và im lặng một lát nữa - Xin cô nghĩ cho chín, cô ạ, - Ông ta nói, giọng nghiêm khắc, nhưng vẫn như khuyên nhủ, - Cô nghĩ kỹ đi, tôi thuận để cho cô suy nghĩ thêm một lát. Xin cô thấy cho rằng nếu không biết chắc, dĩ nhiên một người có kinh nghiệm như tôi không đời nào lại liều lĩnh đi buộc tội thẳng cho cô như vậy; vì nếu buộc tội trực tiếp, bằng phát ngôn, nhưng lại phát ngôn sai, hay chỉ nhầm thôi cũng thế, thì về một phương diện nào đó chính tôi phải chịu trách nhiệm sau nầy. Tôi biết như thế lắm. Sáng nay vì có việc cần tôi đã đem đổi một số ngân phiếu tín dụng trị giá cả thảy gần ba nghìn rúp. Trong ví tôi còn ghi rõ số tiền đó. Khi về nhà - Có ông Anđey Xemionovich chứng thực việc nầy, - tôi đem tiền ra đếm, và đếm được hai nghìn ba trăm rúp, tôi bỏ số tiền đó vào ví, rồi đút ví vào túi áo trong. Trên bàn còn lại chừng năm trăm rúp tiền giấy, trong số đó có ba tờ bạc một trăm rúp. Ngay lúc ấy cô đến (do chính tôi mời) - và suốt thời gian sau cô có vẻ hết sức bối rối, đến nỗi trong khi đang nói chuyện, không hiểu tại sao cô đã ba lần đứng dậy hấp tấp định bỏ đi, tuy câu chuyện chưa nói hết. Andrey Xemionovich có thể chứng thực những điều đó. chắc chính cô cũng sẵn lòng xác nhận trước mặt mọi người rằng sở dĩ tôi nhờ ông Andrey Xemionovich mời cô vào chỉ là đề bàn với có về tình cảnh goá bụa bơ vơ của mẹ kế cô là bà Katerina Ivanovna (vì tôi không đến dự lễ tang được), và bàn cách tổ chức lạc quyên, xổ số hay làm một việc gì tương tự để giúp đỡ bà ta. Cô có cảm ơn tôi và thậm chí còn ứa nước mắt ra nữa (tôi kể hết ra như vậy, trước hết là để cô nhớ lại, sau nữa là để cô thấy rằng những chi tiết dù nhỏ nhất cũng không bị xoá mờ trong trí nhớ của tôi). Sau đó tôi lấy một tờ giấy bạc mười rúp ở trên bàn đưa biếu cô nhân danh cá nhân tôi, gọi là tạm giúp đỡ mẹ cô lần đầu. Tất cả những việc đó Andrey Xemionovich đều có trông thấy. Sau đó tôi tiễn cô ra cửa, - trong khi cô vẫn luống cuống như trước, - rồi ngồi lại một mình với Andrey Xemionovich nói chuyện trong khoảng mười phút, đoạn sau khi Andrey Xemionovich ra ngoài, tôi lại ngồi vào bàn đếm nốt chỗ số tiền còn lại mà tôi đã định cất riêng ra. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy thiếu một tờ giấy bạc một trăm rúp. Cô thứ nghĩ mà xem: Andrey Xemionovich thì tôi không thể nào nghi ngờ được, ngay chỉ giả thiết như vậy thôi tôi cùng đã lấy làm xấu hổ rồi. Tôi cũng không thể nào đếm nhầm được, vì một phút trước khi cô vào tôi đã tính toán xong xuôi và thấy tổng số tiền chúng như đã tính. Xin cô nhận cho rằng, khi nhớ lại cái vẻ luống cuống, vội vàng muốn bỏ đi của cô, nhớ lại rằng cô đã để hai tay lên bàn một lát, và cuối cùng xét đến hoàn cảnh xã hội của cô và những thói quen gắn liền với hoàn cảnh đó, tôi đã kinh hãi - Có thể nói như vậy - và thậm chí đã phải bất đắc dĩ, buộc lòng đi đến một mối nghi ngờ tuy có tàn nhẫn thật, nhưng đúng đắn! Xin nói thêm và nhắc lại rằng tuy tôi có đủ căn cứ hiển nhiên để tin chắc điều đó, tôi cũng hiểu rằng trong khi buộc tội như thế nầy vẫn có điều nguy hiểm cho tôi Nhưng cô cũng thấy đã tôi đã không trù trừ, tôi rất phẫn uất, và xin nói rõ là vì sao: thưa cô chỉ vì sự vong ân hết sức bỉ ổi của cô! Thật là quái gở! Chính tôi mời cô đến để bàn cách giúp đỡ người mẹ kế khốn khổ của cô, tôi đã chắt bóp tiền riêng của tôi ra để biếu cô mười rúp, thế mà cô đền đáp lại ngay tức khắc bằng một hành động như vậy! Không được, như thế không tốt một chút nào. Cô thử nghĩ mà xem; hơn nữa, với tư cách một người bạn, (vì giờ phút nầy cô không còn có thể có một người bạn nào tốt hơn tôi nữa) tôi xin cô phản tỉnh! Bằng không, tôi quyết không dung tha! Thế nào?
- Tôi không lấy gì của ông cả, - Sonya hoảng hốt trả lời, - Ông có cho tôi mười rúp, đây xin ông lấy lại. - Sonya rút trong túi ra một chiếc khăn tay, tìm núi thắt mở ra, rút tờ giấy bạc mười rúp và chìa ra cho Lugin.
- Còn một trăm rúp nữa, cô không thú nhận - Lugin nói giọng trách móc và cương quyết, không cầm tờ giấy bạc.
Sonya thảng thốt nhìn quanh. Mọi người đều nhìn nàng với những bộ mặt dữ tợn, nghiêm khắc, ngạo nghễ, thù hằn. Nàng nhìn Raxkonikov… chàng đứng sát tường, tay khoanh trước ngực, và đang nhìn nàng với đôi mắt nẩy lửa.
- Trời ơi! - Sonya buột mồm kêu lên.
- Thưa bà Amalya Ivanovna, bây giờ cần phải báo sở cảnh sát, cho nên rất mong bà cho gọi người gác cổng đến đây, - Lugin nói khẽ, giọng lại còn có vẻ mơn trớn dịu dàng nữa.
- Gott der barmherzigel (1). Tôi tã piết tó là con an káp mà? - Amalya Ivanovna vỗ tay đánh đét một cái.
- Bà biết thế ư? - Lugin tiếp lời, - thế thì chắc trước đây ít ra bà đã có một số căn cứ nào đấy để kết luận như vậy. Thưa bà Amalya Ivanovna rất kính mến, xin bà nhớ cho những lời bà vừa nói trước mặt đông đủ nhân chứng.
Xung quanh bỗng bàn tán xôn xao lên cả một lượt. Mọi người đều nhớn nhác.
- Sa - ao - ao? - Katerina bỗng như bừng tỉnh, quát lớn, và như một cái lò xo bật tung lên, bà chồm về phía Lugin, - Sao? Ông buộc cho nó cái tội ăn cắp à? Sonya ấy à? Chao ôi, quân hèn mạt, quân hèn mạt! - Và lao vào Sonya, bà ôm chầm lấy nàng trong đôi tay khô đét vững như hai gọng kìm.
- Sonya! Sao con dám cầm của hắn mười rúp! Con ngốc quá đi mất? Đưa đây! Đưa ngay mười rúp ấy đây - nầy.
Và giật tờ giấy bạc trong tay Sonya, Katerina Ivanovna lấy hai tay vò nát ra rồi ném thẳng vào mặt Lugin. Nhúm giấy trúng vào mặt ông ta và nấy xuống sàn. Amalya Ivanovna vội chạy đến nhặt.
Piotr Petrovich nổi giận.
- Giữ con mẹ điên kia lại! - Ông quát.
Lúc bấy giờ bên cạnh Lebeziatnikov còn có mấy người nữa đứng ở ngưỡng cửa nhìn vào, trong số đó có cả hai mẹ con người đàn bà mới đến Petersburg.
- Sao? Điên à? Mày bảo ta điên ấy à? Đồ ngu - u - u! - Katerina Ivanovna rít lên the thế. - Chính mày mới là đồ ngu, cái quân cạo giấy ở toà án kia, đồ hèn mạt! Sonya, Sonya mà lại đi lấy tiền của hắn? Sonya mà lại đi ăn cắp? Nó còn bố thí cho mày nữa ấy, đồ ngu! - Và Katerina Ivanovna cất tiếng cười điên dại - Các ông các bà có trông thấy thằng ngu kia không? - bà chạy nhớn nhác bên nầy bên kia, chỉ Lugin cho mọi người xem. - Thế nào! - Cả mày nữa ư? - Bà trông thấy bà chủ nhà, - Cả mày cũng xác nhận là nó ăn cắp hẳn, con mẹ súc sinh Phổ-lỗ-sĩ kia, đồ cẳng gà mặc váy xòe! Chà, bọn chúng mày, bọn chúng mày? Nhưng nó có bước ra khỏi phòng đâu, vừa ở phòng mày xuống là nó ngồi xuống cạnh ông Rodion Romanovich ngay kia mà! Chúng mày cứ soát người nó đi! Nó chưa đi đâu cả nó mà có lấy thì tiền vẫn còn trong người nó! Tìm đi kìa tìm đi, tìm đi! Nhưng hễ chú mày không tìm thấy thì liệu hồn đấy, nhãi con ạ! Tao sẽ chạy lên đến tận hoàng thượng, tao sẽ quỳ trước chân Sa hoàng nhân từ khoan dung, ngay bây giờ, ngay hôm nay! Tao là đứa mồ côi! Họ sẽ cho tao vào!(2). Mày tưởng họ không cho sao? Đừng hòng, tao sẽ vào kỳ được! Tao sẽ vào đến nơi! Mày thấy nó hiền lành thế định ức hiếp nó phải không? Mày trông mong vào đấy hẳn? Nhưng tao thì không phải tay vừa đâu, chú mày ạ? Mày sẽ biết tay tao! Tìm đi! Tìm đi kìa, tìm đi!
Và Katerina như điên như dại lay mạnh Lugin, kéo ông ta về phía Sonya.

- Tôi sẵn sàng, và xin chịu trách nhiệm, nhưng xin bà bình tâm cho, xin bà binh tâm Tôi đã thấy quá rõ rằng bà không phải tay vừa! Thế… thế… bây giờ làm thế nào? - Lugin lắp bắp, - việc nầy phải làm ở sở cảnh sát mới được… tuy… vả chăng ở đây cũng đã có đủ nhân chứng lắm rồi… Tôi sẵn sàng… Nhưng dù sao một người đàn ông cũng khó lòng… vì khác giới… Giá được bà Amalya Ivanovna giúp cho… tuy lẽ ra không thể làm như vậy… làm thế nào ạ?
- Ai cũng được? Ai muốn thì cứ việc soát? - Katerina Ivanovna quát lên - Sonya, lật túi ra cho chúng nó xem! Đây, đây! Mày xem đây, đồ quái vật, túi không đây nầy, chỉ có cái khăn tay, trong túi không có gì hết, mày thấy chưa! Còn túi kia, đây, đây! Mày thấy chưa! thấy chưa?
Và Katerina Ivanovna không những lộn túi Sonya ra, mà lại còn lần lượt kéo tung cả hai lần vải túi ra ngoài. Nhưng đến cái túi thứ hai ở bên phải thì bỗng thấy văng ra một mảnh giấy. Mảnh giấy bật tung lên vẽ thành một đường vòng cũng trên không rồi rơi xuống cạnh chân Lugin. Mọi người đều trông thấy. Có mấy người kêu lên. Piotr Petrovich cúi xuống, dùng hai ngón tay nhặt tờ giấy giơ lên cho mọi người xem và giăng hẳn nó ra. Đó là một tờ ngân phiếu một trăm rúp gấp tám lại. Piotr Petrovich đưa tay vòng khắp bốn phía để mọi người thấy rõ tờ giấy bạc.
- Tồ ăn cắp! Xéo ngay ra khỏi nhà tao! Gọi kénh sát kẻnh sát! - Amalya Ivanovna tru tréo lên, - phải tày chúng ti Xipiri! Xéo ngay!
Khắp bốn phía nỗi lên nhớng tiếng ồ à. Raxkonikov lặng thinh nhìn Sonya chằm chặp, thỉnh thoảng lại đưa mắt sang Lugin, nhưng rất nhanh. Sonya vẫn đứng ở chỗ cũ như người mất hồn; nàng hầu như không ngạc nhiên được nữa. Bỗng khắp mặt nàng đỏ bừng lên; nàng kêu một tiếng và giơ hai tay bưng mặt.
- Không, không phải tôi! Tôi không lấy! Tôi không biết! - nàng kêu lên mấy tiếng não lòng và lao về phía Katerina Ivanovna. Bà ôm chầm lấy nàng và xiết chặt vào lòng, như muốn che chở nàng chống lại tất cả.
- Sonya! Sonya Dì không tin đấu! Con thấy đấy, dì có tin đâu! - Katerina Ivanovna kêu lên, bất chấp sự thật sờ sờ ra đấy, bà lay lay người nàng trong tay như ru một đứa trẻ, hôn lấy hôn để lên khắp mặt nàng, rồi chộp lấy hai tay nàng mà hôn tới tấp. - Con mà lại đi ăn cắp! Sao nó ngu thế! Trời ơi! Các người ngu lắm, ngu lắm! - bà quát to lên với mọi người - nhưng các người có hề biết tấm lòng nó ra sao đâu, nó là người thế nào, các người có biết đâu! Nó mà lại đi lấy tiền! Nó sẵn sàng cởi bỏ chiếc áo cuối cùng của nó đem bán đi, nó sẵn sàng đi chân không để cho các người hết, nếu các người cần, nó như thế đấy! Nó đi lĩnh thẻ vàng vì con tôi chết đói, nó bán mình nuôi mẹ con tôi! Ôi, ông ơi là ông ơi! Ông có thấy không, ông có thấy không? Tiệc tang của ông thế nầy đây! Trời ơi! Kìa bênh nó với chứ, sao các người cứ đứng ỳ ra thế! Rodion Romanovich! Sao ông mà cũng không bênh nó với? Ông cũng tin hay sao? Các người không đáng ngón tay út của nó, cả lũ các người ấy cả lũ, cả lũ! Trời ơi! Bênh cho nó với chứ!
Tiếng khóc của Katerina Ivanovna, người đàn bà cô quả ho lao, hình như đã gây một ấn tượng rất mạnh trong đám khách. Có một cái gì thật thảm thê: đau khổ đã cùng cực trong khuôn mặt tiều tụy héo hon vì bệnh tật, mếu máo vì đau dớn, trong đôi môi khô cằn rớm máu, trong tiếng gào khản đặc, trong tiếng khóc nức nở như tiếng khóc trẻ con, trong lời van xin đầy lòng tin cậy ngây thơ và tuyệt vọng ấy đến nỗi mọi người hình như đều động lòng thương hại cho người đàn bà khốn nạn. Ít nhất Piotr Petrovich cùng thương hại ngay.
- Bà! Bà ơi? - Ông ta kêu lên, giọng oai vệ, - việc nầy không can hệ đến bà! Không ai dám buộc tội bà xúi giục hay đồng loã, huống chi chính bà đã phát hiện sau khi lộn túi áo cô ấy ra: thế nghĩa là bà không hề hay biết gì. Tôi rất sẵn lòng thương hại nếu cảnh… bần cùng đã bức bách cô Sofia Xemionovna, nhưng thưa cô tại sao cô lại không chịu thú nhận? Sợ nhục chăng? Lần nầy là lần đầu? Có lẽ cô rối trí quá? Cũng dễ hiểu thôi, rất dễ hiểu… thế nhưng tại sao lại đâm đầu vào một tình huống như vậy! Thưa các ngài! - Ông ta nói với tất cả các khách khứa - thưa các ngài! Vì lòng trắc ẩn, và có thể nói là thương xót, có lẽ tôi sẵn sàng tha thứ, ngay đến bây giờ cũng vậy, mặc dầu đã bị xúc phạm đến nhân phẩm. Thưa có, mong rằng nỗi hổ thẹn hôm nay sẽ là một bài học cho cô về sau - Ông ta nói với Sonya - Còn việc nầy thì đến đây xem như chấm dứt. Thế cũng đủ rồi!
Piotr Petrovich liếc nhìn Raxkonikov. Hai luồng mắt gặp nhau. Cái nhìn nảy lửa của Raxkonikov như muốn thiêu Lugin ra tro. Trong khi đó Katerina Ivanovna hình như không nghe thấy gì nữa, bà ôm Sonya vào lòng hôn lấy hôn để như người điên. Mấy đứa trẻ cũng xúm quanh đưa đôi tay nhỏ bé ôm lấy nàng, còn Polenka, chưa hiểu rõ đầu đuôi ra sao, cũng đầm đìa nước mắt, khóc nấc lên từng cơn và úp khuôn mặt xinh xắn sưng húp vì khóc lên vai Sonya.
- Thật là hèn hạ - một tiếng nói rất to bỗng vang lên ở ngoài cửa.
Piotr Petrovich vụt ngoảnh lại.
- Hèn hạ đến the là cùng! - Lebeziatnikov nhắc lại nhìn thẳng vào mắt Lugin.
Piotr Petrovich dường như giật mình. Mọi người đều nhận thấy thế. (Về sau họ nhớ lại điều nầy).
Lebeziatnikov bước vào phòng.
- Thế mà ông dám viện tôi ra làm nhân chứng? - Ông ta nói trong khi bước về phía Piotr Petrovich.
- Thế nghĩa là thế nào, Andrey Xemionovich? Ông muốn nói gì thế? - Lugin lẩm bẩm.
- Như thế nghĩa là ông… là một kẻ vu khống, tôi muốn nói thế đấy! - Lebeziatnikov nói, giọng sôi nổi; đôi mắt lươn kèm nhem nhìn Lugin một cách nghiêm nghị. Ông ta đang giận sôi lên. Raxkonikov hau háu nhìn ông ta như muốn ghi nhớ và cân nhắc từng chữ. Mọi người lại im thin thít. Piotr Petrovich hầu như có vẻ bối rối, nhất là những phút đầu.
- Nếu ông muốn nói với tôi… - ông lắp bắp, - nhưng ông làm sao thế? Ông có tỉnh trí không?
- Tôi thì rất tỉnh trí, còn như ông là… một thằng bịp bợm. Chao ôi, sao có thể hèn hạ đến thế! Tôi đã nghe hết, tôi cố ý đợi nghe để hiểu cho hết, bởi vì xin thừa nhận rằng mãi cho đến đây câu chuyện vẫn chưa hẳn là có logic… Nhưng ông làm như thế để làm gì thì tôi chưa hiểu nỗi Nhưng tôi làm gì mới được chứ. Xin ông thôi cho cái lối phóng đoán xằng bậ ấy! Hay có lẽ ông quá chén rồi?
- Có lẽ chính ông mới quá chén, chứ không phải tôi đồ hèn? Tôi tuyệt nhiên không bao giờ uống rượu, nguyên tắc của tôi là như thế! Các ngài thử tưởng tượng: chính ông ta, chính tay ông ta đưa tờ giấy một trăm rúp ấy cho Sofia Xemionovna, - tôi có trông thấy, tôi có chứng kiến, tôi sẵn sàng thề như vậy! Chính ông ta, chính ông ta! - Lebeziatnikov nhắc lại với mọi người.
- Mất trí rồi hay sao thế, đồ nhãi con? - Lugin rít lên, - Chính cô ta đang đứng sờ sờ trước mặt ông kia kìa, chính cô ta vừa mới xác nhận ở đây, trước mặt mọi người rằng ngoài mười rúp ra, cô ta không lấy gì của tôi nữa hết. Thế thì làm sao lại có thể nói là chính tôi đưa?
- Tôi có trông thấy, tôi trông thấy! - Lebeziatnikov dằn giọng quát lên, - và tuy làm như vậy là trái với quan điểm của tôi, tôi cũng sẵn sàng tuyên thệ trước toà án ngay bây giờ, bất cứ thề như thế nào cũng được, vì tôi đã trông thấy ông bí mật dúi ngầm cho cô ta! Nhưng tôi lại tưởng ông muốn giúp ngầm cô ta có ngốc không chứ! Khi ông tiễn cô ta ra cửa, cô ta có quay lại để bắt tay ông. Một tay ông giơ ra bắt, còn tay kia ông đã ngầm đút vào túi cô ta một tờ giấy bạc. Tôi trông thấy! Tôi có trông thấy.
Lugin tái mặt đi.
- Ông nói nhảm gì thế! - Ông ta trâng trâng tráo tráo - Ông đứng ở cửa sổ làm sao trông thấy tờ giấy bạc được? Ông mê sảng đấy… mắt kém nhìn thế kia. Ông nói mê rồi!
- Không, không mê sảng đâu! Tuy đứng xa, tôi vẫn trông thấy hết, và tuy đứng ở cửa sổ cũng khó nhìn rõ thật - Ông nói đúng đấy, - nhưng vì một trường hợp đặc biệt: tôi biết chắc rằng đó là một tờ giấy bạc một trăm rúp, bởi vì khi ông trao cho cô Sofia Xemionovna tờ giấy mười rúp, - Chính tôi trông thấy, - Ông cũng lấy luôn một tờ giấy trăm rúp ở trên bàn (cái đó tôi thấy rõ vì lúc ấy tôi đứng gần ngay bàn, và vì ngay lúc ấy tôi chợt nảy ra một ý nghĩ riêng cho nên tôi không quên rằng ông có cầm tờ giấy bạc đó). Ông gấp nó lại và từ đó trở đi cứ cầm suốt trong tay. Sau đó tôi lại suýt quên khuấy đi nhưng khi ông đứng dậy, ông đã chuyển tờ giấy bạc từ tay phải sang tay trái và suýt buột tay đánh rơi; đến đây tôi lại sực nhớ ra, bởi vì ý nghĩ lúc nãy lại đến với tôi, cụ thể là tôi nghĩ rằng ông muốn kín đáo làm ơn cho cô ta; không cho tôi biết. Ông có thể hình dung tôi bắt đầu theo dõi ra sao, ấy thế là tôi trông thấy ông đút được tờ giấy bạc vào túi cô ấy. Tôi trông thấy, tôi có trông thấy tôi sẵn sàng thề như vậy.
Lebeziatnikov gần như thở không ra hơi nữa. Khắp bốn phía bắt đầu nổi lên những tiếng xì xào mỗi lúc một đầy ý ngạc nhiên; nhưng cũng có cả những tiếng gầm gừ đầy vẻ doạ nạt. Moi người đều xấn về phía Piotr Petrovich, Katerina Ivanovna lao đến Lebeziatnikov.
- Andrey Xemionovich Tôi trót nhầm, trước đây tôi không hiểu ông! Xin ông bênh vực cho nó! Chỉ có một mình ông bênh vực nó! Nó là đứa mồ côi, Chúa đã sai ông đến! Andrey Xemionovich, ông ơi, ông tốt quá, quý hoá quá!
Và Katerina Ivanovna, hầu như không biết mình đang làm gì nữa, quỳ sụp xuống trước mặt Lebeziatnikov.

- Toàn chuyện nhảm! - Lugin thét lên, như điên như dại, - Ông nói toàn chuyện nhảm. "Tôi quên, tôi nhớ, tôi quên" - thế là cái gì! Hoá ra tôi cố ý đút vào túi cho cô ta à? Để làm gì? Vì mục đích gì? Có quan hệ gì giữa tôi với cái thứ…
- Để làm gì ư? Đấy, chính cái đó tôi cũng không hiểu, còn những điều tôi kể thì hoàn toàn đúng sự thật. Ông là một người bẩn thỉu, độc ác, tôi không nhầm đâu vì tôi nhớ rất rõ tôi đã nghĩ gì về việc nầy khi tôi cảm ơn và bắt tay ông. Ông ngầm đút tiền vào túi cô ta để làm gì? Nghĩa là tại sao lại nhất thiết phải lén lút mới được? Chả nhẽ chỉ vì muốn giấu tôi, vì biết rằng quan điểm của tôi ngược hẳn lại và tôi pủù nhận lối gia ơn cá nhân, vốn là một biện pháp không triệt để tí nào? Thế là tôi kết luận rằng quá thật ông thấy ngượng mặt với tôi khi đem cho một món tiền như vậy và ngoài ra, tôi nghĩ có lẽ ông muốn làm cho cô ấy ngạc nhiên sau nầy khi bỗng tìm thấy cả một tờ giấy bạc một trăm rúp trong túi, bởi vì có những vị ân nhân rất thích tô điểm iệc thiện của mình theo kiểu ấy, tôi biết. Sau đó tôi lại còn nghĩ rằng ông muốn thứ thách cô ta, nghĩa là muốn xem thứ khi thấy tờ giấy bạc rồi, cô ta có đến cảm ơn không? Rồi tôi lại nghĩ là ông muốn tránh những lời cảm ơn và muốn rằng, như câu ngạn ngữ thường nói:"tay phải không nên biết"(3)… nói tóm lại, một cái gì như thế… Phải, lúc ấy tôi nảy ra nhiều ý nghĩ linh tinh lắm, thành thử tôi định gác lại để sau nầy nghĩ thêm: nhưng cũng không muốn để lộ cho ông biết rằng tôi đã rõ điều bí mật của ông, vì làm như thế không được tế nhị. Tuy nhiên tôi lại nay thêm một ý nghĩ khác: nhỡ ra Sofia Xemionovna chưa kịp hay biết gì đã đánh rơi mất tờ giấy bạc thì sao? Cho nên tôi quyèt định đến đây gọi riêng cô ra ngoài và báo cho cô biết là ông có đút một trăm rúp vào túi cô. Nhưng nhân tiện tôi có ghé qua phòng bà và cô Kobyliatnikhov để đưa cho họ quyển "Đại cương về phương pháp tích cực" và đặc biệt giới thiệu bài báo của Piderit (cả bài của Wagner nữa). Sau đó tôi đến đây thì vừa được chứng kiến một chuyện lạ lùng thế nầy. Đấy, thứ hỏi tôi làm sao có thể có những ý nghĩ, những điều suy luận đó, nếu quả tôi không trông thấy ông đút một trăm rúp vào túi cô ta?
Khi Andrey Xemionovich kết thúc đoạn diễn vẫn rườm rà và rút ra một kết luận logic như vậy, ông ta mệt lử ra, thậm chí mồ hôi còn chảy ròng ròng trên mặt. Than ôi! Dù nói tiếng Nga, ông ta cũng không biết cách trình bày cho chỉnh (vả chăng ông cũng không biết thứ tiếng nào khác), thành thử nói xong ông kiệt lực hắn, thậm chí còn có vẻ như gầy xọp đi sau cái kỳ công biện hộ đó, tuy vậy, những lời lẽ của ông cũng gây được một ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Ông nói say sưa, quả uyết đến nỗi rõ ráng mọi người đều tin ông.
Piotr Petrovich cảm thấy tình thế rất nguy ngập.
- Trong đầu óc ông nảy ra những câu hỏi vớ vẩn nầy nọ thì việc gì đến tôi? - ông ta quát lên. - Đó không phải là một bằng chứng! Có thể ông cảm thấy thế thôi, còn tôi, tôi xin thưa rằng ông nói dối, ông ạ! Ông nói dối, ông vu khốông tôi vì có điều gì thù oán tôi, cụ thể là ông thù tôi đã không tán thành những quan điểm phóng túng và vô đạo của ông về xã hội, thế đấy!
Nhưng lối cãi bay nầy không có lợi gì cho Piotr Petrovich cả. Ngược lại, khắp bốn phía có tiếng xì xào bất bình nổi lên.
- À ra mày muốn lái vào đấy? - Lebeziatnikov quát lên. - Mày nói dối! Cứ gọi cảnh sát lại đây, ta sẽ thề? Chỉ có một điều tôi chưa hiểu: hắn liều lĩnh làm một việc hèn hạ như thế để làm gì! Ồ, con người sao mà khốn nạn, đê hèn!
- Tôi có thể cắt nghĩa tại sao ông ta lại làm một việc liều lĩnh như thế, và nếu cần, tôi cũng sẽ xin thề! - mãi đến giờ Raxkonikov mới lên tiếng, giọng rắn rỏi, đoạn bước lên phía trước.
Trông chàng có vẻ quả quyết và điềm tĩnh. Không hiểu sao chỉ thoạt nhìn chàng mọi người đều thấy rõ ngay rằng chàng biết rõ sự tình, và câu chuyện đã sắp đến chỗ kết thúc.
- Bây giờ thì tôi đã hiểu hết, - Raxkonikov nói thẳng với Lebeziatnikov - Ngay từ đâu tôi đã nghi ngờ rằng có một âm mưu gì bỉ ổi trong việc nầy; sở dĩ tôi ngờ là vì một hoàn cảnh đặc biệt mà chỉ một mình tôi được rõ, và bây giờ xin nói ra cho mọi người cũng biết cơ sự do đã mà ra cả! Ông Andrey Xemionovich những lời quý báu của ông đã cho tôi thấy rõ hắn rồi. Xin tất cả các ngài lắng tai nghe tôi nói. Cái ông nầy - Chàng chỉ Lugin - cách đây ít lâu có cầu hôn em gái tôi là Avdotia Romanovna Raxkonikova. Nhưng đến khi lên Petersbung thì hôm kia, ngay buổi gặp gỡ đầu tiên giữa ông ta với tôi, chúng tôi đã xích mích với nhau, và tôi đã đuổi ông ta ra khỏi nhà: có hai người có thể xác nhận việc đó. Ông ta là người rất hiểm độc. Hôm kia tôi cũng chưa biết ông ta trọ ở đây, tại phòng ông, ông Andrey Xemionovich, cho nên ngay hôm chúng tôi cãi cọ nhau, tức hôm kia, ông ta đã thấy tôi lấy tư cách là bạn của ông Marmelazov quá cố giao lại cho bà quả phụ của ông là Katerina Ivanovna một ít tiền đề lo việc chôn cất. Ông ta bèn viết ngay cho mẹ tôi một bức thư nói rằng tôi đã lấy hết tiền không phải trao cho bà Katerina Ivanovna, mà là để đem cho cô Sofia Xemionovna đồng thời dùng những lời lẽ hết sức đê hèn đề nhắc đến… đến tính cách của Sofia Xemionovna, nghĩa là muốn ám chỉ rằng tôi có những quan hệ bất chính với Sofia Xemionovna. Ông ta làm như vậy, chắc các ngài cùng hiểu là để gây xích mích giữa tôi với mẹ và em tôi, muốn gợi cho họ nghĩ rằng tôi đem hết số tiền cuối cùng họ dành lại để giúp tôi ra phung phí vì những mục đích bất chính. Tối hôm qua, trước mặt cả ba người: mẹ tôi, em tôi và Piotr Petrovich, tôi đã phục hôi lại sự thật và chứng minh rằng tôi trao tiền cho bà Katerina Ivanovna để lo việc chôn cất chứ không phải đưa cho cô Sofia Xemionovna, và mãi đến hôm kia tôi không hề được quen biết cô Sofia Xemionovna, thậm chí cùng chưa bao giờ trông thấy mặt cô ấy nữa. Ngoài ra tôi có nói thêm rằng ông Piotr Petrovich Lugin với tất cả những phẩm cách quý giá của ông, cũng không đáng gì ngón tay út của cô Sofia Xemionovna - người mà ông đã nói xấu thậm tệ như vậy. Khi ông ta hỏi: "liệu tôi có dám để cô Sofia Xemionovna ngồi cạnh em gái tôi không" tôi đã trả lời rằng việc đó tôi đã làm ngay sáng hôm ấy.
Căm tức vì thấy mẹ và em tôi không chịu nghe lời xúc xiểm của ông ta mà bất hoà với tôi, Piotr Petrovich liên tiếp buông ra những lời hỗn xược không thể nào dung thứ được. Một cuộc đoạn tuyệt dứt khoát đã xảy ra, mẹ con chúng tôi đã đuổi ông ta ra khỏi nhà. Tất cả những việc đó đều xảy ra tối hôm qua. Bây giờ xin các ngài lưu ý đặc biệt đến điều nầy: các ngài thử tưởng tượng xem nếu bây giờ ông ta chứng minh được rằng Sofia Xemionovna là một người ăn cắp, thì trước hết ông ta sẽ chứng minh được cho mẹ và em tôi thấy rằng những mối nghi ngờ của ông ta có phần đúng, rằng ông ta nổi giận khi tôi đặt cô Sofia Xemionovna ngang hàng với em tôi là có lý, rằng sở dĩ ông ta công kích tôi chính là để báo toàn danh dự cho em gái tôi, tức vợ chưa cưới của ông ta. Nói tóm lại, qua những việc đó, ông ta còn có thể làm cho tôi xích mích trở lại với người nhà, và dĩ nhiên ông ta cũng hy vọng chuộc lại lòng họ. Đấy là chưa nói ông ta còn trả được thù riêng với cá nhân tôi, vì ông có cơ sở để ước đoán rằng danh dự và hạnh phúc của cô Sofia Xemionovna đối với tôi rất quý. Những điều ông ta đã trù tính là như vậy! Tôi hiểu việc nầy như thế đấy! Nguyên nhân trước sau chỉ có thể và không thể có nguyên nhân nào khác được?
Raxkonikov kết thúc như vậy, hay gần như vậy, lời của chàng chốc chốc lại bị ngắt quàng vì những tiếng ồ, à trong đám công chúng đang lắng tai nghe rất chăm chú. Nhưng tuy mấy lần bị ngắt quãng như vậy, chàng vẫn nói rất sắc sảo, điềm tĩnh, chính xác, rõ làng và quả quyết. Giọng nói đanh và sắc, cách nói quả quyết và vẻ mặt nghiêm nghị của chàng gây nên trong lòng mọi người một ấn tượng vô cùng mành liệt.
- Đúng, đúng như thế đấy! - Lebeziatnikov phấn khởi xác nhận. - rất nhiên phải như thế, vì khi cô Sofia Xemionovna vừa bước vào phòng chúng tôi, ông ta có hỏi tôi ngay: "Ông đã đến chưa? Tôi có trông thấy ông trong đám khách khứa của bà Katerina Ivanovna không?" Ông ta gọi tôi ra cửa sổ, hỏi nhỏ như vậy Thế nghĩa là ông ta cần ông nhất thiết phải mặt ở đấy mới được! Đúng thế đấy, đúng cả đấy!
Lugin im lặng mỉm cười khinh bỉ. Tuy vậy, mặt ông ta cũng tái mét đi. Hình như ông ta đang cố nghĩ cách thoát khỏi tình trạng nầy. Có lẽ giá có thể bỏ đi ngay ông ta sẽ rất hài lòng, nhưng lúc bấy giờ thì hầu như không thể bỏ đi được; làm như vậy có khác gì trực tiếp công nhận những lời buộc tội ông là đúng, và thú nhận rằng mình đã vu khống Sofia Xemionovna thật! Hơn nữa đám khách khứa, đã hăng tiết sân vì hơi men, bấy giờ đang nổi giận thực sự. Lão nhân viên quân lương tuy chưa hiểu rõ đầu đuôi cho lắm, cũng quát tháo to hơn ai hết và đề ra những biện pháp khá rầy rà cho Lugin. Nhưng cũng có những người không say; đó là những người khách thuê nhà từ khắp các buồng kéo đến. Cả ba anh chàng người Ba Lan đều nóng mắt lên đến cực độ, luôn mồm quát: "pane laidak!"(4) và lầu bầu trong miệng những lời đe doạ hằng tiếng Ba Lan. Sonya lắng nghe, tinh thần căng thẳng, nhưng dường như cũng chưa hiểu hết, tựa hồ vừa tỉnh một cơn mê. Nàng chỉ nhìn Raxkonikov không rời mắt, cảm thấy chàng chính là lực lượng hao vệ mình. Katerina Ivanovna thở phều phào một cách khó nhọc và hình như đã mệt lả ra. Trông ngơ ngác hơn cả là bà Amalya Ivanovna: bà ta đứng đực ra, mồm há hốc và hình như không có ý nghĩ gì trong đầu hết. Hà ta chỉ hiểu rằng Piotr Petrovich đã bị tưng hửng thế nào đấy.
Raxkonikov toan xin phép nói thêm, nhưng người ta không để cho chàng nói hết: mọi người đều quát tháo và chen chúc quanh Lugin, thì nhau chửi bới và đe doạ.
Nhưng Piotr Petrovich không hoảng hốt. Thấy âm mưu buộc tội Sonya đã hoàn toàn thất bại, ông ta lập tức viện đến lối trơ tráo.
- Xin phép các ngài, xin các ngài đừng chen, cho tôi đi đi! Ông ta vừa nói vừa len qua đám đông, - và xin các ngài dừng doạ; tôi cam đoan là sẽ chẳng có chuyện gì hết, các ngài chẳng dám làm gì đâu, tôi không phải hạng nhát gan đâu, ngược lại các ngài sẽ phải chịu trách nhiệm về việc nầy: các ngài đã bưng bít một vụ tội hình. Con ăn cắp nầy đã bị vạch mặt quá rõ, tôi sẽ truy tố cho mà xem. Toà án người ta không mù quáng và say rượu như thế nầy, họ không đời nào đi tin hai tên vô thần khét tiếng, chuyên đem những tư tưởng tự do xúi bẩy người ta làm loạn. Chúng nó buộc tội tôi để trả thù riêng, và chính chúng cũng đã ngu xuẩn thú nhận như thế… Vâng phải, xin phép các ngài!

- Ông phải cuốn gói ra khỏi phòng tôi ngay; xin ông vui lòng xéo đi nơi khác, từ rày đừng có nhìn mặt tôi nữa! Thế mà tôi đã tốn bao nhiêu hơi sức trình bày cho hắn nghe… suốt hai tuần liền!
- Thì chính tôi đã bảo với ông là tôi sẽ đi kia mà, ông Andrey Xemionovich, ngay từ khi ông còn giữ tôi ở lại; bây giờ tôi chỉ xin nói thêm rằng ông là một thằng ngốc. Tôi xin chúc cho cái óc ngu độn và cặp mắt mù loà của ông chóng khỏi. Xin phép các ngài, xin phép!
Ông ta đã len được ra cửa; nhưng lão nhân viên quân lương không muốn để cho ông ta đi ra một cách dễ dàng như vậy, lão với lấy một cái cốc để trên bàn đang tay ném Piotr Petrovich, nhưng cái cốc lại bay thẳng vào người bà Amalya Ivanovna. Bà ta tru tréo lên, còn lão nhân viên quân lương thì mất thăng bằng vì vung tay quá đà, nặng nề ngã chúi xuống gầm bàn.
Piotr Petrovich trở về phòng, và nửa giờ sau không còn thấy tăm hơi ông ta trong nhà nầy nữa. Sonya bẩm tính vốn nhút nhát; trước đây nàng cũng biết rằng muốn làm hại nàng không có gì dễ bằng, và bất cứ ai cũng có thể tha hồ sỉ nhục nàng, hầu như không sợ bị rầy rà gì cả. Nhưng dù sao cho đến phút nầy nàng vẫn tưởng có thể tránh tai hoạ bằng cách thận trọng giữ gìn ý tứ, bằng thái độ hiền lành, nhịn nhục trước mọi người. Giờ đây nàng đã tỉnh ngộ một cách quá đau xót.
Dĩ nhiên nàng có thể nhẫn nại cắn răng chịu đựng tất cả - ngay chuyện nầy cũng thế. Nhưng phút đầu nàng đã khổ tâm quá đỗi. Tuy nàng đã thắng và đã được thanh minh, - khi phút hoảng sợ và sửng sốt ban đầu đã qua, khi nàng đã hiểu rõ sự tình. Cảm giác bơ vơ và si nhục vẫn nhức nhối trong tim nàng. Nàng bắt đầu lên cơn ưu uất. Cuối cùng, không chịu được nữa, nàng lao ra khỏi phòng và chạy về nhà. Bấy giờ Lugin đi mới ra được một lát. Khi chiếc cốc ném trúng vào người bà Amalya Ivanovna khiến khách khứa cười rộ lên, bà ta cũng không sao cưỡng nổi hơi men bốc lên ngùn ngụt trong đầu. Rít lên như người hoá dại, bà ta xông vào Katerina Ivanovna mà bà cho là đã gây nên mọi chuyện.
- Xéo ngay khỏi nhà nầy! Ngay lập tức! Đi! - Và bà bắt đầu vơ tất cả những đồ đạc của Katerina Ivanovna ở trong tầm tay bà, vứt bừa ra giữa sàn. Katerina Ivanovna bấy giờ đã kiệt sức nằm vật ra giường, thở hổn hển, mặt tái nhợt, gần như đã ngất đi. Thấy thế bà nhảy xuống giường và xông vào Amalya Ivanovna.
Nhưng làm sao chọi nổi: Amalya Ivanovna hất tung bà lên như một chiếc lông gà.
- Sao! Họ vu khống một cách vô đạo như thế chưa đủ hay sao, mà con mẹ kia còn sinh sự với tôi! Gớm chưa! Chồng tôi vừa chôn xong, họ ăn uống của tôi no nê rồi họ đuổi tôi ra đường với lũ trẻ mồ côi! Nhưng tôi biết đi đâu? - người đàn bà khốn khổ vừa gào lên vừa nấc và thở hổn hển. - Chúa ơi là Chúa! - bà bỗng hét to, mắt sáng quắc, - Chả nhẽ không còn lẽ công bằng nữa hay sao? Nếu Chúa không che chở lũ mồ côi chúng tôi thì còn che chở ai nữa? Đề rồi xem! Trên đời còn có toà án, còn có công lý, tôi sẽ đi tìm! Đợi đấy, đồ vô đạo! Polenka, con ở nhà trông các em, rồi mẹ sẽ về. Đợi mẹ ở ngoài đường cũng được? Để rồi xem trên đời nầy còn có công bằng nữa không?
Rồi trùm lên đầu cái khăn dạ xanh mà ông Marmelazov quá cố đã nhắc đến trong khi kể chuyện cho Raxkonikov nghe, Katerina Ivanovna chen qua đám khách trọ say khướt vẫn còn chen chúc lộn xộn ở trong phòng; và vừa kêu gào khóc lóc vừa chạy ra đường, với một mục đích mơ hồ là đi tìm công lý cho kỳ được, ngay lập tức, bằng bất cứ giá nào Polenka sợ hãi nép vẫn góc phòng với hai đứa bé, người run cầm cập ngồi trên chiếc hòm ôm chặt hai em, đợi mẹ về. Amalya Ivanovna lồng lộn chạy khắp phòng, rít lên the thé, luôn mồm than thở, vớ được cái gì cũng vứt xuống đất. Khách khứa thì gân cổ lên nói mỗi người một phách, người thì bàn nốt về sự việc vừa xảy ra, người thì cãi cọ chửi bới nhau; có người lại cất tiếng hát nghêu ngao…
"Bây giờ ta cũng phải đi thôi - Raxkonikov nghĩ. Nào, Sofia Xemionovna, thử xem bây giờ cô sẽ nói gì!"
Và chàng đi đến nhà Sonya.
Chú thích:
(1) Lạy Chúa từ bi (tiếng Đức)
(2) Theo phong tục cũ, Sa hoàng phải cho những người mồ côi trực tiếp khiếu nại nếu bị ai ức hiếp, lăng nhục, và phải bênh vực họ
(3) Một câu ngạn ngữ phổ biến ở nhiều nước châu Âu: "Tay phải không nên biết đến những việc tay trái làm"
(4) Ông nầy là đồ bịp bợm
Chương 28
Raxkonikov đã đứng ra bênh vực Sonya một cách hăng hái và mạnh dạn chống lại Lugin, tuy tâm hồn chàng cũng đang mang nặng một nỗi dau khổ và khủng khiếp không bờ bến. Nhưng sau những cực hình sáng nay, chàng dường như cũng vui mừng vì đã có dịp khuây khoả những ấn tượng nặng nề không sao chịu được nữa, đó là chưa nói đến bao nhiêu cảm xúc riêng tây và sâu kín đã thúc đẩy chàng bênh vực Sonya. Hơn nữa, chàng luôn luôn nghĩ đến buổi gặp mặt sắp tới với Sonya và ý nghĩ đó có những lúc khiến chàng hết sức bồn chồn lo sợ: chàng đã nói cho nàng biết ai đã giết Lizaveta, chàng biết trước rằng đó là một cực hình ghê gớm, và dường như cố khoát tay xua đuổi hình ảnh ấy đi. Cho nên, khi ra khỏi nhà Katerina Ivanovna chàng đã thách thức: "Nào, Sofia Xemionovna, bây giờ cô sẽ nói gì?"
Cũng chỉ vì một tâm trạng hưng phấn bề ngoài sau khi thắng được Lugin. Nhưng trong tâm hồn chàng đã diễn ra một hiện tượng kỳ dị. Khi tới đến căn nhà của Kapernaumov, chàng bỗng thấy bủn rủn hắn ra vì kiệt sức và sợ hãi. Chàng dừng lại trước cửa, lòng ray rứt vì một câu hỏi kỳ lạ: "Có nên nói ai đã giết Lizaveta không? Câu nói nầy thật kỳ lạ bởi vì ngay lúc ấy chàng chợt cảm thấy rằng chẳng những không thể nào không nói ra đã đành, mà ngay đến trì hoãn giờ phút ấy lại dù chỉ một thời gian ngắn thôi cũng không thể được. Chàng chưa biết rõ tại sao lại không thể được, chàng chỉ cảm thấy thế, và cái ý thức đau xót rằng mình bất lực trước sự tất yếu hầu như đè bẹp chàng xuống. Để khỏi phải nghĩ ngợi và khổ sở, chàng hối hả mở cửa phòng và đứng trong khung cửa nhìn Sonya.
Nàng đang ngồi chống khuỷu tay lên chiếc bàn con, hai tay bưng mặt, nhưng trông thấy Raxkonikov, nàng vội vàng đứng dậy ra đón chàng, như thể vẫn đợi chàng từ nãy.
- Không có ông, không biết tôi sẽ ra sao? - nàng nói nhanh khi giáp mặt chàng ở giữa phòng.
Hẳn là nàng chỉ chực chàng đến để nói ngay mỗi câu ấy. Nói xong, nàng chờ đợi.
Raxkonikov đi về phía bàn và ngồi xuống chiếc ghế nàng vừa ngồi lúc nãy. Nàng đứng trước mặt chàng, cách chàng hai bước, đúng hệt như hôm qua.
- Thế nào, Sonya? - Chàng nói, rồi bỗng cảm thấy giọng mình run run - Cả cái vụ vừa qua đều dựa vào "hoàn cảnh xã hội của cô và những thói quen gắn liền với nó" kia mà. Lúc nầy cô có hiểu điều đó không?
Gương mặt nàng lộ vẻ đau khổ.
- Nhưng xin ông đừng nói với tôi như hôm qua! - nàng ngắt lời chàng. - Xin ông đừng nói. Thế nầy tôi cũng đã khổ lắm rồi…
Nàng hối hả mỉm cười, sợ nhờ ra lời trách móc không vừa lòng chàng. Lúc nãy tôi dại dột bỏ đi. Không biết bây giờ ở đằng ấy ra sao? Vừa rồi tôi đã định quay trở lại đằng ấy nhưng cứ nghĩ là… Ông sắp đến đây.
Chàng kể lại cho Sonya biết rằng Amalya Ivanovna đã đuổi gia đình nàng ra khỏi nhà, và Katerin Ivanovna đã chạy đi "tìm công lý" ở đâu đâu không rõ.
- Ồ trời ơi! - Sonya kêu lên, - ta lại đằng ấy ngay Đoạn nàng vớ lấy áo choàng vai.
- Mãi mãi vẫn cứ thế! - Raxkonikov bực tức quát lên. - Cô chỉ biết nghĩ đến họ thôi! Cô ở đây với tôi một lát đã.
- Thế còn… Katerina Ivanovna?
- Katerina Ivanovna thì không thể thiếu cô được đâu bà ấy đã chạy ra khỏi nhà, tất phải tự đến đây thôi - Chàng xẵng giọng nói thêm - Nếu bà ấy đến mà không có cô ở nhà, thì chính cô lại sẽ là người có lỗi…
Sofia phân vân bứt rứt ngồi xuống ghế.
Raxkonikov im lặng, mắt nhìn xuống đất nghĩ ngợi điều gì.
- Cứ cho là vừa rồi Lugin không muốn thế, - Chàng mở đầu, không nhìn vào Sonya - Nhưng nếu hắn muốn thế hay định tính toán điều gì, hắn sẽ cho cô vào tù, nếu không có Lebeziatnikov với tôi, phải không?
- Vâng, - nàng nói, giọng yếu ớt - Vâng! - nàng nhắc lại, vẻ lơ đãng và lo lắng.
- Mà quả nhiên tôi có thể không có mặt ở đấy! Còn như Lebeziatnikov thì hoàn toàn chỉ vì tình cờ mà đến.
Sonya lặng thinh.
- Thế nếu cô vào tù thì sao? Cô có nhớ hôm qua tôi nói gì không?
Nàng vẫn không đáp. Raxkonikov đợi một lát.
- Thế mà tôi cứ tưởng cô lại sẽ kêu lên: "Ồ, ông đừng nói nữa, ông thôi cho!" - Raxkonikov cười, nhưng có vẻ gượng gạo. Một phút sau chàng hỏi: - Sao, lại im lặng à? - Phải nói chuyện gì chứ? Đây, tôi đang muốn biết cô sẽ giải quyết "vấn đề" nầy ra sao, như Lebeziatnikov thường nói (chàng có vẻ như bắt đầu lúng túng). Không, thật đấy, tôi không đùa đâu. Sonya ạ, cô cứ giả sử cô đã biết hết những ý định của Lugin từ trước, nghĩa là biết chắc rằng những âm mưu của hắn sẽ hãm hại Katerina Ivanovna và lũ trẻ; và phụ thêm vào đấy cả cô nữa (vì cô chỉ xem mình như một cái gì rất phụ). Polenka cũng thế… vì nó cũng chỉ có con đường ấy. Ấy, nếu bây giờ để cho cô quyết định cho ai được sống ttên đời nầy: để cho Lugin sống mà làm những việc bỉ ổi, hay để cho Katerina Ivanovna phải chết? Cô sẽ quyết định ra sao: trong hai người đó thì ai phải chết? Tôi hỏi cô như vậy.
Sonya lo lắng nhìn chàng. Trong những lời lẽ ngập ngừng ấy tựa hồ muốn ám chi xa xôi một điều gì, nàng nghĩ như có một âm hưởng thật kỳ lạ.
- Tôi đã cảm thấy từ trước là ông sẽ hỏi một điều gì như vậy - nàng nói, mắt nhìn chàng dò hỏi.

- Được cứ cho là như thế; nhưng cô cũng cứ thử nói là cô quyết định ra sao?
- Sao ông lại hỏi một điều không thể có được? - Sonya khó chịu đáp.
- Thế nghĩa là thà cứ để cho Lugin sống và làm bậy? Cô cũng không dám quyết định điều đó nữa sao?
- Nhưng tôi làm thế nào biết được ý định của Chúa… Mà ông cứ hỏi gì những chuyện không thể hỏi được như thế? Những câu hỏi trống rỗng ấy đề làm gì? Làm sao điều đó lại có thể do tôi quyết định được? Ai cho phép tôi phân xử người nào được sống, người nào phải chết?
- Ý định của Chúa đã can thiệp vào rồi thì chẳng còn biết làm thế nào nữa, - Raxkonikov hậm hực càu nhàu.
- Cần gì ông cứ nói thẳng ra thì hơn! - Sonya đau đớn kêu lên, - Ông lại muốn bày chuyện gì nữa. Chả nhẽ ông đến đây chỉ để làm khổ tôi?
Nàng không dằn lòng được nữa, oà lên khóc nức nở. Chàng nhìn nàng, lòng buồn rười rượi quên bẵng năm phút trôi qua.
- Em nói đúng đấy Sonya ạ, - Cuối cùng chàng nói. Chàng như bỗng thay đổi hẳn cái giọng làm ra vẻ trâng tráo và thách thức một cách bất lực không còn nữa. Ngay cả tiếng nói cũng yếu đi. - Hôm qua chính tôi có nói với Sonya là tôi sẽ đến không phải để xin tha thứ, thế mà nay tôi lại hầu như mở đầu bằng một lời cầu xin tha thứ… Tôi nói đến Lugin và đến ý Chúa là để… xin tha thứ đấy Sonya ạ…
Chàng muốn mỉm cười, nhưng chỉ có một cái gì bất lực và đang dở hiện lên trên gương mặt xanh xao của chàng. Chàng cúi đầu giơ tay bưng lấy mặt.
Và đột nhiên một cảm giác căm thù cay cú kỳ lạ, bất ngờ đối với Sonya vụt thoáng qua lòng chàng. Như kinh ngạc và hoảng sợ trước cảm giác đó, chàng vụt ngẩng đầu lên và chăm chú nhìn nàng; nhưng chàng bắt gặp luồng mắt lo âu và ái ngại của nàng đang hướng về phía mình: khóe mắt ấy chan chứa tình yêu; lòng căm thù của chàng vụt biến đi như một bóng ma.
Không phải chàng căm thù; chàng đã lẫn lộn cảm xúc nầy với cảm xúc khác. Cảm xúc ban nãy chỉ có nghĩa là giờ phút ấy đã đến.
Chàng lại lấy tay bưng mặt và gục đầu xuống. Bỗng chàng tái mặt đi rời ghế đứng dậy nhìn Sonya, và không nói một câu, chàng như cái máy ngồi sang giường nàng.
Trong tri giác của chàng, phút ấy sao giống hệt như khi chàng đứng sau lưng mụ già, cây rìu đã rút ra khỏi quai, và cảm thấy "không thế để lỡ một khoánh khắc nào nữa".
- Ông làm sao thế? - Sonya sợ sệt hỏi.
Chàng không nói được. Chàng hoàn toàn không đoán trước là mình sẽ nói rõ sự thật, như thế nầy, và không sao hiểu nổi việc gì đã xảy đến với mình. Sonya khẽ bước lại gần chàng, ngồi lên giường và chờ đợi, mắt nhìn chàng không chớp. Tim nàng khắc khoải đập mạnh. Tình thế không sao chịu được nữa. Chàng ngoảnh mặt tái nhợt về phía náng, môi chàng như cố sức nói ra điều gì, nhưng chỉ rúm ró lại, bất lực. Một cảm giác sợ hãi tràn qua lòng Sonya.
- Ông làm sao thế? - nàng hỏi lại, hơi né mình ra.
- Không sao đâu Sonya ạ, đừng sợ… Chỉ là chuyện nhảm! Phải, xét cho cùng thì chỉ là chuyện nhảm, - Chàng lẩm bẩm, vẻ như người đang mê sảng không biết mình nói gì. - Tại sao tôi chỉ đến làm khổ một mình em thôi? - Chàng bỗng nhìn nàng nói thêm. - Phải. Tại sao? Tôi cứ tự hỏi mãi câu nầy Sonya ạ…
Có lẽ chàng đã tự đặt cho mình câu hỏi ấy cách đây mười lăm phút, nhưng bây giờ chàng nói trong trạng thái bất lực hoàn toàn, hầu như không còn ý thức về mình nữa và cảm thấy toàn thân run lên lẩy bẩy.
- Trời ơi, anh khổ quá? - nàng nhìn chàng, đau đớn.
- Chỉ là chuyện nhảm! thế nầy, Sonya ạ - Không hiểu sao trong khoâng hai giây chàng bỗng mỉm một nụ cười nhợt nhạt, yếu ớt - Sonya có nhớ là hôm qua tôi định nói với Sonya điều gì không?
Sonya lo lắng chờ đợi.
- Khi ra về, tôi có nói rằng có lẽ tôi sẽ vĩnh biệt Sonya; nhưng nếu hôm nay tôi đến, tôi sẽ nói cho Sonya biết… ai đã giết Lizaveta.
Nàng bỗng run bắn cả người lên.
- Ấy cho nên hôm nay tôi đến để nói cho Sonya rõ đấy.
- Thế ra hôm qua anh nói thật ư… - nàng khó nhọc thì thào, - sao anh lại biết? - nàng hỏi nhanh như chợt tỉnh. Sonya bắt đầu thở một cách khó nhọc. Mặt nàng tái dần đi.
- Tôi biết.
Nàng im lặng một lát.
- Họ tìm ra người ấy rồi sao? - nàng hỏi, giọng rụt rè.
- Không, chưa tìm ra.
- Thế sao anh lại biết được điều đó? - Cũng sau một phút im lặng nàng lại hỏi, giọng thì thào rất khẽ.
Chàng ngoảnh về phía nàng và đăm đăm nhìn nàng không chớp.
- Em đoán xem, - Chàng nói, môi lại mỉm nụ cười mếu máo và yếu ớt hồi nãy.
Khắp người nàng như có những đợt có giật chạy qua.
- Nhưng anh… sao anh lại, nhát em như thế? - nàng nói, miệng mỉm cười như đứa trẻ con.
- Thế tức là tôi với người ấy phải là chỗ rất thân tình… tôi mới biết được, - Raxkonikov nói tiếp, mắt vẫn nhìn không chớp vào mắt nàng, như thể không đủ sức gỡ mắt nhìn đi nơi khác. - người ấy… không định giết Lizaveta… Chỉ vì… tình cờ mà phải giết… Người ấy định giết mụ già… trong khi mụ ấy ở nhà một mình, người ấy đến… Nhưng Lizaveta chợt trở về… cho nên người ấy… giết luôn cả bà ta.
Thêm một phút kinh hoàng trôi qua. Hai người vẫn chăm chú nhìn nhau.
Thế Sonya không đoán được ư? - Chàng bỗng hỏi, với cái cảm giác như đang lao từ trên tháp chuông xuống.
- Kh… không. - Sonya thì thào rất khẽ.
- Thử nhìn kỹ xem.
Và chàng vừa nói dứt câu, một cảm giác cũ quen thuộc, bỗng lại như một tảng băng tràn vào tâm hồn chàng tê buốt: chàng nhìn nàng và trong gương mặt nàng chàng bỗng trông thấy mặt Lizaveta. Chàng nhớ lại rõ mồn một vẻ mặt Lizaveta khi chàng cầm rìu xấn đến, còn bà ta thì lùi vào tường, tay giơ ra phía trước một vẻ sợ hãi ngây thơ trên gương mặt, đúng như trẻ con khi chúng kinh hãi nhìn chăm chăm vào vật làm cho chúng sợ, bước thụt lùi và giơ hai bàn tay bé nhỏ ra phía trước, chỉ chực khóc oà lên. Giờ đây Sonya cũng gần hệt như thế cũng có vẻ bất lực, hoảng sợ như thế, nàng sửng sốt nhìn chàng một lát rồi bỗng giơ tay trái ra phía trước, mấy ngón tay khẽ chạm vào ngực chàng, và từ từ rời đi-văng đứng dậy, mỗi lúc một né xa người ra, mắt nhìn chàng mỗi lúc một đờ đẫn sửng sốt. Nỗi sợ hãi của nàng vụt truyền sang chàng: cùng đúng vẻ kinh hoàng ấy hiện lên gương mặt chàng, chàng cũng bắt đầu nhìn nàng y như thế, và thậm chí hầu như còn mỉm một nụ cười trẻ con như nàng nữa.
Em đoán ra rồi chứ? - mãi hồi lâu chàng mới thì thầm.
- Trời ơi! - một tiếng rú khủng khiếp bật ra từ lồng ngực chàng. Nàng bủn rủn ngã xuống giường, mặt úp lên gối. Nhưng chỉ một thoáng sau nàng vụt nhổm dậy, nhanh nhẹn nhích lại gần nắm lấy hai tay chàng trong mấy ngón tay xiết chặt như những gọng kìm và mắt lại bắt đầu nhìn trừng trừng như dán chặt vào mặt chàng. Qua cái nhìn cuối cùng, tuyệt vọng nầy nàng có tìm thấy một tia hy vọng cỏn con nào. Nhưng không còn gì mà hy vọng nữa; không còn hồ nghi gì được nữa; quả đúng như thế. Mãi về sau, khi nhớ lại giây phút nầy, nàng vẫn còn thấy lạ lùng quái dị: tại sao lúc ấy nàng lại hiểu ngay rằng không còn nghi ngờ gì được nữa? Dù sao cũng không thể nói là nàng đã có lúc tiên cảm thấy một cái gì như thế kia mà? Thế nhưng giờ đây chàng vừa nói ra nàng đã chợt có cảm giác như mình quả nhiên đã linh cảm được điều đó từ trước.
- Thôi, Sonya ạ, đủ rồi? Đừng giày vò tôi nữa - Chàng van nài, giọng đau đớn.
Chàng tuyệt nhiên không có ý định thú thật với nàng theo kiểu ấy, nhưng rồi kết quả lại cứ như thế.
Như không còn tự chủ được nữa, nàng đứng phắt dậy và đi ra giữa phòng, hai tay vặn vào nhau, nhưng rồi quay phắt trở lại ngồi xuống cạnh chàng, vai kề gần sát vào vai chàng. Rồi không nhiên, như bị đâm nhói vào ngực, nàng giật mình, kêu lên một tiếng và tự dưng quỳ sụp xuống trước mặt chàng.
- Sao anh lại tự hãm hại mình như thế! - nàng tuyệt vọng thốt lên và đứng dậy ôm choàng lấy chàng, xiết thật chặt.
Raxkonikov né ra và mỉm cười nhìn nàng:
- Em lạ quá, Sonya ạ, sau khi anh đã nói như thế mà em lại ôm hôn anh. Em điên rồi hay sao?

- Không, bây giờ trên đời không còn ai bất hạnh hơn anh nữa! - nàng kêu lên, như điên như dại, không nghe thấy lời chàng vừa nói, và bỗng khóc nức nở như lên cơn động kinh.
Một cảm giác đã từ lâu không thể nghiệm bỗng tràn vào tâm hồn chàng như một đợt sóng, và lòng chàng dịu hẳn đi. Chàng không cưỡng lại cảm giác đó: hai giọt lệ trào lên rưng rưng trên mi mắt chàng.
- Thế em không bỏ anh ư, Sonya? - Chàng nói, mắt nhìn nàng gần như với một niềm hy vọng:
- Không, không; không đời nào, dù anh có phải đi đâu! Sonya thét lên, - em sẽ theo anh, anh đi đâu em cũng sẽ theo anh! Ồ, trời ơi? Ôi, sao tôi khổ thế nầy! Mà tại sao, tại sao em lại không biết anh từ trước! Tại sao anh không đến sớm hơn? Trời ơi?
- Thì anh đến đây thôi.
- Nhưng mãi bây giờ mới đến! Ôi, bây giờ biết làm thế nào! Bên nhau, bên nhau! - nàng nhắc đi nhắc lại như người mất hồn vả lại ôm lấy chàng, - Em sẽ đi đày với anh!
Chàng như chợt giật nảy mình, nụ cười lúc nầy, hằn học và gần như ngạo nghễ, lại hiện lên trên môi chàng.
- Sonya ạ, có lẽ tôi chưa có ý muốn đi đày đâu, - Chàng nói.
Sonya đưa mắt rất nhanh nhìn chàng.
Sau cảm giác xót thương nhiệt thành và day dứt lúc đầu đối với kẻ bất hạnh, lòng kinh hãi đối với kẻ giết người lại tràn ngập lòng nàng. Trong giọng nói đột nhiên thay đổi của chàng, nàng chợt nghe ra giọng nói của kẻ sát nhân. Nàng kinh ngạc nhìn chàng. Nàng chưa biết gì hết, chưa biết tại sao, làm thế nào lại như vậy, và như vậy để làm gì. Hây giờ tất cả những câu hỏi ấy cùng một lúc bùng lên trong ý thức của nàng. Và nàng lại không tin: "Anh ấy, anh ấy mà lại là kẻ giết người! Có thể thế được chăng".
- Nhưng làm sao thế nầy! Tôi đang ở đâu thế nầy! - nàng kinh ngạc thốt lên như vẫn chưa tỉnh lại, - làm sao anh, một người như thế… mà lại có thể làm việc ấy? Làm sao thế!
- Thì để lấy của mà lại. Thôi đi, Sonya! - Chàng trả lời, như có ý mệt mỏi và thậm chí bực tức nữa.
Sonya đứng yên như đớ người ra, nhưng rồi bỗng kêu lên:
- Anh đói? Anh… muốn giúp mẹ? Phải không?
- Không phải, Sonya ạ, không phải đâu, - Chàng lẩm bẩm, quay mặt đi, đầu gục xuống, - tôi không đến nỗi đói đến thế… quả nhiên tôi có muốn giúp mẹ, nhưng… cũng không hẳn như thế… đừng giầy vò tôi nữa Sonya ạ!
Sonya chắp tay lại.
- Nhưng chả nhẽ lại có thể như thế thật! Trời ơi, sự thật gì mà khủng khiếp thế! Ai mà tin được? Làm sao, làm sao mà anh, người đã đem cho những đồng tiền cuối cùng của mình, lại có thể giết người để lấy của! Chao ôi! - nàng bỗng rú lên, - số tiền anh cho Katerina Ivanovna… số tiền… Trời ơi, chả nhé đó lại chính là số tiền…
- Không đâu Sonya ạ, - Chàng hối hả ngắt lời, - không phải số tiền ấy đâu, Sonya đừng lo! Đó là tiền của mẹ tôi gửi một nhà buôn chuyển lại, tôi nhận được trong khi ốm, đúng vào hôm tôi đem cho… Razumikhin có thấy … chính anh ấy nhận hộ tôi… tiền ấy là của tôi của chính tôi, cửa tôi thật.
Sonya bỡ ngỡ nghe chàng nói và cố hết sức hiểu cho được ít nhiều.
- Còn số tiền kia… vả chăng, tôi cũng không hề biết ở đấy có tiền bạc gì không, - Chàng khe khẽ nói thêm, dường như đang mải đăm chiêu suy nghĩ, - lúc ấy tôi có tháo ở cổ mụ ấy ra một cái bóp tiền bằng da để… đựng đầy căng như thế nầy, nhưng cũng không mở ra xem; chắc là vì không có thì giờ… Đấy, còn mấy thứ đồ đạc, những dây chuyền với lại cúc áo gì đấy… tất cả các thứ ấy cùng với cái bóp tiền tôi đều chôn dưới một tảng đá trong một cái sân ở đại lộ V., ngay sáng hôm sau… Bây giờ các thứ vẫn còn ở đấy…
Sonya cố sức lắng nghe.
- Thế thì tại sao… sao anh nói: để lấy của, mà lại không lấy gì cả? - nàng nói nhanh, như người chết đuối cố blu lấy cọng rơm.
- Tôi không biết… tôi chưa quyết định được là sẽ lấy hay không lấy số tiền ấy, - Chàng nói, vẻ lại tư lự, rồi bỗng sực tỉnh, chàng cười khảy một tiếng ngắn. - Chà, bây giờ tôi nói nghe dớ dẩn quá, phải không?
Sonya thoáng có ý nghĩ: "Anh ấy điên chăng?".
Nhưng nàng lại chặn ngay ý nghĩ đó lại: không, đây có một cái gì khác. Nàng không hiểu được, nàng không hiểu gì hét
- Sonya, em biết không, - Chàng bỗng nói như say sưa hứng khởi: - Em ạ, em nghe tôi nói đây: giá tôi giết người vì đói, - Chàng nói tiếp, nhấn mạnh từng chữ và nhìn nàng, vẻ bí ẩn nhưng chân thành, - thì bây giờ… tôi sẽ sung sướng lắm! Em nên biết điều đó! - Nhưng em thì em có cần gì. - Chàng lại quát lên sau một lát im lặng, thậm chí còn có vẻ như tuyệt vọng nữa, - tôi có thú nhận là tôi đã làm một việc xấu xa, thì em cũng có cần gì? Em có cần gì cái đắc thắng ngu xuẩn ấy? Chao ôi, Sonya, giờ đây tôi đến em có phải vì thế đâu!
Sonya loại toan nói điều gì, nhưng rồi vẫn lặng thinh.
- Sở dĩ hôm qua tôi bảo em đi với tôi là vì tôi chỉ còn mỗi mình em nữa mà thôi.
- Anh bảo em đi đâu? - Sonya hỏi, rụt rè.
- Không phải đi ăn trộm, đi giết người đâu, em đừng lo, không phải thế đâu, - Chàng cười gằn chua chát, - Chúng ta khác nhau lắm… Mà Sonya ạ, mãi đến bây giờ, đến phút nầy tôi mới hiểu rõ hôm qua tôi bảo em đi đâu. Còn hôm qua, khi bảo em đi, chính tôi cũng không hiểu là đi đâu. Chung quy tôi chỉ muốn xin em một điều, tôi đến cũng chỉ vì một điều duy nhất: em đừng bỏ tôi. Em không bỏ tôi chứ, Sonya?
Nàng siết tay chàng.
- Mà tại sao ta lại nói với cô ấy, tại sao ta lại bộc lộ với cô ấy làm gì? - một lát sau chàng lại tuyệt vọng kêu lên, mắt nhìn nàng với một cảm giác xót xa vô hạn, - đây bây giờ em đang đợi tôi cắt nghĩa. Sonya ạ em đang đợi, tôi biết lắm; nhưng tôi sẽ nói gì với em đây? Em sẽ không hiểu gì đâu, chỉ thêm đau khổ thôi… vì tôi mà khổ! Đấy, em khóc. em lại ôm lấy tôi - tại sao em lại ôm lấy tôi? Tại vì tôi không chịu đựng được một mình: phải đem trút lên vai người khác: "em cũng đau khổ đi, như thế sẽ đỡ cho tôi" - em có thể yêu được một kẻ hèn hạ như thế ư?
- Nhưng anh cũng đau khổ kia mà? - Sonya kêu lên.
Cái cảm xúc hồi nãy lại như một đợt sóng tràn vào lòng chàng và trong một khoảnh khắc lại làm cho lòng chàng dịu xuống.
- Sonya, tâm hồn anh độc ác lắm, em phải nhớ lấy: em sẽ hiểu được rất nhiều. Anh đến đây chính là vì anh độc ác. Có những người họ không đến như thế đâu. Còn anh là một thằng tồi… một kẻ hèn hạ! Nhưng… thôi, mặc? Vấn đề không phải ở đấy… Bây giờ cần phải nói, mà anh thì không biết mở đầu ra sao…
Chàng ngừng lại, trầm ngâm.
- Chao ôi, anh với em khác nhau quá! - Chàng lại kêu lên, - không xứng đôi tí nào. Mà tại sao, tại sao anh lại đến làm gì. Không bao giờ anh có thể tha thứ cho mình việc ấy!
- Không, không phải đâu, anh đến là tốt! - Sonya thốt lên, - Cho em biết thì hơn? Hơn nhiều!
Chàng nhìn nàng, đau xót.
- Mà thật như thế - Chàng nói như vừa nghĩ ra một điều gì, - Quả nhiên sự việc đã xảy ra như thế! Đấy anh muốn làm một Napoleon, cho nên anh giết người… Bây giờ em hiểu chứ?
- K… không. - Sonya thì thầm, vẻ rụt ra và ngây thơ - nhưng… anh nói đi, anh nói đi! Em sẽ hiểu, em sẽ tự mình hiểu hết! - nàng van vỉ Raxkonikov.
- Em sẽ hiểu ư? Thôi được, để rồi xem!
Chàng im lặng suy nghĩ hồi lâu.
- Số là thế nầy: Có lần anh tự đặt cho mình câu hỏi sau đây: chẳng hạn, nếu Napoleon ở vào địa vị anh, và trên con đường xây dựng sự nghiệp của ông ta không có trận Toulon, không có chiến dịch Ai Cập, không có cuộc hành quân qua Mont Blanc: thay cho những sự kiện đẹp đẽ và hùng vĩ ấy chỉ có một mụ già lố bịch, vợ goá một viên thư lại nào đó, cần phải giết để lấy số tiền cất trong rương mụ ta (để xây dựng sự nghiệp mà em hiểu chứ?) Đấy liệu Napoleon có quyết định giết hay không, nếu không có cách nào khác? Liệu ông ta có thấy ngượng vì việc đó chẳng hùng vĩ tí nào và quá… quá tội lỗi không? Đấy, thế thì anh xin nói với em rằng "vấn đề" nầy đã giầy vò anh rất lâu, đến nỗi anh thấy xấu hổ kinh người lên, khi rốt cục anh đột nhiên nghĩ rõ ràng không những ông ta sẽ không thấy ngượng mà thậm chí cũng không hề thoáng có ý nghĩ rằng việc đó không hùng vĩ… và thậm chí ông ta cũng không thể nào hiểu được: ngượng cái gì mới được chứ? Chỉ cần ông ta không có con đường nào khác, ông ta sẽ bóp cố mụ già chết không kịp ngáp, chẳng nghĩ ngợi lôi thôi gì hết! Thế là anh… cũng không nghĩ ngợi lôi thôi gì nữa… anh đã giết… theo gương kẻ có uy tín… Và sự việc đã xảy ra đúng như thế! Em buồn cười à? Phải, Sonya ạ, trong việc nầy, cái đáng buồn cười hơn cả là sự việc có thể đã xảy ra đúng như thế…
Sonya không thấy buồn cười chút nào.
- Anh cứ nói thẳng ra… đừng ví dụ gì cả thì hơn, - nàng nói, giọng còn rụt rè hơn nữa, khẽ đến nỗi chỉ nghe loáng thoáng.
Chàng quay mặt lại buồn rầu nhìn Sonya và cầm lấy tay nàng.
- Lần nầy nữa, em cũng nói đúng, Sonya ạ. Quả nhiên đó toàn là chuyện nhảm, hầu như chỉ là những lời ba hoa rỗng tuếch! Em cũng biết đấy, mẹ anh hầu như chỉ có hai bàn tay trắng. Em gái anh có được ăn học chăng cũng là chuyện tình cờ, buộc lòng phải đi làm gia sư cho người ta. Họ chỉ biết hy vọng vào anh nữa mà thôi. Anh đi học, nhưng không đủ tiền theo học đành phải tạm ra khỏi trường. Mà dù có kéo dài được như thế nầy chăng nữa, thì chừng mươi mười hai năm sau (nếu hoàn cảnh thuận lợi) anh cũng có thể hy vọng trở thành một ông giáo hay một viên công chức lương mỗi năm một nghìn rúp… (Chàng nói như đọc một bài học thuộc lòng). Trong khi đó thì mẹ anh đã héo hon đi vì làm lụng vất vả và buồn phiền, anh thì dù sao cũng không an ủi được mẹ, còn em gái… Ấy, còn số phận em gái anh thì còn có thể tệ hơn nữa! Mà lẽ nào có thể đành tâm suốt đời thờ ở với mọi việc, quay mặt đi để khỏi thấy sự đời, quên cả mẹ mình, cam tâm để cho người ta xúc phạm tới em gái mình chẳng hạn? Để làm gì? Phải chăng để rồi sau khi chôn cất mẹ và em, lại kiếm thêm một gia đình khác: cưới vợ, sinh con đẻ cái, rồi lại bỏ cho chúng nghèo khổ, đói khát? Ấy… đấy anh mới quyết định là lấy được tiền của mụ già rồi, sẽ dùng để chi tiêu trong những năm đầu, không làm khổ mẹ nữa, bảo đảm cho mình đủ tiền theo học đại học, rồi sau khi tốt nghiệp cũng có đủ phương tiện bước những bước đầu - và tất cả những việc đó phải làm một cách thẳng tay, triệt để, sao cho có thể thu xếp thật ổn sự nghiệp sau nầy và bước vào một con đường mới, một cuộc sống tự lập… Ấy, chỉ có thế… Lẽ dĩ nhiên anh giết mụ già ấy như vậy là xấu… thế là đủ rồi!
Chàng có vẻ như kiệt lực khi kéo lê cho đến hết câu chuyện. Chàng cúi đầu.
- Trời ơi, không phải thế, không phải thế đâu, - Sonya lo sợ kêu lên, - Chả nhẽ lại có thể như thế… không, không phải, không phải…
- Chính em cũng thấy là không phải! Nhưng anh thì anh nói thật đấy, sự thật là như thế!
- Nhưng sự thật gì mà lạ thế? Trời ơi!
- Anh chỉ giết một con rận thôi, Sonya ạ, một con rận bẩn thỉu, vô dụng, nguy hại.
- Người mà lại là rận à!
- Nhưng anh cũng biết đó không phải là một con rận, - Chàng đáp, mắt nhìn nàng rất gở - Nhưng xét ra thì anh nói nhảm, Sonya ạ, - Chàng nói thêm, - anh có cái thói nói nhảm từ lâu rồi; em nói đúng. Ở đây có những nguyên nhân khác hẳn, khác hẳn! Đã từ lâu anh không nói chuyện với ai, Sonya ạ… Bây giờ anh thấy nhức đầu lắm.
Mắt chàng ánh lên như đang lên cơn sốt. Chàng hầu như đã lâm vào trạng thái mê sảng; một nụ cười lo âu thấp thoáng trên môi chàng. Qua tâm trạng khích động đã thấy lộ rõ một sự kiệt quệ ghê gớm. Sonya hiểu chàng đau khổ đến chừng nào. Nàng cũng bắt đầu thấy chóng mặt. Lời lẽ chàng nói nghe kỳ dị quá: dường như cũng có thể hiểu được một chút gì, nhưng…
"Nhưng làm sao thế! Làm sao! Trời ơi!" Và nàng tuyệt vọng vặn hai cánh tay vào nhau.
- Không, Sonya ạ, không phải thế! - Chàng lại nói, vụt ngẩng đầu lên như thế một giòng ý nghĩ đột ngột lại đến khích động chàng, - không phải thế? Tốt hơn… em cứ giả sử… Phải! Như vậy quả có hơn thật! Em cứ giả sử anh là người ích kỷ, hay ganh tị, độc ác, hèn hạ, hay oán thù, ấy… và có lẽ còn có chiều hướng phát điên nữa. (Thôi cứ nói phăng ra một lượt cho xong! Trước đây người ta cũng có nói đến chứng điên của anh, anh đã để ý thấy thế!) Đấy, lúc nấy anh có nói với em rằng anh không đủ tiền theo học đại học. Thế nhưng em có biết không? Có thể là anh vẫn có đủ tiền đấy? Mẹ anh sẵn sàng gửi đủ học phí cho anh, còn tiền mua sắm áo quần, giầy dép và tiền ăn thì anh sẽ tự kiếm lấy được, chắc chắn như thế? Dạy học cũng có thể kiếm được khá: họ trả mỗi lần năm mươi cô-pếch, Razumikhin vẫn làm ăn khá lắm! Nhưng anh phát bẳn lên và không chịu làm. Đúng là phát bẳn (chữ nầy hợp lắm). Anh rút sâu vào trong xó như con nhện. Em có vào cái chuồng chó của anh rồi, em thấy đấy! Em có biết rằng những trần nhà thấp lẽ tè và những căn buồng chật chội nó đè ép tâm hồn và trí tuệ con người ra sao không? Trời ơi, sao anh căm thù cái chuồng chó ấy đến thế! Thế nhưng anh vẫn không muốn đi ra khỏi buồng. Anh cố tình không chịu ra! Hằng mấy ngày liền anh không ra ngoài, không muốn làm việc đến ăn cũng không buồn ăn nữa, cứ nằm dài ra. Chị Nataxia có bưng lên thì ăn dăm ba miếng, không bưng lên thì thôi, cú nhịn cả ngày; vì hằn học mà cố tình không hỏi. Ban đêm thì không có đèn đóm gì hết, anh cứ nằm trong bông tối, còn kiếm tiền mua nến thì anh không buồn kiếm. Lẽ ra phải học, nhưng sách thì anh đem bán hết rồi, còn những cuốn vở và những tập ghi chép để trên bàn thì bụi phủ dày đến một phân. Anh thích nằm nghĩ mông lung hơn. Anh cứ nghĩ mãi… Và anh cứ nằm mơ luôn, những giấc chiêm bao linh tinh, kỳ dị, không cần nói ra làm gì! Nhưng mãi đến lúc ấy anh mới bắt đầu mơ tưởng là… Không, không phải thế! Anh lại kể sai mất rồi! Em thấy không, dạo ấy anh cứ tự hỏi; sao mình lại ngu đến nỗi biết chắc rằng những người khác ngu, mà lại không muốn cho mình thông minh hơn lên? Sonya ạ, về sau anh vỡ nhẽ ra rằng nếu đợi cho mọi người khôn lên thì lâu quá… Về sau anh lại biết được rằng việc đó sẽ không bao giờ có cả con người ta không thay đổi, và không ai cải tạo được họ hết, đừng có phí sức làm gì cho mệt! Phải, thế đấy! Đó là quy luật của họ… Quy luật đấy Sonya ạ! Thế đấy! Và Sonya ạ, bây giờ anh biết rằng ai có một trí tuệ và một tinh thần vững mạnh thì kẻ đó chính là chúa tể của họ! Ai có thừa quả cảm, thì kẻ đó có lý đối với họ. Ai có gan nhổ toẹt vào tất cả, thì kẻ ấy là người cầm cân nấy mực cho họ, và ai táo bạo hơn cả, thì kẻ ấy có lý hơn cả? Xưa nay vẫn thế và mãi mãi sau nầy vẫn thế! Chỉ có kẻ nào mù mới không nhìn ra thôi!
Trong khi nói, Raxkonikov tuy vẫn nhìn Sonya, nhưng không còn để tâm xem nàng có hiểu hay không nữa. Cơn sốt đã hoàn toàn khống chế chàng. Chàng như đang say sưa trong một cõi hoan lạc hắc ám (Quả nhiên đã quá lâu chàng không nói chuyện với ai) Sonya hiểu ra rằng cái giáo lý đen tối ấy đã trở thành tín ngưỡng và luật pháp của chàng.
- Sonya ạ, dạo ấy anh đã nghĩ ra rằng - Chàng say sưa nói tiếp - quyền lực chỉ vào tay kẻ nào dám cúi mình xuống nắm lấy nó. Ở đây chỉ có một điều kiện duy nhất: chỉ cần đủ gan dạ? Dạo ấy, lần đầu tiên trong đời anh đã nghĩ ra một điều mà trước anh, chưa bao giờ có ai nghĩ ra cả? Chưa hề có ai! Anh bỗng thấy rõ như ban ngày rằng cho đến nay chưa có ai dám và sau nầy cũng sẽ không có ai dám, khi thấy tất cả những thành kiến ấy nó vô lý đến nhường nào, cầm ngay lấy đuôi cái của khỉ ấy mà quẳng mẹ nó về nhà ma! Anh… anh muốn có gan làm việc ấy, nên anh đã giết… anh chỉ muốn tỏ ra mình có gan làm thôi, Sonya ạ, chung quy nguyên nhân chỉ có thế!
- Ồ anh im đi, anh im đi! - Sonya chắp tay kêu lên. - Anh đã xa rời Chúa, nên Chúa đã trừng phạt anh, để anh rơi vào tay quỷ Satan…
- À nầy, Sonya ạ, những khi anh nằm trong bóng tối tưởng tượng liên miên như vậy, chính là quỷ Satan cảm dỗ anh đấy phải không?
- Anh im đi! Anh không được đùa như thế, anh là kẻ báng đạo, anh không hiểu gì hết? Trời ơi! Anh ấy sẽ không hiểu gì hết, không hiểu tí gì đâu!
- Em đừng nói thế, Sonya ạ, anh có đùa tí nào đâu, chính anh cũng biết là quỷ đã lôi kéo anh. Đừng nói nữa, Sonya ạ, đừng nói nữa! - Chàng khẩn khoản nhắc đi nhắc lại, vẻ lầm lì. - Anh biết hết. Tất cả những điều đó anh đã nghĩ đi nghĩ lại, thì thầm tự nhủ mãi khi nằm trong bóng tối… Tất cả những vấn đề đó anh đã đem ra tranh luận mãi với mình: cho đến chi tiết, nhỏ nhặt nhất, và bây giờ anh đã biết hết, biết hết! Sao dạo ấy anh chán những chuyện ba hoa nầy đến thế! Anh muốn quên hết đi và bắt đầu lại từ đầu, Sonya ạ, và thôi đừng ba hoa nữa. Mà chả nhẽ em lại cho rằng anh cứ nhắm mắt đưa chân như một thằng ngốc? Anh đã đi như một người minh mẫn, và chính điều đó đã hãm hại anh! Và chả nhẽ em lại tưởng anh không biết rằng ví thử anh bắt đầu tự hỏi, tự chất vấn xem mình có quyền nắm quyền lực hay không, thì sẽ thấy mình không có quyền? Nay nếu anh đặt câu hỏi: con người có phải là một con rận không, thì sẽ thấy rằng con người không phải là một con rận đối cới anh, nó chỉ là một con rận đối với người nào không hề nghĩ đến vấn đề đó, và cứ đi thẳng, không hề tự hỏi gì cả… Một khi anh đã bứt rứt mấy ngày liền với câu hỏi: giá Napoleon ở vào cảnh ấy, ông ta có làm hay không? Thì như vậy tức là anh đã cảm thấy rõ ràng mình không phải là Napoleon… Anh đã phải chịu đựng sự dằn vặt của tất cả những ý nghĩ không đâu ấy, Sonya ạ, và chỉ muốn thoát hẳn ra cho nhẹ bớt: Sonya ạ, anh muốn giết người không phải biện luận, giết vì mình, cho mỗi một mình mình thôi! Trong vấn đề nầy anh không muốn dối trá, dù với bản thân cùng vậy Anh giết người không phải để giúp mẹ - đó chỉ là chuyện nhảm? Anh giết người không phải để nắm lấy phương tiện và quyền hành rồi đứng ra làm kẻ ban ơn cho nhân loại. Nhảm hết! Anh chỉ giết thôi; giết cho mình, cho mỗi mình mình, còn như sau đó có trở thành ân nhân của ai không hay suốt đời như một con nhện giăng lưới bắt hết mọi người để hút lấy máu tuỷ của họ, thì lúc ấy đối với anh chắc chẳng có gì quan trọng hết! Và cái chính là khi anh giết không phải anh cần tiền, Sonya ạ; anh cần cái khác kia, chứ tiền thì không cần đến thế… Bây giờ anh đã biết hết những cái đó… Em hiểu cho anh, có lẽ nếu anh đi lại con đường ấy, anh sẽ không bao giờ giết người lần nữa. Hồi ấy anh cần biết một cái khác, một động cơ khác đã thúc đẩy bàn tay anh; hồi ấy anh cần biết, và biết cho thật nhanh, xem anh có phải là một con rận như mọi người khác, hay là một con người? Anh có thể vượt qua trở lực hay không? Anh có dám cúi mình xuống nắm lấy quyền lực hay không? Anh là một con sâu bọ run rẩy, hay là kẻ có quyền.
- Giết người? Anh có quyền giết người - Sonya chập hai tay lại.
- Chà - à, Sonya! - Chàng bực bội kêu lên, toan cãi lại nhưng rồi im lặng khinh bỉ. - Đừng ngắt lời tôi, Sonya ạ! Tôi chỉ muốn chứng minh cho Sonya thấy rõ một điều, là hồi ấy quỷ đã cám dỗ tôi, rồi sau đó mới giảng giải cho tôi hiểu rằng tôi không có quyền đi đến đấy vì tôi cũng là một con rận như mọi người thôi! Quỷ đã nhạo báng tôi, cho nên tôi mới đến tìm Sonya đấy! Sonya tiếp khách đi? Giá tôi không phải là một con rận, thì liệu tôi có đến đấy không? Sonya ạ, dạo ấy khi tôi đến nhà mụ già, tôi chỉ muốn duyệt thử thôi… Sonya nên biết như thế!
- Thế rồi anh giết? Anh giết!
- Nhưng giết, như thế nào chứ? Ai đời lại giết như thế? Ai lại đi giết người như tôi giết hôm ấy? Rồi có dịp tôi sẽ kể cho Sonya nghe chuyện tôi đi giết người… Có phải tôi giết mụ già đâu? Tôi giết tôi, chứ không phải giết mụ già? Đến đấy, tôi đã tự tiêu diệt ngay tức khắc, vĩnh viễn tự tiêu diệt!… Còn mụ già ấy thì quỷ nó giết chứ không phải tôi… Thôi đủ rồi, Sonya ạ, đủ rồi! Để cho tôi yên, - Chàng bỗng kêu lên, giọng lo sợ điên cuồng, - Để mặc tôi!
Chàng chống khuỷu tay lên hai đầu gối và đưa hai bàn tay áp chặt lấy đầu như hai gọng kìm.
- Anh khổ quá đi mất - Sonya bật ra tiếng kêu đau xót.
- Đấy bây giờ biết làm thế nào đây, em nói đi! - Chàng vụt ngẩng đầu lên hỏi và nhìn nàng: mặt rúm ró hắn đi vì tuyệt vọng.
- Làm thế nào! - nàng đứng phắt dậy kêu lên, và mắt nàng nãy giờ vẫn ứa lệ, bỗng sáng quắc lên. - Đứng dậy!
Nàng nắm lấy vai Raxkonikov, chàng nhổm dậy, nhìn nàng hầu như kinh ngạc.
- Anh hãy đi ngay bây giờ, ngay phút nầy, ra đứng ở ngã tư đường, hãy quỳ xuống hôn mặt đất mà anh đã làm ô uế, rồi hãy nghiêng mình trước cả thiên hạ, khắp bốn phương trời, và hãy nói to lên với mọi người: "Tôi là kẻ sát nhân?". Lúc ấy Chúa trả lại cuộc sống cho anh. Anh đi chứ? Anh đi chứ?
Nàng hỏi dồn, người run bần bật như lên cơn; nàng nắm lấy hai tay chàng, xiết chặt trong tay mình và nhìn chàng với đôi mắt nẩy lửa.
Chàng kinh ngạc và thậm chí còn choáng người đi trước sự phấn khích đột ngột của Sonya.
- Em muốn nói đến tù đày hay sao đấy, Sonya? Phải đi thú tội chứ gì? - Chàng hỏi, vẻ mặt sa sầm.
- Phải nhận lấy khổ nhục để chuộc tội, cần phải như thế đấy.
- Không! Tôi không đi đâu Sonya ạ.
- Thế anh sẽ sống ra sao, sống ra sao? Anh sẽ sống với cái gì? - Sonya kêu lên. - Bây giờ còn sống thế nào được? Anh sẽ nói năng với mẹ anh ra sao? Trời ơi, mẹ và em gái anh bây giờ sẽ ra sao đây? Nhưng tôi nói gì thế nầy? Anh đã từ bỏ mẹ và em rồi kia mà? Anh đã từ bỏ họ rồi, từ bỏ rồi! Trời ơi! - nàng kêu lên, - Chính anh ấy cũng đã biết hết! Nhưng làm thế nào, làm thế nào có thể sống thiếu loài người được! Bây giờ anh sẽ ra sao đây!
- Đừng trẻ con, Sonya ạ, - Chàng nói khẽ. - Tôi có tội gì trước loài người? Sao tôi lại phải đi? Tôi sẽ nói với họ những gì? Tất cả những thứ đó chỉ là ảo ảnh… Chính họ thì giết hại hàng triệu người, thế mà lại còn cho là một ân đức. Họ là những kẻ lừa đảo, hèn hạ, Sonya ạ! Tôi không đi đâu. Tôi sẽ nói gì với họ, nói rằng tôi đã giết, nhưng không dám lấy tiền, chỉ đem giấu dưới tảng đá? - Chàng nói thêm với một nụ cười chua chát. - Chính họ sẽ cười tôi, họ sẽ nói: không lấy là ngu. Vừa tồi vừa ngu! Họ sẽ không hiểu gì đâu, Sonya ạ, họ sẽ không hiểu, và không xứng đáng để hiểu. Sao tôi lại phải đi? Tôi không đi. Đừng trẻ con, Sonya ạ…
- Anh sẽ khổ suốt đời, anh sẽ khổ vô cùng, - nàng nhắc đi nhắc lại, hai tay đang về phía chàng, van lơn, tuyệt vọng.
- Có lẽ tôi nói mình như vậy, Vẫn hơi quá, - Chàng nói, vẻ lầm lì, như đang suy nghĩ miễn man, - Có lẽ tôi vẫn là một con người chứ không phải là một con rận, và tôi tự lên án mình như vậy cũng khí vội… Tôi sẽ còn vật lộn.
Một nụ cười ngạo nghễ hiện trên môi chàng.
- Chịu đựng một nỗi thống khổ như thế! Mà lại chịu đựng suốt đời, suốt đời! Tôi sẽ quen đi… - Chàng nói, vẻ ủ dột và trầm ngâm, một phút sau, chàng tiếp. - Sonya ạ, thôi, khóc lóc thế đủ rồi, bây giờ phải bận đến công việc: tôi đến để nói với Sonya rằng bây giờ họ đang tìm tôi, đang truy nã tôi…
- Trời! - Sonya hoảng hốt kêu lên.
- Sao em lại kêu lên như thế! Chính em muốn tôi đi đày thế mà bây giờ lại hoảng sợ là làm sao? Nhưng tôi không để cho họ bắt đầu. Tôi sẽ còn vật lộn với họ, họ sẽ không làm được gì đâu. Họ không có bằng chứng thật sự. Hôm qua tôi nguy to, tưởng đã mạt kiếp rồi; nhưng hôm nay tình thế lại khả quan hơn. Bằng chứng của họ đều hai mặt cả, nghĩa là những lời buộc tội của họ đều có thể xoay ngược trở lại, theo chiều hướng có lợi cho tôi, em hiểu không? Tôi sẽ xoay chuyển được vì bây giờ tôi đã biết cách… Nhưng chắc chắn họ sẽ bắt tôi tống ngục. Giá không có một việc tình cờ xảy ra, có lẽ ngay hôm nay họ đã bắt rồi, chắc thế, cũng có thể là hôm nay họ sẽ còn bắt tôi… Nhưng không sao đâu Sonya ạ; giam ít lâu rồi phải thả ra thôi… vì họ không có lấy một chứng cớ nào ra hồn, và sau nầy cũng sẽ không tìm được, tôi cam đoan như thế. Còn như những cái họ nắm được thì không đủ để buộc tội người ta. Thôi, đủ rồi… Tôi chỉ muốn nói cho Sonya biết… Với em gái và mẹ tôi thì tôi sẽ cố tìm cách làm thế nào cho họ khuây khoả, cho họ khỏi hoảng sợ… Vả chăng em tôi bây giờ hình như cũng được bảo đảm rồi… do đó cả mẹ tôi cũng thế… Ấy, chỉ có thế tuy nhiên Sonya cũng nên cẩn thận. Khi nào tôi vào tù, em sẽ vào thăm tôi chứ?
- Ồ, em sẽ vào, em sẽ vào!
Hai người ngồi cạnh nhau, buồn rầu, ủ dột, như vừa bị một trận bão đánh dạt vào một bờ bến vắng tanh.
Chàng nhìn Sonya và cảm biết tình yêu của nàng đối với mình lớn lao đến nhường nào, và lạ thay chàng bỗng khổ sở, đau xót khi thấy mình được yêu như thế. Phải, đó là một cảm giác thật kỳ lạ và khủng khiếp!
Đến với Sonya, chàng đã cảm thấy là tất cả niềm hy vọng, là lối thoát duy nhất của mình; chàng muốn trút bớt dù chỉ một phần những nỗi thống khổ của chàng, và giờ đây, khi nàng trao cả trái tim cho chàng, chàng bỗng cảm thấy mình khổ hơn trước không biết bao nhiêu mà kể.
- Sonya ạ, - Chàng nói, - thôi, em đừng vào tù thăm anh thì hơn.
Sonya không đáp, nàng khóc. Mấy phút trôi qua.
- Anh có đeo thánh giá trong người đấy không? - nàng bỗng hỏi đột ngột, như chợt nhớ ra.
Thoạt tiên chàng không hiểu câu hỏi.
- Anh không có, anh không đeo à? Đây, anh cầm lấy cái nầy, bằng gỗ huyền bá. Em còn một chiếc khác, bằng đồng, của Lizaveta cho. Em với Lizaveta đổi cho nhau, Lizaveta cho em chiếc thánh giá ấy, còn em cho bà ta một bức tượng thánh nhỏ. Bây giờ em sẽ đeo chiếc thánh giá của Lizaveta, còn anh đeo chiếc nầy. Anh cầm lấy… của em đấy! Của em mà - nàng khẩn khoản - Chúng ta sẽ cùng đau khổ, thế thì hãy cùng đeo giá thập tự!
- Em đưa đây! - Raxkonikov vừa nói vừa chìa tay ra nhận. Chàng không muốn làm Sonya phiền lòng.
Nhưng rồi chàng lập tức rụt tay lại.
- Bây giờ khoan đã, Sonya ạ. Sau thì hơn, - Chàng nói thêm cho nàng yên lòng.
- Phải, phải sau thì hơn, sau thì hơn, - nàng hăng hái tán thành. - Khi nào anh đi đón lấy đau khổ, anh sẽ đeo. Anh đến em, em sẽ đeo vào cho anh, chúng ta sẽ cầu nguyện một lát và sẽ đi.
Vừa lúc ấy có ai gõ cửa ba tiếng.
- Sofia Xemionovna, tôi vào được không? - Có tiếng ai nghe rất quen hỏi một cách lễ độ.
Sonya hoảng hốt chạy ra cửa. Khuôn mặt nhợt nhạt và mái tóc vàng hoe của Lebeziatnikov ngó vào phòng.
Chương 29
Lebeziatnikov có vẻ lo lắng lắm:
- Tôi đến tìm cô đây, Sofia Xemionovna ạ. Xin lỗi Tôi cũng nghĩ là sẽ gặp ông ở đây, - Ông ta bỗng nói với Raxkonikov - Nghĩa là tôi không nghĩ gì, như vậy, nhưng tôi lại nghĩ… Ở đằng nhà, bà Katerina Ivanovna phát điên rồi, - Ông ta bỗng bỏ Raxkonikov quay sang Sonya nói.
Sonya kêu lên một tiếng.
- Nghĩa là ít nhất cũng có vẻ như thế. Vả chăng… chúng tôi ở đằng ấy chẳng biết làm thế nào cả, thế mới chết Bà ấy về nhà, hình như đến đâu đấy rồi bị người ta đuổi thì phải, có lẽ còn bị đánh đập nữa… Ít ra cũng có vẻ như thế… Bà ấy chạy đến nhà ông thủ trưởng Xemion Zakharovich, nhưng ông ta không có nhà; ông ta đang dự tiệc ở nhà một ông nào ấy, cũng làm tướng. Cô thử tưởng tượng, bà ấy xông thẳng đến chỗ dọn tiệc có chết không… đến nhà ông tướng kia ấy, rồi, cô thử tưởng tượng mà xem, bà ấy cứ nằng nặc gọi cho được ông thủ trưởng của Xemion Zakharovich ra cho bà ấy gặp, hình như lại bắt ông ta rời bàn tiệc đi ra ngoài mới chết chứ! Cô cũng hình dung được hậu quả ra sao. Dĩ nhiên là họ đuổi bà ấy ra; bà ấy có kể là chính bà chửi ông ta và ném cái gì vào đầu ông ta ấy. Còn có thể ức đoán rằng… tôi cũng không hiểu nỗi tại sao họ không bắt bà ấy! Bây giờ bà ấy đang kể lể cho mọi người nghe, cho cả bà Amalya Ivanovna nữa, nhưng bà nói khó hiểu lắm, cứ vật vã kêu gào luôn mồm… À phải, bà ấy bảo là bây giờ mọi người đều ruồng bỏ bà ấy rồi, thì bà sẽ đem con ra đường quay phong cầm cho chúng múa hát, bà cũng sẽ múa hát để xin tiền, và ngày ngày sẽ đến đứng dưới cửa sổ vị tướng kia… "Để cho thiên hạ đều thấy cảnh con cái một viên chức nhà nước vốn dòng dòi quý tộc mà phải đi ăn xin ở ngoài phố!". Bà ấy đánh đập mấy đứa, làm chúng khóc inh lên. Bà ấy dạy cho Lena hát bài "Khutorok", dạy cho thằng bé múa, dạy cho cả Polenka Mikhailovna nữa, bao nhiêu áo quần bà ấy xé hết; bà làm cho bọn trẻ mấy cái mũ gì trông như mũ kép hát; còn riêng bà ấy thì định cầm một cái chậu thau đi đánh, thay cho dàn nhạc… Bà ấy không chịu nghĩ gì hết. Cô thử tưởng tượng xem thế có chết không! Không thể để như thế được…
Lebeziatnikov toan nói tiếp nữa, nhưng Sonya nghe đến đây, thở không ra hơi nữa, bỗng chộp lấy chiếc áo choàng vai và chiếc mũ chạy ra ngoài, vừa chạy vừa mặc áo, Raxkonikov ra theo, Lebeziatnikov nối gót chàng.
- Chắc chắn là điên rồi! - Ông ta nói với Raxkonikov trong khi hai người cùng ra phố, - Tôi nói "có vẻ như thế" chỉ vì không muốn làm cho Sofia Xemionovna sợ đó thôi. Nghe nói đó là những cái u trong phổi người ho lao nó lan lên đến óc đấy; rất tiếc là tôi không biết y học. Dù sao tôi cũng đã cố khuyên can bà ấy nhưng bà ấy một mực không nghe.
- Ông có nói chuyện mấy cái u với bà ấy à?
- Không hẳn là chuyện mấy cái u. Vả lại có nói bà ta cũng chẳng hiểu nào. Nhưng tôi nói thế nầy: nếu dùng logic để khuyên bảo một người nào rằng người đó thật ra không có lý do gì phải khóc cả, thì họ sẽ thôi khóc. Cái đó đã rõ. Thế ông cho rằng người đó sẽ không thôi khóc à?
- Nếu thế thì cuộc sống sẽ dễ dàng quá, - Raxkonikov đáp.
- Xin phép ông, xin phép ông; dĩ nhiên Katerina Ivanovna thì khó mà hiểu được; nhưng ông có biết không ở Paris người ta đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm quan trọng về khả năng chữa bệnh điên mà chỉ dùng cách thuyết phục bằng logic đây. Ở đấy có một vị giáo sư, mới chết cách đây ít lâu, một nhà bác học có uy tín, chủ trương rằng có thể chữa bằng cách ấy. Ý căn bản của ông ta là trong cơ thể của người điên không có sự rối loạn gì đặc biệt, và bệnh điên có thể nói là một sự sai lầm về logic, một sự sai lầm trong cách phán đoán, một cách nhìn nhận sai lầm đối với sự vật ông ta lần lượt bác bỏ những ý kiến của người bệnh và - Ông thử tưởng tượng mà xem - nghe nói ông ta đã đạt một số kết quả? Nhưng vì đồng thời ông ta còn dùng cả biện pháp tắm hương sen nữa, cho nên những kết quả của cách trị liệu đó dĩ nhiên cũng có chỗ đáng nghi ngờ… ít nhất cũng có vẻ như thế…
Raxkonikov đã thôi nghe từ lâu. Về đến ngang nhà, chàng gật đầu chào Lebeziatnikov và rẽ vào cổng. Lebeziatnikov sực tỉnh, ngơ ngác nhìn quanh rồi đi thẳng.
Raxkonikov vào đứng ở chính giữa buồng chàng.
"Mình rẽ vào nhà để làm gì?". Chàng nhìn những tờ giấy dán tường vàng vàng đã sờn rách, lớp bụi, chiếc đi-văng… Từ dưới sân đưa lên những tiếng gõ gì không ngớt, nghe nhói cả tai; hình như có ai đang đóng một cái gì ở đâu đây, một cái đinh thì phải… Chàng đến cạnh cửa sổ, kiễng chân lên và nhìn xuống sân hồi lâu, vẻ hết sức chăm chú. Nhưng dưới sân vắng ngắt, không trông thấy người đóng đinh ở đâu cả. Phía trái, bên dãy nhà ngang, đây đó có mấy khung cửa sổ để ngỏ; trên bậu cửa sổ có mấy chậu hoa dương hải đường xơ xác. Ngoài cửa sổ có vắt quần áo… Tất cả những thứ đó, chàng đã thuộc lòng, chàng quay trở vào và ngồi lên đi-văng.
Chưa bao giờ, chưa có bao giờ chàng cảm thấy mình cô độc ghê gớm đến thế! Phải rồi, chàng lại một lần nữa cảm thấy rằng có lẽ mình căm thù Sonya thật, ngay bây giờ, sau khi đã làm cho nàng khổ sở hơn trước. "Tại sao mình lại đến xin nước mắt của nàng? Tại sao mình lại nhất thiết phải đầu độc đời nàng như vậy? Ôi, hèn hạ quá!
- Ta sẽ cứ một thân một mình! - Chàng bỗng quả quyết thốt lên, - Nàng sẽ không phải vào ngục làm gì?
Dăm phút sau chàng ngẩng đầu lên và mỉm một nụ cười kỳ dị. Một ý nghĩ lạ lùng vừa chợt đến. "Có lẽ trong ngục thích hơn thật" - Chàng chợt nghĩ.
Chàng không nhớ rõ mình ngồi trong buồng bao lâu với những ý nghĩ mơ hồ cứ chen chúc hàng mớ trong đầu như vậy. Bỗng cửa buồng mở và Avdotia Romanovna bước vào. Thoạt tiên nàng dừng lại ở ngưỡng cửa nhìn chàng như lúc nãy chàng nhìn Sonya rồi nàng bước vào và ngồi xuống chiếc ghế trước mặt chàng, chỗ nàng đã ngồi hôm qua. Chàng im lặng nhìn em, vẻ như không có ý nghĩ gì trong óc hết.
- Anh đừng giận, anh ạ, em chỉ đến gặp anh một phút, - Dunia nói. Vẻ mặt nàng tư lự, nhưng không nghiêm khắc. Mắt nàng nhìn trong sáng và dịu dàng.
Chàng thấy rõ rằng cả người con gái nầy nữa cũng đến chàng với lòng yêu thương.
- Anh ạ, bây giờ em biết hết, biết hết rồi. Dmitri Prokofich đã kể chuyện, giảng giải cho em rõ hết đầu đuôi. Người ta đang truy nã đang làm khổ anh vì một mối nghi ngờ ngu xuẩn, khá ố… Dmitri Prokofich có nói với mẹ rằng không có gì nguy hiểm cả và anh hoảng sợ như vậy là hão huyền. Em không nghĩ như thể và hoàn toàn hiểu lòng anh phẫn uất đến chừng nào, em hiểu rằng lòng phẫn uất ấy có thể để lại những dấu vết mãi mãi không xoá mờ được. Em sợ thế lắm. Về việc anh từ bỏ mẹ và em, em không phê phán gì và không hề dám phê phán; xin anh tha thứ cho em đã có lần trách móc anh. Chính em cũng tự nguyện thấy rằng nếu em có một nỗi buồn cay cực như vậy em cũng sẽ xa lánh mọi người. Em sẽ không kể cho mẹ biết gì về việc nầy, nhưng em sẽ luôn luôn nói chuyện với mẹ về anh và thay mặt anh mà nói rằng chỉ ít bữa nữa anh sẽ đến. Anh đừng lo lắng cho mẹ; em sẽ làm cho mẹ yên tâm; nhưng anh cũng đừng làm khổ mẹ, - anh đến lấy một lần thôi cũng được; anh phải nhớ rằng đó là mẹ anh! Bây giờ em đến đây chỉ để nói rằng nếu nhỡ anh có cần đến em hay cần đến… cả cuộc đời của em hay có cần gì nữa… thì anh cứ gọi em, em sẽ đến. Thôi, em đi nhé!
Nàng quay phắt lại và đi ra cửa.
- Dunia? - Raxkonikov gọi giật nàng lại, đứng dậy và lại gần nàng, - anh Razumikhin Dmitri Prokofich ấy, là một người rất tốt.
Mặt Dunia hơi ửng đỏ.
- Thế sao? - nàng hỏi sau một phút chờ đợi.
- Anh ấy là người chí thú, cần cù, ngay thậtt và biết yêu tha thiết… Thôi từ biệt Dunia.
Dunia đỏ bừng mặt lên, rồi bỗng lo lắng hỏi:
- Kìa, làm sao thế anh, chúng ta chia tay nhau vinh viễn thật hay sao mà anh trối trăn như vậy?
- Cũng thế thôi… em đi đi…
Chàng quay mặt đi và ra đứng cạnh cửa sổ. Nàng đứng yên một lát lo lắng nhìn chàng rồi lui ra, lòng bồn chồn lo sợ.
Không, lòng chàng không lạnh nhạt với em. Có một giây phút, giây phút cuối cùng, chàng thấy thiết tha muốn ôm lấy em thật chặt và vĩnh biệt em, thậm chí còn nói rõ sự thật nữa, nhưng rồi dù chỉ đưa tay ra cho em chàng cũng không dám. "Có lẽ về sau nó sẽ giật mình khi nhớ lại rằng mình đã ôm hôn nó, nó sẽ bảo là mình ăn cắp chiếc hôn của nó!". "Liệu người con gái nầy có chịu đựng được không"
Mấy phút sau chàng lại tự nhủ:
"Không, không chịu nổi đâu; những người như thế không chịu được đâu! Họ không bao giờ chịu được…".
Và chàng nghĩ đến Sonya.
Một luồng hơi mát từ cửa sổ lùa vào. Bên ngoài, ánh sáng đã dịu xuống. Chàng bỗng vớ lấy mũ và ra ngoài.
Dĩ nhiên chàng không thể, mà cũng không muốn lo nghĩ đến tâm trạng bệnh tật của mình. Nhưng tất cả nỗi lo lắng liên miên và cơn khủng hoảng tinh thần ấy không thể không để lại những hậu quả. Và sở dĩ chàng không lên cơn sốt li bì thật sự có lẽ cũng chính là vì tâm trạng lo âu không ngớt ấy vẫn còn nâng chàng đứng vững trên đôi chân, vẫn khiến chàng tỉnh táo, nhưng hình như một cách giả tạo, nhất thời.
Chàng đi lang thang không chủ đích. Mặt trời đang lặn. Ít lâu nay, chàng bắt đầu cảm thấy lo âu khác thường. Trong mối lo âu ấy không có gì thật da diết, nung nấu cho lắm; nhưng nó toả ra một cái gì trường tồn, vĩnh cửu, chàng tiên cảm thấy mối lo âu lạnh lẽo đầy tử khí ấy sẽ kéo dài hết năm nầy qua năm khác không cùng, chàng mường tượng đến cuộc sống vĩnh hằng trên "khoảng không gian hẹp có mấy tấc". Chiều xuống, cảm giác ấy thường lại bắt đầu giầy vò chàng mành liệt hơn nữa.
- Đấy, cứ có những lúc nhu nhược hết sức ngu xuẩn, thuần tuý nhục thể như vậy, lệ thuộc vào một buổi mặt trời lặn nào đấy, thì sao tránh khỏi làm những việc ngu ngốc! Không những đến tìm Sonya, mà lại còn đến tìm cả Dunia nữa cũng nên. - Chàng hằn học lẩm bẩm.
Có ai quát gọi chàng, chàng ngoái lại, Lebeziatnikov đang chạy về phía chàng.
Ông thử tưởng tượng xem, tôi vừa lại đằng ông, tôi đi tìm ông đây. Ông thử tưởng tượng mà xem, bà ấy thực hiện ý định thật: bà ấy dắt con đi rồi! Tôi với Sofia Xemionovna chật vật mãi mới tìm được. Bà ấy đang đánh chiếc soong gõ nhịp bắt lũ trẻ nhảy múa. Chúng nó khóc. Họ dừng lại ở các ngã tư đường và trước các cửa hàng. Một đám đông ngu xuẩn chạy theo họ. Ta đi đi.
- Còn Sonya? - Raxkonikov lo lắng hỏi trong khi rảo bước theo Lebeziatnikov.
- Thật như điên như dại. Nghĩa là không phải Sofia Xemionovna như điên như dại mà là Katerina Ivanovna ấy; vả chăng cả Sofia Xemionovna nữa cũng như điên như dại. Còn Katerina Ivanovna thì điên dại hẳn hoi rồi. Tôi xin nói với ông là bà ta đã loạn óc hoàn toàn. Người ta sẽ bắt họ vào sở cảnh sát. Ông có thể hình dung việc đó sẽ có tác dụng như thế nào… Bây giờ bà ấy đang ở ngoài kênh, ở đầu cầu X, chỉ cách nhà Sofia Xemionovna một quãng. Gần đây thôi.
Trên bờ kênh, cách đầu cầu không xa và chỉ cách chỗ Sonya trọ có hai nhà, có một đám đông đang xum xít lại. Đông hơn cả là những đứa trẻ, trai có gái có.
Đứng trên cầu đã nghe thấy giọng nói khàn khàn: đứt quãng của Katerina Ivanovna. Và quả nhiên đó là một cảnh tượng kỳ quặc có sức thu hút đám đông ở ngoài phố. Katerina Ivanovna mặc chiếc áo dài cũ, choàng khăn san bằng dạ, đầu đội chiếc mũ rơm rách nát vẹo sang một bên trông không còn ra cái hình thù gì nữa.
Bà ta quả nhiên đã loạn trí hẳn hoi rồi. Bà mệt nhọc thở hồn hển. Gương mặt ho lao thiểu não của bà trông đau đớn hơn bao giờ hết, hơn nữa ở ngoài phố, dưới ánh nắng, người ho lao bao giờ trông cũng đau yếu và tiều tuỵ hơn ở nhà, nhưng bà vẫn giữ trạng thái phấn khích, mỗi lúc một thêm cáu bẳn. Bà xông vào mấy đứa trẻ quát mắng chúng, năn nỉ chúng, bày cho chúng nhảy ra sao, hát những gì ngay trước mặt đám đông, quay ra giảng giải cho chúng hiểu tại sao lại cần phải thế, phát ngán lên trước cái óc chậm hiểu của chúng, đánh đập chúng… Rồi chưa bày vẽ xong, bà đã quay ra nói với đám đông; hễ thấy người ăn mặc hơi kha khá một chút dừng lại xem, bà ta lập tức quay ra phân trần cho họ rõ đây là những đứa trẻ "con nhà quý phái, thậm chí có thể nói là quý tộc thượng lưu nữa" mà bây giờ đến nông nỗi nầy đây! Nếu nghe trong đám đông có tiếng cười hay một câu nói gì có ý khích bác, bà lập tức xấn vào những kẻ xấc xược và bắt đầu chửi nhau với họ. Có mấy người cười thật, mấy người khác lắc đầu; nói chung ai nấy đều tò mò muốn xem cánh người đàn bà điên với lũ trẻ sợ sệt. Cái ông mà Lebeziatnikov có nói đến thì lúc bấy giờ không thấy đâu, ít nhất là Raxkonikov không nhìn thấy, nhưng thay cho tiếng gõ soong Katerina Ivanovna bắt đầu vỗ hai bàn tay khô đét vào nhau đánh nhịp bắt Polenka hát, còn Lena và Kolia thì nhảy múa; đồng thời chính bà ta cũng cất tiếng hát đệm theo, nhưng hễ cứ hát được đến nốt thứ hai là một cơn ho đau đớn lại nổi lên cắt đứt ngay giọng hát khiến bà tuyệt vọng nguyền rủa bệnh ho chết tiệt và thậm chí còn khóc nữa. Làm cho bà bực tức hơn cả là tiếng khóc và nỗi sợ hãi của Kolia và Lena. Quả như Lebeziatnikov nói, bà ta đã cố gắng trang phục cho lũ trẻ theo kiểu những người đi hát rong. Bà cho đứa con trai đội một chiếc khăn làm bằng thứ vải gì đỏ và trắng để làm một người Thổ nhĩ kỳ. Nhà không còn đủ giẻ để trang phục cho Lena; nó chỉ đội chiếc mũ chụp đỏ bằng lông lạc đà của mồ ma ông Xemion Zakharovich, có cắm một mảnh lông đà điểu trắng từ đời bà nội Katerina Ivanovna để lại và lâu nay vẫn cất trong rương, coi là bảo vật của gia đình. Polenka thì mặc chiếc áo dài thường ngày. Nó cứ nhìn mẹ rụt rè và ngơ ngác, không rời mẹ một bước, cố nuốt nước mắt. Nó cũng đoán chừng được rằng mẹ nó điên, và luôn lo lắng đưa mắt nhìn quanh. Đường phố và đám đông làm cho nó sợ khiếp vía đi. Sonya lẽo đẽo theo sau Katerina Ivanovna mà khóc lóc, phút phút lại van xin bà về nhà. Nhưng Katerina Ivanovna không hề lay chuyển.
- Thôi đi Sonya, thôi đi! - bà nói nhanh, giọng hấp tấp, vừa nói vừa ho và thở hổn hển. - Con chẳng biết con van xin cái gì đâu, con như đứa trẻ ấy. Dì đã bảo là dì không trở về nhà con mẹ Đức say rượu ấy nữa đâu mà. Cứ để cho mọi người, cho cả thành Petersbung nầy thấy cảnh con cái một người quý tộc suốt đời trung thành phụng sự Nhà nước, và có thể nói là chết trong khi thừa hành nhiệm vụ, phải đi hành khất ra sao. - Katerina Ivanovna đã có đủ thì giờ để tưởng tượng ra rằng chồng mình "chết trong khi thừa hành nhiệm vụ, và cứ nhắm mắt tin vào chuyện hoang đường đó. - Phải để cho cái tên tướng quèn khốn nạn ấy thấy rõ. Mà con ngốc lắm, Sonya ạ: bây giờ nhà có còn gì mà ăn nữa đâu, con thử xem? Mẹ con dì đày đoạ như thế là đủ rồi, dì không muốn thế nữa đâu! Ồ, Rodion Romanovich, cậu đấy à! - Bà chợt trông thấy Raxkonikov, liền reo lên và lao về phía chàng, - Xin cậu làm ơn giảng giải cho con bé ngốc nghếch nhà tôi hiểu rằng không còn có cách gì nữa đâu! Ngay như bọn hát rong cũng kiếm được tiền; còn như mẹ con tôi thì ai cũng phân biệt được ngay, họ sẽ biết ngay chúng tôi là một gia đình quý phái cô quả, sa cơ lỡ vận phải đi hành khất, rồi cái tên tướng quèn ấy sẽ bị cách chức cho mà xem! Ngày nào chúng tôi cũng sẽ đến hát dưới cửa sổ lão ta, và khi nào hoàng thượng ngự giá, tôi sẽ quỳ xuống, cho lũ trẻ đứng ra trước và chỉ cho Ngài xem: "Lạy Chúa chúng con, xin người che chở!". Ngài là cha của những kẻ côi cút Ngài rất khoan dung, Ngài sẽ che chở mẹ con tôi, cậu sẽ thấy, còn như viên tướng quèn kia thì Ngài sẽ… Lena! Tenez - vous droitel (l). Còn thằng Kolia, chốc nữa mày phải nhảy lại đấy. Sao mày khóc? Lại khóc rồi! Thì mày sợ cái gì, cái gì nào, thằng ngốc kia! Trời ơi! Tôi biết làm ăn thế nào với chúng nó bây giờ, cậu Rodion Romanovich? Cậu không biết chứ chúng nó ngu dại lắm kia Con cái như thế thì còn biết làm ăn thế nào được!
Bà ta suýt khóc (nhưng vẫn không ngớt nói liến thoắng), chỉ cho chàng xem mấy đứa trẻ đang khóc thút thít. Raxkonikov cũng cố thử khuyên giải cho bà ta về nhà. Chàng còn mong tác động vào lòng tự ái, nói rằng bà ta mà lại đi hát rong giữa phố như bọn quay phong cầm thì không tiện, vì bà sắp sửa làm hiệu trưởng một trường ký túc dành cho con gái quý tộc…
- Trường ký túc, ha - ha - ha! Rõ khéo hão huyền! - Katerina Ivanovna thét lên. Mấy tiếng cười lại chuỵển thành một cơn ho dữ dội, - Không, Rodion Romanovich ạ giấc mơ ấy qua rồi! Mọi người đều ruồng bỏ mẹ con tôi rồi! Còn cái tên tướng quèn ấy… Cậu ạ, tôi đã ném một lọ mực vào đầu hắn, - Ở đấy, trong căn phòng gia nhân vừa đúng có một lọ mực đặt bên tờ giấy ghi tên những người ra vào: tôi đến ghi tên rồi cầm luôn lọ mực ném hắn, xong tôi bỏ chạy. Ôi, họ đê tiện, đê tiện quá! Nhưng thôi, nhổ toẹt vào, bây giờ tôi sẽ tự tay nuôi chúng, không thèm xin xỏ đứa nào hết? Mẹ con tôi làm khổ nó thế là đủ rồi! - Bà trỏ Sonya - Polenka, mày xin được bao nhiêu nãy giờ, đưa xem nào? Sao? Cả thảy chỉ có hai cô-pếch à? Trời ơi, chúng thật tệ mạt! Chúng chẳng buồn cho, chỉ chạy theo, thè lưỡi ra mà xem! À, cái thằng ngợm kia cười cái gì thế? - Bà chỉ một người đứng trong đám đông - Cũng chỉ vì cái thằng Kolia nó tối dạ quá, đến khổ với nó! Con làm sao thế Polenka? Phải nói tiếng Pháp với mẹ chứ, Parlez - moi francais(2). Mẹ đã dạy cho con nói, con đã thuộc được mấy câu kia mà! Nếu không thì lấy gì cho người ta phân biệt được các con là con nhà tử tế, có giáo dục, chứ tịnh không phải như bọn hát rong; chúng ta có đi hát những điệu thô tục gì đâu, ta sẽ hát một bài tình ca cao quý… A phải! Hát gì bây giờ nhi? Các người cứ ngắt lời tôi mãi, trong khi… Ấy, cậu Rodion Romanovich ạ, chúng tôi dừng lại đây để chọn xem nên hát bài gì, - hát bài gì cho thằng Kolia nó cũng múa theo được… vì cậu thử tưởng tượng xem, chúng tôi ra đi thế nầy mà chẳng có chuẩn bị gì cả; phải làm thế nào bàn nhau tập dượt thật chu đáo rồi sẽ ra đại lộ Nevxki: ở đây mới có nhiều người thượng lưu, họ sẽ chú ý đến chúng tôi ngay. Lena biết hát điệu "Khutorok"… Nhưng lúc nào cũng "Khutorok", "Khutorok", ai mà chả hát được bài ấy! Chúng ta phải hát bài gì tế nhị hơn nhiều kia… Nào, con có nghĩ thêm được bài gì không, Polenka, ít nhất con cũng phải giúp mẹ với chứ! Chả nhẽ lại đi hát bài "Anh phiêu kỵ chống gươm" hay sao? À, ta sẽ hát bài "Cinq sous"(3) bằng tiếng Pháp. Mẹ dạy cho các con rồi kia mà, dạy rồi. Cái chính là hát bằng tiếng Pháp thì họ sẽ thấy ngay các con là con nhà quý tộc, như thế sẽ cảm động hơn nhiều… Lại còn có thể hát: "Malborough s en va-t-en guerre" nữa! Đó đúng là một bài hát trẻ con, các nhà quý tộc nhà nào cũng ru con bằng bài ấy.
"Malborough s en va-t-en guerre
Ne saint quand revienda (4)
Bà cất tiếng hát… - Nhưng không, hát bài "Cinq sous" hơn? Nào, Kolia, chống tay cạnh sườn nhanh lên, còn con, Lena, con cũng quay mặt sang phía kia kìa, mẹ với Polenka sẽ vỗ tay hát theo.
Cinq sous, cinq sous
Pour monter notre ménage…(5)
- Hì - thì - hì! - Cười được mấy tiếng bà lại ho lên một tràng. - Nắn áo lại, Polenka, vai chảy xuống rồi kia, - bà hổn hển nói qua trận ho. - Bây giờ các con phải ăn mặc cho thật đứng đắn, đi đứng cho thật chững chạc để mọi người thấy rõ các con là con nhà quý phái. Đã bảo là xu-chiêng phải may dài hơn mà phải xấp hai lần vải vào! Thế mà dạo ấy con Sonya lại cứ nói đi nói lại là: "Ngắn nữa vào, ngắn nữa vào", thành thử bây giờ trông con bé không còn ra cái gì nữa… Kìa, lại khóc cả lũ rồi! Sao mà ngốc thế hả, việc gì mà khóc? Nào, Kolia, bắt đầu đi, nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên! Ồ, thằng bé thật không sao bảo được! Cinq sous, cinq sous… Lại một tên lính! Nầy, anh cần cái gì hả?
Quả nhiên có một viên cảnh binh đang rẽ đám đông len vào. Nhưng vừa lúc ấy có một viên công chức bệ vệ trạc năm mươi tuổi, mặc phẩm phục có choàng thêm áo ca-pốt, cổ đeo huân chương (điều nầy làm cho Katerina Ivanovna rất hài lòng, và cũng có ảnh hưởng đối với người cảnh binh), tiến đến gần và lặng lẽ đưa cho Katerina Ivanovna một tờ giấy bạc ba rúp màu xanh lá cây. Gương mặt ông ta lộ vẻ thương xót chân thành. Katerina Ivanovna cầm lấy tờ giấy bạc và cúi chào ông ta một cách lễ độ, thậm chí trịnh trọng nữa.
- Xin đa tạ ngài, - bà ta mở đầu, giọng trịch thượng, những nguyên nhân đã buộc chúng tôi… cầm lấy tiền, Polenka. Con thấy không, vẫn có những người cao thượng và hào hiệp sẵn lòng giúp đỡ một người đàn bà quý tộc đáng thương trong cơn hoạn nạn. Thưa ngài, trước mắt ngài là những đứa trẻ mồ côi, con nhà quý phái, hơn nữa có thể nói là có liên hệ với những nhà quý tộc thượng lưu vào bậc nhất… Thế mà cái tên tướng quèn ấy cứ ngồi ăn chim giẽ… lão ta dẫm chân dẫm cẳng kêu là tôi đến quấy rầy lão ta… "Bẩm quan lớn, tôi nói thế, xin quan lớn che chở cho lũ trẻ mồ côi, vì quan lớn vốn biết rõ mồ mả ông Xemion Zakharovich nhà tôi, và vì một kẻ đốn mạt nhất trong những kẻ đốn mạt đã vu khống con gái của nhà tôi ngay hôm nhà tôi mất…" Lại tên lính kia! Xin ngài che chở cho với! - Bà kêu lên, van xin viên công chức, - sao tên lính kia cứ xấn vào tôi thế ở phố Mesanxkaya chúng tôi đã gặp phải một tên như thế, phải trốn lên đây… thì việc gì đến mày nào, đồ ngốc!
- Vì ở ngoài phố cấm không được thế. Xin dừng làm mất thể thống.
- Chính mày không ra cái thể thống gì thì có! Tao đi thế nầy cũng như những người hát rong thôi, việc gì đến mày?
- Về việc hát rong thì phải có giấy phép, còn như bà thì bộ dạng bà như thế làm phiên nhiễu người qua đường. Bà ngụ ở đâu ạ?
- Giấy phép? - Katerina Ivanovna gào lên. - Tôi vừa mới chôn cất chồng tôi sáng nay thì làm gì có giấy phép!
- Bà ơi, bà ơi, xin bà bình tâm lại! - Viên công chức mở đầu: - Ta đi đi, tôi sẽ đưa bà về. Ở đây đông người thế không tiện… Bà đang ốm…
- Thưa ngài, thư ngài, ngài không biết gì hết - Katerina Ivanovna quát lên, - Chúng tôi sẽ lên đại lộ Nevxki… Sonya! Sonya! Nó đâu rồi thế? Cùng khóc nốt? Kìa các người làm sao cả lũ thế… Kolia, Lena, các con chạy đi đâu? - Bbà bỗng hoàng hốt kêu lên, - Ôi, lũ trẻ khờ dại nầy! Kolia, Lena, chúng nó chạy đi đâu thế không biết?
Số là Kolia và Lena, sợ khiếp vía đi trước đám người hiếu kỳ và những lởi quát mắng của người mẹ điên rồ, rồi cuối cùng lại thấy người cảnh binh đến, hẳn là để bắt chúng mang đi đâu không rõ, bỗng như đã bàn trước với nhau, cầm tay nhau cắm cổ chạy. Bà Katerina Ivanovna khốn khổ vừa kêu khóc vừa đâm bổ theo chúng. Bà ta vừa chạy vừa khóc và thở hổn hển, trông thật kỳ quặc và thương tâm. Sonya và Polenka cũng chạy theo bà ta.
- Bảo chúng nó trở lại đi, Sonya, bảo chúng nó trở lại! Chao ôi, con cái ngu dại, bất hiếu đến thế thì thôi!
- Polenka? Bắt chúng nó lại… Chỉ vì chúng mày, mẹ mới…
Bà đang mải chạy bỗng vấp chân ngã nhoài ra.
- Ngã bật máu ra rồi! Trời ơi! - Sonya cúi xuống người bà, kêu lên. Ai nấy đều chạy lại xúm quanh.
Raxkonikov và Lebeziatnikov ở trong số những người chạy đến trước tiên; viên công chức cùng hấp tấp chạy lại và sau ông ta là viên cảnh binh. Hắn càu nhàu: "Chà, mẹ kiếp!", và khoát tay bực bội, cảm thấy trước rằng câu chuyện trở nên rầy rà.
- Đi đi Đi đi! - hắn xua đuổi những người đang chen chúc ở xung quanh.
- Sắp chết rồi? - Có ai kêu lên.
- Bà ta điên! - một người khác nói.
- Lạy Chúa cứu chở! - một người đàn bà vừa làm dấu thánh vừa nói. - Đã giữ được hai đứa trẻ nhỏ lại chưa? À dẫn về kia rồi, cô chị bắt chúng lại được rồi… xem kìa, lù nhãi con!
Nhưng khi nhìn kỹ Katerina Ivanovna, họ thấy rõ không phải bà vấp vào đá bật máu ra như Sonya tưởng, vũng máu nhuộm đỏ đá lát đường là máu ộc từ trong ngực bà ra.
- Cái nầy thì tôi biết, tôi đã từng trông thấy, - viên công chức nói nhỏ với Raxkonikov và Lebeziatnikov, - bệnh ho lao đấy: máu cứ ộc ra làm cho người bệnh nghẹn thở. Tôi có người bà con, cách đây không lâu tôi có được chứng kiến, máu cứ thế thổ ra đến một cốc rưỡi… đột nhiên thổ ra… Nhưng biết làm thế nào đây, bà ấy chết ngay bây giờ thì sao?
- Đưa về đây đây, về nhà tôi! - Sonya van lơn, - tôi ở đằng nầy nầy… Kia, nhà tôi kia, cách đây hai nhà… Về nhà tôi, nhanh lên, nhanh lên! - nàng vật vã van nài mọi người. - Mời bác sĩ cho với… Trời ơi!
Nhờ người công chức ra sức giúp đỡ, mọi việc cũng thu xếp được khá ổn, ngay cả viên cảnh binh cũng khiêng hộ Katerina Ivanovna một tay. Khi họ khiêng được vào nhà Sonya, bà ta đã hầu như người hấp hối. Họ đặt bà lên giường. Máu vẫn còn chảy, nhưng bà ta hình như đã bắt đầu hơi tỉnh. Ngoài Sonya ra, cùng bước vào phòng một lúc có Raxkonikov và Lebeziatnikov, người công chức và viên cảnh binh. Trước khi khiêng vào phòng viên cảnh binh đã đuổi đám đông đi - trong số đó có mấy người theo vào đến tận cửa - bắt họ phải giải tán. Polenka cầm tay Kolia và Lena dắt về. Hai đứa bé run cầm cập và khóc thút thít. Ở nhà ông Kapernaumov cũng có người chạy xuống: đích thân ông ta, chân thì thọt, mắt thì chột, hình thù cổ quái, râu má và tóc mọc dựng đứng lên từng chòm tua tủa; vợ ông ta, mặt hình như ngày xưa đã bị một phen hoảng sợ thái quá nên cứ giữ mãi vẻ hoảng sợ ấy, và mấy người con của họ nét mặt đã cứng đờ ra như gỗ vì luôn luôn phải ngạc nhiên, miệng há hốc. Giữa đám công chúng ấy đột nhiên thấy cả Xvidrigailov xuất hiện.
Raxkonikov ngạc nhiên nhìn hắn, không hiểu hắn từ đâu xuất đầu lộ diện ra và không nhớ là có thấy hắn đứng trong đám đông.
Họ nói chuyện mời bác sĩ và linh mục. Người công chức tuy có thì thầm với Raxkonikov rằng mời bác sĩ bây giờ hình như cũng vô ích, nhưng vẫn ân cần cho người đi mời. Chính Kapernaumov lĩnh lấy việc đó.
Trong khi đó Katerina Ivanovna đã thở lại được đều máu đã tạm cầm. Bà đưa đôi mắt đau đớn, nhưng chăm chú và soi mói nhìn Sonya đang lấy khăn tay lau những hột mồ hôi trên trán bà, mặt tái mét, người run lẩy bẩy; cuối cùng bà nhờ nâng người dậy. Họ đỡ hai bên đặt bà ngồi trên giường.
- Mấy đứa bé đâu? - bà nói, giọng yếu ớt. - Con đưa chứng về rồi chứ Polenka? Ôi con cái ngốc quá? Tại sao các con lại bỏ chạy… ôi!
Máu lại ứa ra trên dôi môi khô héo của bà. Bà đưa mắt nhìn quanh một lượt.
- Thế ra phòng con ở như thế nầy đây, hở Sonya! Dì chưa đến con lần nào… dì đã phải… - Bà nhìn Sonya, đau đớn - Mẹ con dì đã hút hết máu của con rồi Sonya ạ… Polenka, Lena, Kolia, lại đây… Ấy, chúng nó đây, Sonya ạ đông đủ cả đây, con nhận lấy chúng… dì trao cho con… còn dì thì hết rồi… vũ hội đã mãn! Ha!… Các người buông tôi ra, ít nhất cũng cho tôi chết cho yên…
Họ lại để bà nằm lên gối.
- Cái gì? Linh mục à? Không cần… Tiền đâu mà thừa thãi thế? Tôi không có tội gì! Không rửa tội thì Chúa cũng phải tha cho tôi… Chính Chúa cũng biết tôi đau khổ đến thế nào… Còn Chúa không tha thì cũng chẳng cần!
Katerina Ivanovna mỗi lúc một lâm vào trạng thái mê sảng vật vã. Thỉnh thoảng bà giật mình, đảo mắt quanh phòng, nhận ra mọi người trong khoảng một phút, nhưng tỉnh được một lát rồi lại mê man ngay. Bà thở khò khẽ khó nhọc, nghe như có cái gì lục xục trong cổ.
- Tôi nói với lão ấy: "Bẩm quan lớn…" - bà thét lên, cứ mỗi tiếng lại dừng lại thở, - Cái mụ Amalya Ludvigovna ấy… Chao ôi, Lena; Kolia! Hai tay chống cạnh sườn, nhanh lên, nhanh lên, glissé - glissé, pas-de-basque!(6). Cộp gót giầy xuống… Phải cho duyên dáng con ạ. Du hast Diamanten und Perlen…(7). Thế nào nữa nhỉ? Giá hát được bài nầy…
Du hast die shousten Augen
Madchen, was wilist du mehr (8)
Phải rồi, chứ còn gì nữa! Was wilist du mehr, - rồi nó phải nghĩ ra chứ, cái thằng đần ấy. À phải, thế nầy nữa chứ:
Dưới nắng trưa oi ả!
Trong một thung lũng… miền Dagetxtan (9)
Ôi hồi xưa mẹ yêu quá… Mẹ yêu đến mê say bài tình ca nầy, Polenka ạ! con biết không, cha con… hồi sắp lấy mẹ, vẫn hát… Ôi, những ngày ấy! Giá bây giờ mẹ con mình hát bài nầy! Nào, sao nhỉ, sao nhỉ… mẹ quên đi mất… kìa các con thử nhớ lại xem nào, thế nào nhỉ? - Katerina Ivanovna xúc động đến cực điểm; bà cố sức nhỏm dậy. Cuối cùng, bà cất giọng khàn khàn, đứt đoạn the thé lên nghe mà rợn cả người, cứ hát được một tiếng lại thở hổn hển, vẻ như mỗi lúc một thêm sợ hãi.
Dưới nắng trưa oi ả!
Trong một thung lũng… miền Dagetxtan
Một mảnh chì trong ngực…
- Bẩm quan lớn! - bà bỗng thét lên một tiếng xé ruột xé gan, nước mắt chảy ròng ròng, - Xin quan lớn che chở lũ trẻ mồ côi! Ngài còn nhớ sự tiếp đãi ân cần của mồ ma ông Xemion Zakharovich… Có thể nói quý tộc thượng lưu nữa là khác! Chà! - bà giật mình, chợt tỉnh lại và đưa mắt nhìn mọi người vẻ như kinh hãi, nhưng rồi bà nhận ngay ra Sonya.
- Sonya, Sonya! - bà nói, giọng dịu dàng và âu yếm, như thể lấy làm lạ sao lại có nàng ở trước mặt. - Sonya yêu quý, con cũng ở đây ư?
Họ lại đỡ bà ngồi dậy.
- Thôi! Đã đến lúc… Vĩnh biệt cuộc sống đoạ đày! Con ngựa khổ đã kiệt sức rồi! Nó chết to - o - oi rồi! - bà thét lên, giọng tuyệt vọng và hằn học, rồi buông đầu rơi phịch xuống gối.
Bà lại mê man, nhưng cơn mê cuối cùng nầy không lâu. Khuôn mặt võ vàng, khô héo của bà bỗng ngả hẳn ra phía sau, miệng há hốc ra, hai chân rướn thẳng đờ. Bà thở hắt ra một tiếng dài dằng dặc và tắt nghỉ.
Sonya gieo mình lên xác bà, đang hai tay ôm chầm lấy và lặng người đi, đầu nép vào lồng ngực khô héo của người chết. Polenka sụp xuống hôn chân mẹ, khóc nức nở. Kolia và Lena, vẫn chưa hiểu việc gì vừa xảy ra, nhưng cũng linh cảm thấy một điều gì rất khủng khiếp dang cả hai tay ôm lấy nhau, mắt nhìn trừng trừng vào mặt nhau, và bỗng nhiên cùng một lúc há miệng ra và cùng cất tiếng hét lên. Cả hai đều vẫn ăn mặc như phường trò: một đứa đội khăn Thổ, đứa kia dội mũ chụp cắm mánh lông đà điểu.
Không biết làm thế nào mà tấm "bằng khen" kia lại bỗng dưng ở trên giường, bên cạnh Katerina Ivanovna, nó nằm ở đấy, ngay ở bên gối; Raxkonikov trông thấy. Chàng ra đứng ở cửa sổ. Lebeziatnikov vội vã ra theo.
- Chết rồi! - Lebeziatnikov nói.
- Rodion Romanovich, tôi có câu chuyện nhỏ cần nới với cậu, - Xvidrigailov lại gần nói. Lebeziatnikov lập tức nhường chỗ cho hắn và lịch thiệp lảng đi.
Xvidrigailov dìu Raxkonikov đang ngạc nhiên ra một góc xa hơn nữa.
- Tất cả những món phiền phức nầy, nghĩa là việc chôn cất nầy nọ, tôi sẽ lo liệu hết. Cậu cũng biết đấy, việc nầy sẽ tốn tiền, mà tôi thì đã có lần nói với cậu là tôi có một số tiền thừa. Hai đứa nhóc kia với con Polenka thì tôi sẽ cho vào một cô nhi viện nào kha khá và cho mỗi đứa một số vốn là một nghìn rưỡi rúp chờ cho đến khi chúng thành niên, để Sofia Xemionovna có thể yên tâm hoàn toàn. Với lại tôi cũng sẽ kéo cô ta ra khỏi cảnh lầm than, vì cô ta là một người con gái tốt có phải không nào? Ấy đấy, thế thì xin cậu nói lại với Avdotia Romanovna rằng tôi đã sử dụng số tiền một vạn rúp của cô ấy như thế đấy?
- Ông ra tay làm một việc nghĩa như thế có mục đích gì? - Raxkonikov hỏi.
- Chà - à! Thật là người đa nghi! - Xvidrigailov cười xoà. - Thì tôi đã bảo là số tiền ấy tôi không cần đến mà lại. Thế sao, cậu không thể tin rằng tôi có thể chỉ vì nhân đạo, thế thôi, hay sao? Vì bà ta đâu phải là một "con rận" (lão giơ ngón tay chỉ vào góc phòng nơi người chết đang nằm) như một mụ già cho vay lãi nào đấy. Đấy cậu cũng phải thừa nhận rằng, đấy, thật thế "để cho Lugin sống mà làm những việc bị ổi, hay để cho bà ta phải chết?". Và nếu tôi không giúp, thì Polenka chẳng hạn, cũng sẽ đi theo con đường đó thôi mà…
Lão nói mấy câu đó với một vẻ cười cợt ranh mãnh, như một người đang nháy mắt ra hiệu, trong khi vẫn nhìn Raxkonikov không rời mắt. Raxkonikov tái mặt đi người lạnh toát ra, khi nghe chính những câu mình đã nói với Sonya. Chàng hấp tấp lùi lại và ngây dại nhìn Xvidrigailov.
- Tạ - tại sao… Ông lại biết? - Chàng thều thào, thở không ra hơi nữa.
- Thì tôi ở đây, bên kia vách, tôi trọ ở nhà madame Resslich mà lại. Bên nầy là ông Kapernaumop, bên kia là madame Resslich một người bạn cũ rất tận tuỵ với tôi. Tôi là chỗ láng giềng đấy ạ.
- Ông?
- Tôi, - Xvidrigailov nói tiếp, cười rung cả người lên, - và tôi có thể lấy danh dự mà nói với cậu, cậu Rodion Romanovich thân mến ạ, rằng tôi thấy cậu có những cái thú vị lạ thường. Tôi đã bảo là chúng ta sẽ kết thân với nhau mà, tôi đã nói trước với cậu như thế. Và đây chúng ta đã kết thân. Rồi cậu sẽ thấy tôi là người dễ tính nhường nào. Cậu sẽ thấy rằng với tôi cậu còn có thể sống được lắm…
Chú thích:
(1) Đứng cho thẳng (tiếng Pháp)
(2) Cô hãy nói tiếng Pháp với tôi (tiếng Pháp)
(3) Năm xu (tiếng Pháp)
(4) Malborough đi đánh giặc không biết bao giờ sẽ về
(5) Năm xu, năm xu, để chúng tôi thu xếp nhà cửa.
(6) Những danh từ vũ đạo (tiếng Pháp), chỉ hai bước nhảy
(7) Cô có kim cương và ngọc trai (tiếng Đức)
(8) Cô có đôi mắt đẹp nhất đời. Cô gái kia ơi, cô còn muốn gì hơn nữa (tiếng Đức) - Thơ của Henrich Heine (sao không được đúng)
(9) Thơ của Lermontov
Chương 30
Raxkonikov bắt đầu sống qua một thời gian kỳ lạ: như thể một màn sương mù bỗng buông xuống trước mặt chàng và giam hãm chàng trong một cảnh cô đơn nặng nề, không lối thoát. Lâu mãi về sau, khi nhớ lại thời gian nầy, chàng mới hiểu ra rằng ý thức của chàng đôi khi như lu mờ hẳn lại và cứ thế, trừ một vài quãng hở ngắn, kéo dài mãi cho đến tai hoạ cuối cùng. Chàng đã hoàn toàn thấy rõ rằng trong thời gian ấy chàng nhầm lẫn rất nhiều, chẳng hạn về thời gian và thời hạn xảy ra một vài sự việc; ít nhất là về sau, khi nhớ lại và cố gắng lý giải những ký niệm ấy, chàng đã biết thêm nhiều về bản thân mình, nhờ những tài liệu do người khác cũng cấp cho. Chẳng hạn, việc nầy thì chàng lại lẫn với việc nọ; có việc chàng cho là hậu quả của nó một sự kiện nào đó chỉ có trong tưởng tượng của chàng mà thôi. Đôi khi chàng bỗng thấy bồn chồn lo lắng một cách đau đớn khổ sở, thậm chí còn đâm ra sợ sệt hoảng hốt nữa. Nhưng chàng nhớ lại rằng cũng có những phút, những giờ, và có lẽ cả những ngày nữa, chàng hoàn toàn dừng dưng; tâm trạng đó đến với chàng như để đối lập với tâm trạng sợ hãi về trước, nó giống như trạng thái dửng dưng bệnh tật của một số người hấp hối. Còn nói chung thì trong những ngày cuối cùng nầy chính chàng cũng lại dường như cố gắng trốn thoát cho khỏi hiểu một cách mình mẫn và trọn vẹn tình cảnh của mình; một số sự kiện liên quan đến cuộc sống hàng ngày, vốn đòi hỏi được giải thích ngay, đặc biệt khiến chàng khổ tâm; nhưng chàng sẽ sung sướng biết chừng nào nếu được giải thoát, được trốn khỏi những mối lo âu mặc dầu trong tình cảnh chàng mà quên lãng những mối lo âu ấy thì có thể lâm vào nguy cơ diệt vong hoàn toàn không sao tránh khỏi.
Làm cho chàng lo sợ nhất là Xvidrigailov; thậm chí còn có thể nói rằng chàng dường như chỉ nghĩ đến Xvidrigailov nữa thôi. Từ khi Xvidrigailov nói ra những lời lẽ quá rõ ràng và quá nguy hiểm đối với chàng trong căn buồng của Sonya, trong giờ lâm chung của Katerina Ivanovna, giòng tư tưởng thường ngày của chàng dường như đã rối loạn đi. Nhưng mặc dầu sự kiện mới nầy làm cho chàng lo lắng đến cùng cực, Raxkonikov hình như vẫn không vội tìm cách lý giải nó. Thỉnh thoảng, khi bỗng dưng tình cờ đến một khu phố xa vắng, hẻo lánh nào, ngồi trong một tiệm rượu thảm hại nào đó, một mình một bàn suy nghĩ miễn man, và hầu như cũng không nhớ tại sao mình lại đến đây, chàng bỗng sực nhớ đến Xvidrigailov: chàng bỗng lo lắng nhận thức được một cách quá rõ ràng là phải thương lượng với con người ấy càng sớm càng tốt, và quyết định dứt khoát những gì có thể quyết định được. Có lần đi lang thang ra ngoài cửa ô, chàng lại còn mường tượng rằng mình ra đây đợi Xvidrigailov vì hai người đã hẹn gặp nhau ở đây Một lần khác, gần tảng sáng chàng thức dậy thì thấy mình nằm giữa đất, cạnh những bụi rậm, và hầu như không hiểu sao mình lại ở đấy. Vả chăng trong khoảng hai ba ngày sau cái chết của Katerina Ivanovna chàng đã có hai lần gặp Xvidrigailov, lần nào cũng hầu như gặp ngay trong phòng Sonya, chàng ghé vào đấy để làm gì thì chính chàng cũng không rõ, và lần nào cũng chỉ ghé khoảng một phút. Lần nào hai người cũng trao đổi với nhau vài câu vắn tắt, và không bao giờ đã động đến cái điểm chính yếu, như thể tự nhiên giữa hai người đã có mặc ước với nhau là tạm thời không nói đến việc đó. Xác Katerina Ivanovna vẫn còn quàn trong quan tài. Xvidrigailov chạy ngược chạy xuôi lo liệu cho đám tang. Sonya cũng rất bận. Lần gặp sau cùng, Xvidrigailov cho Raxkonikov biết rằng về mấy đứa con của Katerina Ivanovna thì lão đã thu xếp xong xuôi đâu vào đấy cả; nhờ có quen nơi nầy nơi nọ, lão đã tìm được mấy nhân vật giúp lão gửi ngay cả ba đứa trẻ mồ côi vào những viện cô nhi rất thích hợp với chúng; những món tiền ký quỹ cho chúng cũng giải quyết được nhiều việc vì trẻ mồ côi mà có vốn thì gửi dễ hơn con cái hạng bần cùng nhiều. Lão còn nói thêm những gì gì về Sonya, hứa có dịp sẽ thân hành đến gặp Raxkonikov và nói quả là "mong được bàn bạc với chàng; có những việc rất cần nói chuyện với chàng…". Câu chuyện giữa hai người được trao đổi ở phòng mắc áo, đầu cầu thang.
Xvidrigailov nhìn đăm đăm vào mắt Raxkonikov rồi sau một lát im lặng, đột nhiên hạ giọng xuống hỏi:
- Nầy, Rodion Romanovich, sao trông cậu thảng thốt thế? Thật đấy! Cậu nghe, cậu nhìn, nhưng xem ra thì hình như cậu không hiểu gì hết. Cậu phải can đảm lên. Đây, ta nói chuyện một chút: chỉ tiếc là tôi đang bận quá: việc mình lẫn việc người… Chà, Rodion Romanovich, - lão bỗng nói thêm. - người ta ai cũng cần không khí, không khí… trước hết phải có không khí!
Lão bỗng né ra một bên để nhường lối cho ông linh mục và người giúp lễ đang đi vào. Họ đến làm lễ cầu hồn. Theo yêu cầu của Xvidrigailov, lễ cầu hần được cử hành hai lần một ngày đúng nghi thức, Xvidrigailov bỏ đi. Raxkonikov đứng yên suy nghĩ một lát rồi theo ông linh mục vào phòng Sonya.
Chàng đứng trên lối vào, lễ cầu hồn bắt đầu, lặng lẽ nghiêm trang, buồn bã. Từ hồi còn bé, chàng đã có một cảm giác nặng nề, một nỗi sợ hãi thần bí khi nghĩ đến cái chết và cắm thấy nó lẩn quất đâu đây; vả lại đã lâu chàng không dự lê cầu hồn nào. Hẳn nữa ở đây còn có một cái gì khác, quá khủng khiếp, đáng lo sợ.
Chàng nhìn mấy đứa trẻ: chúng đều quỳ bên quan tài. Polenka khóc. Sau lưng chúng, Sonya cầu nguyện se sẽ; hình như nàng đang rụt rè khóc thầm. "Ra trong mấy ngày nay nàng không nhìn ta lần nào và không nói với ta một lời nào" - Raxkonikov chợt nghĩ. Ánh nắng chiếu vào phòng sáng rực; khói trầm hương bay cuộn lên nghi ngút; người linh mục đọc: "Xin chúa ban cho bằng an". Raxkonikov đứng dự suốt buổi lễ. Khi làm dấu ban phước lành và cáo từ ra về, người linh mục đưa mắt nhìn quanh, vẻ kỳ lạ. Sau buổi lễ Raxkonikov đến cạnh Sonya. Nàng bỗng cầm lấy hai tay chàng và gục đầu vào vai chàng. Cử chỉ giản dị ấy khiến Raxkonikov hết sức kinh ngạc; chàng còn thấy nó kỳ quặc nữa: lạ thật, nàng không chút nào thấy ghê sợ không mảy may thấy kinh tởm chàng, tay nàng không hề thoáng run lên chút nào! Đây quả thật là lòng nhẫn nhục không bờ bến. Dù sao đó cũng là ý nghĩ của chàng. Sonya không nói gì hết. Raxkonikov xiết tay nàng rồi ra về. Chàng thấy lòng nặng trĩu.
Giá giờ phút nầy có thể bỏ đi đâu mà sống một mình, dù có phải sống như thế suốt đời chăng nữa, thì chàng sẽ cho mình là người diễm phúc. Nhưng khổ một nỗi trong thời gian gần đây, tuy hầu như lúc nào chàng cũng một mình, nhưng chàng không sao cảm thấy mình được ngồi riêng lại với mình cả. Có những lần chàng đã tình cờ ra ngoại thành, bước lên con đường thiẻn lý, thậm chỉ có lần chàng còn đến một khu rừng nhỏ nữa; nhưng những nơi ấy càng hẻo lánh vắng vẻ, thì chàng lại dường như càng cảm thấy một cái gì gần gũi và đáng lo sợ đang lẩn quất đâu đây, một cái gì không hẳn là ghê rợn, nhưng hầu như rất đáng bực mình, thành thử chàng hối hả trở về thành phố, trà trộn vào đám đông, ghé vào quán rượu, quán giải khát, đi ra chợ tầm tầm hay chợ Hàng Rơm. Ở đây chàng thấy để chịu hơn và hầu như cô đơn nữa.
Trong một quán rượu, vào lúc xế chiều, khách khứa đang hát. Chàng ngồi nghe họ hát suốt một tiếng đồng hồ và nhớ rằng mình còn thấy thích thú nữa. Nhưng về sau chàng lại bỗng đâm ra lo lắng; cứ như thể lương tâm bắt đầu cắn rứt chàng. "Đấy, mình ngồi nghe hát thế nầy, nhưng việc mình đang cần làm có phải thế đâu! Chàng thoáng nghĩ. Nhưng rồi chàng lại hiểu ngay ra rằng không phải chỉ có điều nầy khiến chàng lo lắng, còn có một cái gì đòi hỏi phải giải quyết ngay không chậm trễ, nhưng cái đó thì không thể nào lý giải được mà cũng không thể nào diễn đạt ra bằng lời được. Tất cả đều rối bết lại thành một cục. "Không, thế nầy thì thà phải tranh đấu còn hơn, thà một lần nữa phải đương đầu với Porfiri, với Xvidrigailov còn hơn… Sao cho chóng có được một lời thách thức nào, một kẻ nào tấn công ta… Phải! phải!"
Chàng ra khỏi quán và cắm cổ đi thật nhanh, gần như chạy. Nghĩ đến mẹ và Dunia, không hiểu sao chàng bỗng thấy sợ cuống cuồng lên. Chính đêm ấy, khi gần tảng sáng, chàng đã thức giấc giữa những khóm cây rậm trên đảo Krextovxki, người sốt run cầm cập; chàng về đến nhà thì trời đã sáng. Ngủ được mấy tiếng thì cơn sốt qua khỏi, nhưng chàng thức dậy muộn: lúc bấy giờ đã hai giờ trưa. Chàng sực nhớ ra rằng hôm nay chính là ngày đã chọn để đưa ma Katerina Ivanovna, và lấy làm mừng rằng mình đã không đến dự. Naxtaxia đưa thức ăn lên cho chàng; chàng ăn uống rất ngon miệng, gần như ngốn ngấu. Trí óc chàng đã mình mẫn hơn, chàng thấy bình tĩnh hơn ba ngày gần đây. Thậm chí chàng còn thoáng lấy làm lạ về những cơn hoảng sợ cuống cuồng trước đây. Cửa mở, và Razumikhin bước vào.
- À ăn đấy hở, thế tức là không ốm!
Razumikhin nói, với lấy chiếc ghế và ngồi vào bàn, đối diện với Raxkonikov. Anh đang lo, và cũng không có ý muốn giấu nỗi lo ấy. Anh nói năng có vẻ bực bội rõ rệt, nhưng nói từ tốn, không cao giọng. Có thể nghĩ rằng anh vừa nẩy ra một ý định gì riêng, một ý định đặc biệt nữa là khác. Anh mở đầu, giọng cả quyết:
- Cậu ạ, mình thì mình kệ xác cả lũ các cậu, nhưng cứ theo những điều hiện nay mình thấy được thì rõ ràng là mình không thể hiểu một tí gì; xin cậu đừng tưởng mình đến đây để cật vẫn cậu, mình nhổ toẹt vào! Mình không cần! Bây giờ dù cậu có thổ lộ hết những chuyện bí mật của các cậu với mình, có lẽ mình còn không thèm nghe nữa là khác, mình sẽ nhổ toẹt một bãi mà bỏ đi. Mình chỉ đến để tự mình nghiệm lại cho thật dứt khoát; trước hết là có thật cậu điên hay không? Đấy cậu cũng thấy; có người tin chắc rằng (ấy, những người ấy là ai thì cậu cũng biết) có lẽ cậu điên hay sắp phát điên đến nơi rồi. Mình thú thật với cậu là chính mình cũng có chiều muốn xiêu về ý kiến nầy khá mạnh, trước hết là căn cứ vào những hành động ngu xuẩn và có phần khả ố của cậu (những hành động ấy không thể nào cắt nghĩa được) và sau nữa là căn cứ vào cách cậu cư xử với mẹ và em cậu gần đây. Nếu không phải, là một thằng điên thì chỉ có một con quai vật, một tên đốn mạt mới có thể xử với họ như cậu; vậy phải kết luận rằng cậu là một thằng điên…
- Cậu gặp họ đã lâu chưa?
- Vừa gặp xong. Thế còn cậu thì không gặp họ từ lúc nào? Cậu lẩn đi đằng nào mà mất mặt thế, cậu thử nói xem mình đến tìm cậu đã ba lần mà không gặp. Mẹ cậu ốm khá nặng từ hôm qua. Bà cụ định đến thăm cậu; Avdotia Romanovna ra sức can ngăn nhưng bà cụ một mực không chịu nghe, cụ bảo: "Nếu nó ốm, nếu nó bị loạn óc, mà mẹ nó không săn sóc nó thì còn ai?" Thế là mình với Avdotia Romanovna, phải đưa bà cụ đến đây, vì không lẽ để mặc bà cụ đi một mình? Suốt dọc đường, mãi cho đến khi vào sát cửa nhà cậu chúng mình cứ van xin bà cụ yên tâm. Vào nhà, chả thấy cậu đâu cả; bà cụ ngồi ở chỗ nầy đây. Bà cụ ngồi như thế đến mười phút, Avdotia Romanovna với mình thì im lặng đứng cạnh. Bà cụ đứng dậy nói: "Nó đi đâu vắng, thế tức là nó vẫn khoẻ; nhưng quên cả mẹ, làm mẹ mà phải đứng ở cửa xin chút tình thương như xin của bố thí thì thật là ngang chướng và đáng hổ thẹn". Bà cụ trở về nhà và nằm xuống giường, bây giờ đang sốt: "Tôi biết nó có thì giờ để đến với người của nó" Ý bà cụ muốn nói "người của nó" đây là Sofia Xemionovna, vị hôn thê hay tình nhân của cậu gì đấy, tớ cũng không biết nữa. Vừa rồi tớ lập tức đến nhà Sofia Xemionovna vì tớ muốn tìm biết cho tường tận, - tớ đến thì thấy một cỗ quan tài đặt ở trong nhà, lũ trẻ thì khóc. Sofia Xemionovna đang ướm thử áo tang cho chúng. Cậu thì chẳng thấy đâu cả. Tớ xem một lúc, xin lỗi rồi ra về, thuật lại sự tình cho Avdotia Romanovna rõ. Thế nghĩa là tất cả những chuyện kia đều nhảm nhí hết, chẳng phải người của cậu gì sốt, đúng hơn cả là cậu điên. Nhưng đến đây thì lại thấy cậu ngồi chén thịt bò ngốn ngấu như thể đã ba ngày không ăn. Cứ cho rằng người điên cũng vẫn ăn như thường, nhưng mặc dầu cậu chưa nói với tớ câu nào, tớ cũng thấy ngay là cậu không điên! Tớ sẵn sàng thề như vậy. Gì thì gì chứ nhất định là không điên. Cho nên ma quỷ bắt tất cả bọn cậu đi cho rảnh, vì ở đây có một điều bí ẩn, một chuyện bí mật gì đây; còn như tớ thì tớ không hơi đâu mà đi vắt óc nghĩ cho ra những chuyện bí mát của các cậu. Cho nên tớ chỉ ghé qua chửi cậu dăm câu, - anh đứng dậy, kết luận - Cho nó hả dạ, còn bây giờ thì tớ biết tớ phải làm gì rồi!
- Thế bây giờ cậu định làm gì?
- Bây giờ tớ định làm gì thì có việc gì đến cậu?
- Xem chừng đấy, rồi cậu sẽ quay ra rượu chè mất thôi!
- Sao… sao cậu lại biết?
- Thôi đi, có gì mà chẳng biết.
Razumikhin lm lặng một lát.
- Cậu xưa nay vẫn là người có trí xét đoán rất tinh và chưa bao giờ, chưa hề điên bao giờ cả, - anh bỗng nói, giọng, nhiệt thành. - Đúng thế đấy: tớ sẽ uống rượu! Thôi, tớ về nhé? - Đoạn anh quay gót đi.
- Đâu hôm kia thì phải, tôi có nói chuyện với em gái tôi về cậu đấy Razumikhin ạ!
- Về tớ! Nhưng mà… hôm kia thì cậu gặp cô ấy ở đâu được? - Razumikhin bỗng dừng phắt lại, thậm chí còn hơi tái mặt đi nữa. Có thể thấy rằng tim anh bắt đầu đập mạnh trong lồng ngực, chầm chậm và căng thẳng.
- Dunia có đến đây, đến một mình, ngồi đây nói chuyện với tôi.
- Dunia?
- Phải, Dunia.
- Thế cậu nói gì… tớ muốn hỏi là cậu nói chuyện gì về tớ?
- Tôi bảo Dunia rằng cậu là một người rất tốt, trung thực và cần cù. Còn như cậu yêu Dunia thì tôi không cần nói ra, vì chính nó cũng biết.
- Chính cô ấy cũng biết?
- Gì mà không biết! Dù tôi có đi đâu, dù tôi có mệnh hệ nào cậu cũng nên ở lại che chở mẹ và em tôi. Tôi "phó thác" hai người lại cho cậu đấy, Razumikhin ạ. Tôi nói như vậy bởi vì tôi biết chắc mười phần là cậu yêu Dunia, tôi tin chắc ở tấm lòng trong sạch của cậu. Tôi lại còn biết rằng nó có thể yêu cậu và hơn nữa, có lẽ nó đã yêu cậu rồi cũng nên. Bây giờ cậu thấy thế nào hơn thì cậu cứ định liệu lấy: có nên rượu chè hay không thì tuỳ cậu đấy.
- Rodia… cậu ạ… Ấy… Chà, quỷ thật? Thế còn cậu thì định đi đâu? Cậu thấy không, nếu đó toàn là chuyện bí mật cả thì thôi! Nhưng tớ… tớ sẽ biết được điều bí mật ấy… Và tớ tin chắc rằng đó là một chuyện gì hết sức vớ vẩn, nhảm nhí không đâu, chắc chắn như thế, và chỉ do một mình cậu bày đặt ra cả. Nhưng cậu là một người hết sức tốt! Tốt vô cùng!
- Tôi còn muốn nói thêm một điều nữa, nhưng cậu cứ cắt ngang, tôi muốn nói là lúc nãy cậu nghĩ rất phải khi quyết định không tìm biết những chuyện bí mật, những điều bí ẩn ấy. Tạm thời cậu hãy cứ để mặc đấy, đừng bận tâm. Đến lúc rồi cậu sẽ biết hết, biết đúng vào lúc cần biết. Hôm qua có một người nói với tôi là con người cần không khí, cần không khí, không khí! Bây giờ tôi định đến gặp người ấy hỏi xem người ấy nói như vậy có ngụ ý gì.
Razumikhin đứng yên, vẻ trầm ngâm và xúc động như đang suy xét điều gì.
"Cậu ấy có tham gia một âm mưu chính trị gì đây! Chắc chắn như thế! Và chắc là nay mai sắp tiến hành một việc gì quyết liệt - Chắc chắn như thế! Không thể nào khác được, và… cả Dunia cũng biết… - anh bỗng thầm nghĩ.
- Thế ra Avdotia vẫn lui tới nhà cậu, - anh nói, dằn từng chữ - Còn cậu thì đang định gặp một người có nói rằng cần có nhiều không khí hơn, nhiều hơn nữa và có thể nghĩa là bức thư ấy… cũng nằm trong phạm vi nầy, - anh kết luận như tự nhủ một mình.
- Thư nào?
- Cô ấy có nhận được một bức thư, vừa nhận được hôm nay, bức thư làm cô ấy lo lắng lắm. Rất lo lắng. Lo lắng quá đỗi nữa là khác. Tớ quay ra nói đến cậu. Cô ấy liền bảo tớ im. Rồi sau đó… cô ấy bảo có lẽ chỉ nay mai chúng ta sẽ xa nhau, rồi quay ra cảm ơn tớ rất nhiệt thành; sau đó cô ấy về phòng riêng khoá trái cửa lại.
- Nó có nhận được một bức thư à? - Raxkonikov hỏi lại, vẻ trầm ngâm.
- Phải, một bức thư, thế cậu không biết à? Hừm.
Cả hai người im lặng một lát.
- Thôi tớ về, Rodion nhé. Cậu ạ,… đã có lúc tớ, nhưng thôi, tớ về nhé, cậu thấy không, đã có lúc tớ… Thôi tớ về đây? Tớ cũng đang có việc… Tớ sẽ không uống rượu đâu. Bây giờ thì không cần… cậu chỉ nói láo!
Razumikhin hấp tấp ra về; nhưng khi ra khỏi cửa và đã đóng cửa sắp kín lại anh bỗng mở ra nói, mắt nhìn đi nơi khác:
- À nầy? Cậu còn nhớ vụ án mạng ấy chứ, chậc cái lão Porfiri ấy mà. vụ giết mụ già ấy mà? Ấy, thế thì tớ nói cho cậu biết là đã tìm ra tên giết người rồi, hắn đã thú tội và đưa ra đầy đủ bằng chứng. Cậu thử tưởng tượng, đó chính là một trong hai người thợ sơn, cậu nhớ chứ, dạo trước tớ vẫn bênh vực đấy? Cậu có thể tin được không: cả cái vụ đánh nhau, cười đùa ầm ĩ trên thang gác với thằng bạn trong khi người gác cổng với hai nhân chứng lên phòng mụ già, đều là do hắn bày ra để đánh lạc hướng. Cái thằng chó con ấy khôn ngoan mà tinh trí thật! Thật khó mà tin; nhưng chính hẳn giảng giải và thú nhận hết! Dạo trước tớ bị mắc lỡm to! Bây thì thì tớ đã thấy đây chỉ là một thiên tài về thuật vờ vĩnh khôn ngoan, một thiên tài về môn đánh lạc hướng điều tra hình pháp, - Cho nên chẳng có gì đáng lấy làm lạ cho lắm cả! Những người như thế cũng có thể có lắm chứ? Còn như việc hắn không chịu nổi mà phải thú nhận, thì làm như thế tớ lại càng tin hơn nữa. Như thế có lý hơn… Nhưng dạo ấy tớ mắc lỡm to mắc lỡm một cách tệ hại! Tớ đã bốc đồng lên vì hai thằng ấy!
- Cậu thử nói hộ tôi nghe, ai cho cậu biết chuyện ấy và tại sao cậu lại quan tâm đặc biệt như vậy? - Raxkonikov hỏi, vẻ xúc động rõ rệt.
- Lại còn tại sao! Tại sao tớ quan tâm! Thế mà cũng hỏi! Tớ biết chuyện ấy là do Porfiri, và mấy người khác nữa. Nhưng chính hắn cho tớ biết hấu hết mọi chuyện.
- Porfiri ấy à?
- Porfiri.
- Thế hắn… hắn bảo sao? - Raxkonikov hỏi, vẻ hớt hải.
- Hắn cắt nghĩa cho tớ rõ ràng lắm. Cắt nghĩa theo lối riêng của hắn, dùng tâm lý học.
- Hắn cắt nghĩa à? Chính hắn tự cắt nghĩa cho cậu rõ?
- Chính hắn, chính hắn; thôi tớ về đây! Sau nầy tớ sẽ kể rõ thêm, chứ bây giờ tớ đang có việc. Dạo trước… đã có một lúc tớ nghĩ… Nhưng thôi; sau hẵng hay! Bây giờ thì việc gì tớ lại đi rượu chè. Không rượu cậu cũng làm cho tớ say khướt rồi. Tớ say rồi đấy Rodia ạ! Bây giờ thì không rượu tớ cũng say, thôi tớ về nhé, tớ sẽ ghé cậu, chỉ nay mai thôi.
Razumikhin đi ra.
"Đúng cậu ấy có tham gia một âm mưu chính trị rồi, chắc chắn, chắc chắn như thế! - Razumikhin quyết định dứt khoát trong bụng, trong khi thong thả xuống thang gác. - Cậu ta lôi cả em gái vào cuộc nữa; cái đó có lẽ rất thích hợp, rất thích hợp với tính cách của Avdotia Romanovna. Hai anh em vẫn có hẹn hò với nhau… Chính cô ấy cũng có nói xa xôi với mình. Cứ xét những lời lẽ, những câu nói xa gần… bóng gió của cô ấy thì đúng là như thế! Nếu không thì làm thế nào cắt nghĩa được cái mở bòng bong nầy? Hừm! Thế mà mình cứ tưởng… Trời ơi, mình nghĩ ra những chuyện như thế có chết người không chứ! Phải, đó là một ý nghĩ u mê ám chướng, mình thật có lỗi với cậu ấy! Chính cái hôm đứng ở bên ngọn đèn mình đã nảy ra cái ý ấy. Xì! Thật là một ý nghĩ xấu xa, thô bỉ, hèn hạ! Thằng Mikonka thú nhận như vậy là khá lắm… Vả lại tất cả những việc xảy ra trước kia thì bây giờ đã quá rõ! Căn bệnh của cậu ấy, những hành động kỳ quái kia, mà ngay cả dạo trước nữa, dạo còn ở trường đại học ấy, lúc nào cũng thấy cậu ấy lầm lì, cau có lạ lùng… Nhưng bây giờ lại có cái bức thư ấy là thế nào? Chắc cũng có một cái gì đây. Thư của ai gửi thế nhỉ? Mình ngờ là… Hừm. Thôi được, mình sẽ biết tất".
Anh sực nhớ đến Dunia và suy nghĩ đến tất cả những gì có liên quan đến nàng, và thấy tim mình lịm đi. Anh cắm cổ chạy.
Razumikhin vừa ra khỏi thì Raxkonikov đứng dậy: quay ra cửa sổ, húc đầu vào góc nầy góc nọ như thế đã quên bẵng mất kích thước chật hẹp của căn buồng, rồi… lại ngồi xuống đi-văng. Chàng như đã đổi mới hoàn toàn; lại một cuộc đấu tranh - thế nghĩa là lối thoát đã tìm thấy! Phải, thế nghĩa là đã tìm thấy một lối thoát! Chứ không thì mọi việc sẽ bế tắc quá, chàng sẽ bị dồn vào thế bí, chàng sẽ ngạt thở ghê gớm, sẽ u mê đi mất.
Ngay từ dạo gặp Mikonka trong phòng Porfiri chàng đã bắt đầu ngạt thở vì không có lối thoát, vì chật chội.
Sau Mikonka lại đến cuộc nói chuyện ở nhà Sonya, cũng ngay hôm ấy; chàng đã tiến hành và kết thúc cuộc giãi bày hoàn toàn không giống tí nào với cách chàng đã hình dung trước kia… thế nghĩa lả chàng đã suy nhược đi trong chốc lát, suy nhược đến cùng cực rồi! Ngay trong một lúc! Mà hôm ấy chàng cũng đã thú nhận với Sonya, tự chàng thú nhận, chân thành thú nhận rằng chàng không thể mang cái gánh nặng ấy trong lòng một mình mà sống được! Còn Xvidrigailov là cả một bài tính đố… Xvidrigailov khiến chàng lo âu, quả có thế, nhưng hình như không phải về phương diện ấy. Với Xvidrigailov có lẽ cũng sắp phải đấu tranh. Có lẽ Xvidrigailov là cả một lối thoát cũng nên, nhưng Porfiri thì lại là chuyện khác.
Thế là Porfiri tự ý cắt nghĩa cho Razumikhin hiểu, dùng tâm lý học mà cắt nghĩa, hắn lại bắt đầu đưa cái tâm lý học chết tiệt của hắn vào đây rồi! Porfiri à? Nhưng làm sao Porfiri lại có thể tin, dù chí một phút thôi, rằng Mikonka là thủ phạm, sau khi giữa hắn với chàng dạo ấy, trước khi gặp Mikonka, đã diễn ra một cuộc chạm trán mà không có cách giải thích nào có thể cắt nghĩa đúng được, trừ một cách duy nhất (Mấy ngày hôm nay Raxkonikov đã nhiều lần thoáng nhớ lại từng mảng một trong buổi gặp gỡ với Porfiri lần ấy; giá nhớ lại toàn bộ thì chàng sẽ không tài nào chịu nổi). Dạo ấy những câu nói, những cử chỉ, những cái nhìn trao đổi với nhau, giọng nói dùng trong khi đối đáp và nói chung tất cả đã đi đến những mức độ cùng cực, đến nỗi sau đó Mikonka (mà Porfiri đã đoán biết được tỏng tong trong ngay từ lời nói và cử chỉ đầu tiên) Mikonka không thể là người có khả năng làm lung lay tận gốc những định kiến của hắn được.
Thế kia mà! Ngay cả Razumikhin cũng còn bắt đầu nghi ngờ nữa là! Cuộc nói chuyện trong hành lang, bên ngọn đèn, không phải không để lại một dấu vết gì. Thế là cậu ta lao đến tìm Porfiri… Nhưng hắn lòe cậu ta như vậy là để làm gì? Hắn có mục đích gì mà lại lái cho Razumikhin quay sang Mikonka như thế? Vì chắc chắn là hắn cố nghĩ ra một mưu mẹo gì đấy, hắn có những ý định gì đấy, nhưng cụ thể là ý định gì? Quả nhiên từ buổi sáng hôm ấy cho đến nay cũng đã khá lâu, quá lâu nữa là khác, mà Porfiri vẫn im hơi lặng tiếng. Ấy, như thế lại càng nguy hơn…
Raxkonikov cầm lấy mũ lưỡi trai, ngẫm nghĩ một lúc rồi đứng dậy để mở cửa. Trong suốt thời gian ấy, đây là ngày đầu tiên chàng cảm thấy mình ít ra cũng tỉnh trí. "Phải thanh toán với Xvidrigailov mới được - chàng nghĩ, - và dù có thế nào cũng phải thanh toán ngay, càng sớm càng tốt; hình như cái lão nầy cũng đợi mình tự dẫn thân đến thì phải". Và giây phút ấy từ cõi lòng đã mệt mỏi của chàng bỗng trỗi dậy một mối căm thù dữ dội đến nỗi chàng có thể giết ngay Xvidrigailov hay Porfiri. Ít nhất chàng cũng cảm thấy rằng nếu không phải ngay bây giờ, thì sau nầy chàng có thể đủ sức làm việc đó. "Rồi sẽ xem, rồi sẽ xem" - Chàng tự nhủ.
Nhưng chàng vừa mở cánh cửa trông ra phòng ngoài thì bỗng vấp ngay phải đích thân Porfiri. Ông ta đến tìm chàng. Raxkonikov đớ người ra một lát.
Lạ thay, chàng không ngạc nhiên lắm khi trông thấy Porfiri và hầu như không thấy sợ. Chàng chỉ giật mình, nhưng chỉ trong khoảnh khắc chàng đã định thần lại rất nhanh. "Có lẽ đã đến đoạn kết! Nhưng làm sao hắn lại lặng lẽ tới đây như một con mèo, mình chẳng nghe thấy gì cả? Hay hắn đứng rình ở ngoài từ nãy?".
- Chắc anh không ngờ có khách, anh Rodion Romanovich nhỉ, - Porfiri Petrovich cười lớn. - Đã lâu tôi muốn ghé anh, hôm nay nhân đi ngang, tôi nghĩ bụng: tại sao không ghé vào nói chuyện dăm phút. Anh định đi đâu đấy? Tôi sẽ không ngồi lâu đâu. Đây, chỉ hút xong điếu thuốc nầy là tôi về, anh cho phép nhé!
- Nhưng ông ngồi xuống chứ, ông Porfiri Petrovich, mời ông ngồi, - Raxkonikov nói, có vẻ bằng lòng và thân mặt, đến nỗi thật tình chàng cũng sẽ tự lấy làm lạ nếu chàng còn đủ sức tự quan sát. Nỗi lo sợ của chàng trước đấy đã tiêu tan không còn lấy một dấu vết! Đôi khi, bị một tên cướp bắt, người ta có thể sợ cuống cuồng lên trong khoảng nửa giờ, nhưng đến khi tên cướp kề dao vào cổ hẳn hoi thì lại không còn thấy sợ hãi gì nữa. Raxkonikov kéo ghế ngồi ngay trước mặt Porfiri và nhìn thẳng vào y, không hề chớp mắt.
Porfiri nheo nheo đôi mắt và bắt đầu châm thuốc lá hút.
"Nào, nói đi, nói đi kìa, - Câu ấy như chỉ chực buột ra tự đấy lòng Raxkonikov. - Nào, sao thế, sao mãi mày không nói thế hả?".
Chương 31
- Chà, thuốc với men! - mãi hồi lâu, châm thuốc hút và thở ra một làn khói, Porfiri mới lên tiếng, - Chỉ tổ hại, nhưng tôi không bỏ được. Sinh ho, sinh suyễn ra,:ổ thì rất như cào. Tôi nhát gan lắm anh ạ, hôm qua tôi có đến bác sĩ B, mỗi bệnh nhân lão ta khám đến nữa tiếng là tối thiểu; lão vừa nhìn tôi vừa cười nữa kia, lão gõ gõ, nghe nghe, rồi nói: "Anh đừng hút thuốc nữa thì hơn; phổi anh rạc ra rồi". Ấy, tôi làm thế nào bỏ thuốc được? Tôi biết lấy gì mà thay vào đấy? Tôi không uống rượu, thế mới khổ, hê - hê - hê, tôi không uống rượu mới chết chứ! Vì tất cả đều là tương đối Rodion Romanovich ạ, cái gì cũng tương đối thôi!
"Sao thế nhỉ, hắn lại quay ra dùng cái phương sách cũ hay sao?" - Raxkonikov kinh tởm nghĩ thầm. Đột nhiên chàng sực nhớ lại cả buổi nói chuyện cuối cùng, cách đấy không lâu, giữa hai người, và cái cảm giác hôm ấy lại tràn vào lòng chàng như một đợt sóng.
- Tối hôm kia tôi có ghé anh đấy. Anh không biết à? - Porfiri Petrovich nói tiếp: mắt đảo quanh phòng - Ghé vào phòng nầy đấy, chính gian phòng nầy. Hôm ấy tôi cũng có việc đi qua đây. Tôi tự nhủ:; nào, ta vào thăm anh ấy một chút. Tôi ghé vào thì thấy phòng mở cửa toang hoang; tôi dòm vào phòng, đợi một lát, rồi đi ra, cũng không báo cho người ở của anh biết nữa. Thường anh không đóng cửa à?
Mặt Raxkonikov mỗi lúc một sa sầm xuống. Porfiri như thể đã đoán được ý nghĩ của chàng.
- Tôi đến để giãi bày với anh, anh Rodion Romanovich thân mến ạ, để giãi bày đấy! Tôi cần và có nhiệm vụ phải giãi bày với anh, - Ông ta nói tiếp, miệng mỉm cười, thậm chí còn giơ tay vô khe lên đầu gối Raxkonikov, nhưng hầu như ngay lúc ấy gương mặt ông ta bỗng đâm ra có vẻ nghiêm nghị và ưu tư, thậm chí còn đượm buồn nữa, khiến Raxkonikov rất ngạc nhiên. Chàng chưa bao giờ thấy và cũng không hề ngờ Porfiri có được một vẻ mặt như vậy. - Lần trước giữa anh với tôi đã diễn ra một cuộc nói chuyện thật kỳ lạ. Rodion Rômnovich ạ. Mà có lẽ ngay cuộc gặp mặt đầu tiên giữa chúng ta cũng đã khác thường, nhưng hồi ấy… Thôi, bây giờ thì chuyện ấy đã qua, không nhắc làm gì nữa! Thế nầy đãy: có lẽ tôi rất có lỗi đối với anh; tôi cũng càm thấy thế. Anh còn nhớ chúng ta chia tay nhau thế nào không? Lúc ấy bao nhiêu giây thần kinh của anh đều rung điên lên như dây đàn, gối thì run bần bật, mà tôi cũng thế. Anh ạ, thậm chí còn có thể nói rằng hồi ấy ta cư xử với nhau chẳng ổn tí nào, thật chẳng ra người quân tử. Thế nhưng dù sao chúng ta vẫn là những người quân tử, hay nói cho đúng hơn, dù sao chúng ta chủ yếu vẫn là những người quân tử, cái đó phải hiểu mới được. Anh cũng nhớ đấy, sự thể đi đến nông nỗi thậm chí không còn ra cái thể thống gì nữa là khác.
"Sao hắn lại nói thế nhi, hắn cho mình là người thế nào?" - Raxkonikov kinh ngạc tự hỏi, ngẩng đầu lên và giương to mắt nhìn Porfiri.
- Tôi đã nghĩ lại và thấy rằng bây giờ chúng ta thẳng thắn với nhau thì hơn, - Porfiri Petrovich nói tiếp đầu hơi ngả về phía sau, mắt nhìn xuống, như thể không muốn cho nạn nhân cứ phải bối rối vì cái nhìn của mình, và từ bỏ những thủ đoạn, mưu mẹo đã dùng trước kia - Vâng, những mối ngờ vực và những cuộc tiếp xúc như thế không thể kéo dài mãi được. May mà lần ấy có Mikonka nó giải quyết hộ, chứ không thì tôi cũng không biết sự thể giữa chúng ta còn đi đến đâu. Hôm ấy cái thằng tiểu thủ công chết tiệt ấy ngồi trong phòng tôi, sau bức vách ấy: anh có hình dung được không? Tất nhiên bây giờ anh biết chuyện ấy rồi; vả lại chính tôi cũng biết là về sau hắn có đến anh; nhưng hôm ấy anh có phỏng đoán một điều không đúng tôi không hề cho người đi gọi ai cả và cũng chưa hề ra lệnh gì cả. Chắc anh sẽ hỏi: tại sao tôi lại chưa ra lệnh? Biết nói thế nào với anh đây: chính tôi đầu óc dường như cũng đã rối tinh lên với tất cả những chuyện đó. Chẳng qua tôi chỉ cho gọi mấy người gác cổng lại, thế thôi (chắc khi đi ngang anh cũng có trông thấy mấy người gác cổng), hồi ấy có một ý nghĩ vụt qua óc tôi nhanh như một tia chớp; anh thấy không, hồi ấy tôi đã tin chắc rồi đấy, Rodion Romanovich ạ. Tôi nghĩ: thôi thế cũng được, tuy tạm thời tôi để sống mất cái nầy, nhưng rồi tốt sẽ vớ được cái khác, nhưng ít nhất cái gì đã nắm được rồi thì tôi không để sống đâu. Tính anh dễ khích động lắm Rodion Romanovich ạ, bản chất anh nó thế. Dễ khích động quá mức nữa là khác, đó là một trong những nét căn bản trong tính cách của ạnh, mà tôi có thể hy vọng là đã hiểu thấu được phần nào. Ấy lẽ dĩ nhiên ngay như hồi ấy tôi cũng đã có thể đủ óc suy xét để thấy rằng không phải bao giờ cũng tìm được một người tự đến thổ lộ hết tâm can ra với mình. Tuy đôi khi cũng có người như thế, và nhất là khi đã làm cho người ấy sốt ruột đến mất cả tự chủ, nhưng dù sao cũng hiếm. Không, chính dạo ấy tôi cũng biết thế. Tôi nghĩ: miễn sao có được một bằng chứng nhỏ, rất nhỏ cũng được, một thôi, nhưng phải là một cái gì có thể nắm được trong tay, phải là một bằng chứng cụ thể chứ không phải chỉ có mỗi cái thứ tâm lý học ấy.
Bởi vì, tôi nghĩ, nếu một người đã phạm tội thì dĩ nhiên dù sao cũng có thể chờ đợi ở người đó một cái gì cụ thể; còn có thể trông mong một kết quả hết sức bất ngờ nữa là khác. Hôm ấy tôi trông mong ở tính khí của anh đấy Rodion Romanovich ạ, tôi trông mong ở tính khí của anh nhiều hơn cả! Hôm ấy tôi rất hy vọng ở anh.
Nhưng ông, nhưng sao bây giờ ông cứ nói như thế mãi, - hồi lâu Raxkonikov mới nói lắp bắp, thậm chí cũng không cân nhắc câu hỏi của mình cho lắm.
"Hắn nói cái gì thế, - Chàng bàng hoàng tự hỏi, - Chả nhẽ hắn cho mình là vô tội thật hay sao?".
- Sao tôi lại nói như thế! Tôi đến đây là để phân trần với anh, có thể nói tôi xem đó là một bổn phận thiêng liêng của tôi. Tôi muốn trình bày cho anh rõ hết tất cả những việc đã qua, kể hết ngọn ngành câu chuyện "hiểu lầm" giữa chúng ta. Tôi đã làm cho anh khổ sở rất nhiều, anh Rodion Romanovich ạ. Tôi không phải là một con quái vật. Vì tôi cũng hiểu một người nghèo khổ, nhưng kiêu hãnh, có bản lĩnh và nóng nảy - nhất là nóng nảy - như anh, có thể đau khổ đến nhường nào khi phải chịu đựng tất cả những cái đó? Dù sao tôi cũng coi anh là một người hết sức cao thượng, hơn nữa còn có những nét đại lượng nữa là khác, tuy tôi không phải đã đồng ý với tất cả các quan niệm của anh: điều đó tôi tự thấy có bổn phận nói thẳng từ trước, một cách hoàn toàn thành thực, vì trước hết tôi không muốn lừa dối. Khi mới được biết anh, tôi đã thấy có cảm tình với anh. Tôi nói thế chắc anh nghĩ mà buồn cười lắm nhỉ? Anh có quyền cười. Tôi biết rằng ngay khi nhác trông thấy tôi, anh đã không ưa gì tôi, vì thật ra cũng chẳng có gì đáng ưa cả. Nhưng anh muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, chứ về phần tôi thì bây giờ tôi muốn dùng đủ mọi cách để xoá bỏ ấn tượng cũ và chứng tỏ rằng tôi là người có tình cảm và có lương tâm. Tôi xin thành thật mà nói như vậy.
Porfiri Petrovich ngừng lại một lát, vẻ trang trọng. Raxkonikov chợt thấy một nỗi kinh hãi mới mẻ tràn vào lòng. Nghĩ rằng Porfiri coi mình là người vô tội, chàng bỗng bắt đầu thấy sợ.
- Tuần tự kế hết cho anh rõ những việc đó đột nhiên khởi đầu ra sao thì chắc không cần - Porfiri Petrovich nói tiếp, - thậm chí tôi thiết tưởng làm như vậy là thừa nữa. Mà tôi cũng khó lòng kể hết được. Bởi vì biết làm thế nào trình bày cho cặn kẽ được? Thoạt tiên có những tiếng đồn. Những tiếng đồn ấy ra sao, do ai đưa đến tai tôi và vào lúc nào… và vì đâu mà chính anh lại đây vào đây - những cái đó tôi nghĩ cùng thừa nốt. Riêng về phần tôi thì sự việc bắt đầu từ một chuyện tình cờ, chỉ từ một chuyện tình cờ hoàn toàn, chuyện nầy rất có thể xảy ra mà cũng rất có thể không xảy ra, chuyện gì thế? Hừm, tôi nghĩ cũng chẳng có gì cân phải nói. Dạo ấy trong đầu óc tôi tất cả những thứ đó, những tiếng đồn và những chuyện ngẫu nhiên ấy, khớp lại thành một ý nghĩ duy nhất. Tôi cũng xin thành thực thú nhận, vì đã thú nhận thì phải thú nhận cho hết, dạo ấy chính tôi tấn công anh trước đấy. Những chữ của mụ già ghi trên các đồ cầm chẳng hạn, và vân vân, vân vân, đều là những chuyện vặt. Những cái như thế thì có thể kế hàng trăm. Dạo ấy tôi cũng có dịp biết được chuyện xảy ra ở vẫn phòng quận cảnh sát, cũng là một cách tình cờ, không phải vì vô tình nghe ai nói, mà do một nhân vật đặc biệt, một nhân vật trọng yếu, kể lại. Người ấy đã thấm nhuần việc nầy một cách sâu sắc lạ lùng mà tự mình lại không biết. Tất cả những chuyện đó đều làm thành một cái vòng lẩn quấn, một vòng lẩn quần, anh Rodion Romanovich thân mến ạ! Và ở đây làm sao cho khỏi quay đầu về một hướng nhất định? Một trăm con thỏ không bao giờ thành một con ngựa, một trăm mối ngờ vực không bao giờ thành một bằng chứng. Ấy có một câu tục ngữ Anh nói như thế đấy, và nói như thế là khôn ngoan không gì bằng, nhưng hãy cứ thử kiềm chế dục vọng mà xem, dục vọng ấy; vì làm dự thẩm thì cũng vẫn là một con người. Đến đây tôi lại nhớ tới cái bài báo nhỏ của anh, đăng trong tờ tạp chí ấy, anh nhớ chứ, ngay hôm đầu tiên anh đến gặp tôi, chúng ta đã bàn khá kỹ đấy. Lần ấy tôi có trêu tức anh, nhưng là để gợi cho anh đi xa hơn nữa. Xin nhắc lại, anh nóng nảy và ốm yếu lắm, Rodion Romanovich ạ. Anh lại táo bạo, kiêu hãnh, thâm trầm và đã xúc cảm, xúc cảm rất nhiều: những cái đó thì tôi đã biết từ lâu. Tất cả những cảm giác ấy tôi đều có biết, và khi đọc bài báo của anh, tôi cảm thấy như đọc một cái gì quen thuộc. Nó đã hình thành trong những đêm không ngủ, khi tim anh trỗi dậy đập thình thình trong một tâm trạng say sưa cuồng nhiệt, mà anh phải cố trấn áp. Ở những người trẻ tuổi, lòng cuồng nhiệt đầy kiêu hãnh bị trấn áp như vậy rất nguy hiểm. Dạo ấy tôi trêu anh, còn bây giờ thì tôi xin nói rằng nhìn chung tôi rất thích bài báo ấy, nghĩa là thích trên quan điểm tài tử; đó là lần thử bút đầu tiên của một người trẻ tuổi, nhiệt thành. Khói ảo, sương mù, một sợi tơ đồng rung lên lanh lảnh trong sương khói. Bài báo của anh kỳ quặc và vô lý, nhưng trong đó cũng thoáng thấy lòng chân thành, một niềm kiêu hãnh trẻ trung, bất khuất, một sự táo bạo của kẻ cùng đường; bài ấy mù mờ lắm, và như thế là tốt. Tôi đã đọc qua bài của anh, nhưng tôi đã gác nó lại. "Ấy, một con người như thế nầy không thể chỉ dừng lại ở đây!" Đấy, bây giờ anh thử nói tôi nghe, sau những việc như thế thì làm sao cho khỏi bị lôi cuốn vào những việc kế theo? Ồ, trời ơi? Thì tôi có dám nói gì đâu? Bây giờ đây tôi có khẳng định gì đâu? Lúc ấy tôi chỉ nhận xét. Tôi nghĩ: cái gì thế nầy nhỉ? Chẳng có gì hết, đúng là chẳng có gì, và có lẽ tuyệt nhiên không có gì hết. Cho nên tôi bị lôi cuốn vào đấy kể cũng thật ngang chướng: tôi đã có sẵn Mikonka trong tay, mà lại có sự kiện hẳn hỏi nữa, muốn nói gì thì nói, chứ đó vẫn là những sự kiện! Và hắn cũng có những điểm đáng chú ý về tâm lý, cần phải quan tâm đến hắn; vì vấn đề ở đây là vấn đề sống chết. Bây giờ tôi phân trần những việc ấy với anh để làm gì? Để cho anh biết và để khối óc cũng như con tim của anh đừng buộc tội tôi là dạo ấy đã hành động một cách tàn ác. Không tàn ác đâu, tôi xin thành thật nói như vậy, hê - hê! Anh tưởng sao: dạo ấy tôi không soát nhà anh phỏng? Có chứ, có đấy anh ạ, hê - hê, có soát đấy trong khi anh đang ốm nằm liệt giường. Không phải soát chính thức, và không phải tôi thân hành đến soát nhưng có soát đấy. Chúng tôi đã xem xét phòng anh đến tận chân tơ kẽ tóc, ngay từ khi mới chớm có ý nghi ngờ; nhưng - umsonst (1)! Tôi nghĩ: bây giờ con người ấy sẽ đến, sẽ tự đến, chỉ nay mai thôi; nếu là thủ phạm thì thế nào cũng sẽ đến. Và anh có nhớ ông Razumikhin đã ba hoa với anh những gì không? Đó là do chúng tôi bố trí để làm cho anh khích động, chúng tôi cố ý phao tin ra để cho Razumikhin nói lại với anh: mà cậu ấy thì lại là người không thể kiềm chế được lòng căm phẫn. Thoạt tiên cơn phẫn nộ và sự táo bạo ngang nhiên của anh đập ngay vào mắt ông Zamiotov: ấy, tự dưng đang ngồi trong quán rượu lại quát tướng lên: "Chính tôi giết!" Quá táo bạo đấy, quá xấc xược: tôi mới nghĩ: nếu chính anh là thủ phạm, thì anh quả là một đối thủ đáng sợ! Dạo ấy tôi nghĩ như thế đấy. Tôi bèn chờ đợi. Tôi ra sức chờ đợi anh, còn Zamiotov thì lúc ấy đã bị anh áp đảo, và… chính vấn đề là ở cái tâm lý hai mặt ấy cả đấy! Ấy, thế là tôi đợi anh, và quả nhiên Chúa đã tựa tôi: anh đến! Trống ngực tôi cứ đánh thình thình. Chà! Dạo ấy sao anh lại đến làm gì? Tiếng cười ấy, tiếng cười của anh khi bước vào nhà, anh còn nhớ chứ, lúc ấy tôi đã đoán được hết như nhìn qua một lớp kính trong suốt, và ví thử tôi không chờ anh một cách đặc biệt như vậy thì tôi đã chẳng nhận thấy gì trong tiếng cười của anh đâu. Tinh thần đã được chuẩn bị sẵn là như thế đấy. Và hôm ấy cái ông Razumikhin à? Còn tảng đá kia nữa, anh có nhớ không, táng đá mà ở phía dưới anh giấu các thứ ấy mà? Ấy, tôi cứ có cảm giác như thể đang trông thấy trước mắt, trong một vườn rau nào đấy - vì anh có nói với Zamiotov, rồi lần thứ hai lại nói ở nhà tôi, là anh giấu trong một mảnh vườn rau phải không? Ấy thế là chúng tôi đâm đầu vào phân tích bài báo của anh, rồi đến khi anh trình bày, mỗi tiếng anh nói ra nghe cứ như có hai nghĩa, tưởng chừng như có một ý gì nấp ở bên dưới! Thế đấy, anh Rodion Romanovich, tôi cứ thế đi mãi đến những cột trụ cuối cùng, rồi cụng trán vào đấy và sực tỉnh. Tôi tự nhủ: mình làm gì thế nầy! Vì nếu muốn thì tất cả những thứ đó, tôi bảo thế, cho chỉ những nét nhỏ nhặt nhất, đều có thể cắt nghĩa theo hướng khác, mà như thế lại có vẻ tự nhiên hơn nữa. Thật là một cực hình! "Không, tôi nghĩ bụng, giá có được một bằng chứng nhỏ thì hơn! "Rồi đến khi nghe nói chuyện anh đến giật chuông, tôi cứ lặng người đi, thậm chí còn run bắn lên nữa. "À, tôi nghĩ bụng, cái bằng chứng nhỏ ấy đây rồi! Chính nó đây?" Vả chăng lúc ấy tôi cũng không suy xét gì nữa, tôi không muốn, chỉ có thể thôi. Giây phút ấy tôi sẵn sàng vung ra một nghìn rúp tiền riêng nếu có thể được tận mắt nhìn anh khi anh đi sóng đôi với cái lão tiểu thủ công ấy hàng trăm bước, sau khi lão nói thẳng vào mặt anh: "quân giết người!", đi suốt một trăm bước như thế mà không dám hỏi lại… Thế còn cái cảm giác lạnh buốt trong tuỷ xương sống nữa. Chuyện cái chuông ấy, trong khi đang ốm, nửa mê nữa tỉnh? Ấy thế, Rodion Romanovich ạ, thế thì những trò đùa của tôi dạo ấy có gì đáng cho anh lấy làm lạ? Mà tại sao anh lại đến đúng vào lúc ấy? Dường như cũng có ai xui khiến anh ấy, thật đấy, và ví thử lúc ấy không có Mikonka xen vào thì… thế anh còn nhớ Mikonka hôm ấy chứ? Anh nhớ rõ chứ? Thật là một tiếng sét ngang tai! Chính là một lưỡi tầm sét từ trên trời giáng xuống! Thế rồi tôi đón tiếng sét ấy ra sao? Tôi không tin lấy một mảy may, chính anh cũng thấy đấy! Biết thế nào được. Sau đấy, anh đi rồi, hắn trả lời nhiều điểm rất có lý, đến nỗi tôi cũng phải lấy làm lạ, thế nhưng tôi cũng không hề tin lấy một chữ! Có một định kiến vững như bàn thạch là thế đấy? Tôi nghĩ bụng: không phải đâu, xin lỗi! Mikonka thì có dính dáng gì vào đấy?
- Vừa rồi Razumikhin có nói với tôi rằng đến bây giờ ông cũng vẫn buộc tội cho Mikonka và chính ông đã quả quyết với Razumikhin như thế…
Chàng thấy nghẹt thở, không nói được hết câu. Nãy giờ, lòng hồi hộp không sao tả xiết, chàng lắng nghe người đã soi thấu vào ruột gan chàng nay đang từ bỏ những ý nghĩ của chính bản thân. Chàng không dám tin, và không tin. Trong những lời lẽ hãy còn lập lờ của Porfiri, chàng háo hức tìm kiếm để bắt cho được một cái gì chính xác hơn, dứt khoát hơn.
- Cái ông Razumikhin ấy nữa! - Porfiri Petrovich reo lên, như thể vui mừng vì câu hỏi của Raxkonikov nãy giờ vẫn im lặng, - Hê - hê - hê… Cái ông Razumikhin ấy thì phải gạt ra xa: hai người là đủ, người thứ ba đừng có xen vào! Razumikhin thì khác hẳn, đó lại là một người ngoài cuộc, cậu ta chạy đến tìm tôi, mặt tái mét… Thôi, kệ cậu ta, đừng lôi vào đấy làm gì! Còn về Mikonka thì anh có muốn biết bản chất nó thế nào không, nghĩa là theo như tôi quan niệm ấy? Trước hết hắn còn là một đứa trẻ vị thành niên, không hắn là một thằng nhát, chỉ thế thôi, như kiểu một nghệ sĩ nào đấy. Thật đấy, tôi nói về hắn như vậy anh đừng cười. Hắn là người có tâm hồn, có một trí tưởng tượng rốt phóng túng. Hắn biết hát, biết nhảy, biết kể chuyện, nghe nói hắn kể chuyện hay đến nỗi người ở nơi khác cũng kéo đến nghe. Hắn có đi học, tính hắn hay cười: động một tí hắn đã cười ngặt nghẽo: hắn uống rượu cho kỳ say mê man, không phải vì trác táng, chẳng qua nhân dịp có ai phục rượu cho hắn, uống như trẻ con ấy. Dạo ấy hắn ăn cắp mà cũng không biết là mình ăn cắp; vì "nhặt dưới đất thì sao lại bảo là ăn cắp?" Thế anh có biết hắn thuộc một dòng biệt giáo không? Cũng không hẳn là biệt giáo, mà chỉ là một giáo phái thôi; trong họ hắn đã có những người đi hành hương, và cách đây ít lâu khi còn ở trong làng hắn đã được một vị thánh lão (2) chỉ giáo cho trong hai năm liền. Tôi biết được những điều đó là do Mikonka và những người đồng hương của hắn ở Zaraixk cho biết. Lại thế nầy nữa chứ hắn muốn trốn vào sa mạc ở! Hắn mộ đạo lắm, đêm đêm vẫn cầu nguyện chúa, thường đọc các sách cổ, sách "chân chính", đọc đến mụ người ra. Petersbung đã có tác dụng rất mạnh đối với hắn, nhất là nữ giới, rồi thì rượu chè nữa. Hắn rất dễ chịu ảnh hưởng, thế là hắn quên mất vị thánh lão, quên hết. Tôi được biết là có một hoạ sĩ ở đây rất mến hắn, ít lâu nay đã bắt đầu lui tới nhà hắn, nhưng bỗng lại xảy ra vụ nầy? Ấy thế là hắn đâm cuống, toan treo cổ tự tử! Đi trốn! Trong dân gian họ quan niệm về pháp lý của ta như thế thì biết làm thế nào? Có người nghe nói hai tiếng "xử án" là đã sợ hết vía rồi. Lỗi tại ai? Đó là một vấn đề mà các toà án mới phải giải đáp. Ồ? Chỉ cần Chúa ban cho họ cái khả năng ấy? Thế rồi đến khi vào tù, hình như hắn nhớ lại vị thánh lão đức độ kia, nhớ lại Kinh thánh.
Anh Rodion Romanovich ạ, anh có biết trong bọn hắn có những kẻ quan niệm mấy chữ "đau khổ" như thế nào không" "đau khổ" đây không phải là để hy sinh cho anh, mà chỉ vì "cần phải đau khổ" thôi; thế nghĩa là phải nhận lấy đau khổ, và nếu nhận từ tay nhà chức trách, thì lại càng phải cam tâm. Dạo trước tôi có biết một tù nhân rất hiền lành suốt năm ngồi trong ngục đọc Kinh thánh bên ánh lửa lò sưởi, đọc mãi đâm ra loạn cả óc anh ạ. Thế rồi một hôm hắn bỗng dưng cạy một viên gạch ném vào viên cai ngục, tuy viên cai ngục chẳng hề xúc phạm đến hắn. Nhưng thế nầy mới lạ: hắn cố ý ném chệch đi vài tấc để đừng trúng phải viên cái ngục! Ấy, anh cũng thừa biết một tù nhân dùng khí giới đánh lại nhà chức trách thì sẽ kết liễu như thế nào: hắn "chịu đau khổ" đấy. Thế cho nên bây giờ tôi cũng nghi là Mikonka muốn "chịu đau khổ" hay một cái gì tương tự như thế. Cái đó tôi biết chắc, còn có cả bằng chứng hẳn hỏi nữa. Chỉ có điều hắn không biết là tôi biết. Sao, anh không tin là trong đám người ấy có thể có những kẻ điên rồ như thế à? Thường vẫn có luôn ấy. Bây giờ ông thánh lão lại bắt đầu có tác dụng, nhất là sau khi thắt cô lại càng nhớ. Vả chăng, hắn sẽ tự đến kể hết cho tôi nghe thôi. Anh tưởng hắn chịu đựng được à? Rồi mà xem, hắn sẽ lại phản cũng thôi. Hàng giờ một tôi đợi hắn đến cái chính những lời cũng khai trước đây. Tôi đã đem lòng yêu mến cái thằng Mikonka ấy, và tôi đang khảo sát hắn rất kỹ. Không biết ý anh thế nào nhỉ? Hê - hê… Có những điểm hắn trả lời tôi rất rành mạch, chắc hắn đã biết thêm được những tài liệu cần thiết. Hắn chuẩn bị rất khéo; nhưng có những điểm khác thì thật như sa xuống bùn, hắn không biết lấy một tí gì, không biết gì hết, mà cũng không ngờ là mình không biết nữa? Không đâu, anh Rodion Romanovich ạ, ở đây không phải Mikonka! Đây là một cái gì huyền hoặc, đen tối, một cái gì hiện đại, một trường hợp của thời đại ta, thời đại mà lòng người đã bị vẩn đục, thời đại mà người ta thường nhắc đến câu "máu làm cho người ta mát dạ", thời đại mà tiện nghi được coi như cứu cánh duy nhất của cả cuộc đời. Ở đây có những mơ ước sách vở, ở đây có một quả tim đã bị lý thuyết kích thích; ở đây có thể thấy một quyết tâm bước cái bước đầu tiên, nhưng là một loại quyết tâm đặc biệt, - người đó quyết định hành động, nhưng lại cứ như thể đâm đầu từ trên núi xuống hay gieo mình từ trên một tháp chuông, đi làm tội ác mà chân cứ như thể không phải chân mình nữa. Vào nhà thì quên đóng cửa lại, giết người, giết hai người một lúc, theo lý thuyết Giết người, nhưng rồi cũng không biết cách lấy tiền, vớ được cái gì thì lại đem giấu dưới một tảng đá. Người ấy khổ sở ghê gớm biết chừng nào khi đứng sau cánh cửa trong khi người ta đang đập cửa và giật chuông, rồi về sau, khi căn nhà đã bỏ trống, trong khi đang dở mê dở tỉnh, người ấy lại đến để nhớ lại tiếng chuông, đến vì lại thấy cần cái cảm giác lạnh buốt sau sống lưng… Thì cứ cho rằng người đó đang ốm, thế nhưng lại thế nầy nữa: giết người, nhưng lại coi mình là người lương thiện, coi khinh thiên hạ, làm ra vẻ một vị thiên thần sầu muộn. Không. Mikonka không dính dáng đến vụ nầy, anh Rodion Romanovich thân mến ạ, không phải Mikonka!
Sau tất cả những điều đã nói, nghe giống như những lời đính chính, mấy câu sau cùng nầy thật quá đột ngột. Toàn thân Raxkonikov run bắn lên như bị đâm xuyên qua người.
- Thế thì… ai… ai giết? - Chàng buột mồm hỏi, giọng ngắc ngứ. Porfiri Petrovich vụt ngả người vào lưng tửa ghế đi-văng, như thế quá kinh ngạc vì câu hỏi bất ngờ đó
- Ai giết ư? - Ông ta nhắc lại, như thể không dám tin ở tai mình nữa, - Thì anh giết chứ ai, Rodion Romanovich? Chính anh giết đấy… - Ông ta thì thào nói thêm, giọng hoàn toàn quả quyết.
Raxkonikov chồm dậy, đứng yên một vài giây rồi lại ngồi xuống, không nói một lời. Những thớ thịt trên khắp mặt chàng cứ giật lên từng đợt nhỏ lăn tăn.
- Môi lại run lên như lần trước rồi đấy, - Porfiri Petrovich lẩm bẩm, giọng nghe như có vẻ thương xót. Y im lặng một lát rồi nói tiếp: - Anh Rodion Romanovich ạ hình như anh hiểu chưa đúng ý tôi, cho nên anh mới ngạc nhiên như thế. Tôi đến đây chính là để nói cho hết và thanh toán việc nầy một cách thẳng thắn.
- Không phải tôi giết, - Raxkonikov nói khẽ, như những đứa trẻ nhỏ khi bị bắt quả tang.
- Không, chính anh giết đấy, Rodion Romanovich ạ, chính anh chứ không còn ai vào đây nữa hết, - Porfiri thì thầm, vẻ nghiêm khắc và quả quyết.
Hai người im lặng đến mươi phút, một khoảng im lặng kéo dài đến mức kỳ dị. Raxkonikov chống khuỷu tay lên bàn và lặng lẽ đưa mấy ngón tay lên vò tóc.
Porfiri diềm tĩnh ngồi yên, chờ đợi. Bỗng Raxkonikov đưa mắt khinh bỉ nhìn Porfiri.
- Ông lại giở cái lối cũ ra rồi, ông Porfiri Petrovich ạ! Lại những thủ đoạn ấy, sao mãi ông không biết chán?
- Chà thôi, bây giờ tôi còn thiết gì đến thủ đoạn. Ví thử ở đây có những nhân chứng thì lại là chuyện khác đằng nầy chỉ có anh với tôi rỉ tai cho nhau nghe. Chính anh cũng thấy đấy, tôi đến anh không phải để lùng bắt anh như lùng bắt một con thỏ. Anh có nhận hay không thì giờ phút nầy đối với tôi cũng thế thôi. Chỉ riêng một mình tôi với thâm tâm tôi, không cần đến anh, tôi cũng đã biết chắc.
- Nếu thế thì anh đến đây làm gì? - Raxkonikov bực dọc hỏi. - Tôi xin hỏi lại một câu đã cũ: nếu ông cho tôi là thủ phạm, tại sao ông không tống giam tôi đi?
- Câu hỏi đến là ngộ! Xin trả lời từng điểm một: thứ nhất, trực tiếp hạ lệnh bắt anh, tôi chẳng có lợi gì hết.
- Không có lợi! Ông đã tin chắc như thế, thì tất phải…
- Chà, tôi tin chắc thì đã sao? Tất cả những cái đó tạm thời vẫn chỉ là những ý nghĩ riêng của tôi thôi. Mà việc gì tôi lại đưa anh vào yên nghỉ trong ấy? Chính anh cũng biết thế, cho nên anh mới yêu cầu. Nói giả dụ tôi đưa anh ra đối chứng với lão tiểu thủ công kia, và anh nói với lão: "Bác say sao? Có ai trông thấy tôi đi với bác? Lúc ấy chẳng qua tôi cho bác 1à một gã say rượu, mà quả tình bác cũng say rượu thật", - Ấy nếu thế thì tôi biết nói gì với anh, hơn nữa là lời của anh có vẻ có lý hơn lời của lão ấy, vì trong những điều lão khai chỉ có mặt tâm lý mà thôi, - mặt mũi như thế mà lại đi nói chuyện tâm lý thì thật khó nghe - Còn anh thì anh đánh trúng ngay vào điểm nút: vì cái lão khốn kiếp ấy vốn rượu chè be bét, ai cũng biết. Mà bản thân tôi cũng đã mấy lần thú thật với anh rằng cái tâm lý học ấy có hai mặt, và mặt thứ hai là có phần có lý hơn, còn như ngoài cái đó ra thì tôi chưa có gì để buộc tội anh cả. Và nếu mặc dầu như vậy tôi vẫn cứ cho bắt anh và tôi đến đây (trái với thủ tục thường lệ) để báo cho anh biết trước, thì tôi vẫn xin nói thẳng với anh (cũng trái với thủ tục) rằng làm như vậy không có lợi cho tôi. Ấy đấy còn điểm thứ hai là tôi đến anh vì…
- Sao, thứ hai là… - Raxkonikov vẫn còn thở hổn hển.
- Là vì, như lúc nãy tôi đã nói, tôi tự thấy có bổn phận phân trần với anh. Tôi không muốn anh cho tôi là đồ quái vật hơn nữa là vì tôi thành thật có thiện cảm với anh, anh có tin hay không thì tuỳ. Thứ ba, là do đó, tôi đến anh để trực tiếp và thẳng thắn đề nghị với anh ra tự thú. Như vậy sẽ có lợi cho anh hơn không biết bao nhiêu mà kể, mà cũng có lợi cho tôi hơn, vì tôi sẽ trút được một gánh nặng. Sao, anh thấy tôi làm như vậy có thẳng thắn hay không?
Raxkonikov ngẫm nghĩ một lát:
- Ông Porfiri Petrovich ạ, chính ông cũng nói, chỉ có những tài liệu tâm lý học thôi, nhưng ông lại đi vào toán học. Thế nếu ngay bây giờ đây ông cũng nhầm thì sao?
- Không Rodion Romanovich ạ, tôi không nhầm. Tôi có một bằng chứng. Dạo ấy tôi đã tìm được bằng chứng đó: nhờ Trời gửi cho.
- Bằng chứng gì?
- Tôi sẽ không nói cho anh biết đâu: anh Rodion Romanovich ạ. Mà dù sao bây giờ tôi cũng không có quyền trì hoàn nữa; tôi sẽ cho bắt anh. Thế thì anh suy xét đi; bây giờ đối với tôi đằng nào cũng thế thôi, cho nên tôi nói là nói cho anh. Thật đấy, Rodion Romanovich ạ, như thế tốt hơn.
Raxkonikov cười gằn, vẻ hằn học:
- Thế thì không những buồn cười, mà lại còn trơ trẽn nữa. Ấy, cho dù tôi có là thủ phạm chăng nữa (điều nầy tôi không hề thừa nhận) thì việc gì tôi lại đến tự thú với các ông, trong khi chính ông cũng nói rằng vào đấy tôi sẽ được yên nghỉ?
- Chao ôi, anh Rodion Romanovich ạ, anh đừng hiểu sát từng chữ quá: có thể chẳng yên nghỉ chút nào đâu! Vì đây chỉ là một lý thuyết, mà lại là một lý thuyết riêng của tôi, thứ hỏi tôi thì có uy quyền gì đối với anh? Có lẽ ngay bây giờ đây tôi cũng đang giấu giếm anh một điều gì đấy. Vì chả nhẽ tôi lại cứ mang ra phô bày hết với anh, hê - hê! Vấn đề thứ hai: có lợi gì? Thế anh có biết làm như vậy anh sẽ được giảm tội như thế nào không? Nếu anh ra đầu thú đúng vào lúc nầy? Chỉ xin anh suy nghĩ một chút mà xem Đúng vào lúc một kẻ khác đã đứng ra nhận tội và làm rối tung cả lên. Còn về phần tôi, tôi xin lấy danh Chúa mà thề rằng tôi sẽ thu xếp, xoay xớ "ở đằng ấy" thế nào cho việc anh ra thú có vẻ như hoàn toàn bất ngờ. Chúng ta sẽ thủ tiêu hết cái "tâm lý học" kia đi, tôi sẽ biến tất cả những mối ngờ vực đối với anh thành con số không, thành thử tội ác của anh sẽ được xem như do một trạng thái mê muội của trí tuệ mà ra, vì thật tình mà nói, nó chính là do trạng thái mê muội mà ra đấy. Tôi là một người trung thực, Rodion Romanovich ạ, và tôi sẽ giữ lời hứa!
Raxkonikov buồn rầu lặng thinh và cúi đầu; chàng suy nghĩ hồi lâu, rồi cuối cùng lại mỉm cười, nhưng nụ cười của chàng bây giờ đã dịu dàng và buồn bã:
- Chà thôi, không cần! - Chàng thốt lên, như thể không muốn giấu giếm gì Porfiri nữa. - Không việc gì phải thế! Tôi không cần các anh giảm tội chút nào!
- Ấy chính đó là điều tôi vẫn sợ! - Porfiri nói tiếp giọng sôi nổi và như thể bất giác buột mồm. - Chính là tôi vẫn sợ anh không cần đến sự khoan nhượng của chúng tôi!
Raxkonikov buồn rầu và nghiêm nghị nhìn Porfiri.
- Đừng anh ạ, anh chớ khinh rẻ cuộc sống! - Porfiri nói tiếp - nó hãy còn dài lắm. Sao lại không cần giảm tội, sao lại không cần! Anh thật nóng nảy!
- Cái gì hãy còn dài?
- Cuộc sống! Anh là cái thứ tiên tri gì, phỏng anh biết được bao nhiêu? Anh hãy tìm, rồi anh sẽ thấy. Có lẽ Thượng đế đã đợi anh ở bước ngoặt nầy. Vả lại cũng không phải xiềng xích suốt đời kia mà…
- Sẽ giảm tội… - Raxkonikov bật cười.
- Thế sao, hay là anh bị một cảm giác xấu hổ của hạng trưởng giả giữ lại? Có lẽ anh thấy xấu hổ như thế thật mà không biết, vì anh còn trẻ lắm? Thế nhưng người như anh lẽ ra không nên sợ sệt hay xấu hổ khi ra tự thú mới phải?
- Chà - à! Tôi nhổ toẹt vào! - Raxkonikov thều thào, vẻ khinh bỉ và ghê tởm, như thể không buồn nói nữa. Chàng lại nhổm dậy như muốn đi đâu, nhưng rồi lại ngồi xuống, vẻ tuyệt vọng rõ rệt.
- Anh nhổ toẹt vào à! Anh đã mất tin tưởng và tưởng đâu tôi phỉnh phờ anh một cách thô lậu; nhưng anh đã sống được bao lâu? Phỏng anh hiểu được bao lắm? Anh nghĩ ra một học thuyết, rồi thấy nó tan vỡ anh đâm xấu hổ vì rốt cục thật chẳng độc đáo chút nào! Rốt cục chỉ thành một việc hèn hạ, quả có thế, nhưng anh vẫn chưa phải là một kẻ hèn hạ đến thế! Ít nhất, anh cũng không bới óc suy nghĩ gì lâu, anh lập tức đi đến những hành động cực đoan. Anh biết tôi coi anh là người như thế nào không? Tôi cho rằng anh là một trong những kẻ mà dù người ta có moi từng khúc ruột ra vẫn mỉm cười đứng nhìn bọn đao phủ, miễn là tìm được một niềm tin hay một thượng đế. Ấy, rồi anh sẽ tìm thấy, và anh sẽ sống. Trước hết, đã từ lâu anh cần phải thay đổi không khí. Kể ra đau khổ cũng là một điều tốt Anh hãy đau khổ đi một chút. Có lẽ Mikonka cũng có lý khi hắn muốn đi tìm đau khổ. Tôi biết anh không có đức tin, nhưng anh cũng đừng triết lý nhiều quả làm gì; anh hãy tự phó thác hẳn cho cuộc sống, không suy xét; anh đừng lo, nó sẽ đưa anh dạt vào bờ và sẽ nâng anh đứng dậy. Vào bờ nào? Sao tôi lại biết? Tôi chỉ tin rằng anh còn có thể sống được. Tôi biết rằng bây giờ anh nghe tôi nói như nghe một bài thuyết giáo đọc thuộc lòng; nhưng có thể sau nầy anh sẽ nhớ lại, và có lúc nó sẽ có ích cho anh; chính vì thế tôi mới nói. Anh chỉ giết một mụ già, như thế còn may đấy. Chứ nếu anh nghĩ ra một thuyết nào khác nữa thì có lẽ còn làm một việc quái gở gấp trăm triệu lần! Có lẽ cũng nên tạ ơn Thượng đế; anh biết thế nào được: có lẽ Thượng đế còn che chở cho anh để sau nầy anh làm một việc gì đấy. Anh phải có một tâm hồn rộng lớn và phải bớt sợ sệt đi. Phải chăng anh thấy khiếp hãi khi đứng trước việc lớn phải làm? Không, ở đây mà khiếp sợ thì xấu hổ lắm. Anh đã đi một bước như vậy thì phải vững tâm lên. Đây là vấn đề công bằng. Anh hãy làm đúng những điều mà lẽ công bằng đòi hỏi. Tôi biết rằng anh không tin, nhưng tôi cam đoan là cuộc sống sẽ chiếm phần thắng. Sau nầy rồi anh sẽ yêu mến nó. Bây giờ thì anh chỉ cần không khí, không khí, không khí!
Raxkonikov giật mình.
- Nhưng ông là ai thế hở - Chàng quát lên, - Ông là cái thứ tiên tri gì? Ông đứng trên những đỉnh cao thâm nghiêm, tĩnh mịch nào để ban bố cho tôi những lời sấm truyền như vậy?
- Tôi là ai ư? Tôi là một người bỏ đi, không hơn không kém. Có lẽ cũng là một người biết cảm xúc, biết thương xót, có lẽ cũng hiểu biết ít nhiều, nhưng vẫn là người hoàn toàn bỏ đi. Còn anh thì khác: Thượng đế đã chuẩn bị cho anh một cuộc sống (và biết đâu đấy, tất cả những chuyện đó sẽ tiêu tan như mây khói trong lòng anh, không còn để lại một chút gì). Ấy, bây giờ anh chuyển thành một loại người khác, thì đã sao? Với một tâm hồn như anh, chả nhẽ anh lại đi tiếc rẻ cuộc sống tiện nghi? Cho là anh sẽ cách biết mọi người một thời gian dài đi nữa, không ai trông thấy, thì anh có cần gì? Vấn đề không phải là thời gian, vấn đề là chính bản thân anh. Anh hãy trở thành một mặt trời, rồi mọi người sẽ trông thấy anh. Muốn làm mặt trời thì trước hết phải là mặt trời. Sao anh lại mỉm cười: chắc anh buồn cười vì thấy một người như tôi mà lại lên cái giọng Schiller chứ gì? Tôi xin đánh cuộc là anh cho rằng bây giờ tôi vẫn tìm cách phỉnh anh! Ấy, có lẽ tôi phỉnh anh thật cũng nên, hê - hê - hê? Rodion Romanovich ạ có lẽ anh đừng quá tin vào những lời tôi nói, thậm chí cũng đừng bao giờ tin lấy một chữ nào, bản chất tôi nó như thế, tôi xin thừa nhận; chỉ xin nói thêm điều nầy: tôi là người gian giảo hay là người trung thực thì có lẽ bản thân anh có thể phân định lấy.
- Bao giờ ông định bắt tôi?
- Tôi có thể để cho anh đi dạo chơi một ngày rưỡi hoặc hai ngày nữa. Anh suy nghĩ đi một chút, anh bạn ạ, anh cầu nguyện Chúa đi một chút. Như thế sẽ có lợi hơn, thật đấy, có lợi hơn.
- Thế nếu tôi trốn thì sao? - Raxkonikov hỏi, môi mỉm một nụ cười kỳ dị.
- Không, anh không trốn đâu. Một gã mu-gích có thể trốn, một gã theo một giáo phái thời thượng có thể trốn; đó là một kẻ đi nhai lại ý nghĩ của người ta, chỉ cần giơ ngón tay ra cho hắn xem, là suốt đời hắn sẽ tin bắt cứ điều gì anh muốn! Còn như anh thì anh không còn tin vào cái thuyết của mình nữa rồi, thế thì anh trốn đi với cái gì. Trốn tránh như thế thì được cái gì? Sống trốn tránh rất khó khăn và cực nhục, mà anh thì trước hết cần có cuộc sống và một vị trí nhất định, một bầu không khi của mình mà trong cuộc sống ấy thì làm sao có được một bầu không khi của anh? Anh có trốn đi rồi cũng sẽ quay trở lại thôi. Anh không thể thiếu chúng tôi được. Còn nếu tôi giam anh vào ngục thì chỉ một tháng, hai tháng, cho là ba tháng đi, anh sẽ sực nhớ đến những lời tôi nói, rồi anh sẽ tự mình ra thú nhận mà có lẽ chính anh cũng không ngờ nữa. Trước đấy một giờ anh cũng chưa biết là mình sẽ ra thú. Tôi lại còn tin chắc rằng anh sẽ nghĩ đến chuyện "chịu đau khổ"; bây giờ thì anh không tin lời tôi, nhưng rồi anh sẽ đi đến chỗ đó. Vì đau khổ là một việc lớn lao, anh Rodion Romanovich ạ; anh đừng thấy tôi béo ra vì cuộc sống sung túc mà cười, tôi biết lắm, trong đau khổ có cả một lý tưởng. Mikonka nghĩ đúng. Không, anh không trốn đấu, Rodion Romanovich ạ.
Raxkonikov đứng dậy cầm lấy mũ. Porfiri Petrovich cũng đứng dậy.
- Anh sắp đi chơi à? Tối nay trời tốt đấy, miễn là đừng có giông. Vả chẳng có giông mà lại hơn, cho nó mát trời ra. - Porfiri cũng cầm lấy mũ.
- Ông Porfiri Petrovich ạ, - Raxkonikov dằn mạnh từng tiếng, vẻ nghiêm nghị, - Ông đừng có tưởng là vừa rồi tốt đã thú nhận với ông. Ông là một người kỳ quặc, và tôi có nghe ông nói cũng chỉ vì hiếu kỳ mà thôi. Còn thì tôi chưa hề thú nhận với ông điều gì cả… Ông nhớ lấy.
- Được thì tôi xin nhớ, xem kìa: lại còn run nữa. Anh cứ yên chí, anh bạn ạ; tôi sẽ chiều theo ý anh. Anh đi dạo đi một lát; nhưng cũng không nên đi chơi nhiều quá. Tôi còn có một điều muốn yêu cầu anh, phòng khi có xảy chuyện gì bất trắc, - Ông ta hạ giọng nói thêm, - đây là một điều tế nhị, mà rất quan trọng: nếu, nhỡ may (cái nầy thì tôi cũng không tin và tôi nghĩ anh không thể làm như vậy được), nếu nhỡ ra trong khoảng bốn năm mươi tiếng đồng hồ sắp tới anh có nảy ra cái ý kết liễu vụ nầy một cách khác, một cách quái gở nào đấy, như tự sát chẳng hạn (một giả định rất vô lý, xin anh bỏ qua cho) thì xin anh để lại một mảnh giấy viết vắn tắt nhưng rõ ràng. Đấy, hai giòng chữ, chỉ hai giòng ngắn ngủi thôi, anh nên nhắc luôn cả tảng đá kia nữa: như thế cao thượng hơn. Thôi chào anh… Chúc anh có những ý tưởng tốt lành, khởi đầu may mắn!
Porfiri đi ra, người hơi lom khom và dường như tránh nhìn Raxkonikov. Raxkonikov ra cửa sổ, sốt ruột và bực bội chờ cho Porfiri có đủ thì giờ ra phố và đi được một quãng xa xa. Đoạn chàng cũng hấp tấp ra khỏi phòng.
Chú thích:
(1) Vô hiệu (tiếng Đức)
(2) Xtarext một bô lão được xem là bậc thánh hiền
Chương 32
Chàng vội vã đến nhà Xvidrigailov. Chàng có thể hy vọng những gì ở con người nầy thì chính chàng cũng không biết. Nhưng trong con người ấy dường như ẩn náu một quyền lực nào đấy đối với chàng. Một khi đã nhận thức được điều đó, chàng không sao yên tâm được nữa, và hơn nữa bây giờ lại đã đến lúc cần phải gặp hắn.
Dọc đường, có một vấn đề khiến chàng băn khoăn khổ sở: Xvidrigailov đã gặp Porfiri chưa?
Cứ theo những điều chàng biết được thì chưa, chàng sẵn sàng thề như thế? Chàng suy nghĩ thêm, suy nghĩ nữa, ôn lại suốt buổi nói chuyện vừa rồi với Porfiri, và kết luận: không, hắn chưa gặp, chắc chắn là chưa! Nhưng nếu chưa gặp, thì liệu sau nầy hắn có đến tìm Porfiri hay không?
Hiện nay thì chàng có cảm tưởng là hắn sẽ không đến. Tại sao? Chàng cũng không thể cắt nghĩa được điều đó nhưng dù chàng có đủ sức cắt nghĩa đi nữa, thì bây giờ chàng cũng chẳng hơi đâu mà bới óc nghĩ cho ra. Tất nhiên những vấn đề đó giầy vò chàng rất dữ, nhưng đồng thời chàng dường như lại không thèm nghĩ đến. Thật lạ lùng, và có lẽ chẳng có ai tin như vậy, nhưng kỳ thật lúc bấy giờ chàng dường như dửng dưng, không lo nghĩ gì mấy đến cái số phận hiện đang chờ chàng. Chàng đang khổ tâm lo nghĩ đến cái gì khác quan trọng hơn nhiều, một cái gì phi thường, có liên quan đến bản thân chàng chứ không phải ai khác, một cái gì trọng yếu. Thêm vào đấy chàng lại thấy tinh thần mệt mỏi vô cùng, tuy sáng nay trí óc của chàng làm việc khá hơn mấy ngày trước.
Nhưng bây giờ đây, sau tất cả những sự việc đã xảy ra, liệu có cần phải hoài công cố gắng vượt qua những khó khăn tẹp nhẹp nầy nữa không? Chẳng hạn có cần phải mưu mẹo làm sao cho Xvidrigailov đừng đến gặp Porfiri không? Ai lại đi nghiên cứu, tìm hiểu tình hình, mất thì giờ vì một thằng cha Xvidrigailov nào đó? Ồ, chàng đã chán ngấy những chuyện ấy rồi!
Thế nhưng chàng vẫn vội vàng đến nhà Xvidrigailov; phải chăng chàng đang mong đợi ở lão ta một cái gì mới, những lời chỉ bảo, một lối thoát nào đó? Người ta vẫn sẵn sàng bám lấy một cọng rơm mà? Chẳng phải định mệnh, chẳng phải bản năng đã làm cho chàng với lão ta gần nhau đó sau? Có lẽ chỉ vì mệt mỏi, tuyệt vọng; có lẽ cần có một người nào khác kia, chứ không phải Xvidrigailov, chẳng qua vì tình cờ mà gặp phải Xvidrigailov thôi. Sonya? Ờ, tại sao bây giờ chàng lại đến nhà Sonya nhỉ? Lại đến xin mấy giọt nước mắt của nàng à? Vả lại chàng cũng thấy sợ Sonya lắm. Sonya chính là một lời tuyên án quyết liệt, một quyết định không thể nào thay đổi được. Ở đây chỉ có cách chọn lấy con đường của Sonya hay con đường của chàng. Nhất là trong giờ phút nầy chàng không đủ sức gặp nàng được. Không, có lẽ đến thử thách Xvidrigailov mà lại hơn; xem thử hắn là cái gì? Và trong thâm tâm chàng không thể không thú nhận rằng từ lâu chàng dường như đã bắt đầu cần đến hắn.
Ấy thế nhưng giữa chàng với Xvidrigailov phỏng có gì giống nhau? Ngay cả tội lỗi của hai người cũng không thể giống nhau được. Hơn nữa con người ấy lại rất khả ố, rõ ràng là truỵ lạc dâm ô đến cùng cực, chắc chắn là xảo quyệt, dối trá, và có lẽ rất độc ác. Cứ nghe những chuyện người ta kể về hắn cũng đủ biết. Quả tình hắn có lo cho con cái bà Katerina Ivanovna thật; nhưng có ai biết hắn làm như vậy để làm gì và việc đó có ý nghĩa gì? Con người ấy lúc nào cũng âm mưu, trù tính đủ chuyện.
Trong suốt mấy ngày hôm ấy còn có một ý nghĩ luôn luôn ám ảnh Raxkonikov khiến chàng đứng ngồi không yên, tuy chàng cũng đã cố xua đuổi nó đi vì nó làm cho chàng khổ tâm quá. Đôi khi chàng nghĩ: mấy hôm trước Xvidrigailov cứ luẩn quẩn quanh chàng, mà bây giờ hắn cũng còn đang luẩn quẩn như thế; Xvidrigailov đã biết được điều bí mật của chàng; Xvidrigailov đã từng có những âm mưu nhằm hại Dunia. Thế nếu bây giờ hắn vẫn có thì sao? Hầu như chắc chắn có thể nói là có. Bây giờ hắn đã nắm được điều bí mật của chàng và như thế là đã có được một quyền lực đối với chàng: thế nếu hắn muốn dùng cái quyền lực đó làm một vũ khí để hại Dunia thì sao?
Ý nghĩ ấy thỉnh thoảng, ngay trong giấc ngủ, lại đến giầy vò chàng, nhưng bây giờ là lần đầu tiên nó hiện lên trong ý thức một cách rõ rệt như vậy, trong khi chàng đi đến nhà Xvidrigailov. Chỉ riêng một ý nghĩ ấy thôi cũng đã đủ làm cho chàng hầm hầm tức giận. Trước hết là nếu vậy thì mọi việc sẽ thay đổi, ngay cả tình cảnh của chàng cũng thế, cần phải lập tức cho Dunia biết điều bí mật đó. Có lẽ nên đi tự thú, để cho Dunia khỏi làm một việc gì bất cẩn. Lại còn bức thư nữa? Sáng hôm nay Dunia vừa nhận được một bức thư gì đấy ở Petersbung liệu có ai có thể gửi thư cho nàng? Lugin chăng? Quả tình đằng ấy đã có Razumikhin canh giữ; nhưng Razunmikhin chăng? Nghĩ đến đấy Raxkonikov bỗng thấy kinh tởm.
Dù sao cũng cần gặp Xvidrigailov càng sớm càng tốt chàng quyết định dứt khoát như vậy. May quá, ở đây chi tiết không cần thiết bằng thực chất của vấn đề; nhưng nếu hắn có thể… hễ Xvidrigailov âm mưu một việc gì nhằm hại Dunia, thì… suốt thời gian ấy, suốt tháng vừa qua, Raxkonikov đã mệt mỏi đến nỗi bây giờ chàng không còn đủ sức giải quyết những vấn đề chi tiết bằng cách nào khác hơn là đưa ra một quyết định độc nhất: "nếu thế ta sẽ giết hắn", - Chàng lãnh đạm nghĩ thầm trong cơn tuyệt vọng. Một cảm giác nặng nề trĩu lên tim chàng; chàng dừng chân ở chính giữa phố và đưa mắt nhìn quanh: chàng đang đi theo đường nào và đây là nơi nào? Chàng đang đứng trên đại lộ X. cách Chợ hàng Rơm mà chàng vừa đi qua khoảng ba bốn chục bước. Tất cả tầng thứ hai của ngồi nhà bên trái đều dành cho một tiệm rượu.
Bao nhiêu cửa sổ đều mở toang; cứ trông những bóng người thấp thoáng sau các khung cửa cũng biết là tiệm rượu đang chật ních những khách. Từ trong tiệm đưa ra những tiếng hát chen lẫn với tiếng kèn cra-ri-nét và tiếng vĩ cầm lanh lảnh, tiếng trống Thổ thì thùm.
Có thể nghe cả những giọng đàn bà rú the thé. Chàng ngỡ ngàng không hiểu sao mình lại rẽ vào phố nầy, và đã toan quay trở lại, thì bỗng trong một khung cửa sổ mở toang ở cuối tiệm rượu chàng chợt trông thấy Xvidrigailov ngồi bên một chiếc bàn trà, ngay sát cửa sổ mồm ngậm tẩu thuốc. Điều đó khiến Raxkonikov kinh ngạc đến nỗi phát hoảng lên.
Xvidrigailov lặng lẽ quan sát và theo dõi chàng, và có một điều lập tức đập mạnh vào mắt Raxkonikov, là lão ta hình như đang muốn đứng dậy để lẻn đi nơi khác, cố sao cho chàng khỏi trông thấy. Raxkonikov lập tức làm ra vẻ như mình cũng không trông thấy Xvidrigailov và đang mải nhìn sang hướng khác, nhưng vẫn không ngừng quan sát Xvidrigailov bằng khóe mắt.
Tim chàng đập rối loạn. Đúng thế thật: Xvidrigailov rõ ràng là không muốn cho người ta trông thấy mình. Hắn rút tẩu ra khỏi mồm, và đã toan lẩn đi; nhưng khi đứng dậy và đẩy ghế ra, hình như hắn bỗng nhán thấy Raxkonikov có trông thấy hắn và đang theo dõi hắn. Giữa hai người diễn ra một cái gì giống như trong buổi gặp gỡ đầu tiên ở nhà Raxkonikov, khi chàng đang ngủ. Một nụ cười tinh quái hiện lên trên gương mặt Xvidrigailov và mỗi lúc một nhoẻn rộng ra.
Raxkonikov cũng như Xvidrigailov đều biết rằng hai người đã trông thấy nhau và đang quan sát nhau. Cuối cùng, Xvidrigailov lớn tiếng cười ha hả.
- Nào, nào. Mời cậu vào đây cho vui; tôi đây! - hắn đứng bên cửa sổ quát xuống.
Raxkonikov leo lên gác tiệm.
Chàng tìm thấy Xvidrigailov trong một căn phòng sau rất nhỏ chỉ có một cửa sổ, ăn thông với gian phòng lớn có bày hai chục cái bàn con, nơi những người lái buôn, công chức và cả một lũ người ô hợp ngồi uống trà trong tiếng hát của một tốp ca đang đồng thanh rống thục mạng. Cũng từ phòng ấy vẳng ra tiếng lạch cạch của những hòn bi-a chạm vào nhau trên các bàn bi-a. Trên chiếc bàn con ở trước mặt Xvidrigailov có đặt một chai sâm-banh đã uống dở và một cái cốc lưng.
Trong phòng còn có một thằng bé hát rong đeo một chiếc phong cầm quay nhỏ và một cô gái khỏe mạnh, tuổi trạc mười tám, má đỏ, mặc chiếc váy sọc xắn gấu lên, đầu đội chiếc mũ ty-rôn có đính dai lụa. Bất chấp tiếng đồng ca từ phòng bên đưa sang, cô ta vẫn hát, cất cái giọng nữ trầm hơi rè hát một bài ca của hạng bồi bếp theo tiếng đệm của chiếc phong cầm quay:
- Thôi ủy rồi! - Xvidrigailov cắt ngang khi thấy Raxkonikov vào.
Người con gái ngừng bặt và lm lặng kính cẩn chờ đợi. Vừa rồi cô ta hát cái bài thô tục ấy cũng với một vẻ mặt nghiêm trang và cũng kính như vậy.
- Ê, Philip, lấy cốc! - Xvidrigailov quát.
- Tôi không uống rượu đâu. - Raxkonikov nói.
- Tùy cậu, tôi gọi lấy cốc không phải để mời cậu.
- Uống đi Katia! Hôm nay chỉ thế thôi, không cần làm gì nữa đâu, đi đi! - hắn rót cho cô gái một cốc rượu đầy và đưa ra một tờ giấy bạc nhỏ màu vàng. Katia uống cốc rượu một hơi như đàn bà thường uống, nghĩa là môi không rời cốc, uống thành hai mươi ngụm, cầm lấy tờ giấy bạc, hôn bàn tay của Xvidrigailov giơ ra cho cô ta một cách khá trang trọng, và bước ra khỏi phòng. Thằng bé đeo phong cầm quay cũng lê gót ra theo. Cả hai đều được gọi ở ngoài phố vào. Xvidrigailov sống ở Petersbung chưa được một tuần lễ, thế mà xung quanh hắn như đã hình thành một không khí gia tộc, trong đó hắn là gia trưởng, Philip, anh hầu bàn trong quán rượu cũng đã là "người quen thân" và cứ xun xuê quanh hắn. Cánh cửa dẫn sang phòng bên đã đóng lại; trong căn phòng nầy, Xvidrigailov Raxkonikov cứ như ở nhà mình, và có lẽ hắn vẫn thường ngồi ở đây hết ngày nầy sang ngày khác. Tiệm rượu nầy vốn bẩn thỉu, uế tạp và thậm chí không phải thuộc hạng trung bình.
- Tôi đang định lại đằng nhà tìm ông, - Raxkonikov mở đầu, - nhưng không hiểu tại sao vừa rồi, đi qua Chợ hàng Rơm tôi bỗng rẽ vào phố nầy! Tôi chưa bao giờ đi vào phố nầy, thường thì đi qua chợ Hàng Rơm, tôi lẽ sang phải kia. Vả lại đến nhà ông không thể đi lối nầy. Thế mà tôi vừa rẽ vào đây đã gặp ngay. Lạ thật!
- Sao cậu không nói thẳng ra là: thần kỳ?
- Vì có lẽ đây chỉ là sự tình cờ.
- Đầu óc những ngưởì đây đến là ngộ nghĩnh - Xvidrigailov cười xoà. - dù trong bụng có tin là có phép thần kỳ, thì bề ngoài cũng không chịu nhận! Ấy chính cậu cùng nói "có lẽ" chỉ là sự tình cờ. Còn như ở đây họ sợ có một y kiến riêng đến mức nào thì cậu không tưởng tượng được đâu, Rodion Romanovich ạ! Đay tôi không nói cậu. Cậu thì cậu có ý kiến riêng và không hề sợ mình có ý kiến riêng. Chính vì thế mà cậu thu hút trí tò mò của tôi.
- Chỉ vì thế thôi à?
- Mà chỉ thế thôi cùng đủ.
Xvidrigailov rõ ràng đang ở trong một tâm trạng phấn khích, nhưng chỉ chút đỉnh thôi; hắn chỉ mới uống có nữa cốc rượu.
- Tôi thấy hinh như ông đến gặp tôi trước khi ông biết là tôi có thể có được cái mà ông gọi là ý kiến riêng đó thì phải? - Raxkonikov nói.
- À dạo ấy thì khác. Môi người có một đường đi nước bước riêng. Còn về phép thần thông thì xin nói với cậu rằng hai ba ngày gần đây hình như cậu mê ngủ thì phải? Chính tôi chỉ cho cậu cái tiệm nầy, và cậu đến đây không hề có gì là thần kỳ hết; chính tôi chỉ vẽ cho cậu từ đầu chí cuối muốn đến đây phải đi qua những lối nào, mô tả cả chỗ dọn quán rượu, lại lẫn cả những giờ có thể gặp tôi ở đây. Cậu nhớ chứ?
- Tôi quên rồi, - Raxkonikov đáp rất ngạc nhiên.
- Tôi tin là cậu quên thật. Tôi đã nói với cậu đến hai lần. Địa chỉ tiệm nầy đã in vào ký ức của cậu một cách máy móc. Cậu đã rẽ vào đây như một cái máy, thế nhưng vẫn đúng phoóc địa chỉ, tuy chính cậu cũng không biết. Còn tôi thì khi dặn dò cậu tôi cũng không hy vọng là cậu hiểu. Cậu ít sức tự chủ lắm, Rodion Romanovich ạ. Có cái nầy nữa: tôi tin chắc rằng ở Petersbung có lắm kẻ vừa đi vừa nói chuyện một mình. Đây là một thành phố của những người dở điên dở dại. Ví thứ ở nước ta cớ một nền khoa học, thì các nhà y học, luật học và triết học có thể tiến hành những cuộc nghiên cứu rất quý giá về Petersburg, mỗi ngành khảo sát một mặt. Hiếm có nơi nào có những anh hưởng đen tối, sắc cạnh, kỳ dị đối với tâm hồn con người như Petersburg. Chỉ riêng những ảnh hưởng khí hậu thôi cũng đã lắm chuyện rồi! Đồng thời đây lại là trung tâm hành chính của cả nước Nga, cho nên tính chất của nó tất phải được phản ánh ở khắp nơi Nhưng vấn đề bây giờ không phải ở chỗ đó, mà là ở chỗ tôi đã mấy lần đứng ở bên ngoài quan sát cậu. Mới ra khỏi nhà, cậu hãy còn ngẩng thẳng đầu lên. Đi được vài chục bước cậu đã cúi đầu xuống, hai tay chắp sau lưng. Cậu nhìn thì nhìn, nhưng rõ ràng là chẳng trông thấy gì ở trước mặt hay ở hai bên. Cuối cùng môi cậu bắt đầu lắp bắp nói một mình, thỉnh thoảng cậu lại gỡ tay ra, vừa nói vừa hoa lên rồi cuối cùng cậu dừng lại ở chính giữa đường một hồi lâu. Như vậy không tốt tí nào. Có lẽ ngoài tôi ra còn có người khác để ý như thế, và như vậy chẳng có lợi chút nào. Đôi với tôi thì thật ra cũng chẳng có nghĩa lý gì, tôi không chữa cho cậu khỏi được đâu, nhưng tất nhiên cậu cũng hiểu tôi đấy.
- Thế ông biết người ta đang theo dõi tôi à? - Raxkonikov hỏi, mắt nhìn hắn soi mói.
Không, tôi có biết gì đâu, - Xvidrigailov đáp, vẻ như ngạc nhiên.
- Thế thì thôi, cứ để mặc tôi, - Raxkonikov cau mày lẩm bẩm.
- Thì thôi, cứ để mặc cậu vậy.
- Tốt hơn là ông hãy nói cho tôi biết tại sao ông thường đến đây uống rượu và đã hai lần chỉ vẽ cho tôi đến đây gặp ông, mà đến khi tôi đứng ngoài phố nhìn vào cửa sổ thì ông lại muốn lẩn trốn đi? Tôi để ý thấy rất rõ như vậy.
- Hê! Hê! Thế tại sao khi tôi đứng ở ngưỡng cửa phòng cậu, cậu lại nhắm mắt nằm trên ghế sofa và giả vờ ngủ, trong khi cậu chẳng ngủ một tí nào? Tôi để ý thấy rất rõ như vậy.
- Lúc ấy tôi có thể có những… lý do… chính ông cũng biết đấy.
- Thì tôi cũng thế, tôi cũng có thể có những lý do riêng, mặc dầu cậu không thể biết được.
Raxkonikov chống khuỷu tay phải lên bàn, tựa cằm lên năm ngón tay phải và chăm chú nhìn Xvidrigailov. Suốt một phút đồng hồ chàng quan sát khuôn mặt hắn, khuôn mặt trước đây vẫn đập mạnh vào mắt chàng. Đó là một khuôn mặt kỳ dị, trông giống như cái mặt nạ: da trắng hồng, môi đỏ chót, bộ râu cằm màu vàng nhạt, bộ tóc vàng hãy còn khá rậm. Đôi mắt không hiểu sao trông quá xanh. Và cái nhìn dường như quá nặng nề và bất động. Có một cái gì khó chịu lạ lùng trong khuôn mặt tuấn tú vẻ trông trẻ hơn tuổi nhiều ấy. Xvidrigailov ăn mặc bảnh bao, đặc biệt trau chuốt các thứ đồ lót dưới bộ y phục mỏng mùa hè. Ngón tay hắn đeo một chiếc nhẫn to tướng giắt một viên ngọc đắt tiền.
- Chả nhẽ tôi lại còn phải rầy rà vì ông nữa hay sao, - Raxkonikov bỗng nói, sốt ruột hối hả đi thẳng vào đề - Mặc dầu ông có thể là một người hết sức nguy hiểm, nếu ông muốn hại ai, nhưng tôi không muốn cứ thắc mắc mãi thế nầy nữa. Tôi sẽ cho ông thấy ngay rằng tôi không quý cái thân mình cho lắm như ông có thể tưởng. Ông nên biết rằng tôi đến đây để nói thẳng cho ông rõ là nếu ông vẫn giữ ý định trước đây đối với em gái tôi và nếu ông định lợi dụng những điều đã phát hiện được gần đây, thì tôi sẽ giết ông, trước khi ông có đủ thì giờ cho tôi vào ngục. Tôi đã nói là làm, ông cũng biết tôi có thể giữ được lời hứa đó. Thứ hai là nếu ông muốn nói với tôi điều gì, - vì suốt thời gian gần đây tôi cứ có cảm tưởng như ông muốn nói điều gì với tôi - thì ông hãy nói ngay đi, vì thì giờ rất quý và có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ muộn mất.
- Nhưng cậu đi đâu mà vội thế! - Xvidrigailov hỏi, mắt tò mò nhìn chàng.
- Mỗi người có một đường đi nước bước riêng, - Raxkonikov sốt ruột nói, vẻ mặt hầm hầm.
- Vừa rồi chính cậu yêu cầu nói chuyện thẳng thắn, thế mà tôi mới hỏi một câu cậu đã không chịu trả lời. Xvidrigailov mỉm cười nhận xét - Cậu lúc nào cũng có cảm tưởng là tôi có những mục đich gì đấy, cho nên cậu cứ nhìn tôi với đôi mắt ngờ vực. Thôi được, ở vào đia vị cậu thì cái đó cùng rất dễ hiểu. Nhưng mặc dầu tôi hết sức muốn kết thân với cậu, tôi cùng chẳng hơi đâu mà đi cải chính điều cậu vẫn ngờ cho tôi. Thật tình cùng chẳng cần, mà tôi cũng không hề có ý định nói với cậu một cái gì đặc biệt cho làm cả.
- Thế tại sao dạo nọ ông lại cần đến tôi như vậy? Dạo ấy ông vẫn xun xoe quanh tôi kia mà?
- Thì chẳng qua cũng vì muốn quan sát một nhân vật thú vị. Cái tình cảnh quái đản của cậu làm tôi thú quá - thế đấy? Hơn nữa cậu lại là anh ruột một người mà tôi rất quan tâm, và cuối cùng là trước kia tôi luôn được nghe người ta nói về cậu rất nhiều chuyện, do đó tôi kết luận rằng cậu rất có ảnh hưởng đối với người đó; thế chưa đủ hay sao? Hê - hê - hế! Tuy nhiên cũng xin thú nhận rằng câu hỏi của cậu cũng rất phức tạp đối với tôi, và tôi thấy khó trả lời cho cậu rõ. Ấy đấy, chẳng hạn thế nầy nhé, cậu đến gặp tôi bây giờ không hắn là vì công việc, mà là vì một cái gì mới xảy ra, phải không nào? Phải không nào? - Xvidrigailov hỏi dồn, môi mỉm một nụ cười ranh mãnh, - Ấy, đã thế thì cậu hãy tưởng tượng rằng chính tôi khi ngồi xe hoả lên đây tôi cũng đã trông mong ở cậu, hy vọng rằng cậu cùng sẽ nói một cái gì mơi mới, và tôi sẽ vay mượn được của cậu một cái gì! Ấy, những kẻ giàu có như chúng ta là thế đấy!
- Vay mượn cái gì?
- Biết nói thế nào đây? Nào tôi cũng có biết là muốn gì? Cậu thấy đấy, tôi cứ ngồi suốt ngày trong cái tiệm rượu khô nầy, và tôi lấy thế làm thú, cũng chẳng phải thú lắm đâu, nhưng dù sao cũng cần có một chỗ nào mà ngồi. Đấy cứ lấy cái con bé Katia khốn khổ kia cậu trông thấy rồi chứ? Ấy, giá tôi là một tay "dĩ thực vi tiên", một tay sành ăn ở câu lạc bó cho cam… đằng nầy tôi có thể ăn những thứ như thế kia kìa! - Lão giơ ngón tay chỉ một cái bàn con ở góc phòng, trên có một, cái đĩa sắt tây đựng một miếng bíp-tết khoai rán ăn dở, nom rất tởm - À tiện thế… cậu đã xơi bữa chiều chưa? Tôi chỉ ăn có một miếng, giờ không muốn ăn nữa. Như rượu chẳng hạn, thì tôi không uống. Ngoài sâm-banh ra tôi chẳng uống gì hết, mà ngay cả sâm-banh nữa suốt buổi tối tôi chỉ uống có một cốc, thế cũng đã nhức đầu rồi. Bây giờ sở dĩ tôi bảo dọn rượu là để lấy sức vì tôi sắp đến một nơi nầy. Cho nên cậu thấy tâm trạng tôi lúc nầy khá đặc biệt. Lúc nãy tôi lẩn trốn như một thằng học sinh là vì tôi sợ cậu làm phiền tôi; nhưng hình như (lão rút đồng hồ ra xem) tôi có thể ngồi với cậu đến một giờ nữa; bây giờ mới bốn rưỡi. Cậu có tin được không? Giá tôi được làm một cái gì: làm trang chủ, làm bố, làm kỵ binh, làm thợ ảnh, làm nhà báo gì cũng được… Nhưng tôi chả làm gì, chẳng có lấy một nghề chuyên môn gì! Đôi khi cũng chán. Quả tình tôi cứ nghĩ rằng cậu sẽ nói với tôi một điều gì mới.
- Nhưng ông là ai và tại sao lại đến đây làm gì?
- Tôi là ai ư? Cậu cũng biết đấy: là một người quý phái, đã tòng ngũ hai năm trong một đơn vị kỵ binh, tôi sống lang thang ở Petersburg, rồi lấy bà Marfa Petrovna và về ở thôn quê. Đấy, tiểu sử của tôi là như thế đấy!
- Hình như ông hay đánh bạc?
- Không, đánh bạc gì tôi ấy! Làm nghề cờ ạc bịp không phải là đánh bạc.
- Thế ông đã từng là một tay cờ bạc bịp?
- Vâng, cờ bạc bịp.
- Thế sao, có bị đánh không?
- Cũng đôi khi. Thế thì sao?
- Ấy thế tức là ông cũng có thể thách đấu súng… mà nói chung như thế cũng đỡ té.
- Tôi xin miễn bác lại, vả chăng tôi cũng không phải là tay giỏi triết lý. Xin thú thật tôi lên đây là vì đàn bà nhiều hơn.
- Ông vừa mới chôn cất xong bà Marfa Petrovna?
- Chính thế, - Xvidrigailov mỉm cười hả hê, trâng tráo. - Thế cậu nghĩ sao? Hình như cậu cho rằng tôi nói về đàn bà như vậy có gì xấu thì phải?
- Nghĩa là ông muốn hỏi, theo tôi thì dâm ô có phải là xấu không chứ gì?
- Dâm ô? Ra cậu muốn đi đến đấy! Tuy vậy tôi cũng xin trả lời tuần tự về đàn bà nói chung; cậu ạ, tôi đang đã muốn nói chuyện phiếm. Cậu thử nghĩ xem, như tôi thì còn kiêng nhịn để làm gì? Tại sao lại phải xa đàn bà, một khi tôi rất thích món ấy ít nhất đó cũng là một công việc.
- Thế ra ông lên đây chỉ để mà dâm ô?
- Thôi cũng được, thì dâm ô cũng được. Cứ cho là dâm ô? Ít nhất đó cũng là một câu hỏi thẳng thắn, tôi thích thế. Trong cái dâm ô ấy ít nhất cùng có một cái gì trường tồn, hơn nữa còn có cơ sở tự nhiên và không bị trí tưởng tượng huyễn hoặc chi phối, đó là một cái gì như một hòn than đỏ ở trong máu luôn luôn thiêu đốt người ta, và không dễ gì mà tưới cho tắt đi được nếu chưa đến một tuổi nào đó. Cậu cũng nên thừa nhận rằng đó cũng là một thứ công việc chứ?
- Có gì đáng cho ông mừng đâu? Đó là một căn bệnh, và là một căn bệnh nguy hiểm.
- À ra cậu muốn đi đến đấy? Thì cứ cho đó là một căn bệnh, cũng như tất cả những gì quá mức - mà ở ấy thì nhất thiết phải vượt qua mức bình thường - nhưng trước hết là ở mỗi người nó một khác, và thứ đến là dĩ nhiên cái gì cũng phải có chừng mực, đó là một lối tính toán khá ti tiện, nhưng biết làm thế nào? Nếu không thế thì có lẽ đến phải bắn vào đầu mà tự sát. Tôi xin thừa nhận rằng một người tử tế nhất định phải chán, nhưng dù sao…
Thế liệu ông có thể tự sát được không?
- Đấy đấy… - Xvidrigailov đáp, có ý khó chịu, - Xin cậu làm ơn đừng nói đến chuyện ấy - hắn vội vã nói thêm và thậm chí cái giọng huênh hoang rõ rệt trong tất cả những câu nói trước đây của hắn cũng không còn nữa, ngay cả gương mặt của hắn cũng dường như biến sắc đi. - Tôi xin thú thật là tôi yếu hèn một cách không thể tha thứ được, nhưng biết làm hế nào: tôi vốn sợ chết và không thích ai nói đến cái chết. Cậu có biết không, tôi là một người ít nhiều có theo thần bí giáo đấy.
- A! Vong hồn bà Marfa Petrovna hiển hiện! Sao bà vẫn đến đây chứ?
- Thôi cậu đừng nhắc đến chuyện ấy nữa! Ở Petersburg chưa có lần nào thấy hiện lên, thôi mặc xác bà ấy - hắn quát lên, vẻ như bực bội. - Thôi, tốt hơn là ta hẵng để chuyện ấy… phải, vả chăng… Hừm, chà, ít thì giờ quá, tôi không ngồi lâu với cậu, tiếc thật! Có một chuyện đáng nói lắm.
- Chuyện gì thế? Chuyện đàn bà chắc?
- Phải, một người đàn bà, một chuyện tình cơ, không, tôi không định nói chuyện ấy.
- Thế cái hoàn cảnh xấu xa ấy không có tác dụng gì đối với ông nữa à? Ông không còn sức lực để mà dừng lại nữa à?
- Thế còn cậu. Cậu lại dám cho mình có sức lực ư? Hê hê hê! Tôi cũng lấy làm lạ cho cậu đấy, Rodion Romanovich ạ, tuy tôi cũng biết trước là sẽ như thế. Chính cậu lại đi nói với tôi về chuyện dâm ô, về mỹ học. Cậu là một Schillef, cậu là người sống vì lý tưởng! Dĩ nhiên phải như thế, nếu khác đi thì mới đáng lấy làm lạ, nhưng dù sao trên thực tế cũng có chỗ là lạ. Chà, thật tiếc là ít thì giờ quá, vì cậu quả là một nhân vật thú vị! À nhân thể xin hỏi: Cậu có thích Schillef không? Tôi thì tôi thích lắm lắm!
- Nhưng ông quả là một tay chúa huyênh hoang! - Raxkonikov nói, như có chiều ghê tởm.
- Ấy, có trời chứng giám, không phải đâu cậu ạ! Xvidrigailov vừa cười ha hả vừa đáp - Tuy vậy tôi cũng không cãi làm gì, cứ cho là tôi huyênh hoang đi, nhưng việc gì lại không huênh hoang, nếu làm như vậy chẳng xúc phạm đến ai cả? Tôi đã sống bảy năm ở thôn quê trong nhà bà Marfa Petrovna, cho nên bây giờ gặp được một người thông minh như cậu, một người thông minh mà lại hết sức thú vị, tôi rất mừng được tán chuyện gẫu, vâng, hơn nữa tôi lại uống hết một nửa cốc rượu nầy và đã thấy bốc lên đầu chút đỉnh. Nhưng cái chính là có một điều làm cho tôi rất phấn chấn, thế nhưng điều đó thì tôi sẽ… không nói đến. Cậu đi đâu thế? - Xvidrigailov bỗng hỏi, vẻ hoảng hốt.
Raxkonikov rời ghế đứng dậy. Chàng chợt thấy khó chịu và ngạt thở, lại thêm một cảm giác như ngượng ngùng vì đã đến đây. Chàng đã đi đến chỗ tin chắc rằng Xvidrigailov là tên bợm rỗng tuếch và vô nghĩa lý nhất trên đời.
- Kìa! Cậu ngồi lại tí nữa chứ, - Xvidrigailov năn nỉ, - Cậu gọi cái gì chứ, ít nhất cũng uống tí trà. Kìa cậu ngồi đi tôi sẽ không tán nhảm nữa đâu, nghĩa là tôi không nói chuyện tôi nữa đâu. Tôi sẽ kể cho cậu nghe một chuyện. Ấy, nếu cậu thích tôi sẽ kể cậu nghe chuyện một người đàn bà đã "cứu vớt" tôi (theo như cách nói của cậu). Đó cũng là có thể xem là câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất của cậu, vì người đó chính là em cậu. Tôi kể được chứ? Vả lại ta sẽ giết được thì giờ.
- Ông kể đi: nhưng tôi mong rằng ông…
- Ồ xin cậu đừng lo, hơn nữa đối với Avdotia Romanovna thì dù một người xấu xa và rỗng tuếch như tôi cũng chỉ có thể có một lòng tôn kính sâu sắc mà thôi.
Chương 33
Có lẽ cậu cũng biết (vả lại bản thân tôi cũng đã có lần kể cho cậu nghe) rằng tôi đã từng ngồi tù ở đây vì công nợ. Nợ thì vô khối, mà tôi thì chẳng có triển vọng gì tìm được phương kế trả nợ. Không cần gì phải kể tỉ mi hồi ấy Marfa Petrovna đã chuộc tôi ra như thế nào; cậu có biết đôi khi đàn bà họ có thể yêu đến mức mê muội đi như thế nào không? Đó là một người đàn bà đoan chính, khá thông minh (tuy hoàn toàn vô học). Cậu thử tưởng tượng một người đàn bà đoan chính và hay ghen nhất đời như thế mà, sau những cơn phẫn nộ điên cuồng và những lời xỉ vả khủng khiếp, lại cam tâm hạ mình xuống ký kết với tôi một thứ giao kèo và lại thực hiện đúng cái giao kèo ấy trong suốt thời gian chúng tôi lấy nhau. Số là bà ta hơn tuổi tôi khá nhiều, hơn nữa không hiểu sao trong mồm lúc nào cũng nhai một thứ hạt cái gì đấy. Tôi đã có đủ trơ tráo và cũng có đủ một thứ cương trực đặc biệt để nói thẳng với bà ta rằng tôi không thể nào hoàn toàn chung thuỷ với bà ta được. Lời thú nhận đó làm cho bà ta điên cuồng lên, nhưng hình như sự thật thà thô lỗ của tôi cũng có chỗ làm cho bà ta hài lòng; bà ta tự nhủ: "Đã nói trước ra như vậy, tức là không có ý lừa dối mình". Ấy, đối với một người đàn bà hay ghen thì đó là điều quan trọng nhất. Sau nhiều phen khóc lóc khôn nguôi, chúng tôi đã ấn định được một thứ giao kèo mồm như sau: khoản thứ nhất, tôi sẽ không bao giờ bỏ bà Marfa Petrovna và trọn đời sẽ là chồng bà ta; khoảng thứ hai là tôi sẽ không đi đâu hết nếu không được phép của bà ta; khoản thứ ba là tôi sẽ không bao giờ bắt nhân tình lâu dài, khoản thứ tư, đẻ bù vào khoản trước, bà Marfa Petrovna cho phép tôi thỉnh thoảng gian díu với bọn đày gái, nhưng nhất thiết phải được bà ta bí mật chuẩn y, thứ năm là tôi không được yêu một người dàn bà thượng lưu nào; thứ sáu là nếu vạn nhất tôi có nhỡ phải lòng ai một cách say mê đắm đuối thật sự (xin Chúa phù hộ cho tôi tránh được tai ương nầy) thì tôi phải thổ lộ với bà Marfa Petrovna. Về điều khoản cuối cùng nầy thì từ bấy về sau bà Marfa Petrovna khá yên tâm; đó là một người đàn bà thông minh cho nên cũng biết thừa tôi là một gã dâm đãng chỉ thích ve gái, không thể có một tình yêu thật sự được. Nhưng một người đàn bà thông minh và một người đàn bà hay ghen là hai chuyện khác nhau: thế mới chết chứ. Vả chăng đối với một số người muốn phán xét họ một cách thật vô tư, cần phải gạt trước một số định kiến và từ bỏ cách nhìn thường ngày đối với những người và những vật quen thuộc ở xung quanh ta. Tôi có quyền hy vọng vào cách phê phán của cậu hơn của bất cứ ai khác. Có lẽ cậu đã nghe nói nhiều chuyện buồn cười và quái gở về Marfa Petrovna. Quả nhiên bà ta có một số thói quen rất buồn cười; nhưng cũng xin nói thẳng với cậu rằng tôi thành thật lấy làm tiếc về những nỗi buồn khổ nhiều vô số mà chính tôi đã gây ra. Thôi, hình như nói như thế cùng đã đủ thành một bài oraison funèbre(l) khá chỉnh, xứng đáng với người vợ dịu dàng nhất của một người chồng dịu dàng nhất. Những khi xảy ra cãi cọ, phần nhiều tôi làm thinh và không nổi cáu lên, và cái trò quân tử ấy hầu như bao giờ cũng đạt được mục đích; nó có tác dụng đối với bà ta và thậm chí còn làm bà ta thích thú nữa. Có những lúc bà ta lại còn lấy làm tự hào về tôi nữa. Thế nhưng đến khi xảy ra chuyện em gái anh thì bà ta vẫn không sao chịu nổi. Không biết làm thế nào mà bà ta lại có thể liều lĩnh đưa một giai nhân như vậy vào nhà làm gia sư? Tôi cho là vì Marfa Petrovna là một người đàn bà nhiệt thành và đa cảm cho nên chẳng qua bà ta đã phải lòng em cậu - theo đúng nghĩa đen của từ nầy! Phải, cả cái cô Avdotia Romanovna ấy nữa! Ngay từ phút đầu tôi đã hiểu rất rõ rằng tình hình rất nguy kịch, và - không biết cậu nghĩ thế nào? - đã toan nhất quyết tránh nhìn Avdotia Romanovna đấy, mà chính Avdotia Romanovna đã đi bước đầu đấy. Cậu có tin được không? Cậu cũng có tin được không, là từ đầu bà Marfa Petrovna đã đi đến nước giận tôi vì tôi chẳng bao giờ nói gì đến cô em cậu vì tôi quá dửng dưng trước những lời lẽ say sưa mà bà ta tuôn ra không ngớt để ca ngợi Avdotia Romanovna? Tôi thật không hiểu bà ta muốn gì nữa? Và dĩ nhiên là bà Marfa Petrovna kể hết chuyện tôi cho Avdotia Romanovna nghe. Bà ta có cái thói khốn khổ là bạ ai cũng đem kể hết những chuyện kín trong gia đình ra và bạ ai cũng đem tôi ra mà kêu cả, than phiền; thế thì làm sao lại có thể bỏ qua một người bạn mới tuyệt diệu như vậy? Tôi đoán rằng họ chẳng bao giờ nói chuyện gì khác ngoài chuyện tôi, và không nghi ngờ nữa, Avdotia Romanovna đã biết được những câu chuyện ám muội, huyền bí mà người ta vẫn gán cho tôi… Tôi đánh cuộc là cậu cũng đã từng nghĩ một cái gì như thế rồi, phải không?
- Tôi có nghe Lugin còn buộc tội ông là đã làm cho một đưa trẻ phải chết nữa. Việc đó có đúng không?
- Xin cậu làm ơn đừng nói đến những chuyện nhảm nhí ấy nữa, - Xvidrigailov thoái thác, vẻ kinh tởm và sốt ruột, - nếu cậu cứ muốn biết cho kỳ được cái chuyện vô nghĩa lý ấy thì một hôm nào đấy tôi sẽ kể riêng cho cậu nghe, còn bây giờ…
- Người ta còn kháo nhau chuyện một người gia nô của ông ở thôn quê, nghe đâu ông cũng có gây ra một cái gì thì phải.
- Xin cậu làm ơn thôi cho! - Xvidrigailov lại cắt ngang, vẻ sốt ruột rõ rệt.
- Có phải đó chính là tên gia nô mà sau khi chết đã đi vào nhồi tẩu thuốc cho ông không… hình như chính ông cũng có kể cho tôi nghe thì phải? - Raxkonikov mỗi lúc một cáu tiết lên.
Xvidrigailov chăm chú nhìn Raxkonikov, và chàng có cảm giác là trong khóe mắt hắn, nhanh như một làn chớp, trong giây lát vụt ánh lên một ý giễu cợt hằn học, nhưng Xvidrigailov nén giận trả lời rất lễ phép:
- Chính hắn đấy. Xem ra cậu cũng rất mực quan tâm đến tất cả những chuyện đó và tôi tự xem như có bổn phận hễ có dịp thuận tiện là sẽ làm thoả mãn lòng hiếu kỳ của cậu. Mẹ kiếp! Quả cũng có người có thể thấy tôi như một nhân vật tiểu thuyết. Cậu nghĩ mà xem, sau những việc như thế thì tôi phải biết ơn mồ ma bà Marfa Petrovna biết chừng nào vì bà ta đã nói cho em cậu biết bao nhiều điều bí ẩn và thú vị về tôi. Tôi không dám khẳng định những điều đó đã gây nên trong lòng em cậu một ấn tượng như thế nào; nhưng dù sao như vậy cũng có lợi cho tôi. Tuy Avdotia Romanovna vẫn có một cảm giác kinh tởm tự nhiên đối với tôi, và tuy tôi bao giờ cũng có một vẻ lầm lì khả ố, rốt cục nàng cũng vẫn thấy thương tôi, thương hại một con người sa ngã. Mà khi lòng một người con gái đã thấy thương, thì âu đó dĩ nhiên là điều nguy hiểm cho nàng hơn cả. Vì thế nào rồi cũng nảy ra cái ý kiến "cứu vớt": cảm hoá, cái tử hoàn sinh, kêu gọi tới mục đích cao cả hơn, dìu dắt vào một cuộc sống mới, một đời hoạt động mới, ấy cậu cũng biết thừa những mộng tưởng kiểu như thế. Tôi lập tức nhận rõ rằng con chim đang tự ý lao vào lưới, và về phía tôi, tôi cũng rình săn. Hình như cậu cau mày thì phải, cậu Rodion Romanovich? Không sao đâu, cậu cũng biết đấy: trước sau cũng chỉ xảy ra những chuyện vặt mà thôi. (Mẹ kiếp, tôi uống nhiều rượu quá!) Cậu ạ, ngay từ đầu lúc nào tôi cũng nghĩ mà lấy làm tiếc rằng số phận không cho em cậu sinh vào thế kỷ thứ hai hay thứ ba của kỷ nguyên nầy, làm con một vương công hay một vị tổng trấn, lãnh quan nào đấy ở Tiểu Á. Cô ta chắc chắn sẽ là một trong những người tuẫn đạo và tất nhiên sẽ mỉm cười khi đao phủ dí chiếc kìm nung đỏ vào ngực. Hẳn cô ta sẽ tự ý xông ra lĩnh lấy nhục hình, và nếu sống ở thế kỷ thứ bốn hay thứ năm thì sẽ bỏ sang miền sa mạc Ai Cập ở đấy ba mươi năm trời, sống bằng rễ cây, bằng cuồng hoan và ảo ảnh. Bản thân cô ta chỉ khát khao, chỉ đòi hỏi cho chóng có dịp đau khổ vì một người nào, và nếu không tìm được dịp đau khổ, cô ta có lẽ đến phải nhảy qua cửa sổ mà chết. Tôi có nghe nói ít nhiều về một ông Razumikhin nào đấy. Nghe đâu ông ta là một người có lương tri, đúng như tên họ ông ta (2) chắc hẳn là một anh thầy dòng (3), thôi được cứ để cho ông ta bảo vệ em cậu. Nói tóm lại, tôi đã hiểu được cô em thì phải, và tôi cũng lấy làm hân hạnh về điều đó. Nhưng hồi ấy, nghĩa là hồi mới quen, chính cậu cũng biết đấy, bao giờ người ta cũng có phần nông nổi và khờ khạo hơn, người ta cứ nhìn sai lệch, thấy gà hoá cuốc. Mẹ kiếp, sao cô em lại đẹp đến thế làm gì. Lỗi không phải tại tôi! Nói tóm lại, thoạt tiên, tôi thấy trỗi dậy trong lòng một cơn dục vọng ồ ạt không sao cưỡng nổi. Avdotia Romanovna là một người tiết hạnh đến mức kinh khủng, chưa từng thấy, chưa từng nghe nói có ai như vậy. (Xin cậu lưu ý, tôi nói như vậy, về em cậu là để cung cấp một sự kiện, cô em cậu tiết hạnh có lẽ đến mức bệnh tật, tuy cô ta vốn có một trí tuệ rộng rãi, và như vậy sẽ có hại cho cô ta): Vào dạo ấy có một ả tên là Parasa, ả Parasa mắt huyền, vừa mới đưa từ một thôn khác về làm gia nô. Trước kia tôi chưa từng gặp cô ả bao giờ. Rất xinh, nhưng lại ngốc đến quá quẩn: cô ả kêu khóc ầm ĩ cả lên, chuyện đâm ra lôi thôi to. Một hôm, sau bữa ăn chiều, Avdotia Romanovna cố ý tìm cách gặp riêng tôi trên một lối đi trong vườn, và hai mắt sáng long lanh, có ta đòi tôi phải buông thả ả Parasa. Đó hầu như là lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện riêng với nhau. Dĩ nhiên tôi coi việc thoả mãn ý muốn của Avdotia Romanovna như một vinh dự, tôi cố làm ra vẻ ân hận, bối rối, nói tóm lại, tôi đóng kịch không đến nỗi tồi, thế là bắt đầu những mối quan hệ, những cuộc nói chuyện bí mật, những lời khuyên răn, thuyết giáo, khẩn khoản, van nài thậm chí cả những giọt nước mắt nữa- Cậu có tin không, cô ta còn khóc nữa. Đấy lòng ham muốn tuyên truyền của một thiếu nữ nó có thể mãnh liệt đến mức ấy đấy! Dĩ nhiên là tôi đổ lỗi hết cho cái số phận của tôi, làm ra vẻ thèm muốn khát khao ánh sáng, và cuối cùng tôi huy động đến cái thủ đoạn lớn nhất và công hiệu nhất để chinh phục một trái tim phụ nữ, một thủ đoạn chưa từng đưa lại thất bại cho ai bao giờ và có tác dụng quyết định đối với mọi người không trừ một ai. Đó là một thù đoạn rất thông thường: nịnh hót. Trên đời không có gì khó bằng cương trực, và không có gì dễ cho bằng nịnh hót. Nếu trong thái độ cương trực có chen vào dù chỉ một nét giả tạo hết sức nhỏ nhặt, thì lập tức sẽ gây một ấn tượng lạc điệu rồi sẽ sinh ra vỡ lở to chuyện. Còn nịnh hót thì dù có giá dối từ đầu chí cuối cùng vẫn dễ chịu và người nghe cùng vẫn không khỏi thích thú; tuy đó là một cảm giác thích thú thô lậu, nhưng dù sao cũng vẫn là một cảm giác thích thú. Và dù cách nịnh hót có thô thiển đến đâu chăng nữa, thì ít nhất trong đó thế nào cũng có một phần nữa có vẻ đúng sự thật. Đối với trình độ nào và tầng lớp nào trong xã hội cũng thế thôi. Dùng cách nịnh hót thì dù là một ni cô trong đền Vexta (4) cũng hủ hoá được. Còn những người bình thường thì chẳng cần nói làm gì nữa. Tôi không nhịn được cười mỗi khi nhớ đến chuyện tôi quyến rũ một bà rất mực tận tuỵ với chồng, với con và với tiết hạnh của mình. Thật, không có gì vui bằng mà cũng không có gì ít tốn công sức hơn! Mà bà ta thật sự là một con người đức hạnh, ít ra cũng đức hạnh theo một lối riêng. Toàn bộ chiến thuật của tôi chung quy lại là ở chỗ luôn luôn phủ phục xuống làm như bị áp đảo trước cái tiết hạnh của bà ta. Tôi nịnh bà ta một cách vô sỉ, và hễ mới chớm được bà ta xiết tay một chút hay nhìn qua một thoáng, tôi đã tự trách là đã cưỡng bách bà ta, là bà ta đã kháng cự, và kháng cự quyết liệt đến nỗi chắc chắn tôi sẽ không bao giờ được chút gì nếu tôi không phải là người xấu xa đến thế, rằng bà ta quá trong trắng nếu không lường trước được âm mưu quỷ quyệt của tôi và đã vô tình ưng thuận, tuy bản thân bà cũng không hay biết vân vân, vân vân. Tóm lại, tôi được hưởng tất, trong khi bà kia vẫn tin chắc như đinh đóng cột rằng mình trong trắng, tiết hạnh, mình vẫn làm tròn bổn phận, mình sa ngã một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Thế rồi cuối cùng tôi mới nói rằng tôi thành thật tin chắc mười phần là bà ta cũng đi tìm khoái lạc chẳng khác gì tôi, bà ta giận tôi một mẻ ra trò. Bà Marfa Petrovna đáng thương của tôi cũng rất ưa nịnh, và nếu tôi muốn, đĩ nhiên tôi đã chuyển được toàn bộ cơ ngơi của bà ta thành sở hữu của tôi từ khi bà còn sống. (Chà, tôi uống rượu dữ quá, thành thử ba hoa tợn). Tôi mong cậu đừng giận nếu tôi nói rằng chính cái hiệu quả ấy cũng bắt đầu thấy thể hiện ở cô Avdotia Romanovna. Nhưng tôi lại ngốc và thiếu kiên nhẫn nên mọi việc mới hỏng bét ra. Trước kia Avdotia Romanovna cũng đã mấy lần rất đỗi phật ý vì cách nhìn của tôi (riêng có một lần thì lại càng phật ý đặc biệt), cậu có tin được không? Tóm lại, trong khóe mắt tôi mỗi ngày một ánh lên một tia lửa mạnh mẽ và trâng tráo, khiến cho cô ta sợ và rốt cục đẩy ra thù ghét. Không cần phải kể chi tiết làm gì, dù sao giữa hai chúng tôi cùng đâm ra bất hoà. Đến đây tôi lại làm một việc dại dột nữa. Tôi bắt đầu đưa ra những lời lẽ hết sức thô tục để nhạo báng tất cả những thứ tuyên truyền, thuyết giáo đó; Parasa lại được đưa lên sân khấu, mà cũng không phải chỉ một mình ả ta, nói tóm lại, nhà tôi trở thành một thứ Xodom (5). Chao ôi, cậu Rodion Romanovich, giá cậu được trông thấy dù chỉ một lần thôi đôi mắt của Avdotia Romanovna những khi quắc lên long lanh như thỉnh thoảng trong thời gian ấy! Bây giờ tôi say thật rồi, tôi uống hết cả cốc rồi, nhưng cái đó không hề gì, tôi vẫn nói thật đấy: tôi xin quả quyết với cậu rằng đêm đêm tôi mơ thấy ánh mắt ấy; cuối cùng tôi không sao chịu nổi tiếng sột soạt của chiếc áo dài nàng mặc nữa. Quả thật dạo ấy tôi tưởng đã sắp lên chứng kinh phong đến nơi, tôi chưa bao giờ tưởng tượng mình có thể điên dại lên đến mức ấy. Tóm lại thế nào cũng phải làm lành; nhưng bấy giờ không thể làm lành được nữa rồi. Cậu thử tưởng tượng xem lúc ấy tôi đã làm gì? Con người ta có thể điên dại, cuồng si đến chừng nào! Đã điên dại lên rồi thì đừng bao giờ mưu toan việc gì hết, cậu Rodion Romanovich ạ. Tôi suy tính rằng Avdotia Romanovna dù sao cũng chỉ là một cô gái nghèo hèn (Ồ, xin lỗi, tôi không định nói thế, nhưng chữ nghĩa thì có gì là quan trọng, đằng nào cũng vẫn một nội dung ấy thôi mà) tóm lại, cô ta sống bằng sức lao động của hai bàn tay, cô ta lại còn phải nuôi mẹ nuôi anh (Ồ, quỷ thật, cậu lại nhăn mặt…), nghĩ thế tôi quyết định xim biếu cô toàn bộ tất cả tiền bạc của tôi (dạo ấy tôi có thể có đến ba vạn rúp) để cô ta cùng tôi đi trốn, trốn lên đây, lên Petersburg thôi cũng được: Lẽ dĩ nhiên tôi sẵn sàng thề thốt yêu đương trọn đời. hứa hẹn hạnh phúc cực lạc vân vân, vân vân. Cậu có tin được không, lúc ấy tôi si mê đến nỗi ví thử nàng có bảo tôi cắt cổ hay đầu dộc bà Marfa Petrovna để lấy nàng, tôi sẽ làm ngay tức khắc. Nhưng cơ sự rốt cục vỡ lở thảm hại như cậu đã biết, và cậu cũng có thể tự mình đoán được tôi điên cuồng lên đến chừng nào khi được biết bà Marfa Petrovna đi đào ở đâu ra cái tên cạo giấy Lugin chó đểu ấy và hầu như đã dàn xếp xong cuộc hôn nhân, - thực chất mà nói thì như vậy cũng chẳng khác gì những lời đề nghị của tôi, có phải không? Có phải không nào? Đúng thế chứ còn gì nữa? Tôi nhận thấy cậu bắt đầu nghe rất chăm chú… cậu thật là một chàng thanh niên rất thú vị!
Xvidrigailov sốt ruột nện quả đấm lên bàn, hắn đỏ dừ cả mặt ra. Raxkonikov thấy rất rõ rằng cốc sâm banh hay cốc rượu gì đấy mà hắn đã nhấp dần từng ngụm nhỏ hết từ lúc nào không biết đã có một tác dụng không lành mạnh đối với hắn, bèn quyết định lợi dụng cơ hội nầy. Chàng thấy Xvidrigailov rất khả nghi.
- Ấy đã thế thì bấy giờ tôi hoàn toàn tin chắc rằng ông lên đây là vì em gái tôi, - Chàng nói thẳng với Xvidrigailov không giấu giếm, để trêu gan cho lão tức thêm…
- Chà thôi, - Xvidrigailov như chợt trấn tĩnh được, - Thì tôi đã nói với cậu… vả lại em cậu không thể nào dung thứ được tôi.
- Thì tôi vẫn biết chắc là nó không thể dung thứ, nhưng vấn đề bây giờ không phải ở chỗ đó.
- Cậu có biết chắc là cô ta không thế? - Xvidrigailov nheo mắt và mỉm cười ngạo nghễ - Cậu nói đúng: cô ta không yêu tôi; nhưng cậu đừng bao giờ nói một điều gì cả quyết về những việc xảy ra giữa hai vợ chồng hay giữa hai người nhân tình nhân ngãi. Ở đây bao giờ cũng có một khía cạnh mà trên đời không bao giờ có ai biết được ngoài hai người trong cuộc. Cậu dám nói quả quyết rằng Avdotia Romanovna nhìn tôi một cách kinh tởm?
- Cứ theo một vài câu nói, một vài ý của ông trong khi kể chuyện, tôi nhận thấy rằng đến bây giờ ông vẫn còn có những ý định riêng, những âm mưu mà ông định tiến hành gấp, nhằm vào Dunia, dĩ nhiên là những âm mưu đê tiện.
- Sao! Tôi đã buột mồm nói ra những câu, những ý như thế à? - Xvidrigailov bỗng hoảng hốt lên một cách hết sức ngây ngô, không hề để ý đến cái hình dung từ mà chàng dùng để đánh giá những âm mưu của hắn.
- Thì ngay bây giờ ông cũng đang buột mồm đấy thôi. Chẳng hạn, ông sợ cái gì mà sợ lắm thế? Sao bây giờ ông bỗng đâm hoảng lên thế?
- Tôi sợ, tôi hoảng? Tôi sợ cậu chắc? Cậu sợ tôi thì có. Anh bạn trẻ ạ. Chà, kể cùng ngộ thật… Vả chăng tôi say rồi, tôi biết lắm; lại suýt lỡ lời nữa rồi. Rượu quỳ rượu quái! Ê, đem nước lã ra đây!
Hắn vớ lấy chai và chẳng nói chẳng rằng quăng ngay ra cửa sổ. Phillip bưng nước ra.
- Toàn là chuyện nhảm, - Xvidrigailov vừa nói vừa nhúng ướt chiếc khăn mặt chườm lên đầu, - Tôi chỉ cần nói một tiếng cậu cũng đủ đuối lý và tất cả những nghi ngờ của cậu tan ra tro. Chẳng hay cậu có biết tôi sắp cưới vợ không?
- Ông cũng đã có lần nói với tôi rồi thôi.
- Tôi có nói? Thế mà quên mất. Nhưng dạo ấy tôi chưa thể nói chắc chắn được, vì thậm chí tôi cũng chưa trông thấy vị hôn thê bao giờ; tôi chỉ mới có ý định thôi. Ấy, còn bây giờ thì tôi đã có vị hôn thê, công việc đã xong xuôi, và giá không có những việc bức thiết thì thế nầy tôi cũng đưa cậu lại đằng ấy ngay bây giờ, vì tôi muốn hỏi ý kiến cậu. Chà, quỷ thật, chỉ còn có mười phút. Cậu thử nhìn đồng hồ mà xem; tuy vậy tôi cũng xin kể cho cậu nghe, vì đây là một chuyện rất lý thú, chuyện tôi cưới vợ ấy, nghĩa là cũng có chỗ lý thú riêng, kìa cậu đi đâu? Lại bỏ đi à?
- Không, bây giờ thì tôi không bỏ đi nữa đâu.
- Cậu ở lại hẳn? Để rồi xem! Tôi sẽ đưa cậu đến đằng ấy, thật đấy, sẽ cho cậu xem mặt vị hôn thê của tôi nhưng bây giờ thì chưa, bây giờ thì cậu cũng sắp phải đi có việc. Cậu rẽ sang phải, tôi rẽ sang trái. Cậu biết cái bà Resslich ấy chứ nhỉ? Thì cái bà Resslich hiện cho tôi thuê phòng trọ ấy mà? Cậu có nghe nói chứ? Kìa, cậu nghĩ gì thế, chính cái mụ Resslich mà người ta vẫn đồn là đã làm cho một con bé phải nhảy xuống sông ngay giữa mùa đông ấy mà, ấy, cậu có nghe nói chứ. Thế thì chính mụ ta lo liệu cho tôi cả đấy; mụ ta bảo: ông bây giờ một thân một mình như thế chắc là buồn lắm. Ông nên chơi bời đi cho nó khuây khoả. Mà tôi thì tính lại âm thầm, buồn bã. Cậu tưởng tôi vui lắm? Không, tôi buồn lắm; tôi không làm hại ai: tôi cứ ngồi lì trong xó, có khi suốt cả ngày không nói với ai một câu. Cái con mẹ Resslich xó lá ấy trù tính như thế nầy đây, để tôi nói cậu nghe: tôi lấy vợ được ít lâu sẽ phát chán, sẽ bỏ vợ đây mà đi, thế là cô vợ kia sẽ nằm lại trong tay mụ ta, mụ ta sẽ cho lưu thông trên thị trường, nghĩa là thị trường thượng lưu như hạng ta ấy, cao hơn nữa cũng nên. Mụ ta bảo cô ấy có một ông cha liệt bất toại, một công chức hưu trí, suốt ngày ngồi trên ghế bành, đã ba năm nay chân không cử động được. Mụ ta lại bảo mẹ cô là một người đàn bà khôn ngoan. Bà ta có một người con trai làm việc đâu ở các tỉnh, không đỡ đần gì cho cha mẹ cả. Cô gái lớn thì đã đi lấy chồng và từ đấy biệt tăm; lại phải nuôi báo cô hai đứa cháu (làm như trong nhà chưa đủ miệng ăn), cô con gái út đang học dở trong trường trung học thì được gọi về, một tháng nữa mới tròn mười sáu tuổi, thế nghĩa là một tháng nữa có thể cho đi lấy chồng nốt, là lấy tôi ấy. Tôi với mụ ấy đến; ở nhà họ đến là buồn cười: tôi tự giới thiệu: một nhà trang chủ goá vợ, có tên tuổi cô ít nhiều thân thế, có vốn - ấy, tuy tôi năm mươi còn cô ta mới mười sáu, nhưng thế thì đã sao? Ai kế đến chuyện ấy. Thế nào, cũng thú đấy chứ hả. Thú thật, ha ha! Giá cậu được trông thấy tôi nói chuyện với ông bố, bà mẹ. Được xem tôi lúc ấy thì trả tiên cùng đáng! Cô ta bước ra, nhún chân chào. Cậu thử tưởng tượng mà xem, hãy còn mặc chiếc áo ngắn, thật là một nụ hoa chưa nở, mặt đỏ bừng lên như trời rạng đông (dĩ nhiên họ đã nói chuyện cho cô ta biết). Tôi không biết ý cậu đối với dung nhan phụ nữ ra sao, chứ theo tôi thì cái tuổi mười sáu ấy, đôi mắt còn thơ ngây ấy, cái vẻ e lệ và những giọt nước mắt thẹn thùng ấy theo tôi thì còn hơn cả nhan sắc, thế mà đằng nầy cô ta lại đẹp như một bức tranh nữa. Mái tóc vàng nhạt, uốn thành từng búp nhỏ, đôi môi mọng, đỏ thắm, đôi bàn chân xinh xẻo thật mê hồn! Ấy, thế là chúng tôi làm quen với nhau, tôi bảo là tôi phải vội về vì bận việc nhà, và đến ngày hôm sau, tức là ngày hôm kia, ông bố và bà mẹ đã chúc phước cho hai trẻ. Từ dạo ấy hễ đến nhà là tôi bế cô bé lên đùi ngay, và không đặt xuống đất nữa… Ấy, cô ta đỏ mặt tía tai lên, còn tôi thì cứ hôn lấy hôn để; bà mẹ thì dĩ nhiên khuyên bảo con rằng đây là chồng mày, và phải như thế mới được, tóm lại là một của quý! Và cái thời gian hiện nay, thời gian chưa cưới ấy, có lẽ lại còn thú hơn cả thời gian làm chồng kia. Ở đây có một cái gọi là la nature et la vérité (6) Ha ha! Tôi đã nói chuyện với cô bé hai lần: cô bé chẳng ngốc chút nào đâu; có lần có ta nhìn trộm tôi làm tôi cháy bùng lên như que diêm. Mà cậu ạ, mặt cô ta như kiểu mặt Đức bà của Raphael ấy. Ấy, Đức bà Xikxtin có một vẻ mặt huyền hoặc, vẻ mặt của một cô gái cuồng tín đang buồn tủi, cậu không để ý sao? Ấy, kiểu như thế ấy. Vừa cầu phúc xong, đến hôm sau tôi mang lại nghìn rưỡi ngay: một đồ trang sức bằng kim cương, một cái khác bằng ngọc trai và một cái tráp bằng bạc dựng đồ trang điểm to bằng ngần nầy, lại thêm đủ thứ lặt vàt nữa, đến nỗi cô ta, cô Đức bà ấy, mặt mày cũng rạng rỡ cả lên. Hôm qua tôi đặt cô bé lên đùi, chắc là tôi làm sỗ sàng quá, thế là cô ta đỏ bừng mặt lên, trào cả nước mắt ra, không chịu để cho tôi, tuy người nóng bừng lên. Cả nhà đi đâu vắng một lát, chúng tôi ngồi lại một mình, cô bé bỗng ôm chầm lấy cổ tôi (đây là lần đầu tiên), đôi tay bé nhỏ xiết chặt lấy tôi, hôn tôi và thế sẽ là một người vợ tốt, ngoan ngoãn và trung thành của tôi, sẽ làm cho tôi sung sướng, sẽ hiến dâng cả cuộc dời, hiến dâng mỗi phút trong đời mình, sẽ hy sinh tất cả, tất cả, và để đền đáp lại chỉ xin tôi coi trọng cô ta mà thôi, không cần "biếu tặng quà cáp gì hết". Cậu cũng nên thừa nhận rằng được nghe một lời thổ lộ riêng tây như thế của một cô thiên thần mười sáu tuổi, mặt ửng đỏ lên vì một nỗi thẹn thùng trinh bạch, mắt rơm rớm những giọt lệ hân hoan, cũng thú đấy chứ? Phải không nào? Cũng đáng công đấy chứ hả? Đáng lắm chứ ấy… cậu ạ ta, ta đến nhà cô ấy đi, nhưng bây giờ thì chưa được!
- Nói tóm lại, chính sự chênh lệch quái gở về tuổi tác và thể chất ấy nó kích thích dục tình của ông chứ gì? Mà chả nhẽ ông lại lấy vợ như thế thật hay sao?
- Còn gì nữa? Hẳn đi chứ! Mỗi người phải tự xoay xở cho mình và kẻ nào biết cách tự lừa dối mình hơn cả thì kẻ ấy sống vui vẻ hơn cả! Ha ha! Nhưng sao cậu bỗng dưng đâm ra đạo đức thế? Xin cậu rủ lòng tha thứ cho, tôi là một con người tội lỗi, hê! hê! hê!
- Thế nhưng ông lại thu xếp cho con cái bà Katerina Ivanovna. Vả chăng… vả chăng ông cũng có những lý do riêng để làm như vậy… bấy giờ tôi đã hiểu hết.
- Nói chung tôi rất yêu trẻ, tôi rất yêu trẻ con, - Xvidrigailov cười phá lên. - Về phương diện nầy tôi lại có thể kể cho cậu nghe một mẩu chuyện hết sức lý thú, chuyện ấy cho đến nay vẫn còn tiễp diễn. Hôm đầu tiên lên đây tôi đi khắp các xó xỉnh mà, thì cậu bảo bảy năm không nếm mùi rồi còn gì. Chắc cậu cũng để ý thấy rằng tôi không vội tìm gặp bạn bè cũ, tức là các bầu bạn ngày xưa ấy mà. Ấy tôi lại còn cố tránh họ càng lâu càng tốt, dẫu biết không, dạo ở thôn quê với bà Marfa Petrovna tôi khổ đến chết với những kỷ niệm về những xó xỉnh bí mật ấy: ở đấy ai biết cách thì có thể tìm được rất nhiều cái thú. Mẹ kiếp! Người ta chè chén say sưa, thanh niên có học thức thì chẳng biết làm gì quay ra tự tiêu huỷ sinh lực trong những mơ ước và mộng tưởng cực kỳ viển vông, đâm đầu vào những học thuyết quái gở; bọn Do Thái ở đâu ùn ùn kéo đến vơ vét tiền bạc, và bọn còn lại thì thì nhau chơi bời truỵ lạc. Ngay từ mấy giờ đầu lên đến đây tôi đã lại ngửi thấy cái mùi quen thuộc của thành phố nầy. Tôi tình cờ sa vào một thứ gọi là dạ hội khiêu vũ, một cái tổ quỷ ghê người (tôi vốn thích loại tổ quỷ bẩn bẩn một chút kia). Dĩ nhiên ở đấy người ta nhảy một điệu căng-căng điên loạn, không đâu có và hồi tôi còn ở đây chưa bao giờ thấy. Phải, tiến bộ ở chỗ ấy đấy.
Tôi chợt trông thấy một con bé độ mười ba tuổi, ăn mặc rất xinh xắn, đang nhảy với một tay sành sỏi; một tay khác nhảy đối diện với nó. Mẹ nó ngồi trên một chiếc ghế đặt sát tường. Ấy, cậu thử tưởng tượng điệu căng-căng nó thế nào! Con bé thẹn thùng đỏ mặt, cuối cùng cảm thấy nhục và bắt đầu khóc. Tay sành nhảy kia ôm lấy nó mà quay cuồng và làm bộ làm tịch trước mặt nó, xung quanh mọi người đều cười phá lên. Những lúc như thế tôi thích cái công chúng ở đây lắm, tuy là loại công chúng của điệu căng-căng. Họ cười ha hả và reo: "Phải đấy, phải như thế mới được. Ai bảo cho trẻ con đến đây". Tôi thì tôi cần quái gì, mà việc gì đến tôi, họ giải sầu có theo đúng logic, hay không thì tôi cân quái gì? Tôi lập tức chọn chỗ ngồi bên cạnh bà mẹ và bắt đầu kể lể nào tôi cũng là người ở nơi khác mới đến, nào ở đây toàn là những bọn vô học, nào là họ không biết phân biệt thế nào là giá trị chân chính và không biết kinh nể người tử tế cho phải đạo, tôi nói hở ra cho họ biết là tôi có nhiều tiền; tôi mời họ lên xe ngựa của tôi và đưa họ về nhà chọ trọ trong một buồng thuê lại của người ta, vì họ vừa mới đến Petersburg. Tôi làm quen với họ. Họ tuyên bố rằng được làm quen với tôi như thế nầy, cả mẹ lần con đều lấy làm hân hạnh; tôi được biết rằng họ chẳng có tiền mong gì cả, họ lên đây là để xin xỏ một việc gì ở một công sở nào đây; tôi bèn tự nguyện giúp đỡ cho tiền; tôi lại được biết rằng họ đến dự buổi dạ hội ấy vì tưởng lầm rằng ở đấy người ta dạy khiêu vũ thật; tôi tình nguyện góp phần giáo dục cô bé, dạy cho cô ta học tiếng Pháp và học khiêu vũ. Hai mẹ con hoan hỉ nhận lời cho đó là một vinh dự lớn, và từ đấy tôi quen thân… Cậu có muốn thì ta sẽ đến đằng ấy, nhưng bây giờ thì chưa được.
- Ông đừng có kể những chuyện bẩn thỉu, hèn hạ ấy ra đây nữa, đồ dâm đãng, đồ hèn mạt!
- Thật là một Schiller đúng Schiller của chúng ta đây rồi! Où la vertu va-t-elle se niche (7). Cậu ạ, tôi sẽ cố ý kể cho cậu nghe những chuyện như thế, cốt để nghe những tiếng kêu than của cậu. Nghe khoái lắm!
- Còn phải nói. Ông trong lúc nầy tôi không thấy mình lố bịch hay sao? - Raxkonikov lẩm bẩm, vẻ hằn học.
Xvidrigailov cười phá lê ông ổng; cuối cùng hắn gọi Philip, trả tiền và rời ghế đứng dậy:
- Thôi tôi say thật rồi, Nói chuyện thế là đủ rồi! - hắn nói, - khoái thật.
- Cố nhiên là ông phải thấy khoái lắm, - Raxkonikov cũng đứng dậy nói, - đối với một ke dâm ô đã chán chường như ông mà kể những thành tích như vậy, trong khi đang âm mưu một việc gì cùng bỉ ổi không kém thì gì mà chả khoái, nhất lại kể trong những hoàn cảnh như thế nầy, và kể cho một người như tôi… Có sức kích thích lắm.
- À nếu thế, - Xvidrigailov vừa đáp vừa nhìn Raxkonikov, hơi có vẻ ngạc nhiên - nếu thế thì chính cậu cũng là một tay vô sỉ ra trò. Ít nhất cậu cũng có nhiều bản lĩnh. Cậu có thể nhận thức được nhiều, nhiều lắm… mà cũng có thể làm nhiều. Nhưng thôi, thế là đủ. Tôi thành thật lấy làm tiếc là nói chuyện với cậu được ít quá, nhưng cậu không thoát được tôi đâu… Đấy, cậu cứ đợi một chút mà xem…
Xvidrigailov bước ra khỏi quán rượu. Raxkonikov ra theo. Xvidrigailov cũng không say gì mấy; đầu hắn chỉ choáng váng một lúc, nhưng hơi men mỗi chốc một rút dần. Hắn như đang lo lắng về một việc gì hết sức quan trọng, mặt cứ cau lại. Hình như hắn đang chờ đợi một việc gì sắp xảy đến, khiến hắn bồi hồi lo sợ. Trong những phút sau cùng, thái độ của hắn đối với Raxkonikov tự dưng thay đổi hẳn, mỗi lúc một thêm thô lỗ và ngạo mạn. Raxkonikov cũng để ý thấy thế và cũng đâm lo. Chàng bắt đầu thấy Xvidrigailov có điều gì rất khả nghi, và quyết định đi theo hắn.
Hai người đã xuống đến vỉa hè.
- Cậu rẽ sang phải, tôi rẽ về phía trái, hay có lẽ ngược lại cũng được, nhưng có điều adieu, mon plaisir(7) rất mong gặp lại cậu.
Đoạn hắn rẽ sang phải, đi về phía chợ Hàng Rơm.
Chú thích:
(1) Điếu văn (tiếng Pháp)
(2) Razum có nghĩa là lương tri, lý trí
(3) Ý muốn nói một người làm cách mạng
4) Vexta là nữ thần của lửa và của gia đình (cổ Hy Lạp)
(5) Xodom là một thành phố cũ của xứ Palestin, dân ở đấy hoang dâm đến cực độ, cho nên thành phố đã bị lửa nhà trời thiêu huỷ hoàn toàn để trừng phạt (Kinh Thánh)
(6) Tính tự nhiên và chân thật (tiếng Pháp)
(7) Đức hạnh sẽ biết trốn vào đâu (tiếng Pháp)
(8) Xin chào anh bạn rất lý thú (tiếng Pháp)
Chương 34
Raxkonikov đi theo hắn.
Thế là thế nào? - Xvidrigailov quay lại, kêu lên - Hình như tôi đã bảo…
- Thế nghĩa là bây giờ tôi sẽ không rời ông ra đâu!
- Sa - a - ao?
Hai người cùng dừng lại nhìn nhau một lát như thế dò sức nhau.
- Qua tất cả những câu chuyện dở tỉnh dở say của ông, - Raxkonikov nói rất xẵng, - tôi đã đi đến kết luận chắc chắn, là ông không những không từ bỏ những ý định bỉ ổi của ông về em tôi; mà hơn nữa còn bận tâm hơn bao giờ hết vì những ý định đó. Tôi biết sang nay em tôi có nhận được một bức thì gì không rõ. Ông thì suốt buổi ngồi không yên. Cứ cho là ông đã đào đâu ra được một mụ vợ ở dọc đường, nhưng điều đó chẳng có nghĩa lý gì. Tôi muốn tự mình tìm biết cho ra nhẽ.
Thật ra Raxkonikov cũng khó lòng có thể nói rõ lúc bấy giờ chàng muốn gì và tự mình muốn tìm biết cái gì cho ra lẽ.
- À ra thế? Cậu muốn tôi gọi cảnh sát lại không?
- Gọi đi!
Hai người lại đứng yên một lát, mặt sát mặt. Cuối cùng, Xvidrigailov thay đổi sắc mặt, thấy rõ rằng Raxkonikov không sợ hãi trước lời hăm doạ, hắn bỗng quay ra hết sức vui vẻ và thân mặt.
- Cậu thật đến hay! Hồi nãy tôi đã cố ý không nói đến chuyện cậu, tuy dĩ nhiên tôi cũng đang tò mò điên cả ruột lên. Thật là một chuyện huyễn hoặc. Tôi cũng muốn để lần khác, nhưng quả thật một người chết cũng đến phát cuồng lên với cậu… Thôi được, ta cùng đi, nhưng xin nói trước là bây giờ tôi chỉ ghé về nhà một phút để lấy tiền; sau đó tôi sẽ khoá phòng lại, thuê xe ra các đảo và ở suốt buổi tối ngoài ấy. Thế thì cậu đi theo tôi làm gì?
- Tôi có việc đến đằng ấy, nhưng không phải đến ông, mà đến cô Sofia Xemionovna để xin lỗi vì đã không đi đưa đám được.
- Cái đó tuỳ cậu nhưng Sofia Xemionovna hiện không có nhà. Cô ấy dẫn cả ba đứa trẻ đến nhà một bà mệnh phụ già, trước có quen với tôi từ lâu, vẫn đứng đầu một cô nhi viện nào đấy. Tôi đã làm cho bà ta mê mẩn tâm thần khi đưa món tiền dành cho ba chim non của bà Katerina Ivanovna, ngoài ra lại còn cúng thêm tiền cho viện và cuối cùng kể chuyện cô Sofia Xemionovna cho bà ta nghe cặn kẽ từng chi tiết không giấu giếm gì hết. Ấn tượng gây nên thật không sao tả xiết. Chính vì thế mà Sofia Xemionovna được mời nội nhật hôm nay đến trình diện tại khách sạn X., nơi bà mệnh phụ tạm trú khi từ biệt thự về.
- Không hề gì! Tôi vẫn cứ ghé!
- Tùy cậu đấy, nhưng tôi thì tôi không đi với cậu đâu; việc gì đến tôi! Đấy, đến nơi rồi, cậu ạ, tôi biết chắc rằng sỡ dĩ cậu nhìn tôi một cách ngờ vực như vậy là vì tôi đã tế nhị giữ ý, không hỏi han gì làm phiền đến cậu… cậu hiểu chứ? Cậu thấy như vậy lạ quá chứ gì; tôi đánh cuộc với cậu đấy! Ấy, thế thì cậu cũng nên tế nhị một tí!
- Tế nhị mà lại đi nghe trộm?
- À cậu muốn nói đến chuyện ấy? - Xvidrigailov phì cười, - phải, cậu mà không nhắc đến chuyện ấy thì mới đáng lấy làm lạ. Ha ha! Tuy tôi cũng có hiểu được đôi chút những điều mà cậu… đã bày trò… ở đằng ấy và có kể cho Sofia Xemionovna nghe nhưng thế là thế nào? Tôi có lẽ là một người hết sức lạc hậu, và không sao hiểu lấy được chút gì. Cậu cắt nghĩa cho tôi với cậu, tôi van cậu đấy, Cậu hãy đem các nguyên lý mới ra chỉ giáo cho tôi!
- Ông không thể nghe thấy gì hết. Ông chỉ nói láo thôi!
- Thì tôi có muốn nói chuyện ấy đâu! (tuy tôi cũng có nghe thấy chứ không phải không). Không, tôi muốn nói là cậu cứ than vắn thở dài mãi! Cái anh chàng Schiller ở trong cậu không ngớt lên tiếng phẫn nộ. Thế rồi bây giờ lại "không được nghe trộm!". Nếu thế thì cậu đi mà báo với nhà chức trách rằng tôi vừa gặp một trường hợp thế nầy thế kia: trong lý thuyết của tôi thấy có một chỗ sai lầm nhỏ. Còn nếu cậu tin chắc rằng nghe trộm là không thể được, còn những mụ già kia thì có thể lấy bất cứ thứ gì mà bổ cho chết cùng xong, tuỳ thích, thì cậu hãy trốn sang Mỹ đi cho nhanh! Trốn đi anh bạn trẻ ạ? Có lẽ hãy còn kịp đấy. Tôi nói thật đấy. Không có tiền? Tôi sẽ cho tiền đi đường.
- Tôi tuyệt nhiên không nghĩ đến chuyện ấy, - Raxkonikov bực bội ngắt lời.
- Tôi hiểu (vả chăng cậu cũng đừng ngại: không muốn thì đừng nói nhiều làm gì cho nó mệt); tôi hiểu cậu nghĩ đến cái gì rồi, vấn đề luân lý chứ gì? Cái đạo làm người, làm công dân chứ gì? Cậu cứ gạt sang một bên cho tôi; bây giờ cậu cần gì nghĩ đến những vấn đề ấy? Hê - hê! Vì cậu vẫn là một công dân, vẫn là một con người? Đã thế thì đừng có thò mũi vào đấy, không nên dính vào những việc không phải việc mình. Hay cậu cứ cho một viên đạn vào óc; sao, hay là không thích?
- Hình như ông cố ý muốn trêu tức tôi để tôi bỏ đi thì phải…
- Cậu nầy gàn thật, nhưng đến nơi rồi. Xin mời cậu lên thang gác. Cậu thấy không, đây là cửa vào phòng Sofia Xemionovna, cậu nhìn mà xem nầy không có ai nhà hết. Cậu không tin à? Thì cứ hỏi ở nhà ông Kapernaumov: cô ấy vẫn giữ chìa khoá ở nhà ông ấy đấy. Đây chính madame de Kapernaumov đây rồi, hả? Cái gì? (Bà ta hơi điếc). Cô ấy đi rồi à? Đi đâu? "Đi" cậu nghe ra chưa? Cô ấy đi vắng, có lẽ đến khuya mới về. Nào bây giờ mời đến phòng tôi. Vì cáu cũng muốn đến tôi thì phải? Đây, phòng tôi đây rồi. Madame Resslich không có nhà. Bà nầy lúc nào cũng bận chạy chọt ở đâu đâu, nhưng là người rất tốt, tôi cam đoan với cậu như vậy… có lẽ bà ta có thể giúp cậu được, nếu cậu khôn ngoan hơn một tí. Đây, xin cậu thấy cho: tôi lấy trong bàn giấy ra tờ ngân phiếu năm phân nầy (cậu xem, tôi còn vô khối tờ như thế!), tờ nầy sẽ đem đổi ngay hôm nay lấy tiền vàng thật. Đấy, cậu thấy chưa? Không có lý gì lại mất thì giờ nhiều hơn nữa. Khoá ngăn kéo lại, khoá phòng lại, và thế là chúng ta lại ra cầu thang rồi. Nào, nếu cậu muốn, ta thuê chiếc xe ngựa! Chà tôi cần ra các đảo mà. Cậu có thích đi dạo một vòng không? Đây, tôi thuê chiếc xe song mã nầy đến mũi Yelaghin, sao? Cậu từ chối à? Cậu không chịu được nữa à? Không sao, ta cứ đi cho một lát. Hình như trời muốn mưa thì phải, không sao: ta lên xe đi…
Xvidrigailov đã ngồi lên xe. Raxkonikov nhận thấy những mối ngờ vực của mình, ít nhất là lúc nầy, không có căn cứ. Không đáp lấy một lời, chàng quay lại và đi ngược về phía Chợ hàng Rơm. Giá dọc đường chàng ngoảnh lại dù chỉ một lần thôi, chàng sẽ có đủ thì giờ trông thấy Xvidrigailov mới ngồi xe đi được độ trăm bước đã báo đỗ lại, trả tiền và bước xuống vỉa hè.
Nhưng bấy giờ chàng không còn trông thấy gì được hết, chàng đã rẽ ngoặt qua một góc phố. Một cảm giác ghê tởm sâu sắc giục chàng tránh xa Xvidrigailov. "Thế mà mình lại có lúc chờ mong một cái gì ở con người gian ác, thô bỉ, dâm ô, đốn mạt ấy!" - Chàng bất giác thốt lên. Quả tình Raxkonikov thốt ra lời phán đoán ấy quá vội vàng và nông nỗi. Trong hoàn cảnh của Xvidrigailov có một cái gì ít nhất cũng tao trùm lên thân thể hắn một màu sắc độc đáo, nếu không phải là huyền bí. Còn về phần em gái chàng thì Raxkonikov vẫn một mực tin rằng Xvidrigailov sẽ không chịu buông tha. Nhưng bây giờ mà cứ phải suy đi nghĩ lại mãi về chuyện nầy thì khổ quá, không sao chịu được.
Theo thói quen, chàng đi một mình được vài mươi bước lại chìm đắm vào một cõi mơ màng sâu thăm thẳm.
Bước lên cầu, chàng dừng chân bên lan can và bắt đầu nhìn xuống nước. Trong khi đó có một người đang đứng cạnh chăm chú nhìn chàng: Avdotia Romanovna.
Hai người đã gặp nhau ở đầu cầu, nhưng chàng không nhận ra em, cứ đi thẳng. Dunia chưa bao giờ gặp anh ở giữa đường như thế nầy nên kinh ngạc đến choáng người đi. Nàng dừng lại, phân vân không biết có nên gọi anh hay không. Bỗng nàng trông thấy Xvidrigailov đang từ phía Chợ hàng Rơm hấp tấp đi lại.
Nhưng trong khi đến gần, hắn ta hình như có ý lén lút và đề phòng. Hắn không đi lên cầu, mà lại dừng chân bên vỉa hè cách đấy một quãng, cố hết sức làm sao cho Raxkonikov đừng trông thấy mình. Dunia thì hắn đã trông thấy từ lâu. Hắn bắt đầu ra hiệu cho nàng. Nàng có cảm giác như những dấu hiệu của hắn muốn van xin nàng đừng gọi anh, cứ để mặc chàng, và hãy đến gặp hắn ta, Dunia làm theo. Nàng rón rén đi vòng qua chỗ Raxkonikov đứng và đi về phía Xvidrigailov.
- Ta đi nhanh lên, - Xvidrigailov thì thầm bên tai nàng.
- Tôi không muốn để Rodion Romanovich biết cuộc gặp gỡ giữa chúng ta. Tôi xin báo để cô biết rằng vừa rồi tôi với cậu ấy ngồi với nhau trong một quán rượu gần đây. Cậu ấy đến tìm tôi ở đấy. Tôi phải chật vật lắm mới gỡ ra được. Không hiểu sao cậu ta biết tôi có gửi thư cho cô, và có ý nghi ngờ thế nào đấy. Chắc không phải cô nói cho cậu ấy biết đấy chứ? Mà nếu không phải cô thì ai?
- Bây giờ đã đi khuất vào góc phố thế nầy, - Dunia ngắt lời hắn, - anh tôi không trông thấy được đâu. Tôi xin nói cho ông biết là tôi sẽ không đi đâu nữa. Có gì ông cứ đứng đây mà nói; những chuyện ấy có thể nói ở giữa phố cũng được.
- Trước hết chuyện ấy không thể nào nói ở giữa phố được; thứ đến là cô cũng phải nghe cả cô Sofia Xemionovna nói chuyện nữa; thứ ba là tôi sẽ cho cô xem một số tài liệu… Ấy thế cuối cùng nếu cô không thuận vào nhà tôi, thì tôi sẽ không xin giãi bày gì nữa và xin cáo lui ngay tức khắc. Đồng thời xin cô đừng quên rằng một điều bí mật rất thú vị của anh cô hiện đang hoàn toàn nằm trong tay tôi.
Dunia dừng lại, phân vân, và đưa mắt nhìn Xvidrigailov xoi mói.
- Cô sợ cái gì nhỉ! - hắn nói, giọng điềm tĩnh, - thành phố khác thôn quê chứ? Mà ngay như ở thôn quê cô cũng làm hại tôi nhiều hơn là tôi làm hại cô, còn như ở đây…
- Cô Sofia Xemionovna đã được biết trước chưa?
- Chưa tôi chưa nói gì với cô ấy hết, thậm chí tôi cùng không chắc cô ta hiện to nhà hay không. Chắc là có thì phải. Hôm nay cô ta vừa chôn cất xong bà mẹ kế: trong một ngày như thế thì ai lại đi thăm viếng bao giờ. Tôi không muốn nói cho ai biết chuyện đó quá sớm: thậm chí tôi còn có phần hối hận là đã nói cho cô biết. Trong trường hợp nầy một lời nói bất cẩn hết sức nhỏ nhặt cũng có thể thành một lời tô giác. Ấy, tôi ở nhà nầy, ta sắp đến rồi đấy. Kia là người gác cổng nhà chúng tôi; người gác cổng biết, tôi rất rõ; đấy, hắn chào tôi; hắn thấy tôi đi với một người đàn bà, và dĩ nhiên là đã có đủ thì giờ nom rõ mặt cô, và như vậy là có lợi cho cô: nếu cô có ý sợ tôi và nghi ngờ tôi. Tôi ăn nói thô lỗ như vậy xin cô bỏ qua cho. Tôi thuê lại phòng của khác ở đây. Cô Sofia Xemionovna ở sát vách phòng tôi, cũng thuê lại. Cả tầng nầy đều cho thuê. Có gì mà cô sợ sệt như trẻ con thế? Tôi đáng sợ đến thế kia ư?
Mặt Xvidrigailov rúm ró lại thành một nụ cười ra vẻ kẻ cả; nhưng bấy giờ hắn cũng thật khó mà cười được. Trống ngực hắn đánh thình thình, hơi thở cứ nghẹt lại. Hắn cố ý nói thật to để che giấu nỗi xúc động mỗi lúc một tăng; nhưng Dunia không có thì giờ nhận thấy hắn xúc động khác thường như vậy; nàng đang quá bực mình vì câu của hắn vừa nói rằng nàng sợ hắn như đứa trẻ và hắn là một người đáng sợ đối với nàng.
- Tuy tôi cũng biết ông là người… bất lương, nhưng tôi không sợ ông một chút nào đâu. Ông đi trước đi, - nàng nói, bề ngoài có vẻ điềm tĩnh: nhưng mặt nàng cứ tái nhợt đi.
Xvidrigailov đứng chắn trước phòng Sonya.
- Xin phép hỏi cô có nhà không ạ. Không có. Thế thì xúi quá: Nhưng tôi biết là cô ta có thể về sớm. Chắc chắn cô ta chỉ có thể đến nhà bà mệnh phụ nọ để xin cho mấy đứa trẻ mồ côi. Mẹ chúng vừa chết. Tôi cũng có giúp họ lo liệu. Nếu mười phút nữa mà cô Sofia Xemionovna không về thì nội hôm nay tôi sẽ báo cô ấy đến đằng cô, nếu cô muốn. A phòng tôi kia rồi. Tôi ở hai phòng nầy. Sau cánh cửa nầy là nhà bà Resslich, người cho tôi thuê lại phòng. Bây giờ mời cô nhìn vào đây, tôi xin chí cho cô xem những tài liệu chính của tôi: từ phòng ngủ của tôi có cánh cửa nầy ăn thông sang hai căn phòng hoàn toàn bỏ trống, chưa có người thuê, hai căn phòng ấy đấy… cô cần nhìn cho kỹ hơn tí nữa…
Xvidrigailov ở hai căn phong có sẵn bàn ghế khá rộng. Dunia đưa mắt ngờ vực nhìn quanh, nhưng không hề thấy có gì khác thường trong cách bày biện cũng như trong cách phân bố các phòng, tuy nếu tinh ý cũng có thể nhận thấy một cái gì, chẳng hạn như căn phòng của Xvidrigailov nằm ở giữa hai phòng không người ở. Muốn vào phòng hắn không thể đi thẳng từ hành lang, mà phải đi qua hai căn phòng của bà chủ hầu như bỏ trống. Từ căn phòng ngủ, Xvidrigailov mở một cánh cửa vốn khoá chặt và chỉ cho Dunia xem một gian khác cũng bó trống, dành để cho thuê. Dunia dừng lại trước ngưỡng cửa không hiểu người ta cho mình xem những thứ đó để làm gì, nhưng Xvidrigailov đã vội vàng giảng giải:
- Đây nầy, cô xem gian phòng lớn thứ hai nầy. Xin cô lưu ý đến cánh cửa nầy. Nó đã được khoá chặt. Cạnh cửa có một chiếc ghế: cả hai phòng thì chỉ cõ mỗi một chiếc ghế nầy. Đó là tôi đưa từ phòng tôi sang để ngồi nghe cho thoải mái. Ngay sau cánh cửa ấy là chiếc bàn của Sofia Xemionovna, hôm ấy cô ta ngồi đấy nói chuyện với Rodion Romanovich, còn tôi thì ngồi đây trên ghế nầy, để nghe trộm, hai tối liền, mỗi tối đen hai tiếng đồng hồ, và dĩ nhiên là cũng có biết được ít nhiều, cô nghĩ sao?
- Ông nghe trộm à?
- Vâng, tôi nghe trộm: bây giờ trở về phòng tôi đi, ở đây cũng chẳng có chỗ nào mà ngồi nữa.
Hắn dẫn Avdotia Romanovna quay trở lại căn phòng thứ nhất của hắn dùng làm phòng khách, và mời nàng ngồi xuống một chiếc ghế tựa. Còn hắn thì ngồi ở đầu bàn phía bên kia, cách nàng ít nhất đến một xa-gien, nhưng hình như trong mắt hắn lại ánh lên cái tia lửa hồi nào đã làm cho Dunia hoảng sợ.
Nàng rùng mình và lại đưa mắt ngờ vực nhìn quanh. Đó là một cử chỉ vô ý thức; hình như nàng không muốn để lộ ý nghĩ ngại. Nhưng cái vị trí cách biết của phòng Xvidrigailov rốt cục đã khiến nàng lo sợ. Nàng toan hỏi xem ít nhất bà chủ trọ của Xvidrigailov có ở nhà không, nhưng rồi lại thôi… vì tự trọng. Hơn nữa, lòng nàng đang khắc khoải vì một nỗi đau khổ khác, còn mạnh hơn nỗi lo sợ cho mình không biết bao nhiêu mà kể. Nàng bứt rứt không sao chịu nổi.
- Bức thư của ông đây, - nàng đặt bức thư lên bàn nói. - Những điều ông viết trong thư không thể nào có được, ông có ám chỉ đến việc anh tôi có phạm một tội ác gì đấy. Ông ám chỉ quá rõ, bây giờ ông đừng hòng cải chính. Thế thì xin ông biết cho rằng tôi đã nghe nói đến cái chuyện nhảm nhí nầy, trước cả ông và không hề tin lấy một chữ. Đó là một mối nghi ngờ bỉ ổi và lố bịch. Tôi biết rõ đàu đuôi chuyện nầy, tôi biết rõ vì đâu người ta bày đặt ra nó và bày đặt ra như thế nào. Ông không thể có lấy một bằng chứng nào hết. Ông có hứa là sẽ chứng minh: thế thì ông nói đi! Nhưng xin ông biết trước cho rằng tôi không tin ông đâu! Tôi không tin!
Mấy câu vừa rồi Dunia nói vội vã, rất nhanh, và trong giây lát mặt nàng chợt đỏ bừng lên.
- Nếu cô không tin thì lẽ nào cô lại có thể mạo hiểm đến phòng tôi một mình? Thế thì tại sao cô đến? Chỉ vì hiểu kỳ thôi ư?
- Đừng có làm khổ tôi nữa, nói đi, nói đi!
- Quả cô là một người con gái can đảm, cái đó chẳng cần phải nói nữa! Thật tình tôi cứ tưởng cô sẽ yêu cầu ông Razumikhin đưa cô đến đây. Nhưng chẳng thấy ông ta cùng đi với cô hay lẩn quất đâu quanh đây, tôi đã nhìn kỹ rồi đấy. Thật là quả cảm; thế nghĩa là cô muốn cứu Rodion Romanovich. Vả chăng, ở cô thì cái gì cũng thần tiên cả… Còn như anh cô thì tôi biết nói thế nào đây? Vừa rồi chỉnh mắt cô có trông thấy cậu ấy. Cô thấy cậu ấy thế nào?
- Ông chỉ căn cứ vào cái vẻ bề ngoài ấy thôi sao?
- Không, tôi không căn cứ vào đấy, tôi căn cứ vào những lời lẽ của chính cậu ấy nói ra. Đấy, cậu ta đã đến đây gặp có Sofia Xemionovna hai tối liền. Tôi đã chỉ cho cô biết họ ngồi ở đâu. Cậu ấy đã thú hết với cô ta. Cậu ấy là một kẻ sát nhân. Cậu ấy đã giết mụ già cho vay lãi có giữ cả đồ cầm của cậu ấy; cậu ấy giết cả em gái mụ già, một mụ lái buôn tên là Lizaveta, tình cờ bước vào phòng trong khi cậu ấy giết mụ già. Cả hai đều bị cậu ấy giết bằng một cây rìu mang sẵn trong người. Cậu ấy giết hai chị em để lấy của, vẫn cũng lấy của thật, cậu lấy một ít tiền và mất thứ đồ đạc…
Chính cậu ấy nói cặn kẽ tất cả những chuyện ấy với cô Sofia Xemionovna; mỗi một mình cô ta biết chuyện đấy: nhưng cô ta không hề can dự vào vụ giết người, dù là bằng lời nói hay bằng hành động: trái lại cô ta cũng kinh hoảng đúng như cô bây giờ. Cô cứ yên trí, cô ấy không tố giác cậu ấy đâu.
- Không thể như thế được! - Dunia thều thào, hai môi trắng bệch ra như môi người chết, - Không thể được, không có lý gì, không hề có lấy một tí lý do gì… Ông nói dối! Ông nói dối!
- Cậu ấy giết người để lấy của, lý do chỉ có thế. Cậu ta lấy tiền và lấy đồ đạc. Quả tình, theo như lời cậu ấy thú nhận thì cậu ấy không dùng đến tiền, cũng không dùng đến đồ đạc mà lại đem giấu dưới một tảng đá nào đấy, và hiện nay các thứ vẫn còn ở chỗ cũ. Nhưng sở dĩ như vậy là vì cậu ta không dám dùng đến.
- Nhưng có lẽ nào anh ấy lại có thể lấy trộm của người? Chỉ nghĩ đến chuyện ấy thôi anh ấy cũng không thể nghĩ được! - Dunia kêu lên, đoạn đứng phắt dậy.
- Ông cũng biết anh ấy kia mà. Ông gặp anh ấy rồi chứ? Chả nhẽ anh ấy lại có thể ăn trộm Nàng như van xin Xvidrigailov, nàng đã quên hết nỗi lo sợ ban nãy.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, ở đâychàng ngàn triệu kiểu phối hợp và phân hạng. Khi một tên kẻ trộm đi ăn trộm, trong bụng hắn cũng biết mình là một kẻ hèn hạ - nhưng tôi có nghe đến một người quý phái đã đánh cướp một chuyến xe bưu vụ: biết đâu người ất lại chẳng nghĩ rằng mình làm một việc lương thiện! Dĩ nhiên giá nghe một ngoài nói thì tôi cũng chẳng tin gì hơn cô. Nhưng vì chính tai tôi nghe cậu ấy nói ra, nên tôi phải tin. Cậu ấy cũng đã giảng giải cho cô Sofia Xemionovna biết lý do. Lúc đấy cô ta không dám tin ở tai mình, nhưng rốt cục rồi cô ta phải tin ở mắt mình. Phải, chính mắt cô ta đã thấy một cái gì khiến cô phải tin. Vì chính cậu ấy nói cho có ta biết.
- Nhưng… lý do gì thế?
Câu chuyện dài dòng lắm, cô Avdotia Romanovna ạ! Không biết nói thế nào cho cô hiểu bây giờ, ở đấy có một thứ lý thuyết, đại khái cũng như tôi nói là có thủ phạm một tội ác cá biệt, nếu có một mục đích chính tốt. Chỉ có một điều ác duy nhất thôi, mà lại được một trăm điều thiện! Lẽ dĩ nhiên cũng bực mình thật, khi người ta là một thanh niên có tài trí, lại có một lòng tự ái không bờ bến, biết rằng chỉ cần có lấy ba nghìn bạc chẳng hạn, là cả sự nghiệp, cả tương lai, cả cuộc đời mình sẽ khác hẳn, thế mà lại không có được ba nghin bạc ấy! Thêm vào đấy là một tâm trạng bị khích động vì đói, vì ở chật, mặc rách, vì nhận thức rõ rệt cái địa vị xã hội quá đẹp đẽ của mình, lại thêm tình cảnh của mẹ và em nữa. Chủ yếu là vì sĩ diện, vì tự hào và sĩ diện; vả chăng có trời biết được người ta có thể vẫn có những xu hướng tốt mà vẫn… Tôi không buộc tội cậu ấy, xin cô đừng nghĩ như vậy; mà đây cùng chẳng phải việc của tôi. Ở đấy cũng lại có một lý thuyết riêng, cùng khá hay ho, cho rằng loài người chia làm hai hạng. Cô thấy không: hạng vật liệu, và hạng người đặc biệt, nghĩa là những người có một vị trí cao khiến cho họ không cần đếm xỉa đến luật lệ, mà trái lại, còn ban bố luật lệ cho hạng người kia, hạng vật liệu, hạng cặn bã ấy. Cũng hay, cũng là một lý thuyết nghe được; une theorie comme une autre(1) cậu ấy rất mê say Napoleon, nói cho đúng hơn, điều làm cho cậu ấy mê say là có rất nhiều những kẻ thiên tài không thèm đếm xỉa đến cái ác cá biệt, cứ bước qua không hề nghĩ ngợi. Hình như cậu ấy tưởng tượng rằng mình là một thiên tài, - nghĩa là cậu ấy đã có một thời gian tin chắc như thế. Cậu ấy đã đau khổ rất nhiều và hiện nay vẫn đau khố vì nghĩ rằng mình đã biết dựng lên một lý thuyết nhưng bước qua không nghĩ ngợi thì lại không đủ sức bước, thế tức là mình không phải là thiên tài… Ấy, đối với một chàng thanh niên giàu lòng tự ái thì như vậy quả thật cũng nhục nhã, nhất là ở thời đại ta…
- Thế còn lương tâm, lòng hối hận? Thế ông cho rằng anh ấy không có ý thức gì về luân lý hay sao?
- Nhưng anh ấy có phải là hạng người như thế đâu? Ồ cô Avdotia Romanovna ạ, bây giờ thì mọi sự đều hỗn loạn, mà xưa nay cừng chưa bao giờ có trật tự cho lắm cả. Nói chung người Nga là những con người rộng rãi; Avdotia Romanovna ạ, rộng rãi như đất đai của họ vậy, và rất có xu hướng thiên về cái huyễn hoặc, cái hỗn loạn; nhưng rộng rãi mà lại không có thiên tài đặc biệt thì khốn to. Cô còn nhớ không, chúng ta đã từng nói chuyện tay đối với nhau rất nhiều về những chuyện như thế và cũng về đề tài nầy, những buổi tối ngồi trên sân thượng trong vườn sau bữa ăn chiều. Dạo ấy cô vẫn khiển trách tôi về cái tính rộng rãi ấy đấy. Biết đâu, chính trong khi chúng ta nói chuyện, cậu ấy đang nằm ở đâu, miên man với những ý nghĩ riêng của cậu. Trong giới học thức của ta không có những truyền thống thật thiêng liêng, cô Avdotia Romanovna ạ: hoạ chăng thỉnh thoảng mới có ai theo sách vở mà tạo ra cho mình một truyền thống… hay rút một cái gì từ các pho sử biên niên. Nhưng đó phần lớn là những nhà bác học, lại là những kẻ gàn dở đến nỗi người sống trong giới xã giao không thể nào theo họ được. Vả chăng, nói chung các quan niệm của tôi thì cô đều biết; tôi tuyệt nhiên không buộc tội ai hết. Chính bản thân tôi cũng là kẻ tay trắng, và tôi vẫn một mực như thế. Nhưng về vấn đề nầy thì ta đã nói khá nhiều lần. Thậm chí tôi còn có cái diễêm phúc được cô chú ý đến những ý kiến của tôi… Cô xanh lắm, Avdotia Romanovna ạ.
- Tôi có biết cái lý thuyết của anh tôi. Tôi có đọc bài báo của anh ấy đăng trong tạp chí, trong đó có nói đến những người được phép làm tất cả. Ông Razumikhin đưa cho tôi đọc.
- Ông Razumikhin à? Bài báo của anh cô? Trong một tờ tạp chí? Có một bài báo như thế thật ư? Thế mà tôi không biết. Chắc cái nầy mới thật lý thú! Nhưng cô đi đâu đấy Avdotia Romanovna?
- Tôi muốn gặp Sofia Xemionovna - Dunia nói, giọng yếu ớt. - Sang phòng cô ấy đi lối nào? Chắc cô ấy về rồi; bây giờ thế nào tôi cũng phải gặp cô ấy. Để cho cô ấy…
Avdotia Romanovna không nói được hết câu; hơi thở của nàng tắc lại.
- Phải đến khuya cô Sofia Xemionovna mới về. Tôi chắc thế. Đáng lẽ cô ta về rất sớm, nhưng bây giờ mà chưa về, thì sẽ về rất muộn.
- À thế ra mày nói dối! Ta biết… mày nói dối… bao giờ mày cùng nói dối! Ta không tin mày! Không tin! Không tin! - Dunia thét lên trong một cơn điên dại hoàn toàn, không còn chút trí khôn nào nữa.
Nàng gần như bất tỉnh ngã phịch xuống chiếc ghế mà Xvidrigailov đã xích lại cho nàng.
- Avdotia Romanovna, cô làm sao thế, cô tỉnh lại! Nước đây, cô uống lấy một ngụm.
Hắn rảy nước lên mặt nàng. Dunia rùng mình và mở mắt ra.
- Tác dụng mạnh thật - Xvidrigailov cau mày lẩm bẩm một mình. Avdotia Romanovna, cô bình tâm lại! Cô biết cho rằng cậu ấy có những người bạn. Chúng tôi sẽ cứu cậu ấy. Cô có muốn tôi đưa cậu ấy ra nước ngoài không? Tôi có tiền, nội ba ngày tôi sẽ xoay được vé tầu. Còn như cậu ấy có giết người, thì sau nầy cậu ấy còn làm được nhiều việc thiện để chuộc lại. Cô cứ yên tâm, lại còn có thể trở thành một vĩ nhân nữa. Kìa, cô làm sao thế? Cô thấy trong người ra sao?
- Người đâu mà độc ác! Lại còn nhạo báng nữa. Ông để tôi về!
- Cô đi đâu? Kìa, cô đi đâu thế?
- Tôi đi tìm anh ấy! Anh ấy ở đâu? Ông có biết không? Tại sao canh cửa nầy lại khoá? Ông với tôi vào đây bằng cửa nầy mà bây giờ lại khóa chặt. Ông đã đi khóa cửa từ lúc nào thế?
- Chả nhẽ lại cứ mở toang cửa cho các phòng khác nghe những chuyện vừa rồi? Tôi không hề có ý nhạo báng: tôi chỉ thấy chán cái kiểu nói nầy. Ấy, cô định đi đâu thế, hay là cô muốn phản cậu ấy? Cô làm cho cậu ấy phát khùng lên, và cậu ấy sẽ tự đi lộ tung tích mất. Xin cô biết cho rằng người ta đang theo dõi cậu ấy. Họ đã đánh hơi được rồi đấy. Rồi có chỉ làm lộ chuyện ra thôi. Khoan đã, cô ạ: tôi vừa gặp cậu ấy nói chuyện xong; còn có thể cứu thoát được. Cô đợi một tí, cô ngồi xuống đi, ta hãy cùng nghĩ cách. Tôi mời cô đến chính là để nói chuyện riêng với cô về việc ấy và cùng suy nghĩ cho kỹ. Kìa cô ngồi xuống chứ!
- Ông làm cách nào mà cứu anh ấy được? Có thể cứu anh ấy được thật ư?
Dunia ngồi xuống. Xvidrigailov cũng ngồi xuống cạnh nàng.
- Tất cả đều tuỳ ở có đấy, ở mỗi một mình cô! - Hắn mở đầu, mắt sáng long lanh, giọng gần như thì thầm, vẻ lúng túng và thậm chí còn xúc động đến nổi nói nhịu mất mấy chữ.
Dunia hoảng hốt né ra xa, hắn cũng run bắn cả người lên.
- Ồ chỉ một lời của cô thôi, là cậu ấy sẽ thoát! Tôi… tôi sẽ cứu thoát cậu ấy. Tôi có tiền, tôi có bạn. Tôi sẽ lập tức gửi cậu ấy đi, tôi sẽ thân hành đi lấy hộ chiếu, hai tờ hộ chiếu. Một cho cậu ấy, một cho tôi tôi. Tôi có nhiều bạn: họ là những người tháo vát cả… Cô có muốn không? Tôi sẽ lấy thêm cho cô một tờ hộ chiếu nữa… cho cả mẹ cô nữa… cô cần gì Razumikhin? Tôi cũng yêu cô. Tôi yêu vô cùng… Cho tôi hôn gấu áo của cô, cho tôi hôn… cho tôi hôn! Tôi không nghe nổi tiếng áo cô sột soạt. Cô hãy nói: làm việc ấy đi, và tôi sẽ làm. Tôi sẽ làm tất: Việc không thể làm được tôi cũng làm. Cô tin cái gì tôi cũng sẽ tin theo. Việc gì tôi cùng sẽ làm, làm tất! Cô đừng nhìn, đừng nhìn tôi như thế! Cô có biết là cô đang giết chết tôi không…
Thậm chí hắn còn bắt đầu mê sảng. Hắn bỗng biến sắc hắn đi như có một cái gì vừa phang lên đầu hắn. Dunia nháy phắt dậy chạy ra cửa.
- Mở ra! Mở ra. - nàng thét qua tấm cửa, hy vọng có ai ở ngoài nghe thấy và lấy tay lay cánh cửa. - Mở ra cho tôi với, kia! Không có ai ở ngoài ấy sao?
Xvidrigailov đứng dậy và sực tỉnh. Một nụ cười hiểm độc và ngạo nghể hiện dần lên trên đôi môi hãy còn run run của hắn.
- Không có ai ở nhà đâu - hắn khẽ buông từng tiếng một, - Bà chủ nhà đi rồi, có kêu cũng uổng công; chỉ tổ thêm bực mình vô ích.
- Chìa khóa đâu? Mở ngay ra, mở ngay lập tức, đồ hèn mạt!
- Tôi đánh mất chia khoá rồi, không thể tìm được.
- À! Ra mà định cưỡng hiếp! - Dunia thét lên, mặt tái nhợt hắn đi và chạy vào góc nhà, hối hả vớ lấy chiếc bàn con đặt vừa tầm tay để che mình. Nàng không kêu nữa: nhưng mắt nàng nhìn trừng trừng vào kẻ đang uy hiếp mình và chăm chú theo dõi từng cử động của hắn. Xvidrigailov cũng đứng ở trước mặt nàng, ở góc phòng đối diện. Thậm chí hắn còn lấy được tự chủ, ít nhất là bề ngoài. Nhưng mặt hẵn vẫn nhợt nhạt như cũ. Nụ cười ngạo nghề vẫn y nguyên.
- Cô vừa nói "cưỡng hiếp", cô Avdotia Romanovna ạ Đã là cưỡng hiếp, thì cô cũng thừa hiểu rằng tôi đã có biện pháp đề phòng. Sofia Xemionovna thì đi vắng; từ đây đến phòng Kapernaumov rất xa: cách những năm phòng khoá kín. Sau cùng là tôi ít nhất cũng khoẻ gấp đôi cô, và hơn nữa, tôi chẳng có gì phải sợ, vì dù sau nầy nữa cô cũng không thể khiếu nại gì được: chả nhẽ cô lại muốn hại anh cô? Mà cũng không ai người ta tin cô đâu: ấy, tại sao một người con gái lại một thân một mình đến phòng một người đàn ông độc thân? Thành thử dù cô có hy sinh anh cô đi nữa, thì cũng vẫn không chứng minh được cái gì hết: chứng minh một cuộc cưỡng hiếp khó lắm cô Avdotia Romanovna ạ.
- Quân đốn mạt - Dunia căm phẫn thì thào.
- Cũng được, nhưng xin cô lưu ý cho rằng đấy là tôi mới giả dụ thế thôi. Còn như theo ý riêng tôi, thì cô hoàn toàn đúng: cưỡng hiếp là một việc đốn mạt. Tôi nói thế chỉ là vì muốn cho lương tâm cô khỏi có gì ân hận nếu cô thuận lòng cứu anh cô một cách tự nguyện theo như lời đề nghị của tôi. Như thế nghĩa là cô có thuận chăng cũng chỉ vì hoàn cảnh, hay vì bị cưỡng hiếp cũng được, nếu cứ phải dùng đến mấy chữ ấy mới xong. Cô nghĩ đi; số phận của anh cô, của mẹ cô đang nằm trong tay cô. Còn tôi, tôi sẽ là kẻ nô lệ của cô… suốt đời… tôi sẽ đợi cô trả lời ở đây, ở chỗ nầy…
Xvidrigailov ngồi xuống chiếc đi-văng cách Dunia khoảng tám bước. Nàng không còn chút hồ nghi gì nữa về cái vẻ quyết tâm không gì lay chuyển của hắn. Vả chăng nàng cũng thừa biết hắn là người thế nào… Bỗng nàng rút trong túi ra một khẩu súng tay, lên cò rồi đặt bàn tay đang cầm súng lên bàn. Xvidrigailov nhảy phắt dậy:
- A ha! Ra thế cơ? - Hắn ngạc nhiên kêu lên, nhưng vẫn mỉm cười hiểm độc, - Ấy, cái đó làm cho tình thế thay đổi hắn? Chính cô đã làm cho công việc của tôi dễ dàng đi rất nhiều, cô Avdotia Romanovna? Nhưng cô lấy súng ở đâu ra thế? Có phải ông Razumikhin? Ơ! Súng của tôi rồi! Anh bạn cũ! Thế mà dạo ấy tôi cứ tìm mãi! Những buổi tập bắn mà tôi đã có hân hạnh hướng dẫn cho cô hồi còn ở thôn quê quả không phí hơi.
- Không phải súng của mày, súng của bà Marfa Petrovna mà mày đã giết chết đấy, đồ khốn nạn. Trong nhà bà ấy không có cái gì là của mày hết. Tao lấy khẩu súng nầy ngay từ dạo bắt đầu ngờ mày có thể làm những việc bất lương như thế nào. Hễ mày bước tới một bước thôi, tao thề sẽ bắn chết mày.
Dunia như điên như dại. Nảng cầm súng, sẵn sàng bóp cò.
- Thế còn ông anh thì sao. Là tôi hỏi cho biết, vì tò mò thế thôi, - Xvidrigailov hỏi, vẫn ứng nguyên ở chỗ cũ.
- Nếu muốn thì cứ đi mà tố giác. Đứng im! Không được nhúc nhích! Không tao bắn. Mày đã đầu độc vợ mày, tao biết, chính mày cũng là kẻ sát nhân…
- Thê cô tin chắc tôi đầu độc Marfa Petrovna à?
- Chính mày! Hình mày có nói bóng nói gió với tao như thế. Mày nói đến thuốc độc, tao biết là mày có đi mua… mày đã sắp sẵn chính mà giết chứ không ai vào đấy nữa… đồ khốn nạn.
- Dù có thật thế đi chăng nữa, thì cũng chính vì em… dù sao em cũng là nguyên nhân.
- Mà nói láo! Tao giờ tao cũng vẫn căm thù mày…
- Ê hè! Avdotia Romanovna? Rõ ràng là cô quên: trong khi say sưa tuyên truyền, cô đã cúi sát vào người tôi lịm đi… Tôi đã đọc thấy trong mắt cô; cô nhớ chứ, tối hôm ấy, dưới ánh trăng, có cả tiếng hoạ mi thánh thót…
- Nói láo! - Cơn phẫn nộ điên cuồng ánh lên trong mắt Dunia - Mày nói láo, đồ vu khống!
- Tôi nói láo? Thôi được, cứ cho là tôi nói láo? Đối với phụ nữ không nên nhắc nhở những chuyện ấy. - Hắn cười nhạt - Ta biết là em sẽ bắn thật, con vật xinh xắn kia. Nào thì bắn đi!
Dunia giơ súng lên, mặt nhợt nhạt như người chết rồi, môi dưới trắng bệch run run, đôi mắt đen mở to ánh lên như lửa nhìn thẳng vào lão. Chí nàng đã quyết nàng ước lượng khoảng cách và chỉ chờ một cử động nhỏ của lão về phía nàng. Chưa bao giờ Xvidrigailov thấy nàng đẹp như thế. Ánh lửa lóe ra từ mắt nàng trong giây phút nàng gí súng lên, như thiêu đốt lòng hắn, và hắn thấy tim thắt lại, đau nhói. Hắn bước lên một bước. Một phát súng nổ. Viên đạn sượt qua tóc hắn, cắm vào bức tường phía sau. Hắn dừng lại cười khẽ:
- Ông đốt đấy! Cô ta nhằm vào đầu. Cái gì thế nầy? Máu! - Hắn rút khăn lau dòng máu nhỏ như sợi chỉ chạy dọc theo thái dương bên phải: chắc hẳn viên đạn đã bắn sượt lớp da đầu. Dunia hạ súng xuống và nhìn Xvidrigailov không hẳn là sợ hãi: mà tuồng như ngơ ngác thì đúng hơn. Dường như nàng cũng không hiểu mình vừa làm gì, và đang có việc gì xảy ra.
- Thôi, thế là bắn trượt mất rồil Bắn nữa đi, tôi đợi - Xvidrigailov nói khẽ, vẫn còn mỉm cười, nhưng là một nụ cười u uất, - Cứ thế nầy thì cô chưa kịp lên cò tôi đã có đủ thì giờ túm lấy cô rồi!
Dunia giật mình, vội vã lên cò vả lại giơ súng lên.
- Ông thả tôi ra! - nàng tuyệt vọng thốt lên, - tôi thề là tôi sẽ bắn lần nữa… Tôi… sẽ bắn trúng…
- Được thôi… cách có ba bước thì gì mà chả trúng. Ấy nhưng nếu không trúng… thì - Mắt hắn long lên sòng sọc, và hắn bước thêm hai bước nữa.
Dunia bóp cò. Súng bị hóc.
- Cô lên đạn không cẩn thận. Không sao! Còn một viên nữa đấy. Cô chữa lại đi, tôi đợi.
Hắn dừng trước mặt nàng cách hai bước, chờ đợi và nhìn nàng với một quyết tâm man dại, đôi mắt long lên, nặng trĩu dục vọng. Dunia hiểu rằng hắn thà chết còn hơn thả nàng ra. "Và… và bây giờ chỉ còn cách có hai bước, tất nhiên sẽ bắn trúng!"
Bỗng nhiên nàng vứt súng.
- Vứt đi rồi! - Xvidrigailov ngạc nhiên thốt lên và thở ra một hơi dài. Lòng hắn như bỗng cất được một gánh nặng, và có lẽ đó không phải chỉ là gánh nặng của nỗi sợ hãi trước cái chết: giờ phút ấy hắn cùng khó lòng có được cái cảm giác sợ hãi ấy. Hắn thấy thoát được một cảm giác khác, cay đắng và u uất hơn, mà chính hắn cũng không thể xác định cho thật rõ được.
Hắn đến bên Dunia và khẽ ôm lấy thân nàng.
Nàng không kháng cự, nhưng run bắn lên như chiếc lá, nàng nhìn hắn với đôi mắt van lơn, hắn toan nói gì, nhưng chỉ thấy môi hắn mấp máy mà không thốt nên lời.
- Buông tôi ra - Dunia khẩn khoản.
Xvidrigailov rùng mình; giọng nói của nàng không hiểu sao đã thay đổi hẳn, không còn giận dữ như trước nữa.
- Thế em không yêu sao? - hắn hỏi khẽ.
Dunia lắc đầu.
- Và em không bao giờ… có thể…? - hắn thì thào, tuyệt vọng.
- Không đời nào! - Dunia thì thào.
Trong một khoảnh khắc có một sự giằng co lặng lẽ nhưng vô cùng dữ dội diễn ra trong tâm hồn Xvidrigailov. Hắn nhìn nàng, cái nhìn không sao diễn tả nổi. Bỗng hắn buông tay, quay lại, hấp tấp bước ra đứng ở cửa sổ.
Một khoảnh khắc trôi qua.
- Chìa khoá đây! - Lão rút cái chìa khóa từ túi bên trái áo bành-tô và để lên chiếc bàn ở sau lưng, không nhìn Xemion Xemionovich cũng không ngoảnh về phía Dunia. - Cô cảm lấy; cô đi nhanh lên!
Lão cứ một mực nhìn mãi ra cửa sổ.
- Nhanh lên. Nhanh lên! - Xvidrigailov nhắc lại, vẫn không cử động, không ngoảnh lại Nhưng qua giọng hắn khi nói hai tiếng nầy cùng thoáng nghĩ một âm thanh gì khủng khiếp.
Dunia chợt hiểu ra, nàng cầm lấy chìa khoá lao ra cửa, mở thật nhanh và đâm bổ ra ngoài. Một phút sau, như một con điên, không còn biết gì nữa, nàng chạy ra bờ sông và rẽ về phía cầu X.
Xvidrigailov đứng cạnh cửa sổ khoảng ba phút nữa; cuối cùng hắn từ từ quay lại, đưa mắt nhìn quanh và chậm rải đưa lòng bàn tay vuốt qua trán. Một nụ cười kỳ dị làm cho mặt hắn rúm ró lại, một nụ cười thảm hại, rầu rĩ, yếu ớt: nụ cười của tuyệt vọng. Máu đã gần khô, dây bẩn lòng bàn tay hắn; hắn hằn học nhìn vết máu, rồi nhúng khăn ướt lau thái dương, hắn chợt trông thấy khẩu súng của Dunia vứt ở cạnh cửa. Lão cầm lên ngắm nghía. Đó là một khẩu súng tay nhỏ cỡ bỏ túi kiêu cũ, bắn được ba phát; trong ổ quay còn có hai viên đạn và một ngòi thuốc. Còn có thể bắn được một phát nữa. Hắn ngẫm nghĩ một lúc đút súng vào túi, cầm lấy mũ và ra ngoài.
Chú thích:
(1) Cũng là một lý thuyết như mọi lý thuyết khác (tiếng Pháp)
Chương 35
Suốt buổi tối hôm ấy mãi đên mười giờ Xvidrigailov la cà hết tiệm nầy đến quán khác. Hắn lại tìm đâu ra được Katia, cô ta lại hát một bài hát của hạng bồi bếp, trong đó có trách ai là "đồ hèn mạt và bạo chúa".
Hắn quay ra hôn Katia.
Xvidrigailov thết rượu cả Katia, cả thằng bé quay phong cầm, cả bọn phường hát, cả bọn hầu bàn, lại cả hai viên thư lại quèn nào đấy nưã. Lão kết bạn với hai viên thư lại nầy cũng vì cả hai đều lệch mũi: một anh thì mũi quẹo sang bên phải, một anh thì mũi quẹo sang bên trái. Điều đó gây cho Xvidrigailov một ấn tượng rất mạnh. Cuối cùng hai viên thư lại rủ lão đèn một khu vườn du hý nào đấy; lão mua vé vào cửa và trả tiền cho cả bọn. Trong vườn nầy có một cây tùng mảnh dẻ trồng được ba năm và ba bụi cây nhỏ. Ngoài ra còn có một cái "Vauxhall" (tiệm trà có ca nhạc), thật ra 1à một tiệm bán bia, nhưng cũng bán cả nước trà nữa. Trong vườn có đặt những chiếc bàn con sơn xanh và mấy chiếc ghếê. Một phường hát rất tồi và một người Đức ở Munkhen ăn mặc theo kiểu hề rơm, say rượu, mũi đỏ chót, nhưng không hiểu sao trông lại có vẻ hết sức chán chường, đang mua vui cho công chúng. Hai viên thư lại cái nhau với mấy viên thư lại khác nữa và đã đã sinh sự đánh nhau. Xvidrigailov được họ chọn làm người phân xử, hắn phân xử đã được mười lăm phút rồi nhưng họ cứ thi nhau gào to đến nỗi không sao hiểu được một tí gì.
Đâu hình như có một người trong bọn họ ăn cắp một cái gì và thậm chí đã có đủ thì giờ đem bán cho một lão Do Thái tình cờ ghé vào đây; nhưng bán xong lại không chịu chia tiền cho bạn. Cuối cùng mới vỡ nhẽ ra rằng vật đem bàn là một cái thìa trà của Vauxhall. Người ta đã nhận ra cái thìa, và chuyện bắt đầu đâm ra lôi thôi to. Xvidrigailov liền xuất tiền đền cái thìa rồi đứng dậy ra khỏi vườn. Lúc ấy khoảng mười giờ tối. Suốt thời gian qua hắn không uống lấy một giọt rượu nào, chỉ gọi trà cho có lệ mà thôi.
Tối hôm ấy trời u ám và oi bức. Khoảng mười giờ có những đám mây đen ngòm ở đâu ùn ùn kéo đến; sấm chuyển ầm ầm, rồi mưa trút xuống như thác. Nước mưa không rơi từng giọt, mà lại đổ xuống từng mảng quất đen đét lên mặt đất. Phút phút lại có ánh chớp, và mỗi đợt chớp như vậy kéo dài đến nỗi có thể nhẩm đếm đến năm. Người ướt như chuột lột, Xvidrigailov về nhà, khoá cửa lại, mở ngăn kéo bàn lấy hết tiền ra và xé vụn hai ba tờ giấy gì đấy. Đoạn hắn đút tiền vào túi, toan thay quần áo nhưng rồi nhìn ra cửa sổ và lắng nghe tiếng sấm, tiếng mưa ở bên ngoài hắn khoát tay một cái, cầm lấy mũ và đi ra, không đóng cửa phòng.
Hắn đi thẳng đến gặp Sonya. Nàng đang ở nhà.
Trong phòng không phải chỉ có một mình nàng, quanh nàng có bốn đứa con nhỏ của ông Kapernaumov.
Sofia Xemionovna đang cho chúng uống nước trà. Nàng im lặng và kính cẩn đón chào Xvidrigailov, ngạc nhiên nhìn bộ quần áo ướt sũng của hắn, nhưng không nói lấy một lời. Bọn trẻ con thì lập tức bỏ chạy: sợ khiếp vía đi. Xvidrigailov ngồi xuống cạnh bàn và mời Sonya ngồi bên cạnh. Nàng rụt rè lắng tai chờ nghe hắn nói.
- Cô Sofia Xemionovna ạ, có lẽ tôi sắp đi Mỹ, - Xvidrigailov nói, - và vì lần nầy tôi gặp cô có lẽ là lần cuối, cho nên tôi muốn đến dặn có mấy việc. Sao, hôm nay cô đã gặp phu nhân chưa? Tôi biết phu nhân đã nói với cô những gì, không cần kể lại nữa. (Sonya phác một cử chỉ, và đỏ mặt) hạng người ấy họ có một nề nếp riêng. Còn về các em cô thì quả thật bây giờ đã thu xếp ổn thoả, và số tiền dành cho chúng thì tôi đã ký quỹ có lấy biên lại cho từng đứa, toàn vào tay người tin cẩn cả. Vả chăng cũng xin cô giữ lấy mấy tờ biên lại, phòng khi nhỡ có việc gì chăng. Đây, cô cầm lấy! Thôi, bây giờ thế là xong. Đây tà ba tờ ngân phiếu năm phân, trị giá cả thảy là ba nghìn. Xin cô giữ lấy để dùng riêng cho cô, tiền nầy là tiền của cô. Việc nầy chỉ có tôi với cô biết thôi đấy, dù sau nầy cô có nghĩ nói chuyện gì, cũng đừng cho ai biết. Cô cần số tiền ấy vì, cô Sofia Xemionovna ạ, sống như trước kia thì xấu lắm, vả lại bây giờ cô chẳng việc gì phải sống như thế nữa.
- Tôi đã chịu ơn ông quá nhiều, cả lũ trẻ mồ côi và người mẹ quá cố, - Sonya nói hấp tấp, - Cho nên, nếu lâu nay tôi ít có lời cảm tạ ông, thì… xin ông đừng cho rằng…
- Thôi… được rồi, được rồi.
- Còn số tiền nầy, ông Arkadi Ivanovich ạ, tôi rất đội ơn, nhưng bây giờ tôi không cần tiền. Tôi cũng đủ sức làm lấy mà ăn, xin ông đừng nghĩ là tôi vô ân: ông đã có lòng như thế thì số tiền nầy…
- Ấy, cô cứ cầm lấy, cô Sofia Xemionovna ạ, tôi xin cô, và cô cũng đừng nhiều lời làm gì nữa, vì tôi cũng đang vội. Cô cần tiền đấy. Rodion Romanovich chỉ có hai con đường: cho một viên đạn vào óc, hai là đi Vladimirka (l).
Sonya ngơ ngác nhìn lão và bắt đầu run cầm cập.
- Cô đừng lo, tôi biết hết, và do chính cậu ấy nói ra, mà tôi không phải là người bẻm mép, tôi không nói cho ai biết đâu. Hôm ấy cô bảo cậu ấy ra tự thú là rất phải. Như thế có lợi cho cậu ấy hơn nhiều. Ấy, thế là cậu ấy đi Vladimirka, còn cô thì đi theo cậu ấy. Đúng thế phải không? Có đúng không nào? Ấy, đã thế thì cô phải cần đến tiền. Cần tiền cho cậu ấy, cô hiểu không? Tôi cho cô cũng như cho cậu ấy thôi, hơn nữa cô có hứa trả nợ cho mụ Amalya Ivanovna tôi có nghe nói. Cô Sofia Xemionovna, sao cô lại đi nhận lấy những công nợ ấy một cách thiếu suy nghĩ như vậy? Vì Katerina Ivanovna mắc nợ cái con mẹ người Đức ấy, chứ có phải cô đâu, thế thì cô nhổ toẹt vào. Ở đời như thế không được đâu. Đây, nếu sau nầy có ai hỏi gì tôi. - ngày mai hay ngày kia gì đấy thế nào họ cũng hỏi cô, cô đừng nói là tôi có đến đây và tuyệt nhiên không được nói với ai hoặc để lộ cho ai biết là tôi có cho cô tiền. Thôi bây giờ thì xin từ biệt.
Hắn rời ghế đứng dậy.
- Tôi gửi lời chào cậu Rodion Romanovich. À, tạm thời cô hay gửi số tiền nầy cho ai giữ hộ… cho ông Razumikhin cũng được. Cô có biết ông Razumikhin không? Chắc cô phải biết. Một tay cũng khá. Cô cứ mang lại đằng ông ngày mai hay khi nào đến lúc. Còn từ bây giờ đến lúc ấy, thì cô cất đi cho kỹ.
Sonya cũng vụt đứng dậy, hoảng hốt nhìn hắn. Nàng rất muốn nói một điều gì, hỏi một câu gì, nhưng mấy phút đầu nàng không dám, vả lại cũng không biết mở đâu ra sao.
- Ông làm thế nào, bây giờ trời mưa thế nầy… ông đi sao được.
- Ấy định đi sang Mỹ mà lại sự mưa ư. Hê - hê. Thôi chào cô Sofia Xemionovna rất mến? Cô hãy sống đi, và sống cho trọn vẹn, cô sẽ có ích cho nhiều người. À cô nói với ông Razumikhin là tôi có gửi lời chào. Cô cứ nói thế nầy: Arkadi Ivanovich Xvidrigailov có lời chào ông. Thế nào cô cũng phải nói đấy.
Hắn đi ra, để mặc Sonya ngồi lại với nỗi ngạc nhiên, sợ hãi và một mối nghi ngờ mơ hồ, u uất.
Về sau người ta mới biết là ngay tối hôm ấy, khoảng mười hai giờ Xvidrigailov lại còn tiến hành một cuộc thăm viếng khá kỳ quặc và bất ngờ nữa. Mưa vẫn không tạnh. Khoảng mười hai giờ kém hai mươi, người ướt sũng, hắn bước vào căn nhà chật hẹp của cha mẹ cô vợ chưa cưới, trên đại lộ thứ ba của đảo Vaxili, đại lộ Maluy. Hắn đấm cửa sầm sầm và lúc đấu làm cho cả nhà cuống lên; nhưng Arkadi Ivanovich khi cần cũng biết có những phong độ rất hoà nhà dễ ưa, cho nên từ lúc đầu hai bậc cha mẹ rất khôn ngoan ấy có phỏng đoán (vả chăng đây cũng là một điều phỏng đoán sắc sảo) rằng Arkad Ivanovnovich có lẽ đi uống rượu ở đâu về say khướt không còn biết mô tê gì nữa, nhưng về sau gia thiết ấy đã tự nó sụp đổ ngay. Bà mẹ đa cảm và khon ngoan đẩy chiếc ghế bành có bánh xe của ông bố tàn tật ra gặp Arkadi Ivanovich và lập tức theo thói quen bắt vào những câu hỏi xa xôi nào đấy. Người đàn bà nầy không khi nào hỏi thẳng, lúc đầu bao giờ cũng huy động những nụ cười và những cái xoa tay ra đã, rồi sau đó mới hỏi loanh quanh một hồi, chẳng hạn, nếu cần biết, thật chắc chắn và chính xác Arkadi Ivanovich định đến bao giờ thì tiến hành hôn lễ, thì bà ta bao giờ cũng bắt đầu hỏi han một cách hết sức tò mò và hầu như háo hức nữa về thành phố Paris, về sinh hoạt cũng định ở đấy và hoạ chăng mãi về sau mới dần đã tuần tự lái về đại lộ thứ ba của đảo Vaxili. Vào những lúc khác thì dĩ nhiên cái lối đó được tôn trọng rất mực, nhưng lần nầy Arkadi Ivanovich không hiểu sao tỏ ra nôn nóng lạ thường và đường đột ngỏ ý muốn gặp vị hôn thê, mặc dầu người ta đã cho hắn biết ngay từ đầu là vị hôn thê đã đi ngủ. Lẽ dĩ nhiên cô vị hôn thê bèn ra mắt, và Arkadi Ivanovich nói thẳng cho cô ta biết ngay rằng có một việc rất quan trọng buộc hắn phải đi khỏi Petersbung trong một thời gian, cho nên hắn mang lại cho cô ta một vạn rưỡi rúp bạc gồm nhiều loại ngân phiếu khác nhau, xin cô nhận làm quà, vì từ lâu hắn đã định biếu cô món tiền nhỏ ấy trước khi cưới. Qua những lời giải thích nầy chẳng thấy có một mối liên hệ gì logic cho lắm giữa món quà ấy với chuyến đi gấp gáp kia, cũng khó lòng hiểu nổi tại sao lại phải mang quà đến vào lúc nửa đêm trong khi trời mưa như trút, tuy vậy, mọi việc đều diễn ra một cách khá êm thấm. Ngay cả những tiếng ồ à, những câu hỏi dồn dập và những nỗi ngạc nhiên cũng bỗng dưng đâm ra vừa phải và dè dặt khác thường; ngược lại lòng biết ơn được bày tỏ ra một cách nhiệt thành và còn được xác mình thêm bằng những giọt nước mắt của bà mẹ rất khôn ngoan kia nữa. Arkadi Ivanôvich đứng dậy cười lớn, ôm hôn vị hôn thê, vỗ vỗ lên má cô ta, quả quyết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ trở lại. Nhận thấy trong khoé mắt cô ta có một nỗi tò mò tuy thơ ngây nhưng cũng bao hàm cả một câu hỏi thầm lặng mà trang nghiêm, hắn ngẫm nghĩ một lát, hôn cô bé một lần nữa và trong thâm tâm chợt thấy bực mình một cách thành thật khi nghĩ rằng món quà kia sẽ lập tức được đem khoá kỹ vào chiếc rương của bà mẹ khôn ngoan nhất đời.
Hắn ra đi, để mọi người ngồi lại với một tâm trạng phản khích khác thường. Nhưng bà mẹ đa cảm đã lập tức giải quyết một số thắc mắc quan trọng nhất, giọng thầm thì, liến thoắng, bà nói Arkadi Ivanovich là một nhân vật trọng yếu một con người có lắm công việc, giao thiệp rộng rãi, giàu có. Có trời mới biết trong đầu óc ông ta có những gì, chắc ông nảy ra một ý gì, thế là bèn ra đi, lại nảy ra một khác, thế là mang tiển đến biếu, cho nên chắng có gì phải lấy làm lạ cả. Lẽ dĩ nhiên: ông ta ướt như chuột lột trông cũng kỳ quặc thật, nhưng người Anh chẳng hạn họ còn kỳ quặc gấp mấy, vả lại những người thượng lưu như ông ta thì sợ gì ai dị nghị, họ không cần kiểu cách. Thậm chí có lẽ ông ta có làm như vậy để chứng tỏ rằng mình chẳng sợ ai cũng nên. Cái chính là không được nói gì với ai về việc nầy vì có trời biết sự việc rốt cục sẽ ra sao, còn tiền bạc thì phải cho vào rương khoá ngay lại, và lẽ dĩ nhiên, may mắn sao con Fedioxia lúc bấy giờ lại đang ngồi dưới nhà bếp. Nhất là tuyệt nhiên, tuyệt nhiên không được hở tí gì với cái con mẹ Resslich kia cả, vân vân, vân vân. Họ ngồi nói chuyên rì rầm mãi đến hai giờ khuya. Cô vị hôn thê thì đi ngủ sớm hơn nhiều, lòng băn khoăn và hơi buồn.
Trong khi đó, đúng mười hai giờ đêm, Xvidrigailov qua cầu X, đi về khu Petersburg cũ. Mưa đã tạnh, nhưng gió vẫn thổi ào ào, hắn bắt đầu run, và trong khoảng một phút đưa mắt nhìn xuống giòng nước tối đen của nhánh Neva Con một cách đặc biệt tò mò, thậm chí còn có vẻ băn khoăn nữa. Nhưng chẳng mấy chốc hắn cảm thấy đứng trên mặt sông lạnh quá; hắn quay trở lại và đi vào đại lộ X, hắn bước trên đại lộ X, dài vô tận một hồi lâu, đi đến nửa giờ, trong bóng tối mấy lần vấp chân vào bờ lề bằng gỗ: nhưng vẫn không ngừng tò mò tìm kiếm một cái gì ở mé bên phải đại lộ. Đâu vào khoảng cuối đại lộ, nhân có lần đi qua cách đây ít lâu, hắn đã để ý đến một khách sạn làm bằng gỗ nhưng khá rộng, và lão nghe đâu như tên khách sạn là Adryanopol thì phải. Hắn tính không sai: giữa nơi vắng vẻ nầy, toà khách sạn ấy là một điểm nổi bật nên không thể không tìm ra được, dù trong bóng tối cũng vậy. Đó là một toà nhà dài bằng gỗ đã đen xỉn lại. Tuy đã khuya, trong nhà vẫn có ánh đèn và không khí vẫn khá nhộn nhịp. Xvidrigailov vào hành lang thì gặp một người ăn mặc rách rưới ra đón. Hắn hỏi thuê một căn buồng. Người kia nhìn hắn từ đầu đến chân, rũ mình một cái cho tỉnh rồi lập tức dẫn hắn vào một căn buồng riêng chật chội và ngột ngạt, đâu ở tận cuối hành lang, trong góc, bên dưới một cái cầu thang. Nhưng không còn phòng nào khác. Người ăn mặc rách rưới nhìn khách có ý dò hỏi.
- Có trà không? - Xvidrigailov hỏi.
- Có thể được ạ!
- Còn có gì nữa không?
- Có thịt bê, có vodka, có thức nhắm ạ…
- Đem thịt bê và nước trà ra đây!
- Ngài không cần gì thêm nữa ạ! - Người hàu hỏi, hơi ngỡ ngàng.
- Không, không cần gì nữa hết.
Người hầu lui ra, hoàn toàn thất vọng.
"Chắc đây phải là một chỗ tốt - Xvidrigailov tự nhủ, - thế mà mình không biết. Có lẽ mình trông cũng giống một người vừa ở tiệm ca vũ về, nhưng dọc đường đã có chuyện lôi thôi. Mà kể cũng lạ thật, không biết những người ngủ trọ ở đây là hạng người nào".
Hắn thắp nến nhìn gian buồng cho kỹ. Đó là một cái chuồng nhỏ đến nỗi hầu như không chứa nỗi khổ người của Xvidrigailov, vẻn vẹn chỉ có một cửa sổ; giường thì rất bẩn; cái bàn gỗ sơn và chiếc ghế choán gần hết cả phòng. Tường trông như làm bằng những mánh ván đóng đinh lại với nhau, giấy dán tường sờn rách và bụi bặm đến nỗi tuy còn có thể đoán được nó màu vàng, nhưng không còn trông thấy hình vẽ gì nữa. Vách và trần đều bị cắt chéo qua, như trong các gian gác xẻ vẫn thường thấy, nhưng ở đây phía trên không phải là mái nhà, mà là một cái cầu thang. Xvidrigailov đặt cây nến xuống, ngồi vào giường và bắt đầu suy nghĩ. Nhưng một tiếng thì thào kỳ dị ở phòng bên, một tiếng thì thào không ngớt, đôi khi lại to dần lên suýt thành tiếng thét, cuối cùng khiến hắn chú ý. Từ khi hắn vào đến giờ, tiếng thì thào không lúc nào gián đoạn. Hắn lắng tai nghe: có ai đang chửi rủa và trách móc một người nào khác, giọng thì thào nghe gần như khóc, nhưng mãi vẫn chỉ nghe giọng một người mà thôi. Xvidrigailov đứng dậy lấy tay che ngọn nến. trên vách lập tức lóe len một khe hở nhỏ. Hắn 1ại gần dòm sang. Trong một căn buồng rộng hơn buồng hắn một chút, có hai người khách trọ. Một trong hai người không mặc áo ngoài, tóc xoăn tít, mặt đỏ và sưng phị, đang đứng với tư thế một nhà diễn thuyết, hai chân chạng ra để giữ thăng bằng, vừa đấm lên ngực vừa làm giọng thăm thiết trách mắng người kia là đồ bần hàn không có lấy một địa vị xã hội, đã được hắn ta vớt từ chốn bùn lầy và hễ hắn ta muốn thì hắn có thể đuổi ngay, và chỉ có đấng tối cao thấy rõ điều đó. Người bạn bị trách mắng ngồi trên ghế và trông như một người đang muốn hắt hơi vô cùng mà không sao hắt hơi được. Thỉnh thoảng hắn lại ngước đôi mắt đục ngầu và đờ đẫn như mắt cừu lên nhìn diễn giả, nhưng rõ ràng là hắn không hể hiểu lấy một tí gì và thậm chí chắc cũng chẳng nghe thấy gì nữa. Trên bàn có một ngọn nến đã sắp tàn, một bình rượu đã gần cạn, mấy cái cốc, một mẩu bánh mì, mấy quả đưa chuột và mấy cái chén trà đã uống cạn từ lâu. Sau khi nhìn kỹ cảnh tượng nầy, Xvidrigailov dửng dưng rời cái khe hở trên vách và trở về ngồi trên giường như lức nãy.
Người hầu ăn mặc rách rưới đem nước trà và thịt bê vào. Hắn không sao nhịn cho khỏi hỏi lần nữa: "Có cần gì nữa không ạ?" - và sau khi lại nghe một câu trả lời phủ định, hắn lui ra hắn, không trở lại nữa.
Xvidrigailov vồ lấy chén trà uống cho ấm người lên, nhưng ăn thì không sao ăn được lấy một miếng, vì miệng cứ nhạt phèo ra. Hình như hắn bắt đầu sốt. Hắn cởi áo khoác ngoài, áo vét-tông, trùm chăn nằm xuống giường.
Hắn thấy bực mình: "Dù sao, giá lần nầy mà khoẻ mạnh vẫn hơn" - hắn nghĩ thầm rồi cười nhạt. Trong phòng rất ngột ngạt, ngọn nến cháy leo lét, bên ngoài gió thổi ào ào, đâu đây trong một xó, có tiếng chuột gặm sồn sột, mà khắp phòng hình như cũng thoảng có mùi chuột và mùi đồ da. Xvidrigailov nằm yên, mơ mơ, màng màng: ý nghĩ nầy cứ kế tiếp theo ý nghĩ nọ, hình như hắn cùng rất muốn cho trí tưởng tượng bám hẳn vào một cái gì nhất định. "Chắc ở bên dưới cái cửa sổ kia là một khu vườn gì đấy, - hắn nghĩ. - Cây cối cứ rì rào; ban đêm mình không ưa nghe tiếng lá rì rào trong bóng tối, trong mưa bão một tí nào, cái cảm giác thật khó chịu!" Và hắn sực nhớ ra rằng lúc đi ngang qua công viên Petrovxki, hắn còn thấy ghê người lên khi nghe đến cảm giác ấy. Nhân đấy hắn lại nhớ đến cầu X và nhánh sông Neva Con, và lại thấy lạnh như lúc nãy, khi đứng trên giòng nước. "Trong đời ta chưa bao giờ thích nước, ngay trong những bức tranh phong cảnh cũng vậy, Xvidrigailov lại tự nhủ, rồi bỗng một ý nghĩ kỳ dị lại khiến hắn bật cười: - Lẽ ra bây giờ ta phải dửng dưng đối với những vấn đề thẩm mỹ và tiện nghi ấy mới phải, thế nhưng đằng nầy lại đâm ra tủn mủn, khó tỉnh, cứ như một con thú quyết chọn cho bằng được một chỗ thuận lợi… trong một trường hợp như thế nầy. Lúc nãy mình cứ muốn rẽ về phía công viên Petrovxki cho kỳ được. Lúc ấy có lẽ mình thấy tối, thấy lạnh, hê- hê! Cứ như thế mình cần những cảm giác dễ chịu ấy? À, sao mình lại không tất nên đi nhỉ?" - Hắn thổi tắt cây nến. "Ở phòng bên họ đã đi ngủ. - hẳn thì thầm, không thấy ánh sáng chiếu qua cái khe hở ban nãy - Bà Marfa Petrovna ạ, đây, bây giờ bà có thể đến than phiền được đấy, chỗ nầy thích hợp lắm, phòng lại tối om, mà giờ phút nầy lại khá đặc sắc, thế mà chính vào lúc nầy thì bà lại chẳng đến…".
Không hiểu tại sao Xvidrigailov chợt nhớ ra rằng lúc nầy, một giờ trước khi thì hành ý định cưỡng hiếp Dunia, hắn có khuyên Raxkonikov giao nàng cho Razumikhin bảo vệ. Thật ra, có lẽ mình nói thế phần lớn là để tự kích thích, đúng như Raxkonikov phỏng đoán. Mà cái thằng cha Raxkonikov ấy bợm thật hắn cả gan lắm. Sau nầy, dần đã hắn có thể thành một tay đại bợm, khi nào đã bớt vớ vẩn, chứ bây giờ thì hắn thèm sống quá đỗi. Về điểm nầy thì bọn ấy hèn nhát lắm. Mà kệ xác hắn, hắn muốn thế nào mặc hắn, việc gì đến mình!
Hắn nằm mãi vẫn không ngủ được. Dần dần hình ảnh Dunia lúc nãy bắt đầu hiện lên trước mắt hắn, và hắn bỗng rùng mình. "Không, cái đó thì bây giờ phải gạt đi, - hắn sực tỉnh, tự nhủ thầm, - phải nghĩ đến một cái gì khác. Thật kỳ lạ và buồn cười: ta chưa bao giờ căm thù ai sâu sắc, thậm chí cũng không bao giờ thấy thèm trả thù cho lắm, mà đó là một triệu chứng chẳng lành? Ta cũng không thích tranh luận và không hay nổi nóng - Cũng là một triệu chứng không hay! Mà lúc nãy ta hứa với nàng bao nhiêu chuyện… xì, quỷ! Thế nhưng đáng lẽ nàng có thể làm cho ta trở thành một con người khác hẳn…" Hắn lại im lặng, răng nghiến chặt lại: hình ảnh Dunia lại hiện lên trước mặt hắn, đúng hệt như khi nàng vừa bắn phát thứ nhất, hoảng sợ hạ súng xuống, lặng người đi đứng nhìn hắn: lúc ấy hắn thừa thì giờ ôm chầm lấy nàng. Và nàng cũng không giơ tay lên để tự vệ đâu, nếu chính hắn không nhắc nàng, hắn sực nhớ ra rằng trong khoảnh khắc đó dưòng như hắn thấy thương hại nàng: tim hắn cứ se lại…"Cha! Mẹ kiếp lại những ý nghĩ ấy rồi. Hãy gạt hết những thứ ấy đi, gạt hết!" hắn đã bắt đầu thiêm thiếp: cơn run vì sốt đã ngớt; bỗng hắn có cảm giác như một vật gì chạy dưới làn chăn, dọc theo tay chân hắn, hắn rùng mình. "Chà, quỷ thật, chắc là chuột! - hắn nghĩ thầm - tại mình cứ để miếng thịt bê ở trên bàn". Hắn thấy ngại quá, không muốn giở chăn đứng dậy: lạnh lắm; nhưng bỗng lại có một cảm giác buồn buồn rất khó chịu ở chân, hắn tung chăn dậy thắp nến lên. Người run cầm cập vì sốt rét, hắn cúi xuống xem xét mặt giường - Chắng thấy gì hết. Hắn rũ chăn, thì bỗng một con chuột, nhảy ra tấm vải lót giường. Hắn chồm lại bắt con chuột; nhưng con chuột không chịu rời giường bỏ đi nơi khác, mà cứ chạy loạn xạ trên giường, nó luồn qua ngón tay hắn, leo qua cánh tay và chui tọt xuống đướt gối; hắn ném chiếc gối đi, nhưng trong nháy mắt hắn cảm thấy cái gì nhảy lên bụng hắn, bò bò trên người và luồn ra sau lưng, dưới lần áo sơ-mi. Hắn rùng mình và tỉnh dậy. Trong phòng tối om, hắn đang nằm trên giường, vẫn trùm chăn kín như cũ. Ngoài cửa sổ, gió vẫn rít lên.
"Khỉ thật?" - hắn bực dọc nghĩ thầm. Hắn vùng dậy ngồi ở mép giường, quay lưng về phía cửa sổ. "Tốt hơn là đừng ngủ nữa" - hắn tự nhủ.
Từ cửa sổ lùa vào một luồng không khí lạnh và ẩm; vẫn ngồi nguyên, hắn kéo chăn trùm lên người. Hắn không thắp nến. Hắn không nghĩ gì hết, mà cũng chẳng muốn nghĩ; nhưng những giấc mơ cứ thi nhau chớm hiện lên, trong đầu cứ loáng thoáng những mảng ý nghĩ không đầu không đuôi và chẳng có mạch lạc gì cả. Tuồng như hắn đã chìm vào một trạng thái nửa mê, nửa tỉnh. Không biết vì khí lạnh, vì bóng tối, vì ấm ướt, hay là vì những trận gió đang rít dưới cửa sổ đã gây nên trong tâm trí hắn một ý muốn, một xu thế gì quái đản và kiên trì, song hắn chỉ thấy hiện lên những bông hoa lại toàn những bông hoa, hắn mường tượng thấy một phong cảnh kỳ diệu: một ngày lễ Ba Ngôi sáng sủa, ấm áp gần như nóng bức, một ngày hội. Một ngôi biệt thự sang trọng ở thôn quê kiến trúc theo kiểu Anh, giữa những khóm hoa thơm ngát, chạy thành những bồn dài vây khắp bốn phía; thềm nhà phủ kín những cây leo, hai bên viền những bồn hoa hồng; một cầu thang gác sáng sủa, mát mẻ, trải một tấm thảm sang trọng, hai bên đặt nlừng chậu lung Trung Quốc trồng những thứ hoa quý. Hắn chú ý đặc biệt đến những chậu hoa có nước đặt trên các bậu cửa sổ: đựng những giò thuỷ tiên trắng muốt, mềm mại, đài trĩu trên những cành hoa xanh tươi mọng và dài, toả ra một mùi thơm ngào ngạt, hắn cứ tần ngần không nỡ rời chân, nhưng rồi cùng leo lên thang gác va bước vào một gian phòng khách rộng rãi, cao ráo. Ở đây lại cũng thế: liền các cửa sổ cạnh các cửa lớn mở ra sân thượng: ngay trên sân thượng, đâu đâu cùng thấy hoa. Sàn nhà rải một lớp cỏ thơm mới cắt và còn tươi. Các cửa sổ đều mở rộng, một làn không khí mát mẻ nhẹ nhàng, thơm tho bay vào phòng, chim chóc ríu rít dưới cửa sổ và ở chính giữa phòng, trên một cái bàn phủ tấm khăn liệm bằng xa tanh trắng, có một cỗ quan tài. Cỗ quan tài có đệm tơ Napoli và viền đăng-ten kiểu tổ ong. Những chùm giây hoa kết khắp bốn phía. Trong quan tài, giữa những đoá hoa, thấy đặt một cô bé mặc áo dài tuyn trắng, hai tat như chạn bằng cẩm thạch chắp thành hình chữ nhật để trên ngực. Nhưng mái tóc buông loà xoà của cô bé. một mái tóc vàng nhạt, lại ướt sũng. Những đường nét nghiêm khắc và đã cứng lại trên mặt cô bé cùng như được khắc bằng cẩm thạch nhưng nụ cười trên đôi môi nhợt nhạt của cô chan chứa một niềm tủi hổ không bờ bến và như chứa đựng một lời than thở thống thiết không phù hợp với tuổi thơ. Xvidrigailov biết cô bé nầy. Bên quan tài không thấy có tượng thánh, bạch lạp, và không nghe thấy tiếng cầu kinh. Cô bé là một kẻ tự tử, một kẻ đã trầm mình. Có mới mười bốn tuổi, nhưng đã có một cõi lòng tan nát, cô đã tự hãm hại mình vì một nỗi sỉ nhục đã làm cho trí óc ngây thơ non nớt của cô ngạc nhiên và hoảng sợ, đã dội vào tâm hồn trong trắng như thiên thần của cô một nỗi hổ thẹn không đáng phải chịu, và đã giật phắt từ đáy lòng cô ra tiếng kêu tuyệt vọng cuối cùng, không ai nghe thấy bị báng bổ một cách tráng trác trong bóng đêm dày đặc, trong mưa lạnh, trong tiết băng tan ẩm ướt, trong tiếng gió gào…
Xvidrigailov sực tỉnh, đứng dậy và bước ra cửa sổ. Hắn sờ soạng tìm chốt cửa và mở cửa ra. Gió điên cuồng lùa vào căn buồng chật hẹp và dường như phả sương giá vào màt lão, vào ngực: lão bấy giờ chỉ phủ một lần vải sơ mi, bên dưới cửa sổ chắc phải có một khu vườn gì đấy có lẽ là một khu vườn du hý; chắc ban ngày cũng có phường hát, cũng có những người hầu đem trà ra dọn ở các bàn con. Còn bây giờ thì từ các cành cây, các khóm lá, những giọt nước mưa băng vào cửa sổ; trời tối như mực, thành thử hoạ may chỉ phân biệt được lờ mờ những vệt sâm sẫm cho biết chỗ những vật trong vườn.
Xvidrigailov cúi xuống, chống khuỷ tay lên bậu cửae sổ, nhìn đăm đăm vào khoang không tối mịt khoảng mươi phút. Giữa đêm tối vang lên một tiếng đại bác rồi một tiếng khác.
"À súng hiệu! Nước song Neva dâng lên, - hắn nghĩ thầm, - sáng mai, ở những chỗ thấp, nước sẽ tràn lên phố, chảy vào những căn nhà hầm, chuột ở dưới hầm sẽ bơi lên, và giữa mưa gió sẽ có những người ướt như chuột lột vừa chửi rủa vừa khuân những mở giẻ rách của mình lên các tầng trên… Bây giờ mấy giờ rồi thế nhỉ?". Và hắn vừa tự hỏi như vậy thì gần đâu đây bỗng có một chiếc đồng treo tường đánh ba tiếng rè rè vội vã "Chà chỉ còn một tiếng nữa là sáng! Còn đợi gì nữa? Ta sẽ đi ngay, đi thẳng ra công viên Petrovxki. Ở đấy ta sẽ chọn lấy một bụi rậm rướt đầm nước mưa, chỉ cần lấy vai ấy một, cái là hàng triệu giọt nước dội lên khắp đầu…". Hắn lùi người xa cửa sổ, đóng cửa lại, thắp nến lên, mặc áo gi-lê, khoác áo ngoài, đội mũ và cầm nến ra hành lang để đi tìm người hầu rách rưới chắc đang ngủ đâu trong một cái buồng xép dùng làm kho chứa, giữa những mở đồ bỏ và những mấu nến, trả tiền trọ cho hắn và ra khỏi khách sạn. "Đây là giờ phút thuận lợi nhất không thể chọn lúc nào thuận lợi hơn nữa?
Hắn đi lại hồi lâu suốt dọc dãy hành lang dài và hẹp, nhưng chẳng thấy một ai, và đã toan gọi to lên, thì bỗng nhiên trong một xó tối, giữa một cái tủ cũ kỹ và cánh cửa lớn, hắn nhận ra một vật gì kỳ dị, dường như sinh động, hắn cầm nến cúi xuống thì thấy một đứa trẻ - một đứa con gái lên năm là nhiều, mặc một chiếc áo ướt sũng như miếng giẻ lau nhà, đang khóc và run cầm cập, hình như nó không sợ hài khi trông thấy Xvidrigailov, chỉ đưa đôi mắt to và đen láy nhìn lão với một vẻ ngạc nhiên ngây dại, thỉnh thoảng mới nắc lên một tiếng, như những đứa trẻ đã khóc lâu và đã nín, thậm chí cùng đã nguôi nguôi, nhưng rồi nghĩ sao lại muốn khóc nữa. Mặt con bé tái mét và phờ phạc: nó lạnh cóng đi rồi, nhưng "làm sao nó lại ở đấy? Hẳn là nó trốn ở đây và suốt đêm không ngủ", lão lên tiếng hỏi. Con bé bỗng hoạt bát hẳn lên và trả lời liến thoắng một hồi với cái giọng trẻ con nói đớt. Nó nói những gì, nào là "mẹ đếnh", nào là nó đã "đếnh gèy" (đánh vỡ) một cái chén gì đấy. Con bé nói không ngớt mồm; qua những chuyện nó kể cũng có thể đoán được phần nào rằng đó là một đứa con không được nuông chiềêu, mẹ nó, chắc là một mụ đầu bếp say rượu nào đấy; có lẽ làm ở khách sạn nầy, đã đánh đuổi làm cho nó hoảng sợ; con bé đã làm vỡ một cái chén của mẹ nó, sợ quá đã bỏ trốn đi từ chập tối; có lẽ nó đã ngồi ngoài mưa khá lâu, mãi sau mới lẻn được vào đây, nấp sau tủ và ngồi suốt đêm trong xó, vừa khóc vừa run vì lạnh, vì tối và vì sợ lại bị mẹ đánh vì đã đi trốn như vậy.
Xvidrigailov bế nó về buồng, đặt nó ngồi lên giường và bắt đầu cởi áo quần cho nó. Đôi giầy thủng của nó, không có tất, ướt sũng như thể đã ngâm suốt đêm trong một vùng nước. Cởi áo quần cho nó xong, Xvidrigailov đặt nó nằm lên giường, lấy chăn trùm kín cả đầu cho nó. Nó lập tức ngủ thiếp đi. Làm xong đâu ấy, hắn lại lầm lì suy nghĩ miên man "Tự nhiên lại đi rước nợ về? - hắn bỗng nghĩ với một cảm giác hằn học khó chịu - thật vớ vẩn!" Hắn bực bội cầm nến lên để đi tìm cho bằng được người hầu và và ra khỏi nơi nầy cho nhanh. "Chà, con be nầy!", hắn thần rủa và mở cửa ra ngoài nhưng lại quay lại lần nữa xem con bé thức ngủ ra sao. Hắn thận trọng giở chăn ra. Con bé ngủ rất say, một giấc ngủ ngon lành.
Được đắp chăn kín, con bé đã ấm người lại và đôi má nhợt nhạt của nó bắt đầu ửng hồng. Nhưng lạ thay, màu hồng ấy mới lúc một rõ và đậm hơn màu hồng bình thường trên má một đứa trẻ. "Nó sốt đây" - Xvidrigailov nghĩ thầm, nó đỏ mặt lên như uống rượu, cứ như thể ai cho nó uống hết cả một cốc. Đôi môi đỏ thắm như đang nóng bừng lên, nhưng cái gì thế nầy.
Hắn bỗng ngỡ chừng như hai hàng mi đen và dài của con bé hơi chớp chớp, và qua hai hàng mi ấy một đôi mắt hầu như chẳng còn gì thơ ngây đang ném ra một cái nhìn sắc sảo, tinh quái cứ như thế con bé không ngủ, mà chỉ giả vờ. Phải, đúng thế thật: đôi môi nó nhoẻn ra thành một nụ cười, hai bên mép run run như đang cố nhịn. Nhưng rồi con bé không buồn nhịn cười nữa: nó cười thật sự, rõ ràng; có một cái gì trâng tráo, khiêu khích ánh lên trong gương mặt chẳng có gì là thơ ngây ấy; đó là một bộ mặt dâm dục, bộ mặt của gái mãi dâm, của một con đĩ Pháp. Bây giờ, bây giờ nó đã mở cả hai mắt ra không kiêng dè gì nữa: đôi mắt ấy nhìn Xvidrigailov, cái nhìn trơ trẽn, nồng nàn như một ngọn lửa, đôi mắt cười cợt, kêu gọi hắn… có một cái gì xấc xược, quái gở vô cùng trong cái cười, trong đôi mắt ấy, trong tất cả cái vẻ đồi bại của khuôn mặt trẻ con ấy. "Sao, một con bé lên năm? - Xvidrigailov thì thào trong một cơn kinh hoàng thực sự - Cái gì thế kia?" Nhưng kìa, con bé đã quay hẳn về phía hắn, khuôn mặt nóng bừng như lửa, nó dang tay ra. "A, đồ khốn kiếp!" " Xvidrigailov hoảng hốt kêu lên, giơ tay lên toan đánh. Nhưng vừa lúc ấy hắn bừng tỉnh.
Hắn vẫn nằm trên giường, chăn vẫn trùm kín; nến vẫn không thắp lên, ngoài cửa sổ trời đã sáng.
"Suốt một đêm đày những cơn ác mộng!" hắn hằn học nhổm dậy, cảm thấy người rời rã hẳn ra; các khớp xương nhức buốt. Bên ngoài, sương mù dày đặc không trông thấy gì hết. Đá sắp đến năm giờ; hắn đã ngủ quên! Hắn đứng dậy mặc chiếc vét-tông và chiếc áo khoác hãy còn ướt. Hắn nắn túi tìm khấu súng tay: lấy súng ra, chữa lại đầu đạn; đoạn hắn ngồi xuống, rút trong túi ra một cuốn sổ tay, và ngay ở tờ đầu, tờ dễ trông thấy nhất, hắn viết mấy dòng chữ thật bé, hắn đọc lại một lượt, rồi chống khuỷu tay lên bàn ngẫm nghĩ.
Khâu súng và quyển sổ nằm ngay bên khuỷu tay. Mấy con ruồi thức giấc bâu vào miếng thịt bé còn nguyên vẫn để trên bàn. Hắn nhìn mấy con ruồi một hồi lâu, và cuối cùng lấy tay phải thử bắt một con. Hắn ra công hồi lâu, nhưng không sao bắt được. Cuối cùng, bắt chợt thấy mình đang làm cái công việc thú vị ấy. Hắn sực tỉnh, rùng mình đứng dậy và quả quyết ra khỏi phòng.
Một phút sau hắn đã ra đường.
Một làn sương mù dày đặc màu sừa đang trùm lên thành phố. Xvidrigailov bước trên lề đường bằng gỗ nhớp nháp lầy lụa, đi về phía sông Neva Con, hắn mường tượng thấy làn nước sông Neva đã dâng lên cao trong đêm qua, đảo Petrovxki những lối đi ướt át, lớp cỏ ướt át những khóm cây, nhưng bụi bờ ướt át, vả cuối cũng là cái bụi rậm kia… hắn bực dọc đưa mắt xem xét các số nhà để nghĩ đến một cái gì khác. Trên đại lộ không có lấy một bóng người qua đường, một cỗ xe ngựa. Mấy ngôi nhà gỗ sơn màu vàng tươi, cửa sổ đóng kín mít, trông ủ rũ và bẩn thỉu. Khí lạnh và ẩm ướt thấm khắp người hắn, hắn bắt đầu rùng mình. Thỉnh thoảng, gặp những cái biển cửa hiệu, hắn tẩn mẩn đọc kỹ từng cái hắn. Hắn đã đi hết đoạn viả hè bằng gỗ. Hắn đang đi ngang một toà nhà đá lớn Một con chó bẩn thỉu, ưòt mèm, cúp đuôi chạy ngang qua mặt hắn. Một gã mặc áo ca-pốt say bí tỉ, nằm ngang giữa vỉa hè, mặt úp xuống đất, hắn nhìn gã say rượu một lát rồi tiếp tục đi. Một cái tháp canh cao hình tròn tháp thoáng bên tay trái hắn. "thôi - hắn nghĩ thầm, - Chỗ nầy được rồi, việc gì phải ra đến đảo Petrovxki? Ít nhất ở đây cũng có một nhân chứng chính thức…" Hắn suýt bật cười vì cái ý nghĩ mới mẻ nầy và rẽ sang phố X. Ở đấy có một tòa nhà lớn có tháp canh. Bên cái cổng lớn đóng kín, có một thằng người nhỏ bé đứng tì vai vào cổng, mình khoác chiếc áo ca-pốt xám của binh sĩ, đầu đội chiếc mũ đồng kiểu như mũ của anh hùng Asin(2). Đôi mắt ngái ngủ của hắn đang lạnh lùng liếc về phía Xvidrigailov đang đi lại, trên gương mặt hắn thấy lộ rõ mối hận ngàn năm đã để lại một dấu ấn chua xót lên tất cả các khuôn mạt Do Thái, không trừ một trường hợp nào. Cả hai, Xvidrigailov và Asin, im lặng nhìn nhau một lát. Cuối cùng Asin thấy rằng một người không say mà lại chẳng nói chẳng rằng đứng nhìn trừng trừng, cách mình có ba bước, là một việc phi pháp.
- Ê, ông kia có việc gì thế hả? - hắn hỏi, người vẫn không nhúc nhích và vẫn không thay đổi tư thế.
- Thì có gì đâu, anh bạn, chào anh. - Xvidrigailov đáp.
- Đây không phải chỗ!
- Tôi sắp ra nước ngoài anh bạn ạ.
- Ra nước ngoài à?
- Đi sang Mỹ!
- Đi sang Mỹ?
Xvidrigailov rút khẩu súng tay ra và lên cò. Asin nhướn cao lông mày.
- Ê nầy, đây không phải chỗ đùa những trò ấy đâu!
- Sao lại không phải chỗ.
- Tại vì không phải chỗ.
- Thôi, anh bạn ạ, cũng thế thôi. Chỗ nầy tốt rồi; nếu họ có hỏi anh, anh cứ nói là tôi đi sang Mỹ…
Hắn chìa nòng súng vào thái dương bên phải.
- Kìa! Không được ở đây không phải chỗ! - Asin cuống cuồng lên, mắt mỗi lúc một giương to thêm.
Xvidrigailov bóp cò.
Chú thích:
(1) Nơi đi đày ở Siberi
(2) Nhân vật anh hùng (cổ Hy lạp)
Chương 36
Cũng ngày hôm ấy, nhưng là vào khoảng bẩy giờ chiều, Raxkonikov đi đến nhà ở của mẹ chàng và em chàng, - Căn nhà của Bakaleyev mà Razumikhin đã thuê cho họ. Lối vào thang gác trông thẳng ra phố.
Raxkonikov lại gần, bước chân vẫn còn ngần ngại và như đang phân vân không biết có nên vào hay không.
Nhưng dù sao chàng cũng đã quyết không quay trở lại; chàng đã quyết định dứt khoát như vậy. "Vả chăng đằng nào cũng thế thôi, họ vẫn chưa hay biết gì, - Chàng nghĩ, - lọ đã quen coi mình như một thằng gàn…" Áo quần chàng mặc thật khủng khiếp; lấm be bét, dầm mưa suốt đêm, rách rưới, nhàu nát? Mặc chàng hầu như không còn trông ra mặt người nữa, vì mệt nhọc, vì dãi dầu mưa gió, vì thể chất suy nhược và vì cuộc giằng co với bản thân đến suốt một đêm một ngày.
Suốt đêm hôm ấy chàng đi một mình, có trời biết đi những đâu. Nhưng dù sao, chí của chàng cùng đã quyết.
Chàng gõ cửa; mẹ chàng ra mở. Dunia đi đâu vắng. Ngay cả người đầy tớ gái lúc ấy cùng chắng thấy đâu. Bà Punkheria Alekxandrovna thoạt tiên sững sờ ra vì ngạc nhiên và mừng rỡ; rồi bà cầm lấy tay chàng kéo vào phòng.
- Con tôi đây rồi! - bà mừng quá nói lắp bắp. - Con đừng giận mẹ, Rodia ạ, mẹ gặp con mà lại ứa nước mắt ra một cách ngu ngốc thế nầy con đừng giận nhé; mẹ cười đấy, chứ không phải khóc đâu. Con tưởng mẹ khóc sao? Không, mẹ mừng quá đấy, mẹ có cái thói ngớ ngẩn như vậy: mừng là cứ chảy nước mắt ra. Từ ngày cha con mất đi, động cái gì mẹ cũng khóc. Con ngồi xuống đây, con yêu quý của mẹ, chắc con mệt lắm, mẹ biết. Ô, áo quần con lấm hết rồi.
- Hôm qua con đi giữa mưa mẹ ạ - Raxkonikov mở đầu.
- Ồ không, không phải đâu? - Bà Punkheria Alekxandrovna hối hả ngắt lời chàng. - Con tưởng bây giờ mẹ lại bắt đầu hỏi vặn con theo cái thói quê mùa ngày trước của mẹ, con đừng lo. Mẹ hiểu rồi, mẹ hiểu hết, bây giờ mẹ đã học đòi được nề nếp ở đây, và thật tình mẹ cùng thấy ở đây họ phải hơn. Mẹ đã vỡ lẽ hẳn hoi: mẹ có đi đâu mà hiểu được nhưng điều con suy xét, tại sao mẹ lại cứ bắt con phải thưa trình bẩm báo. Chắc con có khối công việc, khối dự định trong óc, mẹ làm sao mà biết được, hay là con lại nảy ra những ý nghĩ mới gì đấy, lẽ nào mẹ lại cứ cừ lẽo đẽo theo hỏi con nghĩ gì? À, mẹ lại… Trời ơi! Sao tôi lại cứ nói nhăng nói cuội như con mẹ điên thế nầy? Ấy, mẹ đã đọc cái bài của con đăng trong báo đến lần thứ ba. Anh Dmitri Prokofich mang lại cho mẹ xem đấy. Trông thấy bài báo, mẹ cứ sửng sốt ra; đây nầy, con mụ ngốc, mẹ tự nhủ thế, con nó làm việc như thế nầy đây nầy, đầu đuôi câu chuyện là thế đấy! Chắc dạo ấy con nó đang có những ý nghĩ mới mẻ trong óc; nó đang mải suy nghĩ thế mà mình cứ quấy rầy, làm tội làm tình nó. Con của mẹ ạ, mẹ đọc nhưng dĩ nhiên có nhiều điều mẹ không hiểu; mà tất nhiên phải như thế: chứ mẹ thì hiểu sao nổi?
- Mẹ cho con xem một chút, mẹ ạ.
Raxkonikov cầm lấy tờ báo và nhìn qua bài báo của mình một thoáng. Tuy thật là trái ngược hết sức với tình cảnh và tâm trạng chàng lúc bấy giờ, nhưng chàng cũng vẫn không khỏi có cái cảm giác kỳ lạ, vừa bức bối vừa ngọt ngào, của một tác giả lần đầu tiên thấy mình được in, nhất là khi tác giả ấy lại mới hai mươi ba tuổi. Nhưng cảm giác đó chỉ thoáng qua trong chốc lát. Đọc được mấy dòng, chàng cau mặt, và một nỗi buồn khủng khiếp khiến lòng chàng se lại. Chàng chợt nhớ lại tất cả những cuộc giằng co vật vã tinh thần trong mấy tháng gần đây. Chàng bực dọc và kinh tởm vứt tờ báo lên bàn.
- Nhưng có một điều, Rodia ạ, tuy mẹ ngu ngốc thật, nhưng mẹ cũng đủ trí xét đoán để biết rằng chẳng bao lâu nữa con sẽ là một trong những người xuất sắc trong giới khoa học của ta, nếu không phải là người xuất sắc trong giới khoa học của ta. Thế mà họ lại dám nghĩ là con loạn óc. Ha - ha - ha! Con không biết chứ họ nghĩ thế thật đấy! Chà, đồ sâu bọ thấp hèn, họ làm sao mà biết được thế nào là trí tuệ! Thế mà Dunia cũng suýt tin đấy lạ thật! Sinh thời cha con đã có hai lần gửi bài đăng báo, lúc đầu là một bài thơ (mẹ còn giữ lại trong một cuốn vở, lúc nào mẹ sẽ cho con xem), rồi đến cả một truyện dài (chính mẹ xin cha con cho mẹ chép lại), và cha mẹ đã cầu trời mãi cho họ đăng - thế mà họ không đăng cho! Rodia ạ, cách đây sáu bảy ngày, nhìn áo quần, nơi ăn chốn ở của con mà mẹ đứt ruột ra? Nhưng bây giờ mẹ đã thấy mẹ thật ngốc, vì nếu con muốn thì với trí tuệ và tài năng của con, cái gì mà con chả kiếm được ngay! Thế nghĩa là hiện nay con chưa muốn, con đang bận những công việc quan trọng hơn nhiều…
- Dunia không có nhà hở mẹ?
- Không có nhà, con ạ. Nó hay đi vắng lắm, nó cứ để mẹ ở nhà một mình. May cho anh Dmitri Prokofich thường sang ngồi với mẹ và cứ nói chuyện con luôn. Anh ấy mến con, và trọng con lắm, Rodia ạ. Còn em con thì mẹ không có ý nói là nó không biết kính yêu mẹ đâu. Mẹ không có ý phàn nàn. Tính nó khác, tính mẹ khác; dạo nầy nó có những chuyện bí mật gì ấy; còn như mẹ thì chẳng có chuyện gì giấu các con cả. Cố nhiên, mẹ cũng biết Dunia là người rất thông minh, hơn nữa lại biết thương mẹ thương anh, nhưng mẹ cũng không biết những chuyện đó sẽ đưa đến đâu. Đấy, bây giờ con đến với mẹ thế nầy, làm mẹ sung sướng quá, còn nó thì đi chơi ở đâu đâu; khi nào nó về mẹ sẽ bảo; trong khi con đi vắng anh con có đến, còn con thì nãy giờ con đi những đâu? Rodia ạ con cũng đừng chiều mẹ quá: có thì giờ thì con ghé, không thì thôi, biết làm thế nào được mẹ sẽ đợi vậy. Vì dù sao mẹ cũng biết là con thương mẹ, đối với mẹ chỉ thế thôi cũng đủ rồi. Mẹ sẽ ngồi đọc bài của con, mẹ sẽ được nghe mọi người nói đến con, rồi thỉnh thoảng chính con lại ghé vào thăm mẹ, còn mong gì hơn nữa? Đấy như bây giờ con đến đây để an ủi mẹ, mẹ biết lắm…
Đến đây bà Punkheria Alekxandrovna bỗng khóc oà lên.
- Mẹ lại thế rồi! Con đừng nhìn mẹ, mẹ ngốc lắm!
- Trời ơi, sao tôi lại ngồi ì ra thế nầy, - bà đứng dậy kêu lên, - nhà có cà-phê, thế mà mẹ cũng chẳng pha cho con uống! Bà già là hay ích kỷ thế đấy. Mẹ pha ngay, mẹ pha ngay!
- Thôi mẹ ạ, con đi bây giờ đây. Con đến có việc khác. Xin mẹ nghe con nói.
Bà Punkheria Alekxandrovna rụt rè lại gần con.
- Mẹ ơi, dù có xảy ra chuyện gì, dù mẹ có nghe nói gì về con, dù họ có nói gì với mẹ về con, mẹ có còn thương con như bây giờ nữa không? - Chàng bỗng thốt ra tự đáy lòng, dường như không suy nghĩ, không cân nhắc lời lẽ.
- Rodia, Rodia, con có chuyện gì thế? Sao con lại có thể hỏi như vậy? mà ai sẽ nói gì với mẹ về con? Mẹ sẽ không tin ai đâu, dù ai cũng thế, hễ đến là mẹ đuổi ra ngay.
- Con đến để xin mẹ tin cho rằng xưa nây bao giờ con cũng vẫn yêu mẹ và bây giờ chỉ có một mình mẹ với con thế thế nầy, con mừng lắm, con lại còn mừng là không có Dunia ở nhà. - Chàng nói tiêp vẫn nhiệt thành như cũ, - Con đến đây để nói thẳng với mẹ rằng, dù sau nầy mẹ sẽ khổ sở chăng nữa, nhưng con cũng xin mẹ biết rằng bây giờ con thương yêu mẹ hơn cả bản thân con: và tất cả những điều mẹ và em đã nghĩ cho con, là con tàn nhẫn và không biết thương mẹ, thương em đều không đúng. Không có bao giờ con lại như thế… thôi, thế cũng đủ; trước đã con cũng nghi là phải đến nói với mẹ như thế…v bắt đầu như thế.
Bà Punkheria Alekxandrovna lặng lẽ ôm lấy con, siết chặt vào ngực và khóc thầm.
- Rodia ạ, con có chuyện gì thì mẹ không biết, - một hồi lâu, bà mới nói. - Suốt mấy hôm nay mẹ cứ nghĩ là mẹ và em quấy rầy con nên con phát chán, nhưng bấy giờ mẹ đã thấy rõ con sắp có chuyện gì khổ tâm lắm, cho nên con mới âu sầu như vậy. Mẹ đã đoán thế từ lâu, Rodia ạ. Mẹ nói thế con tha thứ cho mẹ; mẹ cứ nghĩ đến chuyện ấy mãi, đêm không ngủ được. Đêm qua em con cũng mê sảng suốt đến sáng và cứ nhắc đến con mãi. Mẹ cũng nghe được loáng thoáng, nhưng chẳng hiểu gì. Suốt buổi sáng hôm nay mẹ cứ như người sắp bị hành hình: mẹ cũng chờ đợi một cái gì, linh cảm thấy điều gì, thế mà bây giờ đâm ra thật? Rodia, Rodia, con sắp đi đâu? Hình như con sắp đi đâu xa phải không ton?
- Con sắp đi xa.
- Mẹ cũng nghĩ thế? Mẹ cũng có thể đi theo con, nếu con cần có mẹ. Cả Dunia nữa; nó thương con, nó quý con lắm, và cả Sofia Xemionovna nữa, nếu cần cứ để cho cô ấy đi với mẹ con mình; con thấy không, mẹ cũng sẵn lòng nhận cô ấy làm con mẹ. Anh Porfiri Petrovich sẽ cùng giúp ta sửa soạn một tay, nhưng… con đi đâu bây giờ?
- Con phải đi đây mẹ ạ.
- Sao! Ngay hôm nay à? - bà kêu lên, như thể sắp mất con vĩnh viễn.
- Con không ở lại được, con đang vội, con đang rất cần…
- Thế mẹ không đi với con được ư?
- Không, mẹ hãy quỳ xuống cầu nguyện Chúa cho con. Có lẽ lời cầu nguyện của mẹ sẽ thấu đến Chúa.
- Thế thì để cho mẹ làm dấu thánh ban phước cho con. Thế, thế. Trời ơi, mẹ con tôi đang làm gì thế nầy!
Phải, chàng mừng lắm: chàng rất hài lòng là lúc ấy không có ai, chỉ có hai mẹ con với nhau. Lòng chàng dường như bỗng dịu lại sau cả cái thời gian khủng khiếp ấy, chàng phục xuống trước mặt mẹ, hôn chân mẹ, và hai mẹ con ôm nhau khóc. Và lần nầy, người mẹ vẫn không ngạc nhiên, không gạn hỏi, từ lâu bà đã hiểu rằng có một chuyện gì khủng khiếp đang xảy ra với con bà, và nay giờ phút đáng sợ cho chàng đã điểm.
- Rodia, con yêu của mẹ, con đầu lòng của mẹ, - Bà thổn thức - Bây giờ con đã lại như hồi còn bé, hồi ấy con cũng đến với mẹ như thế nầy, cũng ôm hôn mẹ như thế nầy; hồi cha con còn sống: mỗi khi cha mẹ buồn, chỉ riêng một, việc có con bên cạnh thôi cũng đã đủ an ủi cha mẹ, rồi đến khi cha mất, đã bao lần mẹ con ta ôm lấy nhau như bây giờ, cũng khóc bên mộ cha. Còn sở dĩ mẹ đã khóc từ lâu, là vì lòng mẹ đã cảm thấy trước cơn hoạn nạn. Lần đầu tiên mẹ trông thấy con, tôi hôm ấy, con còn nhớ không, hôm mẹ và em mới lên đây ấy chỉ nhìn khóe mắt của con thôi mẹ đã đoán biết được ngay, tim mẹ cứ nhói lên, và hôm nay khi ra mở cửa cho con, mẹ trông thấy con là đã nghĩ ngay rằng giờ phút oan nghiệt đã đến. Rodia, Rodia, con không đi ngay bây giờ đấy chứ?
- Không ạ.
- Con còn đến đây chứ?
- Vâng… con sẽ đến!
- Rodia, con đừng giận nhé, mẹ không dám hỏi đâu Mẹ biết là không nên hỏi, nhưng cũng xin con nói cho mẹ một lời, con đi đâu có xa không?
- Xa lắm.
- Ở đấy con sẽ làm việc gì, sự nghiệp của con ở đây phải không?
- Đó là tùy ý Chúa… chỉ xin mẹ và em cầu nguyện cho con.
Raxkonikov đi ra cửa, nhưng bà mẹ níu lấy chàng và tuyệt vọng nhìn vào mặt chàng. Mặt bà rúm ró lại vì kinh hãi.
- Thôi, mẹ ạ, - Raxkonikov nói, lòng vô cùng hối hậ là đã nảy ra cái ý đến đây.
- Con chưa đi hẳn chứ? Con chưa đi mãi mãi đấy chứ. Con sẽ lại đến, mai con đến nhé!
- Con sẽ đến, con sẽ đến. Thôi con đi.
Cuối cùng chàng đã gỡ ra được.
Chiều hôm ấy ấm áp thoáng trời và quang đãng; mây đã tan từ hồi sáng. Raxkonikov trở về buồng; chàng vội lắm. Chàng muốn làm cho xong mọi việc trước khi mặt trời lặn. Từ bây giờ cho đến lúc ấy thì chàng không muốn gặp ai hết. Trong khi leo thang gác lên phòng, chàng nhận thấy Naxtaxia, đang lúi húi bên chiếc ấm lò, ngẩng lên nhìn chàng chăm chăm và đưa mắt trông dõi theo chàng. "Hay là có ai ở trên buồng mình?" - Chàng thầm nghĩ. Chàng kinh tởm nghĩ đến Porfiri. Nhưng lên đến buồng và mở cửa ra, chàng trông thấy Dunia, nàng ngồi một mình, đang nghĩ ngợi miêễn man, và hình như đã đợi chàng từ lâu. Chàng dừng chân trên ngưỡng cửa. Nàng hoảng hốt rời đi-văng đứng dậy và vươn thẳng người lên trước mặt chàng.
Mắt nàng nhìn chàng không chớp, biểu lộ sự sợ hãi và một nỗi đau buồn không thể nào xoa dịu nổi. Chỉ riêng cái nhìn ấy thôi cũng đủ cho chàng hiểu rằng nàng đã biết hết.
- Bây giờ anh phải thế nào, vào với em hay là đi chỗ khác? - Chàng hỏi, vẻ ngần ngại.
- Em ngồi cả ngày đằng chị Sofia Xemionovna; chúng em đợi anh. Chúng em nghĩ rằng thế nào anh cũng ghé lại đằng ấy!
Raxkonikov bước vào buồng và ủ rũ ngồi xuống một chiếc ghế.
- Trong người anh thấy suy nhược thế nào ấy, Dunia ạ. anh mệt lắm: thế mà trong giờ phút nầy anh cứ mong thật đủ sức tự chủ.
Chàng ngước mắt nhìn nàng, vẻ e ngại.
- Suốt đêm hôm qua anh đi đâu?
- Anh cũng không nhớ rõ nữa; em ạ, anh đã muốn định đoạt cho dứt khoát và đã nhiều lần đi men theo sông Neva; cái đó anh còn nhớ. Anh đã có ý muốn kết liễu ở đấy nhưng… anh không dành… - Chàng thì thào, mắt lại đưa về phía Dunia một cái nhìn e ngại.
- Đội ơn Chúa! Chính em với Sofia Xemionovna vẫn sợ như thế đấy! Thế nghĩa là anh vẫn còn tin ở cuộc sống; đội ơn Chúa, đội ơn Chúa!
Raxkonikov mỉm cười chua chát.
- Anh không có tín ngưỡng, thế nhưng vừa rồi anh với mẹ đã ôm nhau khóc; anh không có tín ngưỡng, thế nhưng anh lại xin mẹ cầu nguyện cho anh. Có trời biết tại sao lại như thế, Duneska ạ, anh chẳng hiểu ra sao hết.
- Anh có đến mẹ? Anh nói với mẹ rồi ư? - Dunia hoảng hốt hỏi dồn. - Chả nhẽ anh lại dám nói?
Không, thế không nói bằng lời; nhưng mẹ đã hiểu được nhiều. Đêm qua mẹ có nghe thấy em nói mê. Anh chắc mẹ đã hiểu được một nửa. Có lẽ anh ghé lại thăm mẹ như thế là không tốt. Anh cũng chẳng biết tại sao anh lại ghé nữa. Anh là một kẻ hèn hạ, Dunia.
- Một người hèn hạ, mà lại sẵn sàng đi chịu đau khổ? Vì anh đi đấy chứ?
- Anh đi. Đi ngay bây giờ. Phải, chính vì muốn tránh nỗi hổố thẹn ấy mà anh định tự tử, Dunia ạ, nhưng rồi khi đã ra đứng trên giòng nước, anh lại nghĩ rằng trước nay anh đã tự cho mình là người có sức mạnh, thì bây giờ không lý gì lại sợ xấu hổ, - Chàng nói hấp tấp như muốn nói hết ra cho thật nhanh. - Dunia, như thế có phải là tự hào không?
- Tự hào đấy, anh Rodia ạ.
Dường như có một ngọn lửa ánh lên trong đôi mắt đờ đẫn của chàng, chàng như lấy làm dễ chịu rằng mình hãy còn tự hào.
- Em ạ, thế em không nghĩ rằng chẳng qua vì anh sợ nước chứ? - Chàng hỏi với một nụ cười mếu xệch, mắt nhìn thẳng vào mặt nàng.
- Ồ anh Rodia, sao anh lại nói thế - Dunia kêu lên: giọng cay đắng.
Hai người im lặng khoảng vài phút. Chàng ngồi yên, đầu cúi gằm nhìn xuống đất. Dunia ngồi ở cuối bàn đối diện, đau đớn nhìn chàng. Bỗng chàng đứng phắt dậy.
- Muộn rồi, anh phải đi đây. Anh đi tự thú. Nhưng anh không biết đi như thế là để làm gì.
Hai hàng nước mắt chảy ròng ròng trên má nàng.
- Em khóc à, Dunia, thế em có thể đưa tay ra cho anh được không?
- Anh hồ nghi điều đó ư?
Nàng ôm chặt lấy anh.
- Anh đi để chịu đau khổ như thế là đã rửa được một phân nữa tội ác rồi còn gì? - nàng kêu lên, tay siết chàng thật chặt và hôn chàng.
- Tội ác? Tội ác nào? - Chàng bỗng quát lên trong một cơn giận dữ đột ngột, - anh giết một con rận ghê tởm, chỉ có hại, một mụ già cho vay lãi hoàn toàn vô dụng, một mụ già mà giết đi cũng đáng được ân xá bốn mươi tội lỗi, một mụ già hút máu người nghèo, thế mà lại là một tội ác ư? Anh không cho đó làmột tội ác, và anh không nghĩ đến chuyện chuộc tội. Tại sao xung quanh mọi người đều cứ thét vào tai anh: "Tội ác, tội ác!" Mãi đến bây giờ, anh mới thấy sự hèn nhát của anh nó vô lý đến nhường nào, mãi đến bây giờ, khi anh đã quyết định đi chuộc lấy nỗi hồ thẹn vô ích đó. Chỉ vì hèn hạ và bất tài nên anh mới quyết định như thế mà cũng có lẽ vì lợi nữa, như… thằng cha… Porfiri kia đã bàn với anh.
- Anh, anh, sao anh lại nói thế? Anh đã làm đổ máu kia mà! - Dunia tuyệt vọng kêu lên.
- Ai mà chẳng làm đổ máu. - Chàng nói tiếp, gần như điên dại, - trên đời nầy máu đang đổ và xưa nay vẫn đổ như thác, người ta đổ nó như rót rượu sâm banh, và người làm đổ máu được đội vòng lá nguyệt quế trên đền Capitoli (l) rồi về sau được gọỉ là ân nhân của loài người. Thì em cứ thử nhìn kỹ mà xem, tất sẽ thấy! Chính anh muốn làm điều thiện cho người đời và lẽ ra có thể làm hàng trăm, hàng nghìn việc thiện thay cho cái việc ngu xuẩn ấy. Cũng chẳng phải là ngu xuẩn, mà chỉ là vụng về thôi, bởi vì ý nghĩ ấy tuyệt nhiên không đến nỗi ngu xuẩn như bây giờ người ta có thể tưởng, khi thấy nó thất bại… (đã thất bại thì cái gì cũng có vẻ ngu xuẩn!) Làm cái việc ngu xuẩn ấy, anh chỉ muốn tạo cho mình một vị trí độc lập, đi bước thứ nhất, có được những phương tiện, rồi đến khi ấy việc kia sẽ được bù đắp lại bằng những việc hữu ích không biết bao nhiêu mà kể… Nhưng anh… chỉ mới bước bước đầu thôi anh cũng đã không chịu nổi, vì anh là một thằng hèn! Chung quy chỉ có thế! Tuy vậy, anh cũng sẽ không nhìn theo quan điểm của bọn họ, giá anh thành công, thì họ đã đội mũ miện lên đầu anh rồi, còn bây giờ thì họ gông cổ anh lại!
- Nhưng không phải thế, tuyệt nhiên không phải thế! Anh sao anh lại nói như vậy?
- À! Không phải cái hình thức ấy chứ gì, phải là một hình thức tốt đẹp hơn về phương diện thẩm mỹ chứ gì? Thật anh không tài nào hiểu được: tại sao dội trái phá lên đầu người ta trong một cuộc vây hãm chính quy lại là một hình thức đáng trọng hơn? Sợ mỹ học chính là dấu hiệu đầu tiên của bất lực! Chưa bao giờ, chưa bao giờ anh nhận thức được điều đó rõ như bây giờ, và hơn bao giờ hết, bây giờ anh không thể hiểu nổi tội ác của anh ở chỗ nào! Chưa bao giờ, chưa bao giờ anh có sức mạnh và lòng tin vững chắc như bây giờ!
Khuôn mặt xanh xao, hốc hác của chàng ửng đỏ lên. Nhưng trong khi nói câu sau cùng, mắt chàng tình cờ bắt gặp mắt Dunia, và trong đôi mắt ấy, chàng thấy biết bao nhiêu, bao nhiêu là buồn khổ thương xót vì chàng, đến nỗi chàng bất giác trấn tĩnh lại. chàng đã thấy rằng dù sao mình cũng đã làm cho hai người đàn bà đáng thương ấy trở thành nhưng con người khốn khổ. Dù sao, chính chàng cũng là nguyên nhân…
- Dunia, em yêu quý! Nếu anh có lỗi, em hãy tha thứ cho anh (tuy không thể nào tha thứ cho anh được, một khi anh có lỗi). Thôi từ biệt em! Ta đừng tranh cãi nữa! Anh phải đi, anh phải đi ngay đây. Em đừng đi theo anh, anh van em, anh còn phải ghé… Bây giờ em về ngay với mẹ đi. Anh van em hãy về với mẹ! Đó là lời cầu xin lớn nhất của anh đối với em. Em đừng rời mẹ ra một lúc nào; khi anh ra đi, mẹ đang lo lắng lắm, khó lòng mà chịu đựng nổi: rồi mẹ đến chết hay phát điên lên mất. Em hãy ở bên mẹ, Razumikhin sẽ bên cạnh mẹ và em; anh có nói với anh ấy… Đừng khóc vì anh: anh sẽ cố gắng can đảm và lương thiện suốt đời tuy anh là một kẻ sát nhân. Có lẽ đến một lúc nào đó em sẽ nghe nói đến tên anh. Anh sẽ không bêu xấu mẹ và em đâu, em sẽ thấy? Anh sẽ còn chứng minh được… còn bây giờ thì hẵng tạm biệt. - Chàng vội vã kết luận, chàng lại nhận thấy một sắc thái gì khác thường trong khóe mắt Dunia khi chàng hứa như vậy. - Sao em cứ khóc thế? Đừng khóc, em ạ đừng khóc; vì chúng ta có phải chia tay vĩnh viễn đâu. A, phải! Khoan đã, anh quên mất.
Chàng đến cạnh bàn lấy một quyển sách dày bám đầy bụi, giở quyển sách lấy một bức chân dung nhỏ cặp giữa các trang giấy, một bức vẽ bằng thuốc nước trên mảnh ngà voi, đó là chân dung người con gái bà chủ nhà, vị hôn thê cũ của chàng, chết vì sốt nhiệt, chính người con gái kỳ dị đó từng muốn đi tu. Chàng ngắm nghĩa khuôn mặt ốm yếu và đầy sức truyền cảm ấy một lát, hôn bức chân dung rồi trao cho Dunia.
- Đây, với người nầy anh đã nói nhiều đến việc ấy chỉ riêng với cô ta mà thôi! - chàng nói, vẻ trầm ngâm, - Anh đã thổ lộ cho cô ta biết nhiều về những việc mà sau nầy đã xảy ra ra một cách quái gở như vậy. Em đừng lo, - Chàng quay về phía Dunia. - Cũng như em, cô ấy không hề tán thành, và anh lấy làm mừng rằng cô ấy nay không còn nữa. Cái chính, cái chính là bây giờ mọi việc sẽ đi theo một hướng mới, sẽ đoạn tuyệt hẳn với dĩ vãng, - Chàng bỗng kêu lên, trở lại với nỗi buồn cũ, - Tất cả, tất cả, thế nhưng anh đã sẵn sàng đón lấy cái đó chưa? Bản thân anh có muốn thế không? Họ bảo là cần như thế để thử thách anh? Những cuộc thử thách vô nghĩa ấy phỏng có ích gì? Thử thách như thế thì được cái gì. phải chăng khi đã khổ cực đến đần độn đi, khi đã già yếu kiệt lực sau hai mươi năm khổ sai, anh sẽ nhận thức được rõ hơn bây giờ? Mà đến lúc ấy thì còn sống làm gì nữa? Tại sao bây giờ anh lại đành lòng sống như thế? Ôi, tảng sáng hôm nay, khi đứng trên sông Neva, anh đã biết anh là một thằng hèn!
Cuối cùng, cả hai cùng đi ra, Dunia cực lòng lắm, nhưng nàng vẫn yêu thương anh. Nàng bước đi, nhưng chỉ được dăm bước nàng lại ngoái lại nhìn anh một lần nữa, lúc còn có thể trông thế chàng. Nhưng đi đến góc phố chàng cũng ngoảnh lại, lần cuối cùng hai luồng mắt họ gặp nhau, chàng nhận thấy Dunia đang nhìn mình, chàng sốt ruột và thậm chí bực mình khoát tay bảo nàng đi đi, và quay ngoắt sang phố khác.
"Mình là một người độc ác, mình biết, - chàng tự nhủ sau một phút chàng đã lấy làm xấu hổ vì cái cử chỉ bực dọc vừa rồi đối với Dunia - Nhưng tại sao họ lại cứ yêu quý mình như vậy, một khi mình không xứng đáng! Ôi, giá ta chỉ có một thân một mình, không có ai thương yêu ta và ta cũng chẳng bao giờ thương yêu ai hết. Giá không có tất cả những việc nầy. Mà kể cũng lạ thật, phải chăng trong cái thời gian mười lăm hai mươi năm sắp tới tâm hồn ta sẽ khuất phục, ta sẽ kính cản sụt sùi trước mặt người đời, bạ đâu cũng tự xỉ vả mình là đồ trộm cướp? Phải, chính thế, chính thế! Chính vì ta mà bây giờ họ đày ta đi, chính họ cần như thế… Đây cứ lấy những kẻ đang lăng xăng lui tới trên đường phố, mỗi đứa trong bọn họ đều là một thằng hèn, một thằng kẻ cướp ngay từ bản chất của nó; tệ hơn nữa, lại là một thằng đần độn. Thế nhưng giá thử họ tha cho ta cảnh tù đày, thì tất cả bọn họ sẽ sôi sục một lòng căm phẫn thần thánh ngay! Ôi, sao ta căm thù tất cả bọn họ đến thế!"
Chàng đăm chiêu suy nghĩ: "Làm sao có thể diễn ra một quá trình cuối cùng đưa ta đến chỗ khuất phục trước bọn họ, không còn suy luận gì nữa, khuất phục một cách thành thực? Mà tại sao lại không kia chứ?" Dĩ nhiên phải như thế. Chả nhẽ hai mươi năm áp bức liên tục lại không dẫn đến một kết quả như vậy? Nước chảy đá mòn. Mà đã thế thì còn sống làm gì, sống làm gì nữa, tại sao bây giờ ta lại đi, một khi chính ta cũng biết là mọi việc sẽ đúng y như trong một cuốn sách, chứ không thể nào khác được!"
Kê từ tối hôm qua chàng tự đặt ra cho mình câu hỏi ấy dễ đến một trăm lần, nhưng rồi chàng vẫn cứ đi.
Chú thích:
(1) Hình thức khải hoàn của người La Mã cổ đại dành cho các tướng có công.
Chương 37
Khi chàng bước vào nhà Sonya, trời đã hắt đầu xẩm tôi. Suốt ngày hôm ấy. Sonya bồn chồn lo lắng khác thướng. Nàng với Dunia cùng chờ đợi. Dunia đến nàng từ sáng sớm, vì nhớ rằng hôm nay, Xvidrigailov có nói là Sonya "biết chuyện ấy". Chúng tôi sẽ không kể lại tỷ mỉ việc hai người con gái đã nói chuyện, than khóc với nhau ra sao, họ đã hiểu nhau đến thế nào.
Qua cuộc gặp gỡ ấy, Dunia ít nhất cũng được một niềm an ủi là anh nàng sẽ không cô đơn: chàng đã đến tự thú với Sonya trước tiên: chàng đã đến tìm ở nàng một con người khi chàng thấy cần một con người; cũng chính nàng sẽ đi theo chàng đến nơi số phận đã định. Dunia cũng không hỏi nữa, song nàng biết là sẽ như thế. Thậm chí nàng còn nhìn Sonya một cách sùng kính và lúc đầu đã suýt làm cho Sonya bối rối vì lòng sùng kính ấy.
Thậm chí Sonya còn suýt khóc oà lên nữa: nàng nghĩ khác hẳn, nàng còn tự cho mình không xứng đáng được nhìn Dunia nữa là khác. Hình ảnh tuyệt vời của Dunia chào nàng một cách ân cần và tôn kính hôm họ gặp nhau lần đầu ở nhà Raxkonikov, từ đấy đã vĩnh viên khắc sâu vào lòng nàng như một trong những hình ảnh đẹp đẽ và cao cả nhất đã xuất hiện trong đời nàng.
Cuối cùng Dunia sốt ruột quá không chịu được nữa; nàng từ giã Sonya để đến nhà anh và ngồi đợi chàng ở đấy; nàng cứ có cảm giác rằng chàng sẽ về đây trước tiên. Ngồi lại một mình, Sonya lập tức quay ra lo sợ cuống cuồng lên. Nàng nghĩ có lẽ chàng tự tử thật cũng nên. Chính Dunia cũng sợ như thế. Nhưng suốt ngày cả hai đều ra sức tìm đủ các lý lẽ để làm cho nhau tin là việc ấy không thể xảy ra được, và họ thấy yên tâm hơn, khi đang ngồi cạnh nhau. Nhưng vừa chia tay nhau một cái, là cả hai lại chỉ nghĩ đến mỗi một việc ấy nữa mà thôi. Sonya nhớ rằng hôm qua Xvidrigailov có nói với nàng là Raxkonikov chỉ có hai con đưòng: đi Vladimirka hay là… Hơn nữa nàng lại biết rõ tính sĩ diện, ngang ngược, tự ái và óc vô thần của chàng. "Chả nhẽ chỉ có sự nhát gan, tâm lý sợ chết là có thể buộc chàng sống" - Cuối cùng nàng thầm nghĩ trong cơn tuyệt vọng. Trong khi đó, mặt trời đã lặn. Nàng buồn rầu đứng trưtớc cửa sổ nhìn đăm đăm phía trước mặt, nhưng qua khung cửa sổ chỉ thấy bức tường lớn không quét vôi của toà nhà bên cạnh. Cuối cùng, khi nàng đã dần dần đi đến chỗ tin chắc rằng người khốn nạn đã chết thì Raxkonikov bước vào phòng nàng.
Một tiếng reo mừng buột ra khỏi lồng ngực nàng. Nhưng nhìn kỳ vẻ mặt chàng, nàng bỗng tái mặt đi.
- Đúng rồi ấy? - Raxkonikov cười nhạt nói - Tôi đến lấy mấy cái thánh giá của em đây, Sonya ạ. Chính em đã bảo tôi ra ngã tư đường: bây giờ đã đến lúc thực hiện, em lại đâm ra sợ sệt hay sao!
Sonya kinh ngạc nhìn chàng. Nàng thấy cái giọng ấy những lời ấy đều là giả tạo. Vả lại trong khi nói với nàng, chàng cùng nhìn đâu vào góc nhà tưởng như tránh nhìn thẳng vào mặt nàng.
- Sonya ạ, tôi đã suy nghĩ hiểu ra rằng như thế có lẽ lợi hơn. Trong trường hợp nầy có điều… Thôi, nói ra thì dài lắm, mà cũng chẳng cần nói làm gì! Nhưng em có biết cái gì làm cho tôi bực mình không? Tôi bực mình là vì cả cái lũ đần độn, nửa người nửa ngợm ấy sẽ xúm lấy tôi, sẽ nhìn xỉa xói vào tôi, sẽ hỏi tôi những câu ngu xuẩn mà tôi buộc phải trả lời, sẽ chỉ trỏ tôi… Xì! Sonya ạ, tôi sẽ không đến Porfiri đâu, tôi chán hắn lắm rồi. Tôi sẽ đến ông bạn "Thuốc Súng" của tôi thì hơn, tôi sẽ làm cho ông ta ngạc nhiên một mẻ, tôi sẽ gây được một ấn tượng đặc biệt. Nhưng lẽ ra phải điềm tĩnh hơn: dạo nầy tôi để phát bẳn quá. Em có tin được không; vừa rồi tôi suýt giơ quả đấm ra hăm doạ em gái chỉ vì nó ngoảnh lại nhìn tôi lần cuối cùng đấy. Thật là một tâm trạng thú vật. Chà, sao tôi lại đến nông nỗi nầy! Đâu, thánh giá đâu?
Chàng dường như không tự chủ được nữa. Thậm chí chàng cũng không thể đứng yên tại chỗ lấy một phút, không sao tập trung chú ý vào một vật gì; ý nghĩ của chàng cứ nháy từ chuyện nầy sang chuyện khác, chàng nói lảm nhảm chẳng đâu vào với đâu; tay chàng run run.
Sonya lặng lẽ lấy trong ngăn kéo ra hai chiếc thánh giá, một chiếc bằng gỗ huyền bá, một chiếc bằng đồng, làm dấu thánh cho mình, rồi cho Raxkonikov và đeo chiếc thánh giá bằng gỗ huyền bá lên ngực chàng.
- Thế ra đây là một cử chỉ tượng trưng: có nghĩa là tôi vác lấy cây thập tự (l), hê, hê! Cứ như thế là trước nay tôi đau khổ còn ít quá! Bằng gỗ huyền bá tức là của hạng bình dân; cái bằng đồng là của Lizaveta thì em giữ, cho tôi xem tí? Thế lúc ấy… bà ta đeo cái nầy à? Tôi cũng có biết hai chiếc thánh giá giống như thế. Một chiếc bằng bạc, một chiếc có đính tượng. Hôm ấy tôi ném cả hai lên ngực mụ già. Lẽ ra bây giờ tôi đeo hai chiếc ấy thì phải hơn, thật đấy, nhưng tôi cứ nói nhảm mãi, quên cả công việc; tôi đãng trí thế nào ấy! Sonya ạ, tôi đến là để báo trước cho em biết… Ấy chỉ có thế… Tôi đến đây chỉ vì thế (Hừm, thế nhưng trước đây tôi cứ tưởng là sẽ nói nhiều hơn). Mà chính em cũng muốn tôi đi, thế thì tôi sẽ vào tù, và em sẽ toại nguyện; kìa sao em lại khóc? Em cũng thế à? Thôi, đừng khóc nữa; ôi, tôi thật khổ với những chuyện nầy!
Tuy vậy, cũng có một cảm xúc nảy sinh trong lòng chàng; chàng nhìn nàng, lòng se lại: "Người nầy, người con gái nầy thì sao? - Chàng thầm nghĩ, - đối với nàng ta có nghĩa lý gì? Sao nàng lại khóc, sao nàng lại sửa soạn cho ta như mẹ và em ta thế. Nàng sẽ làm bảo mẫu cho ta!".
- Anh làm dấu mà cầu nguyện đi, một lần thôi cũng được, - Sonya cầu khẩn, giọng rụt rè, run rẩy.
- Ô tùy ý em, bao nhiêu lần cũng được! Tôi rất sẵn lòng, Sonya ạ, rất sẵn lòng.
Thật ra chàng muốn nói một cái gì khác.
Chàng làm dấu thánh mấy lần. Sonya với lấy chiếc khăn, trùm lên đầu. Đó là một chiếc khăn trùm bằng da mịn, có lẽ chính chiếc khăn mà dạo trưđc Marmelazov có nói là "khăn chung của gia đình", Raxkonikov thoáng nghĩ như vậy, nhưng chàng không hỏi: Quả nhiên, chính chàng cũng bắt đầu cảm thấy mình đãng trí lạ lùng và tự dưng lo âu một cách vô lý. Điều đó khiến chàng hoảng sợ. Chàng cũng chợt thấy sợ hãi khi thấy Sonya muốn cùng đi với chàng.
- Kìa? Em đi đâu! Ở nhà, ở nhà! Tôi đi một mình - Chàng quát lên, bực dọc và sợ sệt rồi đi ra cửa, vẻ hầu như hằn học. - Việc gì phải đi cả một đoàn tiền hô hậu ủng như thế - Chàng lẩm bẩm trong khi bước ra ngoài.
Sonya đứng lại một mình ở giữa căn phòng. Chàng cũng không từ biệt nàng nữa, chàng đã quên khuấy nàng đi rồi; một mối ngờ vực sâu cay, đầy ý phán kháng đang sôi sục trong lòng chàng:
"Nhưng tất cả những việc nầy có phải hay không, có đúng hay không? - Chàng lại nghĩ trong khi bước xuống cầu thang, - phải chăng không còn có thể dừng lại sửa chữa lại tất cả… và đừng đi nữa?"
Nhưng chàng vẫn cứ đi. Chàng bỗng cảm thấy một cách dứt khoát rằng không việc gì phải đặt ra cho mình những câu hỏi nữa. Bước ra phố, chàng sực nhớ là chưa từ biệt Sonya, là nàng đã đứng lại ở giữa phòng, choàng chiếc khãn dài xanh, nghe chàng quát không dám nhúc nhích; chàng dừng lại một thoáng. Ngay lúc ấy chợt có một ý nghĩ soi vào tâm trí chàng sáng rực, như thế vẫn đợi đến lúc nầy để đánh chàng quỵ hẳn.
"Tại sao vừa rồi ta lại đến nàng, đến để làm gì? Tuyệt nhiên không có việc gì hết! Để cho biết là ta đã chịu đi chăng? Có cần thiết gì đâu! Hay là ta yêu nàng? Làm gì có, yêu đương gì? Vừa rồi ta xua đuổi nàng như đuổi một con chó đây thôi. Hay là ta cần đến chiếc thánh giá của nàng thật? Ôi, ta suy đốn nhiều quá! Không, chính là ta cần đến nước mắt của nàng, ta cần trông thấy vẻ hoảng hốt của nàng, xem tâm hồn nàng, quằn quại đau đớn. Ta phải bấu víu lấy một cái gì trì hoãn lại, nhìn một con người? Thế mà ta còn dám hy vọng vào mình như vậy: mơ ước về bản thân như vậy, ta, một thằng ăn mày, một kẻ ti tiện, một thằng tồi, một thằng hèn".
Chàng đi đọc bờ kênh. Từ đây đến đây không còn xa nữa. Nhưng đến đâu cầu, chàng dừng lại một lát và bỗng rẽ lên cầu, đi về phía chợ hàng Rơm.
Chàng háo hức nhìn hai bên, chăm chú nhìn kỹ từng vật một mà không sao tập trung được sức chú ý vào một vật gì, tất cả đều lướt qua rất nhanh. "Đấy, chỉ một tuần nữa, một tháng nữa họ sẽ đưa ta lên những cỗ xe tù chở qua cầu nầy đi đâu không rõ, lúc ấy ta sẽ nhìn xuống dòng kênh nầy ra sao, có lẽ ta sẽ nhớ lại chăng? - Chàng thoáng nghĩ. - Đây, cái bến nầy, đến lúc ấy ta cũng sẽ đọc chính những chẽ kia chăng? Trên biển đề Tavarissextvo, ấy phải nhớ lấy cái chữ a kia, và một tháng sau sẽ nhìn đúng vào chữ a ấy: thế đến lúc ấy ta sẽ nhìn như thế nào? Lúc ấy ta sẽ nghĩ gì sẽ cảm xúc ra sao? Trời ơi, tất cả những thứ đó, những mối… lo âu của ta hiện nay chắc phải ti tiện lắm! Tất nhiên những chuyện đó chắc cũng phải có một cái thú… riêng… (ha - ha - ha! ta nghĩ những chuyện gì thế nầy!) ta đang trở thành một thằng con nít, ta đang tự huênh hoang với mình; ta có gì mà phải tự xấu hổ với mình nhỉ? Chà, chen lấn ghê thật! Kìa, chắc cái lão người Đức béo phục phịch kia vừa xô mình: hắn có biết hắn vừa xô ai không nhỉ? Mụ đàn bà nhà quê kia bế con đi ăn mày, kể cũng lạ thật: mụ ấy tưởng ta sung sướng hơn mụ ấy. À, ta cho mụ vài xu cũng hay. Ở trong túi còn đồng xu năm, ở đâu ra thế không biết? "Đây nầy, đây nầy cầm lấy, bà mẹ!"
- Lạy chúa phù hộ cậu! - Người ăn mày nói, giọng nghe như khóc.
Chàng bước thới khu chợ Hàng Rơm. chàng thật khó chịu, rất khó chịu khi phải len vào giữa đám đông, thế nhưng chàng vẫn nhằm đúng vào chỗ có đông người nhất mà tiến. Chàng sẵn sàng hiến dâng tất cả mọi sự trên đời để được đứng lại một mình; nhưng chàng cùng cảm thấy mình không một phút nào có thể đứng lại một mình cả. Trong đám đông có một gã say rượu đang dớ trò: hắn cứ muốn nháy múa, nhưng lại cứ ngã chúi sang một bên. Một tốp người xúm lại quanh hắn.
Raxkonikov len qua đám đông, đứng nhìn gã say rượu mấy phút rồi bỗng cười phá lên từng đợt ngắn và đứt quãng. Chỉ một phút sau chàng đã quên bẵng gãà say rượu, thậm chí không trông thấy hắn nữa; tuy vẫn nhìn vào hắn. Cuối cùng chàng bỏ đi, cũng không nhớ là mình đang ở đâu nữa; nhưng đi đến giữa khu chợ, trong người chàng bỗng xao động lên, một cảm giác rất mạnh lập tức tràn vào người chàng, khống chế chàng cả thể xác lẫn tinh thần.
Chàng chợt nhớ đến những lời của Sonya: "Anh hãy ra ngã tư đường, cúi mình trước dân chúng, quỳ xuống hôn mặt đất, vì anh đã có tội với trời đất, và hãy nói to lên với mọi người: "Tôi là kẻ sát nhân!". Chàng run bắn cả người lên khi nghĩ đến đấy. Nỗi lo âu và sầu muộn không có lối thoát của chàng trong suốt thời gian gần đây nhưng nhất là trong mấy tiếng đồng hồ gần đây đã làm cho chàng ngột ngạt đến nỗi chàng háo hức vồ lấy cái khả năng có được một cảm giác thuần tuý mới mẻ, trọn vẹn nầy. Cảm giác đó bỗng đến với chàng như một cơn bệnh: nó cháy bùng lên trong lòng chàng như một tia lửa rồi bỗ g bao trùm lấy chàng như một đám cháy. Trong khoảnh khắc chàng thấy cả tâm hồn dịu hẳn lại. Chàng ứa nước mắt. Chàng đang đứng thế nào thì cứ thế mà gục xuống đất…
Chàng quỳ ở giữa khu chợ, cúi mình xuống sát đất và hôn mặt đất bẩn thỉu ấy một cách khoái lạc, lòng tràn đầy hạnh phúc. Chàng đứng dậy, rồi cúi xuống một lần nữa.
- Chà thằng cha say khướt rồi - một gã trẻ tuổi đứng bên cạnh nói.
Có tiếng cười phá lên.
- Ấy là người ta sắp đi Jerusalem đấy, anh em ạ, người ta đang từ biệt con cái, từ biệt tổ quốc, từ biệt mọi người đây, người ta hôn mảnh đất của đô thành Saint- Petersburg, - một người tiểu thương hơi ngà ngà say đứng trong đám đông nói thêm.
- Anh chàng hãy còn trẻ - một người thứ ba đệm vào.
- Con nhà quý phái! - Có ai nhận xét, giọng đạo mạo.
- Thời buổi bây giờ thì cũng chẳng biết thế nào là quý phái, thế nào là không.
Tất cả những lời bàn tán ấy giữ Raxkonikov lại, và mấy chữ: "Tôi đã giết người", có lẽ đang chực thốt ra, đã ngưng dọng lại trong miệng chàng. Tuy vậy, chàng cũng điềm tĩnh chịu đựng những tiếng quát tháo, và, không nhìn sang hai bên, chàng bước thắng qua ngõ hẻm đi về phía sở cảnh sát. Dọc đường có một hình ảnh thoáng qua mắt chàng, nhưng chàng không lấy làm lạ, chàng đã tiên cảm rằng tất phải thế. Hồi nãy trên khu Chợ hàng Rơm, khi quay sang trái cúi mình sát đất lần thứ hai, chàng chợt trông thấy Sonya. Nàng đứng nấp sau một cái nhà lớn bằng gỗ cho chàng khỏi trông thấy: thế nghĩa là nàng đã đi theo chàng trong suốt đoạn đường khổ nhục ấy! Giây phút ấy chàng đã cảm thấy và hiểu thấm thía rằng từ nay Sonya sẽ vĩnh viễn ở bên cạnh chàng và sẽ theo chàng dù có phải đi đến nơi cùng trời cuối đất, dù số phận có xua chàng đi đâu chăng nữa. Lòng chàng như đảo ngược hẳn lại, nhưng… đây chàng đã đi đến nơi oan nghiệt… chàng vào sân một cách khá mạnh dạn. Phải lên đến tầng thứ ba. "Bây giờ ta vẫn chỉ mới lên thang gác mà thôi" - Chàng thầm nghĩ. Nói chung chàng cứ có cảm giác là từ đây đến cái phút oan nghiệt ấy hãy còn xa, hãy còn nhiều thì giờ lắm, còn có thể nghĩ lại rất nhiều điều.
Lại những mở rác rưới, những đống vỏ khoai trên cái cầu thang xoáy trôn ốc, lại những cảnh cửa phòng mở toang, lại những gian nhà bếp toả ra những luồng khói và những mùi hôi hám. Từ dạo nọ, Raxkonikov chưa lần nào trở lại đây. Chân chàng cứ tê dại, khuỵu xuống, nhưng vẫn bước đị. Chàng dừng lại một lát để thở lại cho đều, để trấn tĩnh lại, để khi vào cho ra vẻ một con người. "Nhưng để làm gì? Tại sao? - Chàng chợt hiểu rõ ý nghĩa của hành động vừa rồi. - Nếu đã cần uống cạn chén thuốc đắng ấy, thì còn thiếu gì nữa? Càng đắng càng hay. - Trong giây lát đó hình ảnh Ilya Petrovich "Thuốc Súng" vụt thoáng qua trí tưởng tượng của chàng - Có thật ta đến gặp hắn không? Không thể gặp ai khác sao? Không thể gặp Nikodim Phomits được sao? Hay là trở lại đến nhà riêng viên quận trưởng, ít nhất cũng có không khí gia đình? Không! Hãy lên gặp Thuốc Súng, phải đến gặp gặp Thuốc Súng. Đã uống thì phải uống cạn một hơi!".
Người lạnh toát, hầu như mê man: chàng mở cánh cửa vào sở cảnh sát. Lần nầy trong sở rất ít người i, chỉ thấy một người gác cổng với một người thường dân nào đứng đấy. Người canh cửa ngồi sau tấm vách cũng không buồn nhìn ra nữa. Raxkonikov bước sang phòng bên. "Có lẽ bây giờ không nói ra cùng còn kịp" - chàng thoáng nghĩ. Trong phòng nầy có một viên thư lại mặc thường phục đang sắp sửa viết cái gì trên bàn giấy. Trong góc có một viên thư lại khác đang soạn chỗ ngồi. Không thấy Zamiotov đâu. Nikodim Phomits dĩ nhiên cũng không có ở đây.
- Không có ai cả à? - Raxkonikov hỏi viên thư lại ngồi ở bàn giấy.
- Thế ông cần hỏi ai?
- À - à - à? Tiếng thì chẳng nghe, người thì chẳng thấy nhưng cái tinh thần Nga - la - tư… trong câu chuyện cổ tích ấy nói thế nào nhỉ, tôi quên mất! X - Xin k - kính ch - Chào - ào ngà - ài - một giọng nói quen thuộc bỗng reo to lên.
Raxkonikov run lên. Trước mắt chàng là viên trung uý Thuốc Súng; hắn vừa ở phòng thứ ba đột ngột bước ra. "Đây chính là số mệnh, - Raxkonikov nghĩ thầm - Tại sao hắn lại ở đây?".
- Ông đến tìm chúng tôi à? Có việc gì thế - Ilya Petrovich kêu lên. (Hình như hắn đang vui và thậm chí có phần cao hứng nữa). - Nếu ông đến giải quyết công việc thì hơi sớm quá. Tôi đến đây cũng chỉ tình cờ… Nhưng nếu tôi có thể giúp được gì? Tôi xin thú thực với ông… Ông gì nhỉ? Xin lỗi…
- Raxkonikov.
- Thì đã đành là Raxkonikov! (2) Chả nhẽ ông lại có thể tưởng là tôi quên! Xin ông đừng cho tôi là người như thế, ông… Rodion Romanovich Ro… Ro… Rodonovich thì phải.
- Rodion Romanovich.
- Phải, phải - phải! Rodion Romanovich, Rodion Romanovich? Tôi muốn nhớ nhớ lại là lại cái tên ấy kia. Tôi đã có nhiều lần hỏi thăm ông. Tôi xin thú thật rằng từ dạo ấy tôi thành thật lấy làm phiền lòng rằng hôm ấy chúng ta đã, về sau người ta nói rõ tôi mới được biết rằng ông là một nhà văn trẻ, hơn nữa lại là một nhà bác học… và, có thể nói là đang trên những bước đầu. Ồ lạy Chúa! Các nhà văn, nhà bác học thì vị nào mà lúc đầu chẳng bước những bước độc đáo! Tôi và nhà tôi đều coi trọng văn học, riêng nhà tôi thì lại yêu say mê! Văn học và nghệ thuật! Trừ dòng dõi ra không kể, còn thì mọi thứ đều có thể đạt được bằng tài năng, tri thức, trí tuệ, thiên tài! Như cái mũ chẳng hạn, mũ là cái gì? Mũ là một cái bánh rán, tôi mua nó ở hiệu Zimmermann; nhưng cái được che đậy và bảo toàn bên dưới cái ũu thì không thể nào mua được! Xin thú thật là tôi cũng đã muốn đến phân trần với ông, nhưng lại nghĩ bụng, có lẽ ông… Nhưng thôi, xin hỏi ông lên đây có việc gì cần không? Nghe nói ông có người nhà mới lên thăm, phải không?
- Phải, mẹ và em tôi.
- Tôi đã có cái hân hạnh và may mắn được gặp em gái ông, thật là một thiếu nữ có học thức đẹp tuyệt trần. Xin thú thật là tôi rất làm tiếc rằng dạo ấy chúng ta đã nổi nóng lê như vậy! Còn như nhân khi ông bị ngất tôi có nảy ra ý ghi ngờ, thì về sau những việc ấy đã được giải thích một cách hết sức thần tình! Thật là dị đoan, cuồng tín! Tôi hiểu nỗi căm phẫn của ông lắm. Có lẽ, nhân việc gia đình ông mới lên, ông định dọn nhà mới chăng?
- Không, tôi chỉ… Tôi định ghé vào hỏi… tôi tưởng sẽ gặp ông Zamiotov ở đây.
- À phải! Chà là hai ông đã kết bạn mà, tôi có nghe nói. Ấy, Zamiotov hiện không có ở đây, không đến nữa. Phải, chúng tôi đã đành tâm chịu thiếu Alekxandr Grigorievich! Từ hôm qua ông ta không còn đến đây nữa; ông ta đã đổi đi nơi khác… và khi thuyên chuyển, ông ta còn to tiếng với mọi người… to tiếng một cách vô lễ nữa là khác… Một đứa trẻ nông nổi: không hơn không kém; ông ta cũng có vẻ có triển vọng, nhưng cứ thử tin vào cái lớp thanh niên "ưu tú" của chúng ta mà xem! Ông ta muốn dự một kỳ thi gì đấy thì phải, nhưng với chúng tôi thì chỉ cần nói chuyện gẫu và huênh hoang đôi chút, thế là đã thi xong rồi đấy. Vì đây không phải như trường hợp ông hay ông Razumikhin bạn ông chẳng hạn! Sự nghiệp của các ông thuộc lĩnh vực khoa học, và thất bại không thể làm các ông nản chí được. Đối với ông tất cả những cái hào nhoáng của cuộc sống có thể nói là chẳng là cái gì hết cả. Ông là một nhà tu; một nhà khổ hạnh, một ẩn sĩ, ông chỉ cấn một quyển sách, một cây bút dắt trên vành tai, những công trình nghiên cứu khoa học - linh hôn ông phiêu diêu ở những nơi ấy đấy! Chính tôi đây cũng phần nào… Ông đã đọc bút ký của Livingston (3) chưa nhỉ?
- Chưa.
- Còn tôi thì đọc rồi. Vả chăng bây giờ lắm người theo chủ nghĩa hư vô lắm: cũng dễ hiểu thôi; thời đại ta là thời dại gì, xin hỏi ông. Nhưng dù sao, tôi cũng nói với ông… chắc hẳn ông không phải là một người hư vô chù nghĩa? Ông trả lời thành thật đi!
- Không…
- Không, ông ạ. Ông cứ nói thật với tôi đi, đừng ngại gì cả, như nói với chính mình ấy. Công vụ là một đằng, mà… Ông tưởng tôi muốn nói: mà tình bạn là một đằng khác (4) chứ gì? Không, ông đoán sai rồi! Không phải là tình bạn, mà là tình của một công dân và một con người, tình yêu nhân loại và tình yêu đối với Đấng Tối cao. Tôi cũng biết làm một nhà chức trách, một người làm công vụ, nhưng bao giờ tôi cũng có bổn phận cảm thấy mình là một công dân và là một con người, và chịu trách nhiệm về việc đó. Vừa rồi ông nhã ý nói đến Zamiotov, Zamiotov thì sẽ lam một chuyện gì bậy bạ theo kiểu Pháp trong một nhà chứa, bên côc sâm banh hay cốc rượu sông Đông, đấy Zamiotov của ông là thế đấy! Còn tôi thì có thể nói là đã mòn mỏi đi vì lòng tận tuỵ và vì những cảm xúc cao cả, hơn nữa tôi lại có một chức vụ, một địa vị! Tôi có gia đình, có con cái. Tôi làm tròn nhiệm vụ của một công dân và một con người, còn Zamiotov là ai, tôi xin hỏi ông như vậy? Tôi đối xử với ông như với một người đã được học vấn nâng cao phẩm giá lên. Đấy, ngoài ra bây giờ lại sinh ra vô khối những hạng "cô đỡ" ấy (5).
Raxkonikov bỡ ngỡ giương cao lông mày lên. Lời lẽ của Ilya Petrovich, hẳn là vừa ở bàn ăn đứng dậy, tuôn ra từng tràng trước mặt chàng, phần lớn nghe như những âm thanh vô nghĩa. Nhưng dù sao chàng cùng hiểu được ít nhiều; chàng băn khoăn nhìn hắn và không biết sự việc sẽ kết thúc ra sao.
- Là tôi muốn nói đến những cô gái cắt tóc ngắn ấy - Ilya Petrovich vẫn nói huyên thuyên, - Chính tôi đây đã đặt cho họ cái biết hiệu "cô đỡ" và thấy đó là một biết hiệu hoàn toàn thích đáng. Hê - hê! Họ chui vào học viện, học giải phẫu; nhưng ông bảo nếu tôi lăn ra ốm, liệu tôi có mời một cô con gái đến chữa cho tôi không? Hê - hê!
Ilya Petrovich cười lớn, rất hài lòng với những câu dí dỏm của mình.
- Cứ cho đó là do lòng khát khao học vấn, một lòng khát khao vô độ; nhưng có học vấn rồi thì thôi. Lạm dụng làm gì? Tại sao lại đi xúc phạm đến những con người cao quý, như cái thằng Zamiotov vô lại kia đã làm? Xin hỏi tại sao hắn lại xúc phạm đến tôi? Lại còn những vụ tự tử kia nữa, cùng nhiều vô khốit, ông không thể tưởng tượng được đâu. Bọn họ vung hết nhưng đồng tiền cuối cùng rồi tự sát. Con gái có, con trai có, ông già cũng có… Đấy, vừa sáng nay có tin một ông mới lên đây được ít lâu, nầy, ông Nil Pavlyst, ông Nil Pavlyst… Cái ông mà vừa rồi họ bảo là đã bắn vào đầu tự sát ở quận Petersburgxkaya tên là gì thế nhỉ?
- Xvidrigailov, - một giọng khàn khàn và dửng dưng đâu từ phòng bên đáp.
Raxkonikov giật mình.
- Xvidrigailov! Xvidrigailov tự sát? - Chàng kêu lên.
- Sao! Ông biết Xvidrigailov à?
- Vâng… tôi có biết… Ông ta mới lên đây được ít lâu.
- Phải rồi, mới lên đây, vợ mới chết, ông ta là người chơi bời phóng đàng, bỗng dưng lại tự sát, mà tự sát một cách ngang chướng không thể tưởng tượng được có để lại mấy chữ trong sổ tay, nói là chết trong lúc tỉnh trí và yêu cầu đừng buộc tội cho ai cả. Nghe nói ông ta có lắm tiền. Sao ông lại biết ông ta?
- Tôi… có quen… em tôi trước có làm gia sư trong nhà ông ta.
- À à ra thế… Thế thì ông có thể cho chúng tôi biết một số tài liệu về ông ta. Thế ông cũng không ngờ à?
- Hôm qua tôi có gặp ông ta. Ông ta uống rượu, tôi không biết gì hết.
Raxkonikov cảm thấy như có một cái đổ lên người chàng và đè chàng xuống.
- Hình như ông lại tái mặt đi rồi. Ở đây bí lắm…
- Vâng, tôi phải đi đây, - Raxkonikov lẩm bẩm. Xin lỗi, tôi đến làm phiền.
- Ồ không sao ạ. Ông ngồi chơi bao nhiêu lâu cũng được ấy chứ! Được nói chuyện với ông thật là thú vị. Và tôi lấy làm mừng được tuyên hố rằng… Ilya Petrovich lại còn chìa tay ra bắt nữa.
- Tôi chỉ muốn… tôi đến gặp Zamiotov…
- Tôi hiểu, tôi hiểu, như vậy cùng rất hay - Tôi rất hân hạnh… xin chào ông…
Raxkonikov mỉm cười.
Chàng lảo đảo bước ra. Đầu chàng choáng váng. Chàng không cảm thấy chân mình chấm đất. Chàng bắt đầu xuống thang gác, tay phải vịn vào tường. Chàng mường tượng như có một người gác cổng cầm quyển số đi lên sở xô phải chàng; hình như có một con chó sủa vang lên đâu ở tầng dưới, và có một người đàn bà nào vừa quát tháo vừa ném một hòn sói vào con chó.
Chàng xuống hết thang gác và bước ra sân. Ngoài sân, cách cửa ra vào không xa, Sonya đang đứng lặng người ra nhìn chàng với đôi mắt thẫn thờ, man dại, mặt tái mét. Chàng dừng lại trước mắt nàng, trên gương mặt nàng có một cái gì đau đớn, ốm yếu, tuyệt vọng. Nàng chắp hai tay lên ngực. Một nụ cười ngây dại, quái gở hiện lên m trên môi Raxkonikov. Chàng đứng yên một lát, cười nhạt rồi quay trở lại lên sở cảnh sát.
Ilya Petrovich đã ngồi vào bàn và đang cậm cụi trên một đống giấy má gì không rõ. Ttrước mặt hắn là người mu-gích đã xô phải chàng trong khi leo lên thang gác.
- À à - à! Ông trở lại đây ư! Ông quên cái gì thế? Nhưng ông làm sao thế?
Raxkonikov môi trắng bệch, mắt đờ đẫn, từ từ bước lại gần hắn, tiến sát cạnh bàn, chống tay lên định nói một câu gì, nhưng không nói được, chỉ phát ra những tiếng ú ở rời rạc.
- Ông khó ở! Lấy ghế đây! Đấy. Ông ngồi xuống đây ông ngồi xuống! Lấy nước!
Raxkonikov buông người rơi phịch xuống ghế, nhưng mắt vẫn không rời Ilya Petrovich bấy giờ đang ngạc nhiên một cách rất khó chịu.
- Chính tôi… - Raxkonikov mở đầu.
- Ông uống nước đi.
Raxkonikov lấy tay gạt cốc nước ra và nói khẽ, giọng ngập ngừng nhưng rành mạch:
- Chính tôi đã giết mụ chủ hiệu cầm đồ và em gái bà ta là Lizaveta để lấy của.
Ilya Petrovich há hốc mồm ra. Những người ở xung quanh đổ xô tới.
Raxkonikov nhắc lại lời cung khai.
Chú thích:
(1) Trong nhiều ngôn ngữ châu Âu, thành ngữ "vác cây thập tự" có nghĩa là nhận lấy đau khổ
(2) Ilya Petrovich muốn nói rằng anh ta có quên là quên mất tên và phụ danh, chứ họ (Raxkonikov) thì vẫn nhớ: ý muốn tỏ ra kính nể Raxkonikov (gọi tên và phụ danh là cách gọi dành cho những người được mình mến trọng)
(3) Nhà thám hiểm nổi tiếng người Anh (1813 - 1873)
(4) Tục ngữ Nga
(5) Ý muốn ám chỉ các nữ sinh viên, mới bắt đầu có ở Nga
Chương 38
Bên một giòng sông rộng và vắng có một thị trấn, một trong những trung tâm hành chính của nước Nga; trong thị trấn có một pháo đài, trong pháo đài là một ngục thất. Trong ngục thất có một phạm nhân bị xử án khổ sai biệt xứ loại hai tên là Rodion Romanovich Raxkonikov, giam ở đây đã được chín tháng: Từ ngày phạm tội cho đến nay đã gần một năm rưỡi.
Quá trình xét xử vụ nầy đã diễn ra khá êm thấm.
Phạm nhân xác nhận lời cũng khai của mình một cách cứng cỏi, rõ ràng và chính xác, không lẫn lộn các sự việc không giấu bớt những điều có hại cho mình, không xuyên tạc các sự kiện, không quên lấy một chi tiết vụn vặt nào. Hắn kể lại cặn kẽ toàn bộ quá trình vụ án mạng: hắn giải thích điều bí ẩn của cái đồ cầm (mảnh ván mỏng với tấm sắt) tìm thấy trong tay mụ già bị giết, kể ti mỉ việc lấy chùm chìa khoá trong người mụ già, mô tả những chiếc chìa khoá ấy, miêu tả cái rương và cho biết nó đựng gì, lại còn kể rõ một số đồ đạc đựng trong rương nữa. Hắn giải đáp những mối thắc mắc về cái chết của Lizaveta, kể lại việc lão Koch lên đập cửa rồi thêm người sinh viên, thuật lại tất cả những điều hai người nói với nhau, kể rõ việc hắn chạy xuống thang gác và nghe tiếng reo hò của Mikonka và Mitka, nấp trong căn phòng bỏ trống rồi đi về nhà ra sao, và cuối cùng chỉ rõ tảng đá trong khoang sân ở đại lộ Voznexxki, phía dưới cái cổng: người ta đã tìm thấy cái bóp tiền và các vật khác… Nói tóm lại, vụ án đã phân mình. Có những điều lầm cho các vị dự thẩm và quan toà rất ngạc nhiên, chẳng hạn phạm nhân đem giấu các thứ xuống dưới tảng đá mà không hề dùng đến, và nhất là phạm nhân không những không nhớ hết những vật chính tay mình lấy mà còn nói sai số lượng những vật ấy nữa. Lại có một việc nghe ra thật khó tin, là phạm nhân chưa bao giờ mở cái bóp tiền ra và thậm chí cũng không biết trong bóp có bao nhiêu tiền (trong bóp có ba trăm mười bảy rúp bạc và ba đồng tiền hai hào: vì bị để lâu ngày dưới tảng đá, có mấy tờ giấy bạc to nhất nằm ở phía trên bị ăn hỏng hết). Người ta đã tra đi khảo lại rất lâu để biết rõ tại sao bị cáo lại nói dối về điểm duy nhất đó, trong khi mọi việc khác thì lại thú nhận một cách tự nguyện và chân xác như vậy. Cuối cùng: một số người (nhất là những người có nghiên cứu tâm lý học) đi đến chỗ thừa nhận rằng có thể phạm nhân không nhìn vào bóp tiền thật cho nên không biết trong bóp có những gì, và cứ thế đem giấu xuống dưới tảng đá, nhưng từ đó họ lại kết luận ngay rằng tội ác chỉ có thể diễn ra trong một trạng thái điên loạn nhất thời, có thể nói là trong khi đang lên chứng thiên chấp, bị tư tưởng giết người cướp của ám ánh, không hề có suy tính mục đích, không hề mưu lợi. Đây thật là một dịp tốt cho cái thuyết về chứng điên loạn nhấàt thời, một học thuyết mới mẻ, thời thượng mà ngày nay người ta thường cố đem áp dụng cho một số tội nhân. Thêm vào đấy, trạng thái ưu uất kinh niên của Raxkonikov lại được nhiều nhân chứng xác nhận rõ ràng, trong số đó có bác sĩ Zoximov các bạn học cũ của phạm nhân, bà chủ nhà, người đầy tớ gái. Tất cả những điều đó đều tích cực góp phần đưa đến kết luận là Raxkonikov không giống hẳn như một kẻ sát nhân, một tên trộm cướp thông thường; ở đây có một cái gì khác. Nhưng, lại có một việc làm cho những người bênh vực ý kiến nầy rất bực mình, là phạm nhân hầu như không có ý muốn tự bào chữa; khi toà hỏi những câu quyết định: cụ thể cái gì xui khiến hắn giết người và cái gì thúc đẩy hắn lấy của, thì phạm nhân trả lời khá rõ ràng, với một sự chính xác thô bạo, rằng nguyên nhân trước sau chỉ là tình cảnh khốn đốn, nghèo túng, không nơi nương tựa, là ý muốn bảo đảm cho những bước đầu xây dựng sự nghiệp bằng một số tiền là ba nghìn rúp, mà hắn hy vọng lấy được ở người bị giết.
Còn sở dĩ phạm nhân quyết định giết người là do tính nông nổi và hèn nhát, lại bị cảnh túng bấn và những nỗi thất bại kích thích thêm. Đến khi toà hỏi cái gì đã xui khiến hắn ra tự thú, thì phạm nhân nói thẳng đó là lòng hối hận thành khẩn. Tất cả những lời lẽ ấy nghe thật gần như vô sỉ…
Tuy vậy, lời tuyên án cũng khoan hồng hơn là người ta có thể dự đoán căn cứ vào tội ác đã phạm, và sở dĩ như vậy có lẽ chính vì phạm nhân không những không muốn tự thanh minh, mà dường như lại còn tỏ ý muốn tự buộc tội thêm vào cho nặng nữa. Tất cả những hoàn cảnh đặc biệt và kỳ lạ xung quanh vụ án đều được chú ý xét tới. Trạng thái bệnh hoạn của phạm nhân trước khi phạm tội không còn có thể hồ nghi một chút nào nữa. Việc phạm nhân không dùng đến những thứ đã lấy, một phần được gán cho tác dụng của lòng hối hận chớm nở, một phần được gán cho tình trạng không được lành mạnh của trí năng trong thời gian phạm tội. Việc Lizaveta tình cờ bị giết thậm chí cũng được xem như một dẫn chứng xác nhận thêm giả thiết nầy: giết hai mạng người mà đồng thời lại quên rằng cửa vẫn để ngỏ! Cuối cùng việc phạm nhân ra tự thú đúng vào lúc vụ án đang rối tung lên vì lời tự tố giác sai trái của một kẻ cuồng tín bị suy sụp tinh thần (Mikolai) và hơn nữa là trong khi không có bằng chứng gì rõ ràng để buộc tội thủ phạm thật, mà hầu như cũng không có những mối nghi ngờ gì đáng kể (Porfiri Petrovich đã hoàn toàn giữ lời hứa), tất cả những điều đó rốt cục đã khiến toà giảm nhẹ tội cho phạm nhân.
Ngoài ra còn có những sự việc khác đột ngột được đưa ra ánh sáng, gây một tác dụng rất mạnh có lợi cho phạm nhân. Một cựu sinh viên tên là Razumikhin đã đào được ở đâu ra những tài liệu và xuất trình những bằng chứng cho biết rằng phạm nhân Raxkonikov, hồi còn sinh hoạt trong trường đại học, đã đem những đồng tiền cuối cùng của mình ra giúp một người bạn học nghèo túng và ho lao, và hầu như đã nuôi cho người ấy ăn học trong suốt nữa năm trời. Rồi đến khi người bạn ấy chết, phạm nhân đã săn sóc người cha già nua và bất toại của bạn (người bạn ấy đã tự tay làm lụng nuôi cha từ khi mới hơn mười ba tuổi), rồi cuối cùng đưa ông cụ vào nhà thương, và đến khi ông ta cũng chết nốt, đã chôn cất ông tử tế! Tất cả những tài liệu đó đã có ít nhiều ánh hưởng tốt đối với việc quyết định số phận Raxkonikov. Ngay cả bà chủ nhà cũ, mẹ người vợ chưa cưới đã quá cố của Raxkonikov, bà quả phụ Zarnitxyn, cùng đứng ra khai rằng hồi họ con ở một toà nhà khác ở gần khu Năm góc, có đêm xảy ra một vụ hoả hoạn, Raxkonikov đã xông vào một gian đang đang bốc cháy cứu hai đứa trẻ, và đã bị bỏng nặng. Sự việc nầy liền được thẩm tra kỹ lường và được nhiều nhân chứng xác nhận khá rõ ràng. Nói tóm lại, rốt cục phạm nhân lị đày khổ sai loại hai trong thời hạn tám năm thôi, vi chiếu cố đến việc ra tự thú và một số hoàn cảnh giảm tội.
Ngay từ đầu vụ án mẹ Raxkonikov đã lâm bệnh. Dunia và Razumikhin đã tìm cách đưa bà cụ ra khỏi Petersbung suốt thời gian xét xử. Razumikhin chọn một thành phố trên đường xe hoả, gần Petersbung để có thể theo dõi đều vụ án và đồng thời có thể gặp Avdotia Romanovna luôn. Bệnh tình của bà Punkheria Alekxandrovna hơi khác thường, thuộc lĩnh vực thần kinh và có kèm theo những hiện tượng gần như loạn óc, nếu không phải là hoàn toàn thì ít nhất cùng một phần. Khi Dunia gặp anh lần cuối cùng rồi trở về nhà đã thấy mẹ ốm hẳn, đang sốt và mê sảng. Ngay tối hôm ấy nàng đã bàn định với Razumikhin sẽ trả lời những gì nếu bà cụ có hỏi về con trai, lại còn nghĩ ra cả một câu chuyện có đầu, có đuôi, là Raxkonikov đi đến một nơi nào rất xa ở biên giới nước Nga, do một sự ủy thác cá nhân, chuyến đi nầy rốt cục sẽ đem lại cho chàng tiền tài và danh vọng. Nhưng có một điều khiến cho họ rất kinh ngạc, là bản thân bà Punkheria Alekxandrovna không hề hỏi gì về việc ấy, ngay lúc bây giờ hay về sau cũng thế, trái lại, bà cụ cũng dựng lên cả một câu chuyện dài về chuyến đi của con trai: bà ứa nước mắt thuật lại việc chàng đến từ biệt bà ra sao trong khi kể lại có nói bóng gió cho hai người hiểu rằng có nhiều điều rất quan trọng và bí mật mà chỉ một mình bà biết thôi, rằng Rodia có nhiều kẻ thù có thế lực, cho nên chàng còn phải trốn tránh nữa là khác.
Còn về sự nghiệp tương lai của chàng thì bà tin chắc là sẽ rực rỡ vô cùng, khi nào một số hoàn cảnh thù địch sẽ không còn nữa; bà quả quyết với Razumikhin rằng sau nầy con bà sẽ trở thành một nhân vật chính trị tai mắt trong nước: cứ xem bài báo của Raxkonikov và cái tài năng văn học lỗi lạc của chàng cùng đủ rõ.
Bài báo ấy bà cứ đọc đi đọc lại không biết chán, đôi khi lại đọc to lên nữa, chỉ thiếu đường ôm lấy tờ báo mà ngủ, ấy thế nhưng cụ thể bây giờ Rodia ở đâu thì hầu như bà không hề hỏi đến, tuy có thể thấy rõ là người ta tránh nói chuyện nầy với bà: chi riêng điều đó thôi đáng lẽ cũng đã khiến cho bà sinh nghĩ ra rồi mới phải. Cuối cùng, họ lấy làm lạ và bắt đầu lo sợ khi thấy bà Punkheria Alekxandrovna mãi không đả động gì đến một số điểm nhất định. Chẳng hạn, chẳăng bao giờ bà than phiền về nỗi không có thư từ gì của chàng, mặc dù khi còn ở cái tỉnh nhỏ ngày trước, bà chỉ sống bằng niềm hy vọng và nỗi trông mong sớm nhận được một bức thư của thằng Rodia yêu quý. Điều nầy thì thật không sao cắt nghĩa nổi, và khiến cho Dunia rất lo; nàng nghĩ có lẽ bà cụ đã linh cảm thấy một cái gì khủng khiếp trong số phận của con trai và không dám hỏi vì sợ phải biết thêm một cái gì còn khủng khiếp hơn nữa. Dù sao, Dunia cũng thấy rằng trí khôn của bà Punkheria Alekxandrovna đang lâm vào một tình trạng không bình thường.
Tuy vậy cũng có đôi lần trong khi nói chuyện, nàng vô tình gợi cho mẹ hỏi những câu mà nếu trả lời thì không thể nói rõ Rodia hiện nay ở đâu; và những khi nàng buộc lòng phải trả lời những câu úp mở khả nghi, bà bỗng trở nên buồn bã, u uất và trầm lặng khác thường, và tình trạng đó kéo dài trong một thời gian khá lâu. Cuối cùng Dunia thấy khó lòng bịa đặt và nói dối mãi, nên đã đi đến kết luận dứt khoát rằng tốt hơn cả là tuyệt đối không nói gì đến một số điểm nhất định; nhưng càng ngày càng thấy rõ, đến mức hiển nhiên, rằng người mẹ đáng thương ấy đang nghi ngờ một điều gì khủng khiếp. Dunia nhớ lại những lời của anh nàng nói rằng bà cụ có lắng nghe nàng nói mê trong đêm trước cái ngày oan nghiệt ấy, sau khi nàng gặp Xvidrigailov: hay là đêm ấy bà có nghe được gì chăng?
Thường thường, đôi khi là sau mấy ngày hoặc mấy tuần ủ rũ, trầm ngâm, chỉ lặng lẽ khóc thầm người ốm bỗng hoạt bát lên một cách khác thường và bỗng bắt đầu nói bô bô không ngớt miệng về con trai, về những niềm hy vọng của mình, về tương lai… Những cơn trở chứng của bà đôi khi rất kỳ quặc. Họ an ủi bà cụ, họ ậm ừ cho bà cụ yên tâm (có lẽ chính bà cũng thấy rõ rằng người ta chỉ ậm ừ cho qua chuyện, để an ủi mình), nhưng bà cụ vẫn cứ nói.
Năm tháng sau khi ra tự thú, phạm nhân được đưa ra xử. Razumikhin hễ có dịp là vào ngục thăm chàng. Sonya cũng vậy. Cuối cùng, giờ phút chia tay đã đến.
Dunia thề với anh rằng cuộc phân ly nầy không phải là vĩnh viễn; Razumikhin cũng vậy. Trong khối óc trẻ trung và nhiệt thành của Razumikhin đã hình thành cả một dự định vững chãi là trong ba bốn năm sắp tới ít nhất cũng cố đặt cho được nền móng của công cuộc gây dựng sau nầy, dành dụm một số tiền và dọn sang Siberi, là nơi đất đai giàu có về mọi phương diện nhưng nhân công, người và vốn thì lại ít: đến đây sẽ lập cư ở ngay thị trấn Rodia bị đày đến và… cả nhà cùng nhau khởi đầu một cuộc sống mới. Khi chia tay, họ đều khóc. Trong những ngày tận cùng Raxkonikov rất trầm ngâm, hỏi thăm mẹ rất nhiều, luôn luôn lo lắng đến mẹ. Thậm chí chàng còn rất đau lòng vì thương mẹ, khiến cho Dunia rất lo sợ. Khi được biết tỉ mỉ tâm trạng bệnh tật của mẹ, chàng đâm ra u uất khác thường. Suốt thời gian ấy không hiểu sao chàng đặc biệt ít nói với Sonya, Sonya, với số tiền của Xvidrigailov để lại, đã thu xếp và sửa soạn xong xuôi từ lâu để đi theo đoàn tù trong đó có Raxkonikov. Về việc nầy hai người không hề trao đổi lấy một câu, nhưng cả hai đều biết rằng sự việc sẽ như thế. Khi chia tay nhau lần cuối cùng, chàng mỉm cười một cách kỳ dị khi nghe những lời nói quả quyết và nhiệt thành của em gái và Razumikhin về tương lai hạnh phúc của gia đình khi chàng sẽ mãn hạn khổ sai, và nói trước rằng bệnh tình của mẹ chẳng bao lâu nữa sẽ đưa đến tai họa.
Hai tháng sau Dunia lấy Razumikhin. Lễ cưới buồn và trầm lặng. Trong số những người được mời đến dự có Porfiri Petrovich và Zoximov. Trong suốt thời gian gần đây Razumikhin trông rõ là một con người đã quyết tâm dứt khoát. Dunia tin một cách mù quáng rằng anh sẽ thực hiện được tất cả những dự định của mình, và lại nàng cũng không thể không tin được: trong con người ấy rõ ràng có một nghị lực sắt đá. Một trong những việc anh làm trong thời gian ấy là trở lại nghe giảng ở trường đại học cho hết chương trình, hai vợ chồng lúc nào cũng ngồi vạch thêm những dự định cho tương lai. họ tin chắc là năm năm nữa sẽ có thể dọn đi Siberi. Còn từ bây giờ đến lúc ấy thì họ trông mong cào Sonya.
Bà Punkheria Alekxandrovna vui mừng cầu phước cho con gái lấy Razumikhin; nhưng sau việc cưới xin ấy bà dường như lại có vẻ buồn râu và lo lắng hơn. Để mua vui cho bà trong chốc lát, Razumikhin có kể chuyện anh sinh viên có người cha già yếu và chuyện Rodia bị bỏng phát ốm lên sau khi cứu hai đứa trẻ hồi năm ngoái.
Trí óc bà Punkheria Alekxandrovna đã sẵn rối loạn, cho nên cả hai tin tức nầy khiến bà lâm vào một tình trạng gần như cuồng hoan. Bà không ngớt mồm nói đi nói lại chuyện ấy, đang đi giữa phố cũng bắt chuyện (tuy Dunia lúc nào cũng đi kèm theo mẹ). Trong những chuyến xe công cộng, trong các cửa hàng, hễ vớ được ai là bà lái ngay câu chuyện sang con trai, sang bài báo của chàng viết, kể lể chuyện chàng giúp người sinh viên, chuyện chàng bị bóng trong đám cháy, vân vân. Dunia cũng chắng biết làm thế nào để can mẹ nữa.
Ngoài cái nguy cơ do tâm trạng cuồng hoan bệnh tật ấy gây ra, lại còn có một nguy cơ khác nữa, là nếu nhỡ có ai nhắc đến tên Raxkonikov và nói đến vụ án vừa qua, thì chỉ riêng việc ấy thôi cùng đủ đưa đến tai họa.
Thậm chí bà Punkheria Alekxandrovna còn hỏi được địa chí của mẹ hai đứa trẻ được cứu ra khỏi đám cháy và nhất định đòi đến gặp bà ta cho kỳ được. Cuối cùng, tâm trạng lo âu của bà cụ lên đến cùng cực. Đôi khi bà bỗng nhiên khóc oà lên, bà rất hay ốm và trong cơn sốt thường mê sảng Một hôm, vào buổi sáng bà bỗng tuyên bố rằng cứ theo những tính toán của bà thì Rodia sắp về đến nơi rồi, rằng bà nhớ là khi từ biệt chính chàng có nói cụ thể mười tháng nữa sẽ về, bà liền bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa và sửa soạn đón con: thu xếp gian phòng dành cho chàng (tức phòng riêng của bà) lau chùi bàn ghế, giặt giũ và đem treo những tấm rèm mới, vân vân.
Dunia lo cuống lên, nhưng vẫn làm thinh, thậm chí lại còn bắt tay vào giúp mẹ dọn phòng đón anh. Sau một ngày sửa soạn ráo riết, đầy những mộng tưởng hão huyền, những mơ ước tươi vui và những giọt nước mắt mừng rỡ, đến đêm bà bắt đầu khó ở và sáng hôm sau lên cơn sốt nóng mê man. Hai tuần sau bà cụ mất.
Trong khi mê sảng bà có thốt ra những câu cho phép suy ra rằng bà còn đoán biết được về cái số phận khủng khiếp của con trai nhiều hơn là người ta vẫn tưởng.
Trong một thời gian khá dài Raxkonikov không biết tin mẹ chết, tuy việc trao đổi thư từ với Petersbung đã được xác lập ngay từ khi chàng đến Siberi, do Sonya đảm nhiệm việc liên lạc. Hàng tháng nàng viết thư gửi đều đặt về Petersbung đề tên Razumikhin, và mỗi tháng nàng lại nhận được thư trả lời đều đặn từ Petersbung gửi đến. Thoạt tiên, Dunia và Razumikhin có cảm tưởng như thư của Sonya viết khô khan và không đủ sức thoả mãn lờng mong đợi của họ; nhung dần dần cả hai đều thấy rõ rằng không thể nào viết hay hơn thế nữa, dù sao qua những bức thư nầy chẳng có thể hình dung được một cách trọn vẹn và chính xác cuộc sống của người anh khôn khổ của họ. Những bức thư của Sonya chứa đựng cái thực tế hết sức tầm thường của cuộc sống hàng ngày nàng mô tả một cách hết sức đơn giản và rõ ràng cảnh sống tù đày của Raxkonikov trong thư nàng không hề giãi bày những hy vọng của bản thân, những dự đoán về tương lai, hay miêu tả những cảm xúc của mình. Nàng không hề cố gắng trình bày tâm trạng của chàng và cuộc sống nội tâm của chàng nói chung: trong thư chỉ có những sự việc, nghĩa là những lời của chính chàng nói ra, những tin tức chi tiết về tình hình sức khoẻ của chàng, trong buổi gặp gỡ hôm nọ hôm kia chàng muốn gì, chàng yêu cầu nàng những gì, dặn nàng làm gì, vân vân. Tất cả những tin tức ấy đều được truyền đạt một cách hết sức tỉ mỉ, hình ảnh người anh bất hạnh dần dần tự nó hiện rõ lên, với những đường nét minh bạch và chính xác; ở đây không thể có sự hiểu lầm gì được vì tất cả đều là những sự kiện đúng đắn.
Nhưng qua những tin tức ấy Dunia và chồng nàng ít khi rút ra được điều gì có thể an ủi họ, nhất là dạo dầu. Sonya luôn luôn viết rằng chàng lúc nàỏ cũng lầm lì ít nói và hầu như không quan tâm chút nào đến những tin tức mà nàng nói lại cho chàng biết mỗi khi nhận được thư Petersburg; chàng có đôi khi hỏi thăm tin mẹ; và đến khi, thấy chàng đã đoán được, Sonya cho chàng biết sự thật, thì lạ thay, ngay cả tin mẹ chết dường như cũng không có tác động gì mạnh lắm đối với chàng, ít nhất là bề ngoài cũng có vẻ như thế. Nàng lại cho biết rằng tuy chàng có vẻ rụt sâu vào nội tâm và dường như không cởi mở chút nào với những người xung quanh, chàng vẫn nhìn cuộc sống mới một cách rất thẳng thắn và giản dị; rằng chàng hiểu rất rõ cảnh ngộ của mình và không thấy ngạc nhiên giữa cái hoàn cảnh mới mẻ ở quanh chàng, không nôn nóng chờ mong một cái gì khả quan hơn trong thời gian sắp tới, không có những niềm hy vọng viển vông (một tâm trạng vẫn thấy có trong những người ở địa vị chàng) và hầu như không hề lấy làm lạ về bất cứ điều gì trong cảnh sống mới, tuy cảnh sống nầy rất khác cảnh sống trước kia.
Nàng cho biết rằng sức khỏe của chàng khả quan. Chàng vẫn ngày ngày đi làm lao dịch, không tránh việc mà cũng không chuốc lấy việc. Về thức ăn thì đối với chàng hầu như thế nào cũng được, nhưng ngoài chủ nhật và ngày lễ ra, thức ăn kém đến nỗi rốt cục chàng vui lòng nhận của Sonya một ít tiền để mua trà uống hàng ngày; còn về những mặt khác thì chàng xin nàng dừng bận tâm, một mực khẳng định rằng nàng lo cho chàng như vậy chỉ làm chàng bực mình mà thôi. Ngoài ra, Sonya còn cho biết rằng trong trại giam chàng ở chung với mọi người, nàng không được trông thấy bên trong ra sao, nhưng cũng đoán được rằng ở đấy chật chội, bẩn thỉu và có hại cho sức khỏe; chàng ngủ trên một cái chõng bằng đan ghép có trải một tấm dạ, và không chịu sửa sang gì chỗ nằm hết. Nhưng chàng sống đơn sơ và tồi tàn như vậy tuyệt nhiên không phải vì một chủ định gì có sẵn, mà chỉ vì không buồn chú ý và không thiết đến hoàn cảnh vật chất của mình. Trong thư Sonya nói thẳng ra rằng chàng không những không thiết nàng vào thăm mà hầu như lại còn bực bội mỗi khi thấy nàng vào nữa, nhất là thời gian đầu; chàng không thích nói chuyện và thậm chí còn thô lỗ đối với nàng nữa, nhưng dần dần những chuyến vào thăm ấy đối với chàng cùng thành một thói quen và hơn nữa, một nhu cầu, thành thử chàng còn thấy buồn dạo nàng ốm liền mấy ngày không vào thăm chàng được. Ngày lễ nàng thường gặp chàng ở cổng nhà giam hay ở nhà gác ngục, nhờ người ta gọi chàng ra cho nàng gặp vài phút; còn những ngày thường thì nàng ghé tìm chàng ở công trường khổ sai hay ở các xưởng thợ, các lò gạch, các nhà kho trên bờ sông Yrtys. Về bản thân nàng, Sonya cho biết rằng nàng đã quen được mấy người trong thị trấn, có người còn vui lòng che chở cho nữa: nàng làm nghề khâu áo, và vì trong thị trấn hầu như không có hiệu may, cho nên nàng cũng đã trở thành một người cần thiết cho nhiều nhà; nàng chỉ không nói cho họ biết là qua nàng, Raxkonikov cũng được quan trên che chở cho, nhờ đó họ cũng giảm nhẹ công việc cho chàng, vân vân. Cuối cùng, có tin (Dunia còn nhận thấy trong những bức thư sau cùng Sonya có chiều lo lắng và xúc động khác thường) là chàng xa lánh mọi người, trong ngục các phạm nhân không ưa chàng, chàng cứ lặng thinh suốt mấy ngày liền không nói và mỗi ngày một xanh xao trông thấy. Đột nhiên trong bức thư sau cùng Sonya nói là chàng ốm khá nặng phải vào nằm trong bệnh xá của phạm nhân.
Chương 39
Chàng ốm đã từ lâu, nhưng không phải những nỗi khủng khiếp của cuộc sống tù đày, không phải lao dịch, không phải thức ăn, không phải cái đầu bị cạo trọc, không phải manh áo rách bươm đã đánh quỵ chàng xuống: Ồ! những sự doạ ấy, những nỗi thống khổ ấy, có nghĩa lý gì đâu đối với chàng! Trái lại, chàng còn thích làm việc khổ sai nữa là khác: làm xong, cơ thể chàng kiệt quệ đi, cho nên ít nhất chàng cũng có được mấy tiếng đồng hồ ngủ yên giấc. Còn thức ăn thì có nghĩa lý gì đối với chàng những bát xúp lều bều những gân nầy? Trong cuộc sống trước đây, khi còn là sinh viẻn, nhiều khi chỉ mong có thế mà cũng không được nữa. Áo quần chàng cũng ấm và thích hợp với sinh hoạt của chàng. Xiềng xích thì chàng hầu như không cảm thấy trên mình nữa. Chàng có thấy xấu hổ về cái đầu cạo trọc và cái áo nữa nầy nữa nọ của tội nhân không? Nhưng xấu hổ với ai? Với Sonya ư? Sonya sợ chàng, mà có lý gì chàng lại đi xấu hổ với Sonya?
- Nhưng sự thực thế nào? Chàng vẫn xấu hổ ngay cả với Sonya và để trả thù, chàng cư xử với nàng một cách thô lỗ và khinh miệt. Nhưng chàng xấu hổ không phải vì cái đầu trọc và những sợi xiềng: lòng kiêu hãnh của chàng đã bị tổn thương; chàng ốm cũng chính vì lòng kiêu hãnh bị tổn thương. Ôi, chàng sẽ sung sướng biết chừng nào, nếu chàng có thể tự buộc tội mình!
Nếu thế, chàng sẽ chịu đựng được tất, dù là sự xấu hổ, nỗi ô nhục. Chàng phán xét mình rất nghiêm khắc nhưng cái lương tâm nghiệt ngã của chàng vẫn không tìm thấy một tội lỗi gì thật ghê gỡm trong dĩ vãng của chàng, hoạ chăng chỉ có cái tội đã lỡ để hỏng việc, mà tội nầy thì ai cũng có thể mắc phải. Chàng thấy xấu hổ chính là vì chàng, Raxkonikov, đã sa cơ một cách mù quáng, vô hy vọng, tối tăm và ngu xuân, vì một bản tuyên án nào đó của định mệnh mù quáng, đành phải cam tâm chịu khuất phục trước sự "vô nghĩa" của một lời tuyên án nào đó, nếu muốn tìm thấy chút yên tĩnh.
Hiện nay là một nỗi lo âu không đối tượng, không mục đích, rồi về sau là một sự hy sinh liên miên không ngớt, không đưa lại một cái gì cả, - số phận của chàng trên đời nầy chỉ có thế. Còn như tám năm nữa chàng mới có ba mươi hai? Còn có thể bắt đầu một cuộc sống khác, thì cái đó có nghĩa lý gì! Chàng sống mà làm gì? Dự định cái gì? Hướng tới cái gì sống chỉ để cho có sống ư? Nhưng tước kia chàng cũng vẫn sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình cho lý tưởng, cho hy vọng, thậm chí cho những mơ ước viển vông nữa. Chỉ sống thôi, bao giờ chàng cũng vẫn thấy là chưa đủ; chàng vẫn muốn một cái gì hơn thế nữa. Có lẽ chỉ vì ước mong mãnh liệt mà trước đây chàng đã tự cho mình là một người có quyền hành động hơn người khác.
Sao số phận lại không gửi đến cho chàng một lòng hối hận, một lòng hối hận thiêu đốt, vò nát cõi lòng, xua đuổi giấc ngủ, một lòng hối hận ghê gớm đến nỗi người ta chie mơ ước một sợi dây thòng lọng hay một áo tù! Ôi chàng sẽ vui sướng bịết bao nhiêu nếu có được lòng hối hận ấy? Vì thống khổ và nước mlắt cũng là cuộc sống. Nhưng chàng không hối hận về tội ác của chàng.
Ít nhất chàng cũng có thể căm giận sự ngu xuẩn của mình, như trước kia chàng đã căm giận những hành động hết sức vô lý và ngu xuẩn đã đưa chàng vào ngục thất. Nhưng giờ đây, khi đã vào ngục, khi đã được thảnh thơi, chàng lại suy xét và nghĩ lại tất cả những hành động trước đây, và tuyệt nhiên không thấy nó vô lý và ngu xuẩn như trong khoảng thời gian tai hại trước đây chàng đã tưởng.
"Tư tưởng của ta có gì là ngu xuẩn hơn những tư tưởng, những lý thuyết sinh ra nhan nhản và chrn chúc, xô đẩy nhau trên thế giới nầy từ khi thế giới tồn tại?
- Chàng tự hỏi - Chỉ cần nhìn nhận sự việc bằng một quan điểm hoàn toàn độc lập rộng rãi và thoát ra ngoài những ảnh hưởng tầm thường, là dĩ nhiên ý nghĩ của ta sẽ tuyệt nhiên không… kỳ quặc đến thế! Hỡi những kẻ phủ nhận, hỡi những bậc hiền triết năm xưa kia, tại sao các người lại dừng lại ở giữa đường!
Sao họ lại thấy hành động của ta quái gở như vậy? - Chàng tự nhủ. - Vì, nó là một tội ác ư? Danh từ tội ác nghĩa là gì? Lương tâm ta yên ổn. Dĩ nhiên ta đã phạm một tội hình; dĩ nhiên ta đã vi phạm luật pháp và làm đổ máu, thế thì các người cứ lấy đầu ta đi cho đúng luật pháp… và thế là đủ! Nếu thế thì dĩ nhiên nhiều bậc ân nhân của loài người, không được thừa hưởng quyền bính mà lại tự mình giành lấy, tất phải bị xử xử ngay từ những bước đấu. Nhưng những người ấy đã qua được những bước đầu, cho nên họ phải, còn ta không qua được, cho nên ta trái, ta không có quyền bước những bước ấy".
Chàng chỉ thừa nhận tội lỗi của mình ở mỗi một điểm đó: chẳng qua chàng đã không qua được cuộc thử thách và đã ra tự thú.
Chàng còn đau khổ vì một ý nghĩ khác: tại sao lúc ấy chàng không tự sát? Tại sao khi đứng nhìn xuống giòng sông chàng lại chọn lấy cách ra tự thú? Chả nhẽ lòng ham sống lại mãnh liệt và khó trấn áp như vậy? Xvidrigailov cũng sợ chết, nhưng vẫn trấn áp được đấy thôi?
Chàng xót xa tự hỏi như vậy và không thể hiểu được rằng ngay từ lúc chàng đứng nhìn xuống giòng sông, có lẽ chàng đã linh cảm thấy trong bản thân và trong những chủ kiến của mình có một sai lầm sâu sắc.
Chàng không hiểu rằng mối linh cảm ấy có thể báo hiệu một sự chuyển biến sắp tới trong đời chàng, báo hiệu một cuộc hồi sinh, một cách nhìn nhận mới mẻ đối với cuộc sống.
Ở đây chàng chỉ muốn thấy tác dụng nặng nề và tối tăm của bản năng, mà chàng đã không đủ sức phá vỡ và bước qua được, vì nhu nhược và hèn kém. Chàng nhìn những người bạn tù mà lấy làm lạ: họ cũng ham sống biết chừng nào, họ quý cuộc sống biết chừng nào? Chàng có cảm tưởng rằng chính trong tù ngục họ lại càng yêu, càng biết quý cuộc sồng hơn là ở ngoài đời tự do. Trong bọn họ có những người phải chịu bao nhiêu là cực hình, bao nhiêu nỗi thống khổ ghê gớm, những người trước kia sống lang thang chẳng hạn? Có lẽ nào họ lại có thể quý đến như vậy một tia nắng, một khu rừng um tùm, một dòng suối lạnh mất hút ở đâu đâu trong bụi rậm, mà họ đã tìm thấy ba năm về trước, và vẫn mơ ước gặp lại như mơ ước gặp người yêu, nằm mơ thấy nó, thấy lớp cỏ xanh rờn hai bên bờ, thấy con chim đang líu lo trong khóm lá? Nhìn kỹ hơn, chàng thấy có những trường hợp còn khó giải thích hơn nữa.
Trong ngục thất, giữa cái môi trường ấy, dĩ nhiên chàng không thấy được nhiều, mà cũng không hề có ý muốn thấy. Chàng như nhắm mắt lại mà sống: đối với chàng, nhìn là một việc gì ghê tởm, không sao chịu nổi. Nhưng dần dần có nhiều điều khiến chàng ngạc nhiên, và chàng dần dà, dường như miễn cưỡng, bắt đầu nhận thấy những điều mà trước kia chàng không hề ngờ tới. Nói chung, điều làm cho chàng ngạc nhiên hơn cả là cái vực sâu thăm thẳm, không tài nào vượt qua được, giữa chàng và tất cả đám người ấy. Có thể tưởng chừng như chàng với họ là những thế giới khác nhau. Chàng với họ nhìn nhau một cách nghi ngờ và thù địch. Chàng biết và hiểu những nguyên nhân khái quát của sự cách biết ấy nhưng trước kia chưa bao giờ chàng thừa nhận rằng những nguyên nhân ấy quả nhiên sâu sắc và mạnh mẽ đến thế. Trong ngục có cả những người Ba Lan bị đày, những phạm nhân chính trị. Những người đó xem cả bọn kia như những kẻ dốt nát, quê mùa và hết sức khinh miệt họ; nhưng Raxkonikov không thể coi khinh họ như vậy được: chàng thấy rõ rằng những kẻ ngu dốt ấy có nhiều điểm còn thông minh hơn những người Ba Lan kia nhiều. Ở đây có mấy người Nga cũng khinh miệt họ quá mức - một cựu sĩ quan và hai người học trò trường dòng; Raxkonikov cũng thấy rất rõ chỗ sai lầm của họ.
Còn bản thân chàng thì mọi người đều không ưa và muốn tránh. Thậm chí họ dần dần bắt đầu căm ghét chàng - tại sao? Chàng cũng không biết. Họ khinh miệt chàng, nhạo báng chàng, nhạo báng tội ác của chàng, ngay cả những kẻ còn nặng tội hơn chàng nhiều cũng thế.
- Mày là con nhà quý tộc! - họ nói. - Sao mày lại cầm rìu làm gì, không phải việc của hạng mày.
Đến tuần thứ hai của cữ chay lớn đến lượt chàng đi lẻ với cả trại của chàng. Chàng vào nhà thờ cầu nguyện với những người khác. Một hôm có cuộc xung đột xảy ra, tại sao thì chàng cũng không biết nữa; cả bọn giận dữ xông vào chàng.
- Mày là đồ vô đạo! Mày không tin Chúa! - họ quát vào mặt chàng. - Phải giết mày đi.
Chàng chưa bao giờ nói gì với họ về Chúa và về đức tin nhưng họ lại muốn giết chàng vì chàng là kẻ không tin Chúa; chàng lặng thinh không cãi lại. Một phạm nhân xông vào chàng, như điên như dại. Raxkonikov điềm tĩnh và im lặng đợi hắn; chàng không hề chớp mắt, không một thớ thịt nào trên mặt chàng rung động. Người lính áp giải kịp thời xen vào giữa hai phạm nhân, nếu không, máu đã đổ xuống.
Còn có một vấn đề nữa ma chàng không sao giải quyết được: tại sao tất cả bọn họ lại mến Sonya đến thế? Nàng không hề muốn gây thiện cảm với họ; họ ít khi gặp nàng, chỉ thỉnh thoảng những hôm đi làm lao dịch, khi nàng đến thăm chàng một lát. Thế nhưng mọi người đều đã biết nàng, lại biết rằng nàng đã theo chàng đến đây, họ biết nàng ở đâu, sống ra sao. Nàng không hề cho họ tiền, không giúp đỡ họ việc gì đáng kể. Chỉ có một lần, nhân lễ Giáng sinh, nàng có đem một món quà vào cho cả trại: mấy miếng chả rán và mấy chiếc bánh nướng. Nhưng dần dần giữa họ với Sonya bắt đầu có những mối quan hệ gàn gũi hơn: nàng viết hộ thư cho họ gửi những người thân và đem ra bưu cục bỏ cho họ. Những người bà con của họ mỗi khi đến thị trấn nầy, đều theo lời dặn của họ mà gửi đồ đạc cho Sonya, hay cả tiền bạc nữa. Vợ và người yêu của họ đều biết nàng và hay lui tới nhà nàng. Và những khi nàng ra công trường với Raxkonikov hay gặp đoàn tù đang đi làm, mọi người đều cất mũ, cúi chào nàng: "Cô Sofia Xemionovna, mẹ của chúng tôi, người mẹ dịu hiền đầy tình thương xót!" - những kẻ tội phạm thô lỗ, bị số phận nguyền rủa ấy nói với người con gái nhỏ bé, gầy gò ấy như vậy. Nàng mỉm cười với họ. Họ yêu cả dáng đi của nàng, họ ngoái lại để nhìn theo nàng, xem nàng đi và khen ngợi nàng; họ lại còn khen nàng sao bé nhỏ thế và thậm chí họ cùng không biết họ khen ngợi nàng vì cái gì nữa. Họ lại còn đến nhờ nàng chữa bệnh cho.
Chàng nằm trong nhà thương suốt mấy ngày cuối cữ chay và Tuần lễ Thánh. Khi đã bắt đầu bình phục, chàng hồi tưởng lại những giấc chiêm bao trong khi chàng còn nằm sốt mê man. Chàng mê thấy cả thế giới bị trời phạt phải làm mỗi cho một nạn dịch khủng khiếp, chưa từng nghe, chưa từng thấy, từ trung tâm châu Á tràn sang châu Âu. Mọi người đều sẽ phải chết, trừ một số ít người được lựa chọn. Có nhưng loài giun lạ xuất hiện; đó là những vi sinh vật cư trú trong thân thế con người. Nhưng các sinh vật đó lại là những thần linh, có trí khôn và ý chí. Những ai hấp thụ các sinh vật ấy vào người lập tức trở nên điên rồ, như bị ma ám. Nhưng chưa bao giờ có ai lại cho mình là thông minh, là nắm vững được chân lý như nhưng người nhiễm bệnh. Chưa bao giờ người ta lại tin tưởng vào những lời phán xét, những biện luận khoa học, những quan niệm luân lý, những tín ngưỡng một cách tuyệt đối, cực đoan như vậy. Chàng loạt những làng mạc, những thành phố, những dân tộc bị nhiễm bệnh và lên cơn điên rồ. Mọi người đều hoảng hốt lên, chẳng ai hiểu nhau. Ai nấy đều cho rằng chỉ có một mình mình nắm được chân lý, và nhìn những người khác mà đấm thùm thụp vào ngực khóc lóc vặn tay vào nhau. Họ không còn biết phê phán ai và phê phán như thế nào họ không thể thỏa thuận được với nhau xem cái gì là thiện, cái gì là ác.
Họ không biết buộc tội ai, thanh minh cho ai, họ giết nhau trong một cơn hằn thù vô nghĩa lý. Họ tập hợp lại thành cả những đạo quân lớn, nhưng vừa xuất chinh, những đạo quân ấy đã tự xâu xé mình, các hang ngũ rối loạn, các chiến sĩ xông vào đâm chém, cắn xé, và ăn thịt lẫn nhau. Trong các thành phố, người ta đánh thanh la suốt ngày để triệu tập mọi người lại nhưng ai triệu tập và triệu tập để làm gì thì không ai biết cả, và mọi người đều hoảng hốt lên. Ngay những nghề nghiệp thông thường nhất cũng bị bot rơi, vì ai nấy đều đề nghị những ý kiến riêng, những cách sửa đổi riêng, và chẳng ai chịu ai sất, nông nghiệp ngừng hoạt động. Nơi nầy nơi nọ người ta xúm lại từng tốp, cùng thoả thuận một việc gì thề thốt sẽ không rời nhau, nhưng rồi lập tức quay ra làm một cái gì khác hẳn những điều mà chính họ vừa đề nghị xong, bắt đầu buộc tội cho nhau, đánh nhau, cắt cổ nhau. Các thành phố bắt đầu bốc cháy, nạn đói bắt đầu hoành hành. Mọi người và mọi vật đều bị tiêu diệt. Nạn dịch bành trướng lên và cứ lan ra mãi. Trong cả thiên hạ chỉ có mấy người thoát nạn, đó là những người trong sạch và được Trời lựa chọn từ trước, có nhiệm vụ khai thuỷ cho một giống người mới và một cuộc sống mới, tẩy uế và cải tạo quá đất, nhưng chưa có ai trông thấy những người ấy ở đâu cả, chưa có ai nghe tiếng nói và lời lẽ của họ ra sao cả.
Có một điều làm cho Raxkonikov rất khổ tâm là giấc mơ vô nghĩa lý ấy đã khắc sâu vào trí não của chàng thành những kỷ niệm buồn rầu và đau đớn, là ấn tượng của những giấc mơ do cơn sốt sinh ra ấy mãi vẫn không mờ. Bấy giờ đã là tuần lễ thứ hai sau Tuần lễ Thánh; thời tiết đang trải qua những ngày mùa xuân ấm áp, quang đãng; trong bệnh xá của phạm nhân, người ta đã mở các cửa sổ căng lưới sắt ra. Ngoài cửa sổ một người lính canh đi đi lại lại, trong suốt thời gian chàng ốm, Sonya chỉ vào bệnh xá thăm chàng được hai lần, mỗi lần muốn vào thăm như thế phải xin phép, mà xin phép thì khó lắm. Nhưng nàng hay lên nhà thương, nhất là lúc xế chiêu, và đôi khi chỉ đến để đứng ngoài sân một lát, nhìn từ xa những khung cửa sổ của bệnh xá. Một hôm lúc xế chiều Raxkonikov bấy giờ đã gần khỏi hẳn, chợp mắt ngủ thiếp đi; khi thức dậy, chàng vô tình ra cửa sổ và bỗng trông thấy Sonya đứng bên cổng nhà thương. Trông nàng có vẻ như đang chờ đợi một cái gì. Giây phút ấy chàng chợt thấy như có một cái gì xói vào tim; chàng giật mình và hối hả rời cửa sổ. Hôm sau Sonya không đến, hôm sau nữa cũng thế; chàng nhận thấy mình lo lắng mong nàng. Cuối cùng, họ cho chàng ra viện. Về đến trại, chàng được các phạm nhân cho biết rằng Sofia Xemionovna ốm phải nằm nhà không đi đâu được.
Chàng lo lắm, liền nhờ người đi hỏi hộ. Chẳng bao lâu chàng được biết rằng bệnh tình của nàng không nguy hiểm. Về phía Sonya, được biết rằng chàng nhớ nàng và lo cho nàng như vậy, nàng gửi cho chàng một mảnh giấy viết bút chì báo cho chàng biết rằng nàng đã đỡ nhiều, nàng chỉ bị cảm nhẹ và chỉ ít nữa, rất chóng thôi, nàng sẽ ra công trường thăm chàng. Khi chàng đọc mảnh giấy nầy, tim chàng đập mạnh, đau nhói.
Ngày hôm ấy, trời lại quang dãng và ấm áp. Từ sáng sớm, khoảng sáu giờ, chàng lên đường đi làm ở bờ sông. Ở đấy có một cái nhà kho dùng làm nơi nghiền thạch cao, bên trong có xây một cái lò để đốt thạch cao. Chỉ có ba phạm nhân được đưa ra làm ở đấy.
Một trong ba người đi với người lính áp giải về pháo đài lấy một đồ dùng gì đấy, người thứ hai bắt đầu bổ củi cho vào lò. Raxkonikov rời nhà kho ra tận bờ sông, ngồi lên những súc gồ xếp cạnh nhà kho và bắt đầu nhìn xuống giòng sông rộng và vắng. Bờ sông rát cao, nên ngồi đó có thể nhìn bao quát cả một vùng rất rộng. Từ bờ bên kia rất xa, có tiếng hát thoang thoảng vẳng lại.
Nơi ấy, trên canh thảo nguyên mênh mông chan hoà ánh nắng, mấy túp lều du mục vẽ thành những chấm đen lờ mờ. Nơi ấy là tự do, ở nơi ấy đang sống những con người khác không giống người ờ đây một chút nào, ở đấy ngay cả thời gian cùng dường như ngừng lại, tưởng chừng như thế kỷ của Abraham (1) và đoàn gia súc của lão vẫn còn đấy. Raxkonikov ngồi nhìn đăm đăm không rời mắt; ý nghĩ của chàng hoà tan thành một giấc mơ, một viễn ảnh; chàng không nghĩ gì hết, nhưng một nỗi buồn mơ hồ khiến chàng xúc động và bứt rứt.
Bỗng nhiên chàng thấy Sonya ở bên cạnh. Nàng đã rón rén lại gần và ngồi xuống cạnh chàng. Lúc ấy hãy còn sớm lắm, không khí ban mai rét buốt vẫn chưa dịu bớt. Nàng mặc chiếc áo choàng tồi tàn, cũ kỹ và khoác chiếc khăn xanh. Mặt nàng còn mang dấu vết của trận ốm vừa qua: gầy đi, xanh đi, má hóp lại. Nàng niềm nở và vui mừng mỉm cười với chàng, nhưng vẫn đưa tay ra cho chàng một cách rụt rè như thường lệ.
Xưa nay bao giờ nàng cũng đưa tay ra cho chàng một cách rụt rè, đôi khi lại không dám đưa ra nữa, như sợ bị chàng hắt hủi, bao giờ chàng cũng như có ý kinh tởm khi cầm tay nàng, bao giờ gặp nàng cũng có vẻ bực dọc, đôi khi cứ lặng thinh trong suốt thời gian nàng đến thăm. Cũng có khi nàng phát sợ và ra về với một nỗi buồn tủi sâu sắc. Nhưng bây giờ tay họ không rời nhau nữa; chàng đưa mắt nhìn nàng rất nhanh, không nói gì cả, cụp mắt nhìn xuống đất. Ở đấy chỉ có hai người với nhau, không ai trông thấy họ. Người lính gác đã quay mặt đi.
Việc ấy xảy ra như thế nào thì chính chàng cũng không biết, nhưng bỗng như có một cái gì nắm lấy chàng và ném chàng xuống chân Sonya. Chàng khóc và ôm lấy chân nàng. Thoạt phút đầu nàng sợ quá, mặt nàng đờ ra. Nàng giật mình lùi lại và run rẩy đứng nhìn chàng. Nhưng ngay lúc ấy, ngay giây lát ấy nàng đã hiểu hết. Từ đấy mắt nàng ánh lên một niềm hạnh phúc vô biên; nàng đã hiểu rằng từ nay nàng không còn phải nghi ngờ tình yêu của chàng nữa: chàng yêu nàng, yêu vô cùng, và giờ phút bấy lâu mong đợi nay đã đến.
Họ muốn nói, nhưng không nói nên lời. Mắt họ rưng rưng. Cả hai đều xanh và gày; nhưng trên hai gương mặt ốm yếu, nhợt nhạt ấy đã bừng lên ánh bình mình của một ngày mai đổi mới, của sự hồi sinh toàn vẹn trong một cuộc sống mới. Tình yêu đã làm cho họ sống lại lòng người nầy chứa đựng những nguồn sống vô tận cho lòng người kia.
Họ quyết định chờ đợi và chịu khó kiên nhẫn, họ còn bảy năm nữa; từ nay cho đến lúc ấy bao nhiêu là thống khổ cùng cực và bao nhiêu là hạnh phúc vô biên?
Nhưng chàng đã sống lại, và chàng biết thế, chàng cảm thấy thế một cách trọn vẹn, với tất cả những đường gân thớ thịt và đôi môi của chàng, còn nàng, nàng chỉ sống với cuộc sống của chàng mà thôi.
Tối hôm áy, khi các trại giam đã đóng cửa. Raxkonikov nằm trên chõng vẫn nghĩ đến nàng. Hôm ấy chàng còn có cảm giác như tất cả các phạm nhân trước kia vốn thù ghét chàng, nay đã nhìn chàng bằng một con mắt khác. Chàng lại còn bắt chuyện với họ nữa, và họ trả lời chàng một cách dịu dàng thân mặt. Bây giờ chàng nhớ lại điều đó, nhưng sự việc chả phải diễn ra như vậy là gì? Đây chẳng phải là lúc tất cả phải thay đổi hay sao?
Chàng nghĩ đến Sonya. Chàng nhớ lại mình đã làm tội làm tình nàng không ngớt, đã giầy vò cấu xé tâm hồn nàng như thế nào; chàng nhớ lại khuôn mặt xanh xao, gây gò của nàng, nhưng bây giờ những kỷ niệm ấy cùng hầu như không còn làm cho chàng khổ sở nữa: chàng biết từ nay chàng sẽ chuộc lại tất cả những nỗi thống khổ của nàng bằng một tình yêu vô cùng vô tận.
Vả lại tất cả tất cả những nỗi thống khổ của dĩ vãng ấy là cái gì? Tất cả, ngay cả tội ác của chàng, ngay cả cuộc xét xử và án đày của chàng, giờ đây, trong phút say sưa ban đầu, chàng có cảm giác như đó là những sự kiện gì bề ngoài, xa lạ, thậm chí không liên quan gì đến chàng nữa. Vả chăng tối hôm ấy chàng không thể nghĩ lâu và liên tục đến một việc gì, tập trung tư tưởng vào một cái gì nhất định; mà bây giờ thì chàng cũng chàng giải quyết được vấn đề gì một cách có ý thức; chàng chỉ cảm xúc thôi. Biện luận đã nhường chỗ cho cuộc sống, và trong ý thức tất phải hình thành một cái gì khác hẳn.
Dưới gối của chàng là một cuốn Phúc âm. Chàng cầm nó lên như một cái máy. Quyển sách này là của nàng, chính quyển sách trong đó nàng đã đọc cho chàng nghe đoạn Lazaro sống lại. Trong thời gian đầu ở trại giam chàng đã nghĩ rằng nàng sẽ đưa tôn giáo ra làm khổ chàng, sẽ nói đến Phúc âm và sẽ buộc chàng đọc sách ấy. Nhưng chàng rất đỗi ngạc nhiẻn mà nhận thấy rằng nàng không hề nói đến chuyện ấy một lần nào, thậm chí cũng không bao giờ khuyên chàng đọc Phúc âm.
Chính chàng đã hỏi mượn của nàng ít lâu trước khi ốm, và nàng đã lặng lẽ đem sách lại cho chàng. Từ bấy đến nay chàng cũng không hề giở ra xem nữa.
Và giờ đây chàng cũng không giở ra xem, nhưng có một ý nghĩ thoáng qua óc chàng: "Chả nhẽ bây giờ những quan niệm của nàng lại có thể không phải là những quan niệm của ta? Ít ra là những tình cảm, những ý hướng của nàng".
Suốt ngày hôm ấy nàng cũng bồi hồi xúc động, và đến đêm lại còn ốm trở lại nữa. Nhưng nàng sung sướng đến nỗi hầu như hoảng sợ trước hạnh phúc của mình.
Bảy năm, chí bảy năm thôi? Trong thời gian đầy hạnh phúc, có nhưng lúc cả hai người sẵn sàng coi bảy năm ấy như bảy ngày. Thậm chí chàng cũng không biết rằng cuộc sống mới không phải sẽ tự đến cho chàng hưởng không, rằng còn phải mua nó với một giá rất đắt: với một kỳ công to lớn sau nầy…
Nhưng đến đây đã bắt đầu một quá trình khác, quá trình cải hoá dần dần của một con người, quá trình tái sinh của nó, quá trình chuyển dần từ một thế giới nầy sang một thế giới khác, làm quen với một hiện thực mới mẻ, từ trước đến nay chưa từng biết đến. Nó có thể làm thành đề tài cho một câu chuyện kể mới, còn như câu chuyện chúng tôi hiện đang kể thì đến đây là hết.

Chú thích:
(1) Một gia trưởng Do Thái thời thượng cổ, cháu hai mươi đời của thủy tổ Adame (Kinh Thánh).
Fyodor Dostoevsky 
Dịch giả: Cao Xuân Hạo
Theo https://gacsach.com/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...