Thứ Hai, 30 tháng 3, 2020

Người của giang hồ 2

Người của giang hồ 2
5/ LÂM CHÍN NGÓN
Thời gian gần đây, báo chí đã không ít lần cảnh báo về cơn sốt tệ nạn vũ trường, ma túy, đặc biệt là thuốc lắc... Tự gắn cho mình cái “mác” “dân chơi sành điệu”, một bộ phận thanh thiếu niên đang hằng đêm ngụp lặn trong những cơn say bất tận của rượu, gái và ma túy, hoàn toàn không đếm xỉa đến một nguy cơ, rằng họ đang bước những bước đầu tiên trên con đường dẫn đến tội lỗi và sự tự hủy hoại bản thân. Trước sự lo lắng của dư luận, công luận và toàn xã hội, nhiều con “thiêu thân” đã nhún vai bất cần:
- Dân chơi mà! Đã bước chân vào giang hồ là chấp nhận hết, ngày mai ra sao rồi hẵng hay!
Đáng thương cho những cái đầu sa đọa, con đường của các “dân chơi” làm gì còn dài đến “ngày mai”, cũng làm gì có cái được gọi một cách mỹ miều là “giới giang hồ”. Khi ma túy tràn lan và luật pháp tỏ ra bất lực thì quyền lực chỉ đồng nghĩa với bạo lực và tội ác. Thực chất bức tranh “dân chơi” ngày nay chỉ là phiên bản của bức tranh Sài Gòn giai đoạn 1968-1975, giai đoạn lắm “dân chơi”, nhiều “giang hồ” nhất, ma túy dễ mua và tội ác dễ gặp nhất. Có khác chăng thì đó chỉ là một sự thay đổi nhỏ trong âm nhạc. Ngày nay, dưới ánh đèn màu của các bar rượu, sàn nhảy - đã trở nên loạn sắc và chói gắt hơn - điệu Pasodobles cuồng nhiệt đã được thay thế bằng những Hard Rock, Metal Rock chói lỏi, giậm giật hoặc những Rap điên khùng, rất nghèo chất nhạc nhưng kích động hơn bội phần.
Không tham vọng trình bày hết, bài viết này chỉ dừng lại ở một vài khuôn mặt “cộm cán” nhất trong làng “dân chơi” thời kỳ đó. Không nhằm mục đích mô tả tội ác, người viết chỉ mong vẽ lại một “ngày mai” đầy đen tối và tất yếu - đoạn cuối con đường của các “dân chơi”. Câu chuyện bắt đầu từ một dân chơi có số của giới giang hồ Sài Gòn trước 1975 còn may mắn sống sót đến hôm nay trong cảnh thân tàn ma dại sau hơn 20 năm trả giá trong tù tội. Anh ta tên là Lê Ngọc Lâm, nổi tiếng trên giang hồ với biệt danh Lâm Chín ngón.
1. Mọi con đường đều dẫn đến... nhà tù
Lê Ngọc Lâm sinh năm 1945, tại Hà Tây, trong một gia đình Thiên Chúa giáo rất ngoan đạo. Năm 1954, dòng thác di cư đã cuốn gia đình Lâm vào Sài Gòn. Ba năm sau, những biến cố thời cuộc đã khiến gia đình tan nát, rứt cậu học trò 12 tuổi Lê Ngọc Lâm ra khỏi vòng tay chăm sóc của người thân, ném cậu vào làng cô nhi Thủ Đức. Những đứa trẻ ở làng cô nhi được nuôi ăn học khá chu đáo nhưng không được cho tiền tiêu vặt. Để “kiếm thêm”, Lâm và những đứa trẻ hiếu động khác đã nhào ra lề phố nhập vào đám quân bụi đời, bán báo... Làng cô nhi dạy cho Lâm biết chữ - gã đã hoàn tất chương trình tú tài - và lề phố dạy cho Lâm biết... đập lộn để giành mối, để cạnh tranh. Những trận đụng độ xảy ra như cơm bữa đã biến Lâm từ một cậu bé sùng đạo, hiền lành thành một kẻ ngang tàng, bất chấp và rất lì đòn.
Năm 1963, Lâm thi hỏng tú tài I và bị bắt quân dịch. Không chịu nổi cuộc sống quân trường khắc nghiệt, buồn tẻ và vô vọng, gã trốn về Sài Gòn sống lang thang, sau đó nhập vào đám tiểu yêu mới ngoi lên ở khu Da Heo đường Nguyễn Công Trứ, quận 1, do Đại Cathay cầm đầu. Vốn liều lĩnh và to khỏe, Lâm Chín ngón nhanh chóng trở thành một trợ thủ đắc lực của Đại Cathay trong các trận thư hùng nhằm tranh giành lãnh địa.
Đầu năm 1964, Đại Cathay liều lĩnh kéo quân tập kích vào khu vực rạp Hào Huê, quận 5 - “giang sơn” của giới Hắc Đạo người Hoa do Tín Mã Nàm làm thủ lĩnh. Không may cho băng Cathay, quá say máu nên bị giới Hắc Đạo dụ chạy sâu vào trong các con hẻm, sau đó hạ cửa sắt bít đường rút đầu các hẻm lại và túa ra phản công. Phe Đại Cathay chỉ có 10 người, không chống nổi hàng chục tên Hắc Đạo với dao búa hung hãn nên tên nào cũng thương tích đầy mình. Trong lúc nguy cấp, Lâm Chín ngón đã liều chết xông ra chém đứt dây xích cột cửa, mở đường máu cho Đại Cathay và cả bọn chạy tháo thân. Trong lúc tả xung hữu đột, ngón cái tay phải của Lâm đã bị đối phương chém đứt lìa. Biệt danh Lâm Chín ngón bắt đầu từ đó, do chính Đại Cathay đặt.
Sau trận này, Lâm Chín ngón còn cứu Đại Cathay thoát chết một lần nữa. Khoảng giữa năm 1966, vì tranh giành gái tại nhà hàng Olympic, băng Cathay đã bị đám vệ sĩ của tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan dùng súng “dạy cho biết thế nào là lễ độ”. Khi Đại Cathay ăn đạn vỡ đầu gối, Lâm Chín ngón đã một mình một súng bắn chận hậu cho Ngân Pôcôn và Lành Cầu Muối dìu Đại Cathay ra khỏi vùng tử địa. Hết đạn, Lâm vứt súng, đu cửa sổ phóng xuống đường Tạ Thu Thâu chạy trối chết. May cho Lâm, khi trận đọ súng nổ ra, tài pán của vũ trường là Thủy Tàu đã nhanh trí cắt cầu dao điện. Bóng tối ụp xuống đã giúp Lâm Chín ngón thoát thân an toàn.
Cuối năm đó, Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành mở chiến dịch bài trừ du đãng. Cùng với Đại Cathay và nhiều tên khác trong băng, Lâm Chín ngón bị bắt. Ngày 28.11.1966, cả bọn bị lùa lên máy bay C47 đày ra Trung tâm cải huấn tại thị trấn Dương Đông thuộc đảo Phú Quốc, nơi được giới tội phạm gọi bằng cái tên nôm na là Trại Cửu Sừng (một quân trong bộ bài mạt chược). Chỉ hơn hai tháng, Đại tổ chức vượt ngục. Không muốn cho Lâm theo, Đại Cathay đã gọi Lâm Chín ngón tới, bắt gã thề bỏ ma túy, đồng thời tự tay chích cho Lâm Chín ngón “một lần cuối cùng”. Đã có chủ ý trước nên Đại Cathay đã chích cho đàn em một liều gấp đôi đô bình thường khiến Lâm say ngủ như chết và bị bỏ lại trại. Trong thâm tâm, Đại Cathay thừa biết chuyến vượt ngục lành ít dữ nhiều, Lâm Chín ngón lại đã hai lần cứu y thoát chết nên Đại cảm kích không muốn cho Lâm mạo hiểm. Mặt khác, Đại có ý phòng xa, y biết Lâm là tên du đãng có học nên muốn mở ngõ cho đàn em một con đường sống để còn có cơ hội trở lại tiếp quản “giang sơn” của mình ở Sài Gòn. Dự đoán của Đại Cathay khá chính xác. Sau chuyến vượt thoát, Đại Cathay và gần một chục tên đàn em đã bị Nguyễn Ngọc Loan gửi lính ra đảo truy đuổi và hạ sát. Còn Lâm Chín ngón, thuộc loại “tù không án”, chỉ phải ngồi tù thêm nửa năm, sau đó được thả về đất liền.
Đại Cathay đã mất tích, băng nhóm cũng không còn, Lâm Chín ngón không đủ sức xưng hùng, xưng bá để thu thuế, lấy xâu như trước nữa. Để có tiền tiếp tục ăn chơi trác táng, Lâm chuyển sang nghề “ăn bay” (cướp bằng xe máy) và nhanh chóng trở thành một “quái bay” lì lợm thượng thừa. Sử dụng xe Honda 67 - loại xe tốt nhất thời bấy giờ - Lâm Chín ngón đã gây ra hàng chục vụ cướp của những người vừa lĩnh tiền từ ngân hàng ra. Đi đêm lắm có ngày gặp ma, trong một vụ “ăn bay” cuối năm 1970, Lâm đã bị cảnh sát ngụy bắt tại trận và bị tống vào trại giam Chí Hòa. Tại đó, Lâm đã được “hội ngộ” với hầu hết những “tay chơi cộm cán” nhất của Sài Gòn trong đó có Cương Võ sĩ (em ruột trùm bạch phiến Sơn Đảo), Chương khùng, Đức Không quân, Tuấn đả, Y Càlết v.v.
Vào thời gian đó, bộ máy cảnh sát, nhà tù của chế độ Việt Nam Cộng hòa gần như bó tay trước nạn lộng hành của đám lưu manh du đãng hung hãn được hỗ trợ bởi ma túy bán đầy rẫy và rẻ như bèo. Vì thế, khối bêtông hình bát giác của trại giam Chí Hòa chỉ là nỗi ám ảnh ghê rợn đối với những tên lưu manh hạng “tép riu” và tứ cố vô thân, không băng không nhóm. Còn với Lâm Chín ngón và những tên tội phạm sừng sỏ, cảnh sống trong tù và ngoài đời hầu như chẳng khác gì nhau, ngoài chuyện bước chân bị giới hạn trong mấy vòng tường trại. Cửa sắt hành lang các dãy nhà giam không bao giờ khóa, chúng tha hồ đi lại khắp nơi trong trại, tha hồ sục vào các buồng giam để “thăm hỏi”, bài bạc và đập lộn với nhau tranh giành ngôi vị. Giám thị, cai tù biết cũng làm ngơ. ở ngoài, đàn em, băng đảng của đám du đãng còn đầy rẫy. Chúng sẽ không ngần ngại bắt cóc con cái, ném lựu đạn vào nhà họ để trả thù, nếu trong tù, đám đàn anh bị đối xử nặng tay. Mặc khác, làm ngơ cho bọn tội phạm còn là cách để các “nhân viên công lực quốc gia” kiếm thêm tí chút. Tuy là nhà tù nhưng trong trại Chí Hòa gần như không thiếu thứ gì. Muốn ăn ngon, những tên tù hình sự cứ việc xin phép “đàn anh” ra căngtin ở cạnh hồ nước là có tất, miễn là có tiền. Muốn chơi ngông, nhiều tên còn đặt tiền trước cho “nhà hàng”, hôm sau những sơn hào hải vị như yến xào, hải sâm, vi cá, bào ngư... sẽ được đưa vào tận nhà tù phục vụ, bảo đảm vẫn còn nóng sốt.
Trong sân trại Chí Hòa có một chiếc xe tải hư bỏ trống được đám tù che chắn lại biến nó thành nơi “hành lạc” có đủ nệm trải drap, quạt máy và có đàn em canh gác. Chỉ việc giúi vào tay cai tù một xấp tiền là họ sẽ quay mặt đi, sau đó điện thoại cho các “động” quen, tối thứ bảy, chủ nhật hằng tuần sẽ có vài ba cô gái má phấn môi son được điều vào trại, “phục kích” sẵn trong chiếc xe tải chờ tiếp các “đàn anh” rửng mỡ.
Để “kiếm thêm” bù vào số lương công chức còm cõi, đám cai tù - vừa hèn nhát vừa tham lam - đã tiếp tay cho đám tù hình sự trong mọi hình thức. Thậm chí, chúng còn bán cả cái gọi là “giấy đi phép”. Một ngày phải trả 120.000 đồng, cả ngày lẫn đêm 240.000 đồng. Chỉ có những tên tù thuộc hàng “đại ca” mới được quyền “đi phép”. Sau khi nộp đủ tiền, chúng sẽ được xe jeep của cai tù chở ra ngoài, đến địa chỉ chúng yêu cầu và thả xuống. Hết giờ, chiếc xe jeep ấy sẽ quay lại chỗ cũ đón “đàn anh” vừa hết phép quay lại nhà tù. Có tên đã từng liên lạc trước với đàn em bên ngoài, để chúng chuẩn bị xe cộ, sau đó mua một giấy phép 12 tiếng, lọt ra ngoài, tiến hành một vụ “ăn bay” trót lọt xong lại vào tù nằm “dưỡng sức” và hưởng “chiến lợi phẩm”. Bên ngoài, cảnh sát có tài thánh cũng không hề nghĩ đến chuyện thủ phạm của vụ cướp lại là một tên lưu manh đang nằm khểnh trong tù. Tất nhiên, sau những chuyến “ăn hàng” ngoạn mục ấy, đám “anh chị” chẳng bao giờ quên dúi thêm cho các “bác” cai tù ăn rơ năm chục, một trăm ngàn, gọi là tiền “mua nước hoa cho bà xã”. Món lợi quá lớn, càng về cuối giai đoạn năm 1972, những vụ “bán giấy phép” càng diễn ra dày đặc. Mãi đến lúc Biệt đội hình cảnh ngụy bắn hạ được một vài tên tù “đi phép” ngay trên xa lộ Đại Hàn khi chúng đang “ăn hàng” PX (hàng quân tiếp vụ do Mỹ viện trợ), chuyện “bán giấy phép” mới bị đổ bể và chấm dứt.
Tuy nhiên, việc mua “giấy phép” để đi cướp chỉ là chuyện cho vui nhằm đỡ ngứa nghề, còn kỳ thực nguồn lợi chính của các “đại ca” trong trại “bát giác” lại là buôn ma túy. Vào lúc cao điểm, trại Chí Hòa có khoảng 2.000 tên tù hình sự thì cũng gần như có ngần ấy con nghiện. Hầu như tên tù nào cũng là một dân “ken” (nghiện côcain), dân “ke” (chích thuốc phiện nước) hoặc khoái “ném lựu đạn” (nuốt thuốc phiện sống vo viên). Vì vậy bán thuốc phiện, ma túy trong tù đem lại cho các “ông trùm” một nguồn lợi cực lớn, có khi lên đến bốn năm trăm ngàn đồng một ngày (khoảng 20-25 lượng vàng). Nguồn lợi quá khổng lồ khiến chúng không ngần ngại vây bè kết cánh để hùng cứ quyền bán ma túy ở các buồng giam và tranh giành lãnh địa hoặc hạ bệ nhau, nhằm ngoi lên làm “ông trùm” để độc quyền thu lợi. Do đó, chiến tranh trong tù vẫn nổ ra thường xuyên. Bản chất tội ác của cái danh xưng mỹ miều “giới giang hồ” được thể hiện ngay trong phương châm xử thế, được những tên tội phạm chích máu ngón tay viết lên cánh cửa, bức tường của các buồng giam: “Nhân đạo là tự sát, gian ác mới huy hoàng”. Tuy hành lang các dãy buồng giam luôn mở toang hoác nhưng những tên “âm binh mất ma”, “tép riu” ở dãy AB đố bao giờ dám bén mảng xuống dãy BC nằm kế bên, bọn ở dãy DE cũng đừng bao giờ mò xuống khu FG mà mang họa. Là “đàn anh”, như Lâm Chín ngón ở dãy FG chẳng hạn, có thể tha hồ đi lại giữa các dãy, nhưng mỗi lần di chuyển gã và các tên đàn anh khác đều phải có vài ba “vệ sĩ” tháp tùng, nếu không ăn dao là cái chắc. Mỗi khi lâm trận, những tên du đãng có số này đều hai tay nắm chắc hai con dao. Con thứ ba giắt ngang bụng, phòng khi dao trên tay bị đánh rơi hay bị đối phương tước mất. Hỗn danh “thời hai tay ba đao” bắt nguồn từ đó - để chỉ giai đoạn 1970-1974 trong trại Chí Hòa.
Là cánh tay phải của Đại Cathay, lại từng ngồi trại Cửu Sừng ở Phú Quốc, khi bị chuyển sang quân lao Gia Định y lại dám đâm trầy mặt và hạ bệ “tướng cướp cô đơn” Điền Khắc Kim để giành địa vị ông trùm, sau đó lại cầm đầu đám tù phạm ở đây vượt ngục, Lâm Chín ngón trở thành một “cao thủ”, được độc quyền bán thuốc phiện ở khu FG, đồng thời trở thành “đại lý” cung cấp “hàng đen” (thuốc phiện) cho toàn trại Chí Hòa. Quyền khai thác “hàng trắng” trong dãy này thuộc về Chương khùng, một tên giang hồ có số khác, kẻ đã từng dẫn đầu hàng chục tội phạm người Việt xông vào khu AB cướp thùng đựng tiền của đám tù nhân người Hoa gốc Hồng Công, Ma Cao, Singapore, Đài Loan... và bị chém trọng thương. Đúng định kỳ, “hàng đen” từ bên ngoài được đàn em đóng thành bánh dẹp, chất vào trong thùng gỗ hai đáy đựng đồ thăm nuôi gửi cho Lâm. Cai tù biết nhưng làm ngơ để được chia phần (30% lợi nhuận). Vào tù, Lâm bửa ngăn đáy ra, lấy thuốc phiện cắt thành miếng nhỏ phân phối cho các buồng giam thu lãi.
Là một ông trùm kiêm đại lý độc quyền thuốc phiện, tiền lãi mà Lâm thu được hàng ngày rất khổng lồ. Do vậy, y trở thành con mồi “bự” khiến hàng chục “đại ca” khác dòm ngó thèm thuồng và rắp ranh hạ bệ, dù ngoài mặt vẫn thơn thớt nói cười chuyện “tình nghĩa giang hồ”.
Tai họa đến với Lâm bắt đầu từ một ông trùm cùng ngành nhưng khác món chung dãy FG. Đó là Chương khùng - kẻ được phân độc quyền “hàng trắng”.
Không thể chịu đựng nổi nạn lộng hành của đám giang hồ, cuối năm 1972, ngụy quyền Sài Gòn đã gom hết tất cả những tên đầu sỏ đang tác oai tác quái trên khắp các nhà tù miền Nam, từ Quân lao Nha Trang, Trại giam Qui Nhơn, quân lao Gia Định... về trại Chí Hòa để thanh lọc. Sau đợt này, những tên thường phạm đã thành án từ 5 năm đến chung thân, nếu không dính líu đến một vụ án, một tội danh nào khác sẽ được lùa xuống Tân Cảng, từ đó sẽ được tàu Hải Quân chở ra Côn Đảo để đi đày. Bọn giang hồ tìm đủ mọi cách để tránh đi đày. Thậm chí như ở Quân lao Nha Trang, tên tướng cướp Năm Vĩnh - kẻ được mệnh danh là “hùm xám miền Trung” đã không ngần ngại tra tấn một bạn tù cho đến chết để được ở lại đất liền chờ ra tòa với tội danh mới là cố sát, tránh bị đưa ra đảo. Tại trại Chí Hòa, đám tù phạm - con nghiện càng ngày càng trở nên hung hãn hơn. Nhiều tên tép riu cũng ngoi lên thách thức đàn anh nhằm tiếm quyền để có điều kiện sống gấp và chết... khẩn cấp. Nhiều tên đàn anh bị đàn em lờn mặt đã không chịu nổi, xuống đòn trừng trị rất nặng tay, khiến trại giam ngày càng trở nên hỗn loạn hơn bao giờ hết.
Trong số những đàn anh đang mất dần thanh thế có Chương khùng - trùm cocain của dãy FG. Sau hiệp định Paris (ký ngày 27.1.1973), lính Mỹ nối đuôi nhau xếp hàng lên máy bay về nước hết. Theo chân các chú lính Hoa Kỳ,  “hàng trắng” (cocain, heroin) cũng vắng dần trên đất miền Nam. Hàng hiếm nên giá rất đắt, dân chơi “hàng trắng” lục tục rủ nhau quay về với mặt hàng truyền thống là thuốc phiện. Đám con nghiện ở dãy FG, nhà tù Chí Hòa cũng bị cuốn theo trào lưu ở ngoài đời, đâm ra “khoái” thuốc phiện hơn thích ma túy, đâm đầu sang làm khách hàng của Lâm Chín ngón hết, khiến thu nhập của Chương khùng tụt xuống thảm hại. Đàn anh đã nghèo thì đàn em cũng không thèm ngó, quân tướng rụng dần đi. Chương tức tối chửi bới om sòm, dọa “cho biết tay” những kẻ bỏ mình phò Lâm Chín ngón. Nghe Chương khùng chửi bới, một tên ngang cơ khác là Năm Lương đổ thêm dầu vô lửa:
- Mày chỉ giỏi võ mồm. Thừa biết thằng nào hạ bệ rồi, mày có giỏi thử đụng đến nó coi?
Một tên khác khích thêm:
- Cũng là đàn anh mà thằng thì chiều nào cũng đếm bạc trăm gửi nhà băng, thằng suốt ngày chỉ lo chửi bậy!
Bị kích, Chương khùng nổi cơn khùng. Hắn lấy bộ đồ võ vận vào người rồi thả vô họng ba viên renoval để thêm dũng khí, hằm hằm tuyên bố:
- Tao sẽ tìm thằng Lâm Chín ngón nói chuyện phải quấy.
Đang chơi bóng chuyền ở sân trại, nghe đàn em cấp báo, Lâm Chín ngón bỏ ngay để đợi. Gặp nhau, Lâm Chín ngón hỏi trước:
- Chương! Nghe nói mày đòi dẹp không cho tao bán thuốc trong khu FG nữa, phải vậy không?
Chương khùng hùng hổ:
- Đúng, tao bảo dẹp. Mày bảnh thì chơi lại tao coi?
Đang uống nước, sẵn ly cầm trong tay, Lâm Chín ngón không nói không rằng ném ngay cái ly uống dở vào mặt Chương khùng và nhào tới. Quá bất ngờ vì không nghĩ đến chuyện Lâm phản ứng quá mạnh, lại thấy đàn em của Lâm kéo tới khá đông, Chương khùng hoảng quá vội né người tránh bị ly nước đập vô mặt rồi... bỏ chạy, mặt mũi hầm hầm.
Lúc này nhiều tên đàn anh trong đó có Cương Võ sĩ đang tụ tập nhau trong dãy BC. Cương võ sĩ, tức Vũ Đình Cương vốn là một võ sĩ quyền Anh có đẳng cấp, từng nhiều lần thượng đài khắp miền Trung, miền Nam và Campuchia, nếu đấu tay đôi sòng phẳng, cỡ Lâm Chín ngón cũng hoàn toàn không phải là đối thủ. Năm 1970, Cương bị bắt vì tội buôn ma túy. Là một “cao thủ”, lại là em ruột của Sơn Đảo, tức Vũ Đình Khánh, trùm ma túy ở Sài Gòn thời bấy giờ nên uy thế của Cương rất lớn được đám giang hồ phong làm “đại ca của các đại ca”, toàn quyền cắt đặt, sai phái toàn bộ giang hồ trong trại Chí Hòa. Khi các băng nhóm trong trại có xích mích, chỉ cần Cương đứng ra nói một lời là tất cả đều răm rắp tuân theo, đố tên nào dám cãi. Tuy nhiên, Cương ít chường mặt, cho nên y mới được gán cho biệt danh “Hiệp sĩ trong bóng tối”.
Thấy Chương khùng vừa chạy qua vừa khóc, Cương bèn ngăn lại hỏi chuyện. Không lẽ lại thú nhận rằng mình không dám chơi tay đôi với Lâm Chín ngón, Chương khùng bèn vừa khóc vừa “tố láo”:
- Thằng Lâm ỷ đông, nó kéo đàn em đến đòi xử tôi, cấm không cho tôi bán ma túy nữa!
Nghe đến đó, máu yêng hùng nổi lên, Cương Võ sĩ chửi thề:
- Mẹ nó! ở đây tao là đàn anh hay thằng Lâm là đàn anh? Nó muốn qua mặt tao xử anh em, để tao cho nó một bài học.
Nói rồi, Cương bèn dẫn một tốp nửa tá anh chị gồm Tuấn đả, Năm Lương, Khương Đại, Lễ, Hải Méo... sang khu FG để “hỏi tội thằng Lâm”. Thấy cả bọn kéo sang, một số “dân chơi” khác trong dãy lầu 3F bèn kéo ra cản lại, khuyên Cương “bình tĩnh, chuyện đâu có đó”. Tỏ mặt đàn anh, Cương Võ sĩ gạt đám lâu la qua một bên:
- Mấy em không hiểu chuyện, tránh sang một bên cho qua xử đàn em.
Phần Lâm Chín ngón, dù đã đuổi được Chương khùng nhưng cơn giận bừng bừng vẫn chưa tan. Lúc Lâm đang đấm thình thình vào tường buồng giam 3F4, dọa “luộc thằng Chương” thì một tên đàn em chạy vào cấp báo:
- Anh Lâm cẩn thận. Anh Cương đang dẫn người qua tìm anh đó.
Vừa nói, tên này vừa dúi vào tay Lâm mấy con dao lá lúa, dặn:
- Anh cầm theo để phòng thân.
Lâm bảo:
- Một dao đủ rồi.
Và hắn lập tức chạy ra nghênh tiếp. Khi hai bên đã đứng đối diện nhau, Cương Võ sĩ dừng lại, hỏi:
- Lâm! ở đây mày với tao ai là đàn anh(?).
Lâm chưa kịp trả lời đã bị Cương tung ngay một cú thôi sơn vào mặt. Khá nhanh, Lâm né đầu tránh được. Cú đấm quá mạnh nhưng không trúng mục tiêu khiến Cương Võ sĩ hụt đà chúi thấp đầu về phía trước. Trong giang hồ, bị một cái tát xem như không còn ngoi đầu lên được, huống hồ ăn nguyên cú đấm. Máu bốc lên, lợi dụng lúc Cương Võ sĩ mất đà, Lâm Chín ngón nắm ngay cổ áo địch thủ lật lên và quơ tay ra sau lưng rút dao... Tất cả diễn ra quá nhanh nên không ai kịp can. Cương chỉ kịp hự lên một tiếng rồi ôm ngực đổ vật ra sàn khi Lâm vừa buông tay. Nghe ai đó kêu lên “Anh Lâm, đừng đâm nữa”, Lâm mới sực tỉnh, vội buông dao đánh cạch xuống sàn. Nhát dao đâm trúng tim, Cương Võ sĩ chết ngay tại chỗ. Lâm Chín ngón mặt tái mét, vội thanh minh trước khi bị dẫn đi:
- Tôi không cố ý, tại anh Cương... Thôi, anh em thắp cho ảnh mấy nén nhang giùm tôi.
Rõ ràng Cương Võ sĩ không chết vì kém võ nghệ, cũng không chết vì nhà tù. Y chết vì... sĩ diện hão muốn vỗ ngực xưng tên. Âu đó cũng là kết cục bi thảm chung trên chốn giang hồ.
2. Fami Sơn Đảo
Giống như tên em ruột, Vũ Đình Khánh - tức Sơn Đảo cũng xuất thân là một võ sĩ có hạng, thuộc võ đường Hổ Bạch An - Tân Bình. Hầu hết võ sư và võ sinh của võ đường này đều xuất thân hoặc gia nhập lính dù - lực lượng con cưng của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Nhà Sơn ở gần chợ Ông Tạ, chuyên làm giò chả. Khi lớn lên, Sơn rủ rê và chỉ đạo những đứa em ruột là Cương Võ sĩ, Hoàng bệu, Tiềm, bán ma túy, phất lên khá nhanh. Y bèn bỏ tiền ra bảo trợ cho lò võ Hổ Bạch An, đồng thời xây dựng luôn một phòng tập cho đám chiến hữu ngay trong trại lính dù Hoàng Hoa Thám. Cử chỉ hào phóng này đã được đám sĩ quan binh lính thuộc binh chủng dù đáp lại bằng cách sẵn sàng hậu thuẫn cho Vũ Đình Khánh trong các cuộc làm ăn trong bóng tối. Trong số những kẻ “đỡ lưng” cho Khánh có trung tá Lê Quang Lương, trung tá Be (Ban 2 dù), thiếu tá Đường (Sư đoàn 3 dù), trung úy Nguyên con đỡ đầu của tướng Cao Văn Viên... Được hậu thuẫn mạnh, chẳng bao lâu Vũ Đình Khánh đã trở thành kẻ cung cấp ma túy cho một khu vực rộng lớn dọc hai trục đường chính là Trương Minh Giản (nay là Lê Văn Sĩ) và Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám). Ngoài ra, trên hai trục đường đó còn có cả chục tiệm hút, sòng bài thuộc quyền quản lý của Fami (gia đình) Vũ Đình Khánh.
Năm 1965, Vũ Đình Khánh bị bắt lĩnh án 5 năm tù, bị đày ra Côn Đảo. Bắt chước tay nhà văn giang hồ đầu thế kỷ Trương Văn Thoại, khi ngồi tù Côn Đảo đã tự giải thích bút danh Sơn Vương của mình có nghĩa là “vua của đảo Côn Sơn”, Vũ Đình Khánh cũng nhân cơ hội này tự gọi mình là Sơn Đảo và tự nhận “học trò ruột” của Sơn Vương. Với “chiến tích” nửa thực, nửa bịa mang về từ Côn Sơn, thế lực của Sơn Đảo càng ngày càng mạnh lên trong làng giang hồ Sài Gòn.
Nghe tin em ruột bị giết trong tù, Sơn Đảo lồng lộn lên. Y càng tức hơn, khi từ Chí Hòa, dân chơi đồn thổi ra:
- Cương Võ sĩ không chết vì nhà tù, cũng không chết vì Lâm Chín ngón mà chết vì bệnh... sĩ.
Không chịu nổi, Sơn Đảo tìm vào tận Chí Hòa tuyên bố:
- Sẽ lấy mạng thằng Lâm bằng bất cứ giá nào.
Quá giận, Sơn Đảo không thèm đếm xỉa gì đến những lời thanh minh xin lỗi của tay đàn em trót dại. Xem như mạng sống đã bị mua đứt, Lâm Chín ngón hết sức lo lắng, tìm cách phòng thủ.
Khổ nỗi, Sơn Đảo có muốn cũng không thể bỏ mặc “fa-mi” buôn lậu ma túy đang ăn nên làm ra, tự mình gây án để vào tù kiếm địch thủ trả thù. Gửi sát thủ từ bên ngoài vào cũng không ổn,vì muốn tiếp cận tìm cơ hội giết được Lâm Chín ngón, sát thủ phải ngồi tù chung buồng với Lâm, nghĩa là phải chịu án dài, án nặng nên chẳng tên nào chịu nhận. Cuối cùng, Sơn đành phải tính cách nhờ một tay chơi nào đó trong trại Chí Hòa khử Lâm Chín ngón.
Kẻ được chọn đầu tiên là Tuấn đả, quê ở xã Hộ Hải, quận Ninh Hải, Ninh Thuận. Khi bị bắt giam tại quân lao Nha Trang, Tuấn đả là kẻ từng đâm lòi ruột Sơn Trắng - xếp sòng quân lao này để tiếm quyền. Máu liều, Tuấn đả có thừa, nhưng y nhỏ con, khó chơi tay đôi mà thắng được Lâm Chín ngón. Sơn Đảo chỉ có nước tuồn “chó lửa” từ ngoài vào tù để Tuấn đả hạ Lâm. Nhưng, hai lần khẩu súng được ngụy trang gửi vào, Tuấn đả đều trả lại không nhận. Khi từ quân lao Nha Trang chuyển vào trại Chí Hòa, Tuấn đả đã từng bị toàn thể đám đàn anh ở đây cô lập và suýt đánh đòn hội đồng bởi e ngại “truyền thống” lật đổ của y. Lúc đó, chính Lâm Chín ngón đã chủ động đứng ra bảo lãnh. Cảm kích, Tuấn đả đã từ chối “hợp đồng” mà Sơn Đảo nhờ, kèm lời giải thích:
- Anh Đại (Đại Cathay) gọi nó là Lâm điên, tao là Tuấn khùng. Hổng lẽ thằng khùng đi bắn thằng điên(?!).
Mất gần cả năm trời, Sơn Đảo mới tìm được người thay Tuấn đả. Gã này tên là Nguyễn Văn Hoàng, tự Hoàng Đầu lâu (theo hình xăm trên bả vai). Nói về võ nghệ, cả trại Chí Hòa không ai sánh kịp Hoàng Đầu lâu. Hoàng mang đai đen tứ đẳng Taekwondo, đã từng hạ hàng chục cao thủ cả Việt lẫn Miên trên sàn đấu.
Đầu tiên, biết vợ con Hoàng đang sống khó khăn trong thời gian chồng ở tù, Sơn Đảo bèn bỏ tiền mua một căn nhà mặt phố nhỏ đem tặng, sau đó lại sang một sạp vải ở chợ cho vợ Hoàng đứng bán, làm kế sinh nhai. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, Hoàng Đầu lâu tối mắt gật đầu bán mình cho Sơn Đảo.
Khổ nỗi, trong giới giang hồ, Hoàng chỉ thuộc hàng chiếu dưới, án tù cũng nhẹ, không thể ngồi cùng mâm với Lâm Chín ngón để có cơ hội tiếp cận và hạ sát địch thủ. Để tạo cơ hội cho Hoàng, Sơn Đảo đã tốn công vạch ra một kế hoạch chi tiết nhằm giúp Hoàng Đầu lâu tăng án, “được” ngồi biệt giam đồng thời nâng uy tín trong làng dân chơi chứ không vì tăng án mà gây thù hằn, xích mích với một kẻ nào khác.
Trong trại Chí Hòa có một cai ngục là trung sĩ Cách, cháu ruột gọi phó giám thị trại bằng cậu. ỷ thế, tên này rất “bố láo”, luôn tìm cách ăn chặn, phá phách đồ thăm nuôi của tù nhân. Đám tù rất ghét nhưng không tên nào dám ra tay. Một hôm, sau khi nghe các “đàn anh” ta thán, Hoàng Đầu lâu xung phong:
- Để em mần thịt nó cho!
Kỳ thăm nuôi đến. Khi trung sĩ Cách đang săm soi hũ thịt rim, bẻ đôi từng cái bánh để khám xét thì một tên tù tự giác đến rót vào tai hắn:
- Trung sĩ, có người muốn gặp riêng trung sĩ.
Cách hống hách quát:
- Thằng nào muốn thì ra đây mà gặp! Bộ nó là ông nội tao hay sao mà gọi là tao phải ra?
Tên cò mồi đệm thêm:
- Có chuyện làm ăn, cần gặp riêng trung sĩ.
Tưởng sắp được hối lộ, trung sĩ Cách bỏ ngay việc khám xét theo tên cò mồi đi vào phía trong. Cánh cửa vừa đóng lại, Hoàng Đầu lâu bước ra ngay. Hôm đó, y giắt một thanh “hàng” (mã tấu) sau lưng, mặc một chiếc áo jean rộng thùng thình che kín. Thấy mặt Hoàng đằng đằng sát khí, trung sĩ Cách hoảng quá vội vã ngoắt người định tháo lui. Nhanh như chớp, Hoàng Đầu lâu chặn ngay cửa ra vào và rút mã tấu nhằm mặt trung sĩ Cách vớt ngược lên. Lát chém quá chính xác, lỗ mũi của tên trung sĩ bị lưỡi dao bén ngót cắt bay. Máu xối ra, trung sĩ Cách ôm mặt quằn quại...
Với “chiến tích” này, Hoàng Đầu lâu nghiễm nhiên trở thành “dân chơi thứ thiệt”, được giang hồ kiêng nể. Trong khi đó, tội nặng thêm, y bị tống xuống khu biệt giam. ở ngoài, Sơn Đảo lại bung tiền lo lót với giám thị, cai tù. Kết quả là hai tháng sau, Hoàng Đầu lâu đã ôm giỏ đồ của mình chuyển sang ở cùng một buồng giam với Lâm Chín ngón.
Ngoài Lâm Chín ngón, trong buồng giam còn có một chú bé 15 tuổi tên là Phạm Văn Lý, thường gọi là Lý lắc được Lâm xin cho ở cùng phòng để phục dịch trà nước và đấm bóp cho “đàn anh” trước giờ đi ngủ. Chỉ sau hôm ở cùng phòng ít lâu, Hoàng Đầu lâu đã khiến Lý lắc  sợ chết khiếp. Suốt ngày, Hoàng cởi trần trùng trục phô chiếc đầu lâu nhe nanh, hết gồng đến tấn lại đấm bình bịch vào tường, rồi sau đó là đá loạn xạ ngầu các kiểu, như thể đang tập dượt chuẩn bị thi Olympic. Bị khủng bố tinh thần, Lý lắc  thất kinh, hỏi Lâm Chín ngón:
- Bộ anh Hoàng sắp giết ai sao?
Lâm không trả lời. Kinh nghiệm sống và những lời thì thào to nhỏ trong đám giang hồ đã giúp Lâm thừa biết Hoàng sắp giết ai. Muốn tránh cũng không thể, Lâm thở dài và âm thầm chuẩn bị.
Bắn tin ra ngoài, Lâm nhờ đàn em kiếm một chiếc quai đeo ba lô hình chữ X bằng inox, bẻ ra, ấn vào trái bí đỏ chuyển vào tù cho Lâm. Chờ lúc Hoàng Đầu lâu ra khỏi phòng, Lâm đập vỡ trái bí, lấy thanh inox ra, mài mỏng xuống sàn xi măng thành một lưỡi dao nhọn hoắt và sắc như dao cạo. Sau đó, Lâm nhờ một người có vai vế là tướng Lam Sơn, nguyên giám đốc Trung tâm huấn luyện tân binh Thủ Đức, vì tội bắn chết người quản gia nên phải ngồi Chí Hòa mua cho mình một chai rượu Remy Martin. Trong tù, được đàn anh chiếu cố, lại có rượu Tây uống, còn gì bằng, Hoàng Đầu lâu được Lâm mời cứ thế nốc rượu tì tì. Đã có chủ ý, Lâm chỉ nhấm nháp đôi chút, chủ yếu rót tràn cho Hoàng. Nửa đêm, chai rượu cạn đáy, Hoàng Đầu lâu say mèm lăn ra ngáy pho pho. Lâm Chín ngón bèn bảo đệ tử Lý lắc:
- Mày nấu cho anh nồi nước, tắm cái cho mát.
Khi nước sôi sùng sục, Lâm bê nguyên cả nồi đổ ụp xuống mặt Hoàng Đầu lâu. Hoàng thét lên chói lỏi, quằn quại, muốn đứng dậy bỏ chạy nhưng không thấy đường, tay chân quơ loạn xạ. Rút dao đã chuẩn bị sẵn, Lâm Chín ngón đâm liên hồi vào người Hoàng Đầu lâu. Lưỡi dao mỏng dính nên máu chỉ ra rịn rịn. Hoàng Đầu lâu van xin:
- Anh tha cho em, em có làm gì anh đâu?
Lâm Chín ngón cười gằn:
- Nếu để mày “làm gì” thì giờ tao đâu còn có thể đứng đây!
Giãy giụa một lúc, Hoàng Đầu lâu chợt cong người lên, ngáp ngáp mấy cái rồi chết thẳng cẳng. Đến lúc đó, Lâm mới ngừng tay. Tất cả 37 nhát. Lý lắc kinh hoàng đứng nép vào góc tường bưng mặt so vai nhưng không dám khóc.
Cuộc giằng co xảy ra khá nhanh, khá bất ngờ. Hoàng Đầu lâu hầu như không kịp phản ứng nên tiếng động gây ra không lớn. Khi Lâm đập ầm ầm vào cửa sắt báo mình đã giết người, viên cai ngục đang ngủ gà ngủ gật vẫn không tin. Đến khi chạy vào, nhìn xác Hoàng hoen máu nằm thẳng đơ trên nền gạch, ông ta mới thất kinh hỏi Lâm Chín ngón:
- Sao mày lại giết nó?
Vứt dao, Lâm đứng thừ người:
- Tôi không đâm nó, nó cũng giết tôi!
Lâm nói đúng, chốn giang hồ nếu không chết vì cái ác thì cũng phải tự mình nhúng tay vào cái ác, hoàn toàn không có đường thứ ba để chọn lựa.
Lâm Chín ngón lại bị tống vào biệt giam. ở ngoài, Sơn Đảo vẫn lồng lộn tìm cách tiếp tục giết Lâm. Nhưng chưa kịp nghĩ ra cách, chính Sơn Đảo lại bị giết chết. Cũng như em ruột là Cương võ sĩ, Sơn Đảo cũng bị hạ vì sĩ diện và bỏ mạng bởi một kẻ thuộc hàng đàn em: Phạm Bá Y, tức Y Càlết!
Bị thọt một chân, lại có bệnh kinh phong, mỗi lần lên cơn là toàn thân co giật liên hồi, Phạm Bá Y được giang hồ gán cho biệt danh “Y Càlết”. Sau nhiều năm ở tù, hắn ngoi lên được địa vị trùm ma túy của dãy AH thuộc trại Chí Hòa. Năm 1972, Y ra tù bắt đầu dựng lại cơ đồ. Lúc này, Sơn Đảo đang ở giai đoạn cực thịnh. Biết mình chỉ thuộc hàng đàn em của Sơn Đảo, Y Càlết không dám nhảy vào địa hạt “hàng trắng” mà Sơn Đảo đang nắm độc quyền, chỉ dám chỉ đạo đàn em buôn bán thuốc phiện, “giang sơn” không rộng hơn khu vực hẻm Cháo Lòng, Xóm Đạo cạnh Bệnh viện Từ Dũ nơi Y cư trú.
Nhưng chỉ ít lâu, Mỹ rút, đám “dân chơi” đột nhiên bỏ “hàng trắng” quay lại với “hàng đen” đã tạo cơ hội cho Y Càlết phất lên rất nhanh, cả về tiền bạc lẫn thế lực. Chưa dám mạo hiểm mở rộng đất kinh doanh ra hướng Tân Bình nhưng Y đã liều lĩnh bắt tay với hai tên dưới trướng của Sơn Đảo là Châu Gối và Hồng Toét thâu tóm dần dần quyền cung cấp “hàng đen”. Y Càlết lên nhanh như diều gặp gió. Trong khi đó, Sơn Đảo sau cái chết của em tính tình ngày càng hung bạo hơn. Quyền lực càng cao, thái độ của hắn càng hống hách càng mục hạ vô nhân. Mỗi lần không vừa ý, hắn thường không tiếc tay đánh đập, chửi mắng đàn em. Không chịu được sự ngược đãi vô lý, nhiều giang hồ đã rục rịch bỏ Sơn Đảo chạy về dưới trướng Y Càlết.
Quyền lực bị xâm phạm, Sơn Đảo điên hết cả ruột, bắt đầu tìm cớ diệt Y càlết. Trong giới giang hồ, việc “đảo chính”, hạ bệ lẫn nhau xẩy ra như cơm bữa. Nhưng muốn diệt nhau thì phải có cớ, nếu không giang hồ không phục, có diệt được đối thủ cũng không thể đạt được mục đích. Vì vậy, dù điên đến mấy, Sơn Đảo vẫn phải kiên nhẫn chờ thời. Lần này, giọt nước làm tràn ly là một cô vũ nữ xinh đẹp.
ở Sài Gòn trước 1975, vũ trường Barcarat nổi tiếng nhờ màn vũ thoát y. Hằng đêm, đến đoạn cao trào một cô gái bốc lửa sẽ bước lên sàn pist nhảy múa cuồng loạn theo điệu nhạc. Lần lượt theo từng bước nhảy, từng mảnh xiêm y trên mình cô gái sẽ rơi ra. Khi trên mình cô chỉ còn độc một chiếc “lá nho” che chỗ kín, đám thực khách sẽ bốc thăm... Kẻ “may mắn” được bịt mắt sẽ lên sân khấu cùng nhảy với cô, trong khi nhảy, nếu khách dùng... răng gỡ được chiếc “lá nho”, cô vũ nữ sẽ thuộc về gã trong đêm thác loạn. Nhân vật chính của những đêm điên loạn ấy là Trang, cô gái có thân hình bốc lửa. Biệt danh Trang Barcarat ra đời từ đó. Khi đã nổi danh, Trang Barcarat bỏ nghề vũ nữ trở thành một người chuyên tổ chức các buổi party cho các nhân vật tai to mặt lớn trong quân đội. Nhờ đó, Trang thường xuyên được một vài ông lớn ủng hộ và che chở hết mình. Từ Trang Barcarat, cô được giới ăn chơi phong lên thành Trang Bà Bà - tên nhân vật tú bà trong tiểu thuyết Kim Bình Mai - cuốn “đệ nhất dâm thư” của đời Thanh (Trung Quốc).
Xem ra chưa chắc ăn, để công việc làm ăn tránh được sự sách nhiễu của những tên đầu bò, đầu bướu, Trang Barcarat còn chủ động cặp bồ với một số tay anh chị đang lên. Thời gian đầu Trang cặp bồ với Lộc điên, một tên cướp khét tiếng lì lợm và hung bạo. Lộc điên từng nổi danh giang hồ vì biệt tài trốn tù, vượt ngục kèm câu tuyên bố ngạo ngược trước tòa:
- Tòa xử thì tòa ở, Lộc tôi không rảnh đâu mà ngồi tù!
Lộc điên bị bắt lãnh án chung thân đúng vào hồi cực thịnh của Sơn Đảo và fami của hắn, Trang lập tức quên ngay gã tình nhân vừa sa cơ thất thế, tự nguyện ngã vào vòng tay Sơn Đảo. Khi Y Càlết đã trở nên hùng mạnh, cô quay sang bá vai bá cổ ve vuốt tên anh chị mới nổi này.
Một hôm, Sơn Đảo đến thăm Trang Bà Bà, đúng vào lúc Trang và Y Càlết đang ngồi với nhau trong phòng khách. Thấy Sơn vào, Y Càlết chỉ khẽ gật đầu chào mà không thèm đứng lên, thái độ tự tin như một chủ nhân ông thực thụ đang ngồi tại phòng khách nhà mình. Bẽ mặt, đồng thời cũng muốn thị oai trước mặt tình nhân, Sơn Đảo hất hàm:
- Ai cho mầy ở đây?
Câu hỏi trịch thượng của Sơn khiến Y Càlết đâm ra lúng túng. Cho dù việc “đảo chính” chỉ còn là ngày một ngày hai nhưng vì chưa đến lúc cho nên ngoài mặt Y Càlết vẫn phải xếp mình dưới cơ Sơn Đảo. Tật nói lắp của hắn bắt đầu lòi ra:
- Dạ... thì tôi đến... chơi... thăm Trang...
Thấy đối thủ mặt đã đổ chàm, gã đàn anh càng lấn tới. Thẳng tay giáng cho Y Càlết một tát tai, Sơn Đảo gầm lên:
- Không chơi bời thăm viếng gì ráo trọi, nếu không đừng trách.
Không đề phòng, Y Càlết lĩnh nguyên năm dấu ngón tay trên mặt. Mắt vằn lên, nhưng biết mình không phải là đối thủ tay đôi của Sơn Đảo, hắn không dám đánh lại, chỉ lắp bắp:
- Tôi... làm gì... mà... mà... anh... đánh tôi?
Thắng được người mặt đỏ như vang, Sơn Đảo
hất mặt:
- Ưng đánh là tao đánh. Thấy mặt mày tao ghét quá nên đập cho mầy chừa. Có sao không?
- Anh là... đàn anh... mà chơi... chơi vậy... là không ngon. Tôi... tôi... nói thiệt... anh đừng... ỷ... ỷ... lớn.
Vừa nói Y Càlết vừa lùi dần ra cửa. Sơn Đảo đắc thắng:
- Đã biết tao là đàn anh thì cút mẹ mày đi. Đứng sớ rớ thấy ghét, tao lại táng thêm vài cái bây giờ.
Bị hạ nhục, Y Càlết lên cơn giật kinh phong ngay tại chỗ và vội vàng lủi ngay như chó ăn vụng bột.
Hả hê vì trừng trị được kẻ rắp ranh “lấy số” mình, đi đâu Sơn Đảo cũng đem chuyện bạt tai Y Càlết ra khoe, tất nhiên không quên thêm mắm dặm muối cho thêm phần hấp dẫn. Chẳng bao lâu, thông tin về vụ đụng độ đã lan khắp giang hồ Sài Gòn. Tin chắc Y Càlết đang nung nấu dự định trả thù, một số dân chơi rục rịch kiếm Y ngỏ ý sẵn lòng hiệp sức để luộc Sơn Đảo. Lần nào, với ai, Y Càlết cũng tìm cớ thoái thác:
- Chỉ là chuyện hiểu lầm, nhỏ thôi mà. Bỏ đi, ảnh là đàn anh, tao chơi ảnh làm sao được?
Để Sơn Đảo khỏi nghi ngờ, Y Càlết ngoài mặt tỏ ra nhẫn nhục chịu đựng nhưng bên trong, y lại ngầm sai tên em ruột có cái tên khá ngộ nghĩnh là Xã Xệ (tên thật là Phạm Bá Tiến), một tên giang hồ khá đẹp trai mới 17 tuổi điều tra đường đi nước bước, thói quen giờ giấc của Sơn Đảo để trả thù. Mang nhục mà không rửa, đố còn có thể ngẩng mặt lên nổi trên chốn giang hồ, Y Càlết chẳng bao giờ quên điều đó.
Trận trả thù diễn ra vào đầu năm 1975. 11 giờ đêm, Sơn Đảo và gã đàn em tên là Ba Tiến cùng một đám sĩ quan dù rời vũ trường Crystal trong trạng thái chếnh choáng. Vừa trèo lên chiếc môtô 125 phân khối định lao theo đám sĩ quan dù đã phóng đi trên mấy chiếc xe Jeep, Sơn Đảo phát hiện ra cả hai bánh xe đều xẹp lép. Cắm cảu, y lệnh cho Ba Tiến - tên đàn em đi chung làm gạc-đờ-co - dắt xe ra dưới ánh đèn cao áp xem thử. Đúng lúc đó, một Honda 67 do Tiến Mụn cầm lái chở Xã Xệ  trờ tới. Vừa áp sát, khẩu Colt 45 trong tay Xã Xệ đã xả nguyên băng đạn vào lưng Sơn Đảo hất y úp mặt xuống đường. Chiếc Honda 67 phóng vút đi. Ba Tiến chưa kịp phản ứng đã vội đứng im. Từ yên sau một chiếc xe Honda 67 khác vừa phóng đến, Y Càlết tay súng lăm lăm nhảy xuống, vừa khống chế Ba Tiến vừa kiểm tra kết quả cuộc hành quyết. Khi tin chắc mạng sống của Sơn Đảo - tên giang hồ cộm cán nhất thời ấy - đã chấm dứt vĩnh viễn, Y mới trèo lên xe do tên Chánh cầm lái phóng vụt đi.
Sau đó, một đám tang rình rang, kinh dị, sặc mùi xã hội đen đã diễn ra. Hàng chục xe Jeep chở đầy lính dù với súng tuốt lê trần đã hộ tống xe chở quan tài Sơn Đảo chạy lòng vòng khắp khu trung tâm Sài Gòn. Khi chạy đến khu vực Xóm Đạo của anh em Y Càlết, bọn lính dù chĩa súng lên trời bắn rền hàng chục loạt, thề sẽ lấy máu Y Càlết, Xã Xệ... để trả thù.
Nhưng chúng chưa kịp tìm ra được tung tích anh em Y Càlết, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Những cuộc tranh giành đẫm máu và thời kỳ tác oai tác quái của giới tội phạm đã bị chính quyền cách mạng chặn đứng.
3. Nghiệp chướng của một ông trùm
Quay lại với nhân vật Lâm Chín ngón.
Sau 1975, với những tội lỗi đã gây ra, Lâm Chín ngón đã phải sống một thời gian dài trong nhà tù của chế độ mới, chuyển qua nhiều trại giam từ Chí Hòa, đi Côn Đảo, về trại cải tạo Cà Mau (1977), sang Trại Z30D Hàm Tân, Bình Thuận (1982), lại chuyển qua trại Phú Sơn, Phú Khánh. Năm 1988, sau hơn 20 năm trả giá trong tù tội, Lâm được trả tự do, trở về thành phố Hồ Chí Minh, làm đủ nghề để kiếm sống. Năm 1993, Lâm cưới vợ và sinh con. Cùng với vợ, Lâm mở một quán thịt chó bình dân ở số 297, đường 3-2, quận 10, lo chí thú làm ăn, mong muốn đoạn tuyệt hẳn với giới giang hồ.
Nhưng, nghiệp chướng đã trót đeo đẳng chưa chịu buông tha cho Lâm rửa tay gác kiếm, an phận với cuộc hoàn lương. Một ngày cuối năm 1994, có 3 tên giang hồ mới nổi là Trúc lùn, Khải nheo, Tùng nhĩ vào quán thịt chó của Lâm ăn nhậu. Cả ba đều hành nghề bốc vác tại bãi xe Kỳ Hòa cạnh quán nên Lâm biết tên biết mặt. Rượu vào, lời ra, Trúc lùn đã kể lại cho Lâm nghe một “hợp đồng giang hồ” mà chúng vừa thực hiện.
Vợ chồng Minh Samasa - Phụng trắng ở Vũng Tàu muốn độc quyền bảo kê các cảng cá Vũng Tàu, Long Hải và Phước Tĩnh để thu lời. Chúng đã nhờ vợ chồng Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour, trùm “sát thủ” khu vực cầu Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh giúp sức để đuổi các đối thủ cạnh tranh khác trong giang hồ ở các cảng này đi với giá hàng chục triệu đồng. Nhận lời, Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour đã điều khoảng 50 tên đàn em, trong đó có Trúc lùn, Khải nheo, Tùng nhĩ, vác mã tấu xuống Vũng Tàu, tràn vào địa bàn của các tên Phước Đầu lâu, Hải lộ. Sau trận hỗn chiến, chúng bắt được tên Thiềng, một đàn em trong băng của đối phương, chặt đứt ngón tay của tên này gói vào khăn tay đem về nộp cho vợ chồng Minh Samasa. Giữ lời, Minh Samasa đã thanh toán “hợp đồng” đầy đủ. Có tiền, đêm đó Trúc lùn và một số tên ở lại Vũng Tàu phá phách. Bị cản không cho dắt gái vào phòng, chúng đã bao vây đánh bảo vệ khách sạn, bị công an tạm giam và tịch thu xe máy...
Nghe chuyện, Lâm Chín ngón thở dài khuyên đám tiểu yêu hãy từ bỏ con đường tội lỗi, nhưng lại nhận lời xuống Vũng Tàu đòi Minh Samasa phải tìm cách lấy lại xe máy cho đám đàn em.
Ngày 26 Tết năm 1994, Lâm cùng ba tên xuống Vũng Tàu. Là một giang hồ mới nổi, biết khách là một giang hồ cộm cán, một đàn anh có máu mặt, Minh Samasa đã tiếp đón Lâm Chín ngón khá niềm nở. Minh hứa:
- Nếu không xin lại được xe, tôi sẽ mua xe mới trả cho anh em. Anh Lâm đã có lời, tôi đâu dám không làm.
Tiếp đó, Minh Samasa, Dũng Ba lém đã tổ chức nhiều chuyến ăn chơi, du hí mời mọc đãi đằng đồng thời “mời anh Lâm xuống Vũng Tàu hợp tác làm ăn”.
Thấy nguồn lợi quá lớn, đám Dũng Ba lém, Minh Samasa tên nào cũng giàu sụ, lại quá tha thiết trọng vọng mình, Lâm Chín ngón đồng ý. Ở Vũng Tàu, sự có mặt của Lâm Chín ngón đã khiến các băng nhóm lưu manh khác khiếp vía, dạt ra hết, tạo điều kiện cho Minh Samasa và Dũng Ba lém tha hồ độc chiếm cảng cá, tha hồ nâng hạ giá, bán mua tùy ý để làm giàu. Đổi lại, Lâm Chín ngón chỉ việc chường mặt ra cảng cá nhưng không phải mó tay vào bất cứ việc gì, mọi chi phí ăn uống chơi bời đều được “bao cấp”, kèm số lương 5 triệu đồng một tháng. Minh Samasa, Dũng Ba lém còn sắm cả xe máy cho Lâm để “đàn anh tiện đi lại làm việc”.
Thấy đất Vũng Tàu làm giàu quá dễ, Lâm Chín ngón nảy ra ý đồ làm ăn riêng, quyết không để đám tài phiệt cảng cá “lợi dụng tên tuổi mình mãi”. Tháng 4-1995, trong một buổi nhậu tại nhà hàng Thùy Dương (Vũng Tàu), Lâm tuyên bố dự định “ra riêng” với đồng bọn. Nếu ý đồ của Lâm được thực hiện, đám Minh Samasa, Dũng Ba lém xem như sẽ tự rước phải một đối thủ giang hồ quá mạnh. Chúng tức tốc gọi vợ chồng Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour xuống Vũng Tàu, gây áp lực để đuổi Lâm Chín ngón.
Tuy “có số có má” nhưng cô thân cô thế, Lâm Chín ngón không đương đầu nổi với liên minh giang hồ - tài phiệt giữa Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour với Dũng Ba lém, Minh Samasa. Sau vài tháng “chiến tranh”, Lâm Chín ngón đành ngậm ngùi chạy trối chết khỏi Vũng Tàu để giữ mạng sống và “giữ tiếng trên giang hồ”.
Hai năm sau, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ra quân xóa sổ nạn bảo kê lộng hành trên các cảng cá. Minh Samasa và nhiều tên trong đám tài phiệt cùng nhau vào tù trả giá cho những tội lỗi mà chúng đã gây ra. ở ngoài, thấy địch thủ đã yếu hẳn, Lâm Chín ngón lại rắp ranh quay lại độc chiếm cảng cá Vũng Tàu.
Nhưng, vợ chồng Đức Năm Nghệ, Sương L’Amout vẫn chưa bị pháp luật sờ gáy. Được đám tài phiệt cảng cá đánh động và cầu cứu, Đức Năm Nghệ bắn tin:
- Nếu Lâm Chín ngón mò xuống Vũng Tàu, mạng sống của y và gia đình sẽ không được bảo đảm!
Thấy trước không chơi lại “đám dữ” mới “sủi tăm” nhưng đầy hung hãn và không hề biết nể nang, Lâm Chín ngón đành tạm bằng lòng với vị trí ông chủ quán thịt chó. Lâm không hề hé môi với bất kỳ ai về chuyện còn định quay lại nắm cảng cá hay không.
Mọi chuyện tưởng chừng đã yên, bất ngờ tai vạ bỗng chụp lên đầu Lâm Chín ngón. Khoảng 8 giờ tối ngày 14.7.1999, Lâm chở vợ và đứa con trai 6 tuổi đi ăn tối tại quán Lồi ở cư xá Bắc Hải, quận 10. Khi anh ta vừa dựng xe cho vợ con bước xuống thì bất ngờ, một tên thanh niên không rõ mặt nhảy xổ ra tạt thẳng vào mặt Lâm một ca đầy acid sunfuric đậm đặc sau đó vứt chiếc ca nhựa, tót ngay lên yên sau một xe máy chờ sẵn bên kia đường chạy mất. Hét lên một tiếng, Lâm ngã xuống mặt đường quằn quại.
Trận đòn thù không rõ lai lịch quá hiểm ác. Tay giang hồ một thời tác oai tác quái bị cháy và biến dạng toàn bộ khuôn mặt, hai tai rụng, mũi rụng, cằm chảy ra dính chặt vào ngực. Hai mí mắt cũng chảy ra dính vào nhau, bịt kín con mắt. Sau nhiều tháng chạy chữa với nhiều lần phẫu thuật, lột toàn bộ da mông, da đùi đắp lên mặt, Lâm Chín ngón mới tạm hồi phục nhưng khuôn mặt vẫn bị biến dạng khủng khiếp. Hai mắt Lâm gần như lòa hẳn. Nhiều lần phẫu thuật, các bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy mới tạm mở được cho Lâm hai hốc mắt nhỏ xíu. Mỗi lần lấy ngón tay ấn lên từ hai hố mắt đã lòa, những giọt nước đục như nước gạo lại ứa ra.
Dù vậy, Lâm Chín ngón vẫn không cho vợ con, gia đình thưa, báo công an. Chúng tôi đã nhiền lần gặng hỏi, Lâm Chín ngón vẫn lắc đầu quầy quậy, không hé một lời về việc ai đã xuống tay hạ gục mình, cũng một mực không cho biết anh ta có nghi hay không nghi ai là thủ phạm, dù theo suy đoán của chúng tôi, có vẻ như Lâm biết rất rõ kẻ đã ra lệnh xuống tay. Trước sau, Lâm chỉ một mực cho rằng, tai vạ hôm nay chính là nghiệp chướng mà anh ta đã vay thì phải trả. Thậm chí, anh ta cho rằng kẻ hại mình còn “nhân đạo”, không hề đụng đến vợ con Lâm, để cho họ rời khỏi xe một khoảng rồi mới ra tay nên chỉ mỗi một mình Lâm bị hại.
Thật ra, Lâm Chín ngón biết rất rõ ai là kẻ đã tổ chức tạt acid hủy hoại anh ta nhưng vì lo sợ và vì thiếu chứng cớ nên Lâm không dám đứng ra tố cáo, chỉ cắn răng chịu đựng. Ngày 12.12.2001, Năm Cam bị tóm cổ. Hai ngày sau, khi thông tin về vụ bắt giữ Năm Cam đã được khẳng định rộng rãi trên báo chí, Lâm Chín ngón đã lập tức tìm đến cơ quan công an và một số tờ báo để tố cáo: chính Năm Cam là kẻ chủ mưu vụ tạt acid. Đến lúc đó, toàn bộ sự thật mới được phơi bày.
Năm 1988, Lâm Chín ngón được trả tự do sau hơn 20 năm bị trói buộc trong vòng lao lý. Biết Lâm là kẻ nhiều lần vào tù ra tội, chiến tích, uy tín giang hồ khá lẫy lừng, Năm Cam đã tìm tới tận nhà thăm hỏi, cho tiền, mục đích là để lấy lòng và dựa dẫm, lợi dụng uy thế của Lâm để dằn mặt các băng nhóm, đồng thời để tránh rước thêm một địch thủ thuộc loại dữ dằn.
Tiếp đó, Lâm lấy vợ, sinh con, cuộc sống không mấy dư dả. Để mua chuộc Lâm, Năm Cam đã ra lệnh cho Mười Đen, một tay dưới trướng hiện đang có một cửa hàng điện tử trên đường Huỳnh Thúc Kháng, quận 1, phải nhường cho Lâm một phần hùn trị giá hai lượng vàng tại cửa hàng này. Gọi là hùn, kỳ thực Lâm Chín ngón không phải góp vốn lấy một xu, nhưng hàng tháng Mười đen vẫn phải chia lời cho Lâm đúng theo tỉ lệ của người có hai lượng vàng góp vốn. Trên danh nghĩa, Năm Cam là người chịu trách nhiệm góp vốn cho phần hùn này để giúp Lâm. Nhưng, với “anh Năm” thì “bố bảo” Mười đen cũng không dám từ chối hay đòi hỏi phần góp.
Được vài tháng, Lâm Chín ngón nảy máu tham, không xì tiền ra nhưng vẫn đòi hỏi Mười đen phải... nâng tỉ lệ phần hùn cho anh ta. Đòi hỏi quá quắt của Lâm Chín ngón đã khiến mâu thuẫn nảy sinh. Năm Cam phải đứng ra can thiệp, bắt Mười đen phải... trả lại cho Lâm Chín ngón hai lượng vàng đã “góp vốn”. Cầm số vàng này, Lâm Chín ngón về quận 10 mua bán thuốc Tây, kỳ thực là bảo kê khu chợ tân dược đường Lý Thường Kiệt.
Trong khi đó, Năm Cam lại tiếp tục hùn vốn với Muời đen, Tư râu và Chín Cam - một cán bộ thoái hóa, biến chất - thuê mặt bằng tại số 49 Huỳnh Thúc Kháng, mở lại một cửa hàng điện tử khác. Cửa hàng này làm ăn khá phát đạt, lại khiến máu sân si của Lâm Chín ngón nổi lên. Lâm lại mò đến, bảo Mười đen:
- Tao muốn hùn vốn vô tiệm này, mày tính sao thì tính!
Không cam chịu thiệt hai lần, Mười đen nổi đóa:
- Anh đừng quá quắt. Chỗ tôi làm ăn, đâu phải cái chợ đâu mà hễ anh nói vô là vô, ra thì ra?
Bị từ chối, Lâm Chín ngón nổi khùng đập vỡ bảng hiệu của Mười đen. Điên tiết, Nghĩa, con trai Mười đen vác dao xông ra, định ăn thua đủ với “thằng già bố láo”. Nghe tin, Năm Cam vội vã lao tới dàn hoà, tránh xảy ra một cuộc đối đầu toé lửa với tay anh chị hết thời nhưng còn số má.
Sự xuất hiện của Năm Cam đã lên dây cót tinh thần cho Mười đen. Tay này không kiêng dè gì nữa, chỉ mặt Lâm Chín ngón cảnh cáo:
- Tiệm này là của anh Năm, muốn hùn hạp gì thì anh cứ nói với ảnh. Anh Năm đồng ý thì cho anh hùn, không đồng ý thì anh biến, đừng đến đây gây sự nữa.
Bị từ chối và dằn mặt, Lâm Chín ngón nổi điên. Nhưng nhắm đánh nhau với cả đám không lại. Lâm chỉ còn nước réo Năm Cam chửi đổng cho bõ ghét:
- Năm Cam là cái chó gì. Nó là thằng cờ bạc, tù tội, oai đếch gì mà tụi mày tôn sùng, dựa hơi. Coi chừng, cà chớn thì có ngày tao đập tiệm, Năm, Bảy gì có ngon ra mà chơi.
Bị xúc phạm, nhưng là con cáo già, Năm Cam không phản ứng lại nửa câu, chỉ găm mối hận Lâm Chín ngón lại trong lòng.
Nghề bảo kê, buôn bán thuốc Tây ở chợ Trời quận 10 bùng phát được ít lâu thì xẹp, Lâm Chín ngón nghe lời rủ rê, mời mọc của đám Minh Samasa - Dũng Ba lém xuống Vũng Tàu bảo kê các cảng cá. Trong số các đầu nậu bị Lâm Chín ngón, Minh Samasa dằn mặt tranh mua ép bán có Ba Thế, tức Nguyễn Hữu Thế Trạch, chủ vựa cá chợ Cầu Ông Lãnh, quận 1, xuất thân là một kiện tướng bơi lội. Trạch chuyên mua cá từ nguồn của các tàu Kiên Giang. Dưới áp lực của đám xã hội đen do Lâm Chín ngón chỉ huy, Trạch liên tục phải đóng “hụi chết”, mỗi chuyến tàu phải mất năm đến bay triệu, thậm chí ba mươi triệu mới đưa được xe đông lạnh ra khỏi cảng. Đã vậy, lắm lúc Lâm Chín ngón, theo yêu cầu của Dũng Ba lém, Minh Samasa còn tự ý nâng giá mua, khiến nhiều chuyến Trạch thiệt hại nặng, có khi tới hai, ba  ngàn đồng một kilôgam cá. Để thoát khỏi tình trạng này, Trạch đã bàn bạc với mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Mai tìm cách thương lượng với Lâm Chín ngón để điều đình. Biết Lâm Chín ngón có nhà ở quận 10, là một giang hồ thứ dữ của đất Sài Gòn, mẹ con Nguyễn Hữu Thế Trạch đã đem lễ đến nhờ Năm Cam nói chuyện với Lâm Chín ngón giúp và được “ông trùm” nể mặt nhận lời.
“Tiên lễ hậu binh”, một mặt kích động, chia rẽ Lâm Chín ngón với đám Minh Samasa - Dũng Ba lém, lại xúi giục vợ chồng sát thủ Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour xuống Vũng Tàu gây sự với Lâm Chín ngón, mặt khác Năm Cam lại xách rượu tìm đến nhà Lâm Chín ngón tại quận 10 để nói chuyện thiệt hơn. Vào nhà, Năm Cam bảo Lâm Chín ngón:
- Nguồn cá của thằng Ba Thế là nguồn cung cấp  cho vựa Cầu Ông Lãnh. Ở đó, anh em giang hồ đông lắm. Anh ép thằng Trạch tức là đá bể nồi cơm của anh em, lỡ lớn chuyện ra thì phiền lắm đó.
Cả hai đều xuất thân từ khu Cầu Ông Lãnh (Chợ Cầu Muối), Lâm Chín ngón là đàn em cật ruột của Đại Cathay, xếp sòng từ thuở xa xưa của nguyên khu chợ vựa, trong khi Năm Cam là em rể Bảy Si, ông trùm sòng bạc khu Da Heo, từng hùn hạp nhận Đại Cathay làm bảo kê, cho nên Lâm Chín ngón biết Năm Cam nói thật. Một mình đối đầu với toàn bộ giang hồ chợ Cầu Muối là điều hoàn toàn dại dột không nên. Dù không ưa Năm Cam, nhưng thấy “ông trùm” đã nhún mình xuống nước tìm đến tận nhà nên Lâm Chín ngón cũng tỏ ra nể mặt. Lâm nói với Năm Cam:
- Thôi được, chuyện đó Năm để tôi bàn với chú Trạch sau.
Một tuần sau cuộc nói chuyện này, một cuộc nhậu tưng bừng đã được tổ chức tại nhà hàng Thùy Dương ở Vũng Tàu. Chủ tiệc là Nguyễn Hữu Thế Trạch và bà Mai, người mời là Lâm Chín Ngón, trong khi khách là đầy đủ bộ sậu giang hồ của thành phố cảng, có thêm cả cặp vợ chồng sát thủ Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour từ thành phố Hồ Chí Minh xuống. Vào tiệc, Lâm Chín ngón chuyển lại cho giang hồ đất cảng nguyên văn lời cảnh báo của Năm Cam:
- Cá của Ba Thế là nguồn cung cấp cho chợ Cầu Muối. Ở đó có nhiều giang hồ sống lắm...
Dĩ nhiên đã là yêu cầu của Năm Cam thì đám giang hồ Vũng Tàu không thể làm ngơ. Chúng chấp nhận buông tha, giải phóng nguồn hàng cho Nguyễn Hữu Thế Trạch.
Chỉ sau đó vài tháng, thân cô thế lụi, Lâm Chín ngón đã bị đám giang hồ mới đánh bật khỏi Vũng Tàu khi có ý định tách khỏi Minh Samasa - Dũng Ba lém để ra riêng. Chạy trối chết vì chơi không lại, Lâm Chín ngón lại đâm ra hậm hực, nghi có bàn tay Năm Cam thò vào trong chuyện Lâm bị truất ngôi. Về thành phố Hồ Chí Minh, đi đâu Lâm cũng rêu rao thoá mạ, công khai chửi bới, coi thường uy thế của Năm Cam.
Có lần, vào năm 1998, Lâm chủ động mời Năm Cam đến một nhà hàng trên đường Trần Hưng Đạo, quận 5. Khi thấy Năm Cam bước vào, những tên thuộc hàng đàn em của Lâm Chín ngón đang ngồi trong bàn đều nhất loạt đứng lên chào và cầm ly đến gặp “anh Năm” mời mọc, quên khuấy mất “chủ nhân ông” của cuộc ăn nhậu là Lâm Chín Ngón. Không nhịn được, Lâm Chín ngón gầm lên:
- Thằng Năm Cam là cái đếch gì mà tụi bay phải bợ đỡ. Tao coi nó là cái đinh. Đ.M, thằng nào quị luỵ Năm Cam thì đừng coi tao là đàn anh nữa!
Vô cớ bị Lâm Chín ngón chửi bới, hạ nhục, mặt Năm Cam tái dại đi. Nhưng, cái đầu cáo già vẫn lạnh, Năm Cam đứng lên:
- Anh Lâm say rồi! Tôi cũng hơi mệt, thôi anh em ngồi  chơi, tôi về trước.
Nói xong Năm Cam bỏ về ngay. Máu yêng hùng lấp mất trí khôn, Lâm Chín ngón không hề biết rằng bằng những lời nhục mạ Năm Cam, anh ta đã tự biến mình thành cái gai cần nhổ trong mắt tay gá bạc ốm yếu ho hen nhưng đầy quyền lực, máu lạnh và đầy nham hiểm.
Ngoài mặt vẫn thơn thớt nói cười, nhưng trong bụng, Năm Cam đã bầm gan tím ruột, bắt đầu tìm kế trừng trị Lâm Chín ngón.
Thế nhưng, làm được điều đó không dễ. Lâu la dưới trướng, Năm Cam không thiếu. Đám Cu Nhứt, Bình Kiểm, Nghĩa Mười đen... đều thuộc loại dữ dằn và sẵn sàng “phục vụ anh Năm”. Lâm Chín ngón tuy to khoẻ nhưng dù sao cũng chỉ là “hổ dữ về già”, chơi tay đôi chưa chắc những thằng sát thủ mới nổi phải kiêng dè. Ngặt một nỗi, Lâm Chín ngón dù sao cũng  đã có thời lừng lẫy, thuộc hàng đàn anh có số, đám sát thủ mới nổi ít nhiều cũng nể mặt, chưa chắc đã chịu động thủ. Bề hội đồng, trải đệm cũng không ăn thua, vì nếu có diệt được một Lâm Chín ngón, Năm Cam cũng mang tiếng đắc thời hiếp kẻ thất thời, không khéo lại chọc giận hàng loạt “sói già” khác để chúng quay lại “bề hội đồng” thì khó ăn khó nói và cũng khó đỡ.
Suy đi tính lại, Năm Cam quyết định chơi trò “ném đá giấu tay”. Kẻ được ủy thác thực hiện là Vũ Hoàng Dung, tức Dung “Hà”, quái nữ đất cảng Hải Phòng. ít nhiều, Dung Hà cũng đã nhiều lần được Năm Cam cưu mang, giúp đỡ tiền bạc trong những ngày hàn vi, vừa ra tù, công ty cờ bạc Kiến An (Hải Phòng) đã vỡ, thằng bồ Hùng cốm đã bị bắn và đàn anh, đàn em thì tan tác mỗi đứa một phương. Sử dụng Dung Hà, Năm Cam đắc lợi nhiều mặt. Thứ nhất, giang hồ Bắc là những sát thủ máu lạnh, dám chơi tới cùng và sẵn sàng xài “hàng nóng” (súng). Về mặt này, Dung Hà vốn đã khét tiếng. Trước khi vào tù, chính y thị là kẻ đứng ra tổ chức một cuộc tấn công qui mô, kéo rốc hàng chục sát thủ từ Hải Phòng đổ bộ lên Hà Nội chém tơi tả một loạt đàn em của cả Phúc Bồ lẫn Khánh Trắng, đúng vào giai đoạn cực thịnh của hai trùm này. Thứ hai, vì là giang hồ Bắc nên Dung Hà cóc thèm biết đến tiếng tăm của Lâm Chín ngón, bảo chơi là chơi sát ván. Lỡ có đổ bể, đàn em của y thị sẵn sàng cao chạy xa bay, Lâm Chín ngón khó mà lần ra manh mối để trả thù.
Tính toán đâu vào đó xong xuôi, ngày 11.7.1999, Năm Cam cho gọi Dung Hà đến nhà riêng. Nghe Năm Cam gọi, Dung Hà đã sai một tên đàn em là Quân “béo”, tức Nguyễn Duy Quân chở mình đến ngay. Tại nhà riêng số 107/38 Trương Định, quận 3, Năm Cam kể cho Dung Hà nghe chi tiết toàn bộ những mâu thuẫn giữa ông trùm với Lâm Chín ngón và đưa ra đề nghị:
- Cô xỉa cho nó vài dao, làm sao cho nó thân bại danh liệt không ngồi dậy nổi nữa.
Dung Hà cười lạt:
- Muốn dằn mặt, cần gì làm vậy. Để em cho nó một ca acid, khủng khiếp hơn nhiều. Mình diệt một thằng nhưng cả trăm đứa khác phải ớn, đó mới là thượng sách.
Năm Cam đồng ý. Y gọi ngay đứa cháu là Nguyễn Văn Thọ (Thọ Đại úy) đến, bắt Thọ đi mua acid về cho Dung Hà thử và đưa đường cho Quân béo, Dung Hà lên quận 10 để nhận mặt Lâm Chín ngón. Lần thứ nhất, acid Thọ mua về bị nữ quái chê loãng. Thọ lại phải chạy thêm lần nữa, đem về một can acid đậm đặc, Dung Hà mới đồng ý, sai Quân béo đem về nhà ở đường Bùi Thị Xuân cất.
Ba ngày sau, đêm 14.7.1999, Lâm Chín ngón vĩnh viễn trở thành người tàn phế.
Hơn một năm sau, 0 giờ 25 phút ngày 2.10.2000, đến lượt Dung Hà bị bắn chết trong khi thủ phạm vụ tạt acid Lâm Chín ngón vẫn chưa bị phát giác.
Không ai khác, bật đèn xanh hạ thủ Vũ Hoàng Dung lại vẫn chính là Năm Cam. Trò ném đá giấu tay, Năm Cam thực hiện khá hoàn hảo. Tất cả chỉ bị phanh phui vào hơn một năm sau nữa, khi Năm Cam và hàng chục con, cháu, rể, đàn em lần lượt dắt nhau vào trại giam.
Sau tai nạn, Lâm Chín ngón trở thành một con người khác hẳn: không nói, không cười, suốt nhiều năm qua chỉ ở lì trong một căn nhà nhỏ mà ngoài vợ con, Lâm không hề cho ai biết địa chỉ (trừ tôi - người viết bài này). Khi chúng tôi đến thăm, anh ta chỉ một mực bảo rằng, cuộc đời Lâm Chín ngón coi như đã hết, chỉ “nhờ ơn trên phù hộ cho vợ con được lành lặn và yên ổn”. Kể từ nay, Lâm Chín ngón không còn tồn tại nữa, đúng hơn, trên giang hồ không còn hiện hữu cái tên Lâm Chín ngón. Lâm không hề có ý định sẽ trả thù theo kiểu ân oán giang hồ.
Tôi biết, lần này Lâm Chín ngón nói thật, bởi có muốn khác đi, anh ta cũng không còn đủ sức. Con đường giang hồ là thế, một con đường trải đầy tội ác, bước vào thì dễ nhưng không hề có đường ra. Tiếc thay, Lâm Chín ngón chỉ nhận ra điều đó khi đã quá muộn, đã trở thành một kẻ tàn phế mù lòa. Trong khi đó, hiện vẫn còn không ít kẻ - đặc biệt là trong giới thanh thiếu niên vẫn đang tấp tểnh làm dân chơi, đang lăm le nhảy vào cuộc sống giang hồ đầy tội ác. Với bài viết này, chúng tôi muốn vẽ lại bộ mặt thật ghê tởm của thế giới tàn bạo và đầy tội ác đó, một thế giới đang có nguy cơ phình ra theo sự mọc lên như nấm của quán bar, vũ trường, rượu, gái và ma túy. Hy vọng những kẻ đang rắp ranh ấy, khi đọc bài viết này sẽ tự rút được cho mình bài học quí, để tránh xa con đường từ dân chơi đến giang hồ, con đường đầy tội ác cần phải ngăn chặn và loại trừ.
6/ HÙM XÁM MIỀN TRUNG
Sau Đại Cathay, Tín Mã Nàm, cùng thời với những Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Điền Khắc Kim... ở  Sài Gòn, mảnh đất miền Trung và Cao Nguyên cũng xuất hiện một loạt tên tuổi đen trong làng dao búa. Nổi bật trong số đó là tên cướp Năm Vĩnh, kẻ được giới giang hồ mệnh danh là “hùm xám miền Trung”. Với những người lương thiện đang sống một cuộc sống an bình, cái danh xưng mỹ miều ấy vô nghĩa và vô cảm. Nhưng, đối với người dân lao động nhiều địa phương khoảng những năm đầu thập niên 70, danh xưng ấy đích thị là một nỗi ám ảnh kinh hoàng. Với “xã hội đen”, Năm Vĩnh còn nổi tiếng ở một khía cạnh khác: Hắn chính là kẻ tạo tiền lệ cho vòng xoay tội lỗi sau này sẽ thành một phong trào: đăng lính để trốn tù tội, sau đó trốn lính để làm du đãng, đồng thời sử dụng uy lực của “quân đội Việt Nam Cộng hòa” để tác oai tác quái và ăn cướp. Bằng cách đó, Năm Vĩnh và những tên giang hồ mặc áo lính đã biến sư đoàn 23 ngụy thành “sư đoàn du đãng”, Vùng II chiến thuật thành “vùng của giang hồ”.
Không giống như những tên du đãng cộm cán khác thường xuất thân đá cá lăn dưa, trường học đầu đời là lề phố hoặc cô nhi viện, Năm  Vĩnh có một tuổi thơ khá êm đềm. Vĩnh sinh năm 1947 tại Quảng Ngãi, đựơc ăn học đến nơi đến chốn, từng mài đũng quần trên ghế trường Trung học Bồ Đề, Quảng Ngãi - một ngôi trường nổi tiếng, đào tạo không ít nhân tài cho rẻo đất miền Trung.
Học không tệ nhưng tính tình hiếu động, có phần hung bạo, tên học trò cà chớn này đã không ngần ngại bẻ vế thứ nhất của câu cách ngôn “Tiên học lễ, hậu học văn” thành “tiên học... võ”.  Sống đúng như câu cách ngôn của riêng mình,  Vĩnh thường xuyên trốn lớp để tìm thầy học võ. Vĩnh học qua rất nhiều lò. ở lò nào, hắn cũng bị đuổi vì thường xuyên đòi thách đấu với các sư huynh để phân chia cao thấp. Tuy thế, đến 18 tuổi, trình độ võ thuật của tên học trò Năm Vĩnh cũng đã khá thượng thừa. Để khẳng định trình độ, thay vì thượng đài, Vĩnh chọn cách “dân dã” hơn: gây sự đánh nhau, một mình đánh đôi, đánh ba ngay trên đường phố, sân trường. Lần nào hắn cũng toàn thắng, trong khi nạn nhân của hắn toàn là... bạn học. Vì thế ông Dương Ngô Thống (thường gọi là ông Dương), thầy giáo chủ nhiệm lớp hắn ở trường Bồ Đề đã nổi giận táng cho Vĩnh một bạt tai và gọi giám thị đuổi tên học trò bất trị ra khỏi lớp. Ông giáo mô phạm tuyên bố:
- Dạy dỗ anh chỉ tốn công, loại như anh sau này chỉ có thể làm kẻ cướp!
Ngớ người ra một lúc, Năm Vĩnh chợt cảm thấy ông thầy mình nói... chí phải. Không muốn kéo dài sự lo lắng của thầy và bạn, hắn bỏ học. Chẳng bao lâu, thị xã Quảng Ngãi bé nhỏ lại có thêm một hung thần. Sự liều lĩnh, hung bạo và đẳng cấp võ nghệ của Năm Vĩnh đã khiến đám du thủ du thực tỉnh lẻ bạt vía, đành chắp tay  qui phục, suy tôn Vĩnh làm đại ca.
Cuối những năm 1960, theo chân của 500.000 lính Mỹ, chiến tranh tràn khắp, cả miền Nam là một bãi chiến trường. Sự tuyệt vọng của tâm hồn người dân trong hỗn mang cuộc chiến chính là mảnh đất màu mỡ cho các loại tư tưởng triết học du nhập và bén  rễ. Sinh viên học sinh miền Nam bơi giữa vô số dòng chảy tư tưởng từ phương Tây ồ ạt tuôn vào Việt Nam. Hiền lành như Kali Gibran, Kan, hoài nghi, đập phá như Nietzsche, chán chường như Camus, hiện sinh như J.Sartre... loại nào cũng có. Sinh viên, học sinh, tầng lớp năng động nhưng tâm hồn sớm tổn thương vì cuộc chiến nhất, dễ trở nên bi quan tuyệt vọng, nhanh chóng vồ vập với chủ nghĩa hiện sinh và suy tôn những F.Nietszche, J.Paul Sartre làm ông tổ tinh thần. Hậu quả của nó là những kẻ đua đòi, thích ăn chơi đập phá, “ghét Mỹ nhưng thích bắt chước Mỹ”, đã chìm hẳn giữa dòng xoáy của phong trào hippie với tóc để dài, ăn mặc chim cò, nốc rượu và nhảy disco giậm dựt. Loại có học hơn mơ mòng biến mình thành người hùng với trước tác của Sartre kè kè bên nách; một bộ phận trong số họ - tích cực hơn - dù chưa thật sự ý thức đầy đủ về chủ nghĩa cộng sản, về kháng chiến cũng không ngần ngại xé áo thư sinh lên rừng, quyết sống tận cùng theo chủ nghĩa dấn thân...
Không mấy chuyên chú cùng sách vở, nhưng tâm hồn nổi loạn của Năm Vĩnh cũng ít nhiều bị ảnh hưởng của học thuyết hiện sinh và chủ nghĩa dấn thân. Ước mơ của Năm Vĩnh là một sự pha trộn lệch lạc giữa sở thích thụ hưởng, ăn chơi và hình ảnh người hùng đơn độc, lấy nguyên mẫu từ hình ảnh gã sát thủ ba Tàu trong “Thân phận con người” của André Malraux - cuốn sách gần như duy nhất được Năm Vĩnh đọc trọn từ đầu đến cuối. Rất nhanh, gã cảm thấy thị xã Quảng Ngãi nhỏ bé luôn co rúm mình vì lo sợ bom pháo cả hai bên trở nên ngột ngạt và tù túng không chịu nổi. Đầu năm 1970, Vĩnh quyết định dấn thân, hành phương Nam theo tiếng gọi giang hồ.
Mảnh đất đầu tiên tên “hắc đạo” trẻ tuổi chọn lựa để lấy số lấy má là thị trấn Mỹ Ca nằm bên quốc lộ 1, cạnh Quân cảng Cam Ranh - căn cứ quân sự khổng lồ lúc nhúc lính Mỹ và các sắc lính đồng minh. ở đâu có các chú lính mắt xanh mũi lõ, ở đó các loại tệ nạn cứ tha hồ mọc như nấm. ở cây số 9 Mỹ Ca, văn hóa lùi về thời tiền sử, nhường chỗ cho văn minh hưởng thụ, sống gấp trước khi chết gấp, sặc mùi lính tráng thời chiến. Với một cây dao chặt đá cây lưỡi răng cưa lởm chởm nặng trịch, Năm Vĩnh nhanh chóng đánh bạt bọn ma cô, đầu gấu xứ này, giành quyền bảo kê thu thuế giựt các phòng trà, tiệm nhảy, nhà thổ của toàn bộ khu vực phục vụ các sắc lính trên toàn thị trấn. Tiền bạc bất lương thu vào như nước biến Vĩnh thành “vua con” của vùng quân cảng. Ngạo mạn và sa đà, Năm Vĩnh còn ngang nhiên chống lại cả cảnh sát bài trừ du đãng, cuối cùng “lỡ tay” chém chết một trung úy quân cảnh ngụy. Do đó, hắn bị tầm nã ráo riết ngay khi tên tuổi mới lừng lên trên chốn giang hồ.
Để tránh rơi vào vòng lao lý với một cái án cầm chắc sẽ rất nặng, Năm Vĩnh chọn cho mình giải pháp duy nhất: đăng lính. Với kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, người Mỹ bắt đầu rút dần quân đội về nước, để lại cho quân đội Việt Nam Cộng hòa một lỗ hổng lớn, đầu tiên là về mặt tinh thần. Sự tấn công mạnh mẽ của quân giải phóng trên khắp các chiến trường đã khiến cho quân số của ngụy quân, đang rệu rã tinh thần, hao hụt liên tục. Để bù đắp, ngụy quân ráo riết bắt lính. Bất cứ một thanh niên lành lặn tuổi từ 18 đến 37 nào cũng có thể nộp đơn xin vào quân ngũ ngay mà không hề bị xét hỏi lôi thôi. Đặc biệt, đăng lính vào khoảng từ ngày mồng 10 - 20 hàng tháng thì càng chắc chắn được các nhân viên tuyển quân dịch gật đầu ngay. Lý do đơn giản: 10 hoặc  20 ngày lương đầu tháng của chú tân binh sẽ nghiêm nhiên chảy vào túi các “thầy” tuyển quân dịch, đó là chưa kể thêm khoản định mức 400đ/tân binh được quân đội cho hưởng, thành thử việc thẩm tra, thẩm vấn dại gì phải làm căng!
Lúc này, quân chủ lực của vùng II chiến thuật ngụy  (gồm khu vực miền Trung và Tây Nguyên) là sư đoàn 23 bộ binh với các đơn vị: Trung đoàn 44 đóng ở Sông Mao  (Bình Thuận), trung đoàn  53 ở Bảo Lộc và trung đoàn 45 đóng ở Buôn Ma Thuột. Trong số đó, Trung đoàn 44 là đơn vị thiện chiến nhất, anh cả của sư 23. Nguyên thủy, nó là sư đoàn Nùng khét tiếng tàn bạo và thiện chiến đóng ở Quảng Ninh, thời còn thuộc quân đội Liên hiệp Pháp, do Đại tá Voòng A Sáng chỉ huy. Những tên lính Nùng này giỏi trận mạc bao nhiêu thì cũng rừng rú, hoang dã và bất trị bất nhiêu. Ngoài chỉ huy trực tiếp, những tên lính Nùng tuyệt đối không thần phục và nghe lệnh bất kỳ ai khác. Thậm chí khi nổi nóng, chúng (có thể) còn dám cắt tai cả Tổng thống! Lo sợ đám kiêu binh làm loạn, Ngô Đình Diệm đã chia nhỏ quân số Sư đoàn 5 (tên gọi của Sư đoàn Nùng thời Đệ nhất Cộng hòa), lấy từng bộ phận của chúng để hình thành nên các lực lượng mới như Lực lượng liên binh phòng vệ phủ Tổng thống, Liên đoàn Biệt động quân, Lữ đoàn dù... sau đó tuyển tân binh cho đủ quân số, lập lại Sư đoàn 5, giao cho Nguyễn Văn Thiệu - đang mang lon Đại tá  - làm sư trưởng, đưa chúng lên tận Đà Lạt trú quân để đề phòng hậu họa. Sau nhiều thăng trầm dâu bể, một phần của Sư đoàn Nùng xưa kia lại tiếp tục tuyển quân, trở thành Trung đoàn  44 thuộc sư 23 bộ binh ngụy.
Năm 1970, dù là tên tội đồ đang bị truy nã, máu yêng hùng của Năm Vĩnh vẫn chưa tan. Với tờ khai mang tên giả là Nguyễn Văn Biên, quê ở Phú Yên, hắn quyết định chọn trung đoàn  44 nổi tiếng “đầu gấu” để tòng quân. Lúc này, Trung đoàn 44 đang thuộc quyền chỉ huy của Trung tá Lầu Cắm Bảo tức Lưu Kim Bảo - một đệ tử của Voòng A Sáng chỉ huy. Nhưng, chỉ chưa đầy một năm sau, khi “Chiến dịch Lam Sơn 719” đánh Hạ Lào của quân đội ngụy vừa mở màn thì gã người hùng đã tái mặt... đào ngũ ngay.
Đối với quân đội Việt Nam Cộng hòa, chiến dịch Lam Sơn 719 thật sự là một thảm kịch. Sau hai năm theo đuổi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, quân đội Việt Nam Cộng hòa cần có một chiến dịch qui mô để thử nghiệm thực lực của mình. Dưới sự hối thúc của người Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu đã đồng ý tiến hành một chiến dịch “tìm và diệt” tấn công vào Tchepone, một tỉnh nằm ở Đông Lào. Mục đích của cuộc hành quân qui mô này là tấn công vào các căn cứ tiếp tế của miền Bắc trên đất Lào và tiêu diệt các đơn vị quân đồn trú chủ lực, nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế đường mòn Hồ Chí Minh, ngăn chặn từ xa một cách triệt để sự tiến quân về Nam của bộ đội miền Bắc. Kịch bản chiến tranh và bản đồ chiến lệ do người Mỹ đưa ra, nhưng Nguyễn Văn Thiệu - kẻ thực hiện, vẫn gắn vào nó đầy những tham vọng. Thiệu muốn thông qua cuộc hành quân, bà đỡ Mỹ sẽ thấy rằng quân đội Việt Nam Cộng hòa đã thật sự trưởng thành, có thể đủ sức giành thắng lợi trong những chiến dịch tấn công qui mô, điều mà từ trước đến giờ hầu như vẫn do các lực lượng quân đội Mỹ đảm nhiệm. Đó cũng là nước cờ tuyệt nhất để Thiệu có thể bảo đảm phần thắng cho mình trong cuộc chạy đua giành ghế tổng thống sẽ diễn ra trong năm 1971.
Để tìm kiếm một chiến thắng trọn vẹn, tháng 3.1971 Nguyễn Văn Thiệu đã cắt 2 sư đoàn thiện chiến nhất gồm một sư thủy quân lục chiến và một sư bộ binh giao cho tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ huy để ném vào canh bạc. Từ các căn cứ tập kết tại Kon Tum, 25.000 binh sĩ ngụy đã được trực thăng Mỹ chở sang Lào và bất ngờ ném xuống các tọa độ đã định trước thuộc tỉnh Tchepone. Không may cho Thiệu, chiến sự đã diễn ra hoàn toàn không giống như kịch bản. Những đợt tấn công ồ ạt của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã vấp phải một sự chống trả quyết liệt, dũng mãnh, được chuẩn bị chu đáo của “Cộng sản Bắc Việt”. Chỉ sau 4 ngày giao tranh, 3.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng bị loại khỏi cuộc chiến. ảo vọng “tốc thắng” của các chú lính Việt Nam Cộng hòa sụp đổ hoàn toàn khi lần đầu tiên, những chiếc xe tăng T54 của bộ đội chủ lực miền Bắc xuất hiện, áp đảo hoàn toàn tinh thần chiến đấu của đối phương. Đòn phủ đầu trở thành thất bại thảm hại đã khiến viên Tư lệnh chiến dịch Hoàng Xuân Lãm không dám liều lĩnh, sợ bị sa lầy như một Điện Biên Phủ thứ hai trên đất Tchepone, các đơn vị tiền đồn trên đất Lào sẽ bị bao vây không thể chống giữ, cũng không có khả năng tiếp viện kịp thời. Cay đắng, Thiệu đành chấp nhận thay đổi chiến thuật, như Lãm đề xuất, chỉ đánh Tchepone rồi rút ngay, không đề cập tới chuyện giữ.
Thảm kịch thật sự xảy ra ngay trên đường rút lui, con số binh sĩ chết và thương vong tăng quá nhanh, nhanh đến mức không đủ trực thăng để sơ tán họ về tuyến sau. Đã thế, “sự quan liêu tai hại của Lầu Năm Góc” - như lời chỉ trích của Thiệu sau đó - đã khiến cho sự chỉ đạo và yểm trợ (bằng pháo binh và không quân) của Mỹ diễn ra không đầy đủ. Hậu quả là một cuộc hành quân đại bại đã chấm dứt sau 44 ngày, tước mất của Thiệu hơn 8.000 lính, buộc số còn lại phải giày xéo lên nhau mà chạy, mong toàn mạng thoát khỏi “tử địa” Tchepone.
Thất bại thảm hại của chiến dịch Lam Sơn 719 đã phá nát phần nhuệ khí của cả quân đội Việt Nam Cộng hòa lẫn máu yêng hùng của Năm Vĩnh. Những trận đụng độ đầu tiên, nhìn thấy xác bạn đồng ngũ được trực thăng bốc về tuyến sau nhiều la liệt, tên du đãng sợ mất mật đành chọn giải pháp mang trên lưng thêm một lệnh truy nã về tội đào ngũ nữa để mong được bảo toàn mạng sống.
Sau hai tháng trời sống chui rúc cạnh sân bay Nha Trang nhờ vào sự bao bọc của đám ma cô, du đãng thành phố biển, Năm Vĩnh nhận ra rằng không thể xưng hùng xưng bá bằng con đường đơn thương độc mã, chỉ cậy vào võ nghệ và sự liều lĩnh. Hắn cũng nhận ra rằng, khác với vùng Mỹ Ca nhỏ bé, ở một thành phố đủ lớn, đủ ô hợp như Nha Trang thì chẳng ma nào thèm chú ý đến mình, nghĩa là khó bị luật pháp sờ gáy hơn. Yên tâm với những gì vừa nhìn thấy, hắn lại tự khai tên là Nguyễn Văn Vĩnh - một cái tên rất học giả - và chọn trung đoàn 53 để quay lại làm lính. Tại quân trường Dục Mỹ (Ninh Hòa, Khánh Hòa), Năm Vĩnh nhanh chóng kết giao với Năm Cao, trùm mặt rô ở Nha Trang, cũng vào lính để trốn truy nã. Không biết bàn bạc kiểu gì, nhưng 3 tháng quân trường vừa hoàn tất, hai thằng Năm lại đào ngũ. Chỉ ít lâu sau, du đãng Nha Trang đã có một “nội các tam đầu chế” giữ vị trí ông trùm, thường được giang hồ gọi xách qué là “băng ba năm mười lăm” gồm Năm Vĩnh, Năm Cao và Năm Càri, đóng đại bản doanh tại một căn lầu ở cư xá Sân Bay do Năm Cao mua tặng.
Sau hơn một năm hùng cứ thành phố biển, tên tuổi nổi cộm như những hung thần, băng “ba năm mười lăm” tan rã. Đúng hồi đang ăn nên làm ra, băng “ba năm mười lăm” đột nhiên có khách đến thăm: một thằng “ngó qua là biết cô hồn”, tóc dài trùm gáy, người đen đúa, áo thun đen phủ cẩu thả trên chiếc quần rằn ri nâu của lính Biệt động quân. Gã xưng tên là Hiệp ruồi, tức Hiệp Súng sáu, một tên anh chị đứng bến có cỡ của bến xe An Đông (Chợ Lớn), nhưng lại giấu biệt cái quá khứ bị “lốc ổ”, phải bỏ của chạy lấy người, mò ra Nha Trang tìm đất sống.
Hôm đó, Năm Vĩnh không có mặt, tại căn phòng ở cư xá sân bay chỉ có Năm Cao và Năm Càri tiếp Hiệp ruồi. Chào hỏi, xưng danh với nhau đúng lễ giang hồ, xong Năm Cao mới hỏi Hiệp ruồi:
- Bạn ghé thăm anh em chúng tôi chắc không phải để nói dóc chơi. Có gì, bạn cứ nói thẳng.
Hiệp ruồi không giấu giếm bản chất cô hồn:
- Ai rảnh đâu mà khi không mò ra đây nói chuyện chơi. Là tôi nghe anh em đang sống khỏe nên muốn tới hùn vốn làm ăn. Có vậy thôi!
Câu trả lời xấc xược của Hiệp ruồi khiến hai thằng Năm bất giác chột dạ đưa mắt nhìn nhau. Sau vài phút im lặng, Năm Càri đằng hắng:
- Chỗ giang hồ, bạn đã có lời, tụi này đâu có chối. Nhưng xin hỏi thẳng: bạn định góp vốn bằng gì?
- Tiền không, vàng không - khách bắt đầu giở giọng chối tai - thằng Hiệp này xưa nay chỉ có nắm đấm và con dao coi như là vốn. Chịu nhận hùn hay không, anh em cứ nói đại đi một tiếng, khỏi lằng nhằng!
- Mày nói cái gì?
Hộc lên một tiếng, Năm Càri nhổm người vọt dậy, định lao ngay vào Hiệp ruồi. Nhưng Năm Cao khá nhanh tay, vội chụp lấy vai hắn giật lại, khiến Năm Càri gần như bổ chửng xuống ghế. Nếu là ở ngoài đường, chắc chắn Năm Cao sẽ không cản đồng bọn mà sẽ làm ngay cái việc là nhảy bổ vào Hiệp ruồi băm kẻ khiêu khích ra trăm mảnh. Ngặt một nỗi đang ở ngay tại nhà, hắn không dại gì “đem máu tưới vườn nhà”, vừa mất tiếng giang hồ, vừa rước thêm rắc rối với cảnh sát. Chờ một chút cho máu nóng trên mặt tan bớt, Năm Cao mới ngọt nhạt:
- Tứ hải giai huynh đệ, bạn đã định hùn, tụi này hết sức hoan nghinh. Chuyện làm ăn tính sau đi, giờ anh em mình nhậu cái chơi, coi như tiệc sơ giao vậy.
Thấy địch thủ nhún mình, Hiệp ruồi không nghi ngờ gì cả, gật đầu ngay. Cuộc nhậu kéo dài đến quá nửa đêm, đầy những chuyện gái trai đĩ bợm nhưng tuyệt nhiên không ai đề cập đến chuyện làm ăn hùn hạp. Tiệc tàn, chủ và khách đều say bí tỉ, ngủ lăn như chết. Còn mỗi Năm Cao là tỉnh. Vào khoảng 9 giờ đêm, viện cớ nhức đầu, muốn “đi tắm cái cho giã rượu”, Năm Cao lỉnh đi đâu mất.
Sáng hôm sau, không ai trên đời còn nhìn thấy Hiệp ruồi đâu nữa. Nhưng cũng trong sáng hôm ấy, cảnh sát đã tìm thấy trên bờ biển dưới chân núi một chiếc bao bố đẫm máu, bên trong có một xác chết bị cắt ra nhiều khúc. Hồ sơ cảnh sát ghi nhận: trước khi bị phanh thây, nạn nhân say rượu đã bị đâm nhiều nhát bằng lưỡi lê cho đến chết. Những vết máu còn tươi, chứng tỏ nạn nhân mới bị giết vào khoảng 2 - 3 giờ sáng. Quay trở về, nghe chuyện, Năm Vĩnh chỉ còn biết la trời.
Sau khi tổ chức “luộc” Hiệp ruồi tức Hiệp Súng sáu, Năm Cao trở nên ngạo mạn và coi thường các băng du đãng khác. Một lần, hắn đã ngang nhiên xé sòng bầu cua tôm cá của một đám du đãng mũ nồi nâu (Biệt động quân). Điên tiết, Năm Cao vừa quay lưng, một tên Biệt động quân đã rót vào lưng hắn trọn vẹn một băng M.16. Mất thổ địa, lại bị hàng loạt tên du đãng khác vừa từ mặt trận trở về dọa “làm thịt”, Năm Vĩnh và Năm Cao lại vội bỏ Nha Trang lên Cao Nguyên tìm nơi ẩn nấp. Cái “hang” mà chúng chọn là Liên đoàn  21 Biệt động quân.
Trở lại quân đội với trang phục rằn ri nâu, mũ nồi nâu, vị trí của Năm Vĩnh và đồng bọn đã thay đổi hẳn. Lính tráng toàn Cao nguyên không tên nào không từng nghe qua danh xưng “đại ca Năm Vĩnh”, “hùm xám miền Trung”. Vì thế, chỉ huy các đơn vị của Vĩnh - hắn thuyên chuyển đơn vị liên tục - cũng vị nể, chẳng bao giờ bắt Vĩnh và đàn em của hắn phải ra trận. Bù lại, phần ăn nhậu, hút xách của các “thầy, các “chú” tự nguyện chung chi đủ, cộng thêm khoản lương lính của chúng “chẳng đáng là bao”, đến tháng các sĩ quan cứ việc giở sổ lương mà lấy. Dĩ nhiên Năm Vĩnh nổi tiếng đến thế thì tung tích hắn không cần tìm cũng thấy, quân cảnh ngụy không khó gì mà không tìm ra để tóm cổ tên tội đồ từng giết người và đào ngũ như cơm bữa này. Nhưng mỗi lần có công văn tầm nã, sĩ quan các đơn vị lại sẵn sàng báo cáo láo là “không hề có tên đương sự trong danh sách”, lờ đi, tiếp tục che chở cho Năm Vĩnh để ăn của đút bằng cách chuyển hắn sang một bộ phận khác! Cảnh sát cũng chẳng dại gì mò lên tận tiền đồn để truy nã một thằng đầu trâu mặt ngựa, lơ mơ ăn đạn của cả hai bên chưa biết chừng. Thậm chí, một tiểu đoàn trưởng nổi tiếng, đại úy Tôn Thất Trực, bạn học của tướng Lê Minh Đảo, còn xúi Năm Vĩnh:
- Mỗi tháng mày nên về Nha Trang chơi bời ít bữa cho nó... khỏe, nhớ rủ tao đi với!
Lợi dụng thế tự do, tên du đãng mặc áo lính dồn hết thì giờ để tổ chức hai việc: bán ma túy và mở sòng bài phục vụ cho những tên lính Vùng II sầu đời vừa trở về sau các cuộc hành quân. Sau Vùng I (từ Đà Nẵng đến Quảng Trị), Vùng II chiến thuật, đặc biệt là khu vực Cao Nguyên là chiến trường thường xuyên xảy ra đụng độ, lính tráng thường xuyên bị ném vào các chiến dịch qui mô. Để quên cái chết luôn cặp kè bên nách, lính tráng vùng chiến thuật này đều bạt mạng, hết sức vô kỷ luật và nhanh chóng ngã vào vòng tay đê mê của ma túy. Nghề bán thuốc phiện nhanh chóng giúp Năm Vĩnh giàu nứt đố đổ vách. Có tiền, Vĩnh vãi ra mua chuộc đàn em trong các sắc lính không hề tiếc. Dĩ nhiên, ai trả lương cao, người đó được quyền sai bảo. Những tên du đãng mặc áo lính nhanh chóng trở nên ngoan ngoãn nghe lời Năm Vĩnh hơn nghe lệnh chỉ huy - những kẻ chỉ có thể cho chúng chưa đầy một phần mười số lương “anh Năm” quăng ra, lại còn hay cố tình bớt xén.
Giống như cây số 9 Mỹ Ca, khu vực ngã ba Diệp Kính dưới chân căn cứ Hàm Rồng những năm 1970-1972 cũng là địa điểm tập trung ăn chơi của các sắc lính đóng cạnh thị xã Pleiku. ở đó có một rạp chiếu phim, một dãy quán xá và hơn chục nhà thổ, lúc nào cũng đầy nhóc những tên lính người Việt giày trận đứt tung dây, áo quần đầy bụi đất đỏ, kéo lê những khẩu AR15, M16. Thay vì nói chuyện, chúng văng tục. Thay vì vỗ tay tán thưởng giọng ca, chúng chĩa nòng súng lên trời và quạt nguyên băng... ở đó, lính tráng tên nào cũng rượu bia say bí tỉ mà không cần phải đụng đến ly... Ngoài những bộ quân phục, không một người dân nào dám bén mảng đến khu ngã ba Diệp Kính vào buổi tối nếu họ không thuộc một trong hai loại: ma cô hoặc gái điếm phục vụ tại các quán xá.
Dù hung tợn, các sắc lính ở đây vẫn cứ phải dè chừng một cái tên: Năm Vĩnh - “Hùm xám miền Trung”. Băng của hắn thuộc loại “đụng là chạm, chạm là nổ”. Vào quán, ăn nhậu xong, thay vì trả tiền, hắn ngoắt chủ quán tới và đưa cho họ một cái ly cối, trong ly là... một quả lựu đạn đã rút chốt, loại “chấm đỏ” M26 hoặc M67, rút chốt ném là nổ ngay. Sau cái ám hiệu ấy, cả đám cứ việc bỏ đi ung dung, không một chủ quán nào dám hó hé nửa tiếng. Lần sau, thấy mặt hắn quay lại là chủ quán hiểu liền, vội xòe ra mấy chục ngàn để “anh Năm tiêu vặt”, may ra mới được yên thân.
Đa phần lính tráng Vùng II đều xuất thân từ các tỉnh miền Trung. Đời lính buồn và... mau chết, những tên lính cứ bưng luôn câu ngạn ngữ gốc ruộng “muốn dỡ chuồng heo thì phải dám seo cột nhà” vào quân ngũ làm lẽ sống. Rảnh rỗi, rượu còn có người chê chứ bài bạc sát phạt nhau thì tên lính nào cũng “máu”. Một chiều mùa Đông năm 1972, khi sòng bạc ở ngã ba Diệp Kính đang đến hồi cao trào thì cửa phòng bị đạp tung. Trên ngưỡng cửa xuất hiện hai bộ đồ rằn ri, áo bỏ ngoài quần, tóc râu tua tủa và nét mặt rất cô hồn. Giật phắt chốt quả M26 ném keng xuống sàn, một tên tuyên bố:
- Bỏ hết tiền, đồng hồ, tư trang xuống bàn!
Dù cùng là lính tráng, nhưng trái lựu đạn cũng đủ chặn mọi bàn tay manh động, những tên lính đành ngưng cuộc sát phạt, líu ríu nghe lệnh gã cô hồn. Khi mọi cái túi đã được lộn trái, tên kẻ cướp điềm nhiên hô “biến!”, đồng thời thả trái lựu đạn xuống mặt bàn và hốt tiền, vàng vào ba lô lộn. Lựu đạn phun khói xì xì khiến đám con bạc xéo nhau chạy trối chết. Hốt đầy ba lô, ngẩng lên sòng bạc đã vắng ngắt, thằng cô hồn ung dung bước ra cửa gọi tên bạn đang lăm lăm súng đứng cạnh:
- Dọt mày!
Đúng lúc đó, gáy bỗng dưng lạnh buốt khiến hắn phải ngoái đầu lại. Dưới bóng điện mờ mờ, trên một tấm phản kê tít trong góc phòng có một tên biệt động quân đang chống tay trái nằm nghển cổ duỗi dài thân nhìn xoáy vào mặt hắn. Một tấm áo palto lính trải rộng che nửa thân trên và cánh tay phải của kẻ đang nằm. Quá đỗi ngạc nhiên, tên kẻ cướp bước lại gần hỏi:
- Mày là bảo kê sòng này?
Tên kia không thèm ngồi dậy, trả lời nhát gừng:
- Nhìn là biết, hỏi chi?
Thằng kẻ cướp ngạc nhiên lắm:
- Lựu đạn phun khói ì xèo sao mày không bỏ chạy. Bộ không sợ chết hả? 
Câu trả lời của thằng kia còn cô hồn và lọc lõi hơn:
- Ngu như bò! Lựu đạn mà nổ, mày đứng gần chết trước chứ không phải tao. Nó không nổ mày mới đứng đó được chứ nổ thì trời xúi, ông già mày cũng không dám, đừng nói chi mày. Trò con nít của tụi bay cũng đòi hù ông nội bay sao?
Túi vàng, tiền trên vai trở nên nặng như đá tảng, tên cướp cạn chửi thề:
- Mày ngon, mày tin là tụi tao sắp giết mày không?
Thằng kia nhếch mép:
- Tin cái mốc, trước đó tao đã bắn nát sọ mày rồi!
Vừa nói, hắn vừa hất chiếc áo paltô để lộ một khẩu colt “đui” đang ghếch nòng trên tay phải... Mặt xanh như đít nhái, tên cướp cạn líu ríu thả túi hàng xuống đất:
- Đại ca cho em biết quý danh?
Thằng kia hất mặt:
- Năm Vĩnh. Bộ mày thối tai hay sao mà không nghe?
Ngôi thứ được đổi ngay sau đó. Hai tên lính chắp tay lạy như tế sao:
- Anh Năm tha tội. Tụi em mới hành quân trên Plei-cần về. Đang nhậu mà vã quá, không đủ tiền trả nên mới liều mạng.
Năm Vĩnh gạt đi:
- Đây là đất của tao, không thằng nào được phá đám. Để tiền, vàng lại hết. Còn ăn nhậu, chơi bời tối nay, ngày mai, tụi bây có bi nhiêu thằng, tao lo tất!
Kiểu hành xử vừa lì lợm, bạt mạng, vừa tỏ ra đàn anh kèm theo tiền bạc tuôn ra bao bè như suối đã giúp Năm Vĩnh lấy lòng, thần phục được không ít tên đầu trâu mặt ngựa trong các sắc lính miền Trung và Cao Nguyên. Giống như Vĩnh, tất cả những tên này đều mang hai, ba án truy nã nên đứa nào cũng hung hãn, sẵn sàng lao vào chỗ chết, miễn có tiền. Một lần, đang nằm ở một trong những hang ổ của du đãng gốc lính tại suối Đốc Học, ngoại ô Buôn Ma Thuột, Năm Vĩnh nhận được hung tin: một số đàn em của y bị quân cảnh túm cổ vì một lý do hết sức vô duyên. Số là vừa trở về sau một cuộc hành quân sát biên giới Moldulkiri, thuộc địa phận Đak Song, Đak Lak, Năm Càri, Mầm Điên và một số tên khác thuộc lực lượng Biệt động quân đã xả xui, tổ chức nhậu với Thắng, tay anh chị bên Chiến đoàn Lôi Hổ. Cuộc nhậu được bày ra hoang dã ngay tại gốc đa Cây số 5, bên rìa thị xã Buôn Mê. Thấy lính tráng tác phong bê tha, lôi thôi lếch thếch, một toán quân cảnh đi qua đã tạt vào yêu cầu đám này bỏ áo vào quần, gom ống quần vào giày và buộc dây đàng hoàng để giữ tác phong quân kỷ. Câu trả lời là một tiếng lựu đạn nổ “đoành”, rơi ra từ tay Thắng “Lôi Hổ”, lúc này đang say lử đử. Thế là không nói gì thêm, toán quân cảnh xông vào tước vũ khí, còng tay luôn cả bọn.
Nhận tin, Năm Vĩnh tức khắc gặp viên trung úy đồn trưởng, bảo:
- Sáng mai, tụi Năm Càri không về thì cứ thấy thằng quân cảnh nào trên đường, coi như thằng đó đổ ruột.
Bỏ về, Vĩnh sai đàn em đi báo tin cho đám tay chân trong các đơn vị đồn trú lân cận để chuẩn bị. Quả nhiên, 4 giờ sáng hôm sau, đang ngủ vùi sau cơn say, Năm Vĩnh đã bất ngờ bị quân cảnh ập vào còng tay đưa đi. 7 giờ sáng, đồn quân cảnh bị nhiều loại quần áo rằn ri vây chặt, có cả đại liên M60 tham gia “cuộc chiến tranh”. 7 giờ 15 phút, một trái M79 nổ tung ngay giữa cột cờ trong sân đoàn quân cảnh. Không còn cách nào khác, viên trung úy đành phải thả Năm Vĩnh và đến 16 giờ thì Năm Càri, Mầm Điên, Thắng “Lôi Hổ” cũng vừa cười, vừa tự do kéo nhau ra khỏi trại!
Tuy tha hồ huyênh hoang, khoác lác nhưng sau vụ đó, Năm Vĩnh cũng biết là sự lộng hành của y đã vượt quá giới hạn. Bỏ cuộc hành quân của đơn vị, hắn chuồn lên suối Đốc Học nằm khan, sau đó dông tuốt về Nha Trang sống phè phỡn bằng nghề tuồn thuốc phiện vào quân lao Khánh Hòa bán cho đám quân phạm đang “nằm ấp”. Cuối năm 1973, bị lùng sục, hắn lại “lỡ tay”, một lần nữa giết chết một tay quân cảnh và bị tóm cổ.
Vác theo một balô vàng - chiến tích còn lại của mấy năm ngang dọc - Năm Vĩnh được dẫn vào quân lao Khánh Hòa làm bạn với những gương mặt mốc cộm cán của Vùng II chiến thuật như Phi Vân, Sơn Trắng, Tuấn Đả, Lực búa, Cù Đinh... những kẻ trước đó không lâu còn lá “khách hàng truyền thống” trong nghề buôn thuốc phiện của Vĩnh. Trong tù, cảnh gây bè, kết đảng đâm chém thanh toán nhau lại tiếp diễn, cuối cùng Năm Vĩnh được thừa nhận là một “đại ca trong các đại ca” của cái quân lao khét tiếng vô kỷ luật và lắm đầu trâu mặt ngựa này.
Sau Tết nguyên đán năm 1975, quân lao Khánh Hòa nhận thêm một tù nhân dáng dấp mô phạm, bị tống giam vì tội “tình nghi Việt cộng”. Đó chính là ông Dương Ngô Thống, thầy giáo dạy trường Bồ Đề, Quảng Ngãi, năm nào. Chuyển lên dạy học ở Đà Lạt, thầy giáo Dương bị hàm oan. Nguyên trung úy Tình - một sĩ quan Phượng Hoàng - say mê cô hoa khôi phố núi Xuân Lan nên đã hỏi cưới và có con với cô gái này, trong khi y đã có vợ có con. Sợ bị loại ngũ vì tội có vợ bé, Tình đã ép Xuân Lan phải bỏ con. Là bạn của bà Phụng, cô ruột Xuân Lan, ông Dương động lòng đã nhận lời giúp bà Phụng, cùng vợ mình đem đứa bé trốn đi, tránh cho nó bị cảnh cha ruột hắt hủi. Để trả đũa, trung úy Tình đã vu vạ và dẫn cảnh sát đến bắt ông vào mùng 8 Tết. Nhờ quen biết với thiếu tá Nguyễn Văn Hiển, quản đốc quân lao Khánh Hòa, Tình đã tìm cách tống được ông Dương vào địa ngục này cho bõ tức. Để dằn mặt người tù mới, theo yêu cầu của tên trung úy bất lương, thiếu tá Hiển đã đẩy ông giáo vào chung buồng giam với tên hùm xám Năm Vĩnh, dự định mượn tay tên hung thần để hành hạ người tù.
Đã từng nghe tiếng tên hung thần, ông Dương co rúm mình và suýt ngất xỉu khi những tên tù tàn bạo dựng ông ngồi thẳng lưng, bắt phải chứng kiến từ đầu chí cuối cảnh Năm Vĩnh và một tên đàn em cởi trần trùng trục tra tấn cho đến chết một quân phạm chung buồng. Xong việc, Năm Vĩnh đến trước mặt ông cúi người lễ phép:
- Thầy nhớ con không? Con là Năm Vĩnh, thằng học trò bị thầy tát tai gọi là đồ kẻ cướp ở Bồ Đề đây mà!
Suýt nữa, ông thầy giáo đã ngất xỉu vì tin chắc trận đòn thù sẽ sắp được tên học trò xưa trút xuống đầu mình. Quá sợ hãi, ông lắp bắp:
- Anh... thông cảm, khi xưa tôi chỉ...
Năm Vĩnh cắt ngang:
- Dạ không, không. Con cảm ơn thầy vì lời thầy quá đúng. Đời con chẳng có thể làm được trò trống gì hơn ngoài một thằng tướng cướp.
Như một cảnh phim quái gở điên rồ, hùm xám miền Trung thét đàn em kê nệm, trải drap và đón ông thầy mình lên “chiếu trên” nằm nghỉ, cơm bưng nước rót hầu hạ đến tận chỗ nằm. Khi đã trấn tĩnh, ông Dương mới dám hỏi Vĩnh:
- Anh là người còn biết giữ chút lễ nghĩa, sao hôm trước vô cớ lại đánh người ta đến chết?
Triết lý tàn bạo của lối sống giang hồ được gã học trò quỷ dữ trả lời sau một giọng cười buồn:
- Con đã giết hai người, chẳng bao lâu sẽ bị đày ra Côn Đảo lãnh án chung thân cấm cố. Ra đó coi như là chết, con phải “mua vé” bằng án mới để tiếp tục bị điều tra, còn có cơ hội được ở lại đất liền. Giang hồ hiểm ác, người này sống thì kẻ kia phải chết, tại số thằng đó... xui thầy ạ!
Nhưng, Năm Vĩnh đã không còn cơ hội để sống tiếp với cái triết lý thú vật của đám giang hồ. Gần giữa tháng 3.1975, xe tăng quân Giải phóng ầm ầm tiến vào làm chủ Nha Trang. Lợi dụng thời cơ, đám quân phạm đã bạo động giết lính canh, phá quân lao trốn chạy. Bị Năm Vĩnh ép, ông Dương phải theo chân những tên tù sổng khám chạy về hướng Phan Rang. Nhưng, cầu Du Long đã sập, những tên lính mặc áo tù lại lôi ông chạy ngược trở lại quân cảng Cam Ranh. Trên đường đi, ông giáo mô phạm đã đau đớn và bất lực chứng kiến cảnh tên học trò khốn nạn và đám đàn em của hắn mặc sức cướp, hành hạ những người chạy loạn khốn khổ mà không cách nào ngăn lại được.
Đến Cam Ranh, Vĩnh và đám đàn em lại dùng súng, lựu đạn uy hiếp và cướp được một chiếc tàu, kè theo ông Dương tiến thẳng ra khơi. Trên tàu, chúng lại tiếp tục giết người cướp của, dồn vàng, đôla vào 2 balô chặt cứng. Trên tàu toàn kẻ cướp nên tàu bị từ chối không cho cặp cảng Vũng Tàu. Năm Vĩnh lại ra lệnh đưa tàu ra khơi. Đến đảo Phú Quốc, hắn sai đàn em kết ván và dây thừng thành một chiếc thang dây bảo ông Dương:
- Trong kia là thị trấn Dương Đông, thầy vào đó chắc sẽ có cách về được đất liền, tìm vợ con. Còn tụi con, tội lỗi quá dày, không dám theo thầy cùng về được.
Từ chối số tiền, vàng Vĩnh cho, ông Dương đu theo thang dây nhảy xuống nước bơi vào bờ. Đến chiều, ông bất ngờ gặp lại gã học trò trên đảo. Quá lộng hành, đám cướp làm loạn đã bị dàn quân cảnh đảo Phú Quốc khống chế, và tóm cổ đưa vào thị trấn Dương Đông, trong đó có cả ông trùm Năm Vĩnh. Phiên tòa được tổ chức ngay và chỉ kéo dài dăm phút với án tử hình dành cho cả đám. Trước lúc xuống tàu về lại đất liền, ông Dương đã tận mắt chứng kiến cảnh Năm Vĩnh bị bắn ngay sau khi kết thúc phiên tòa. Hắn được chôn lại dưới chân núi Tượng ở thị trấn Dương Đông. Không mộ chí, nấm mồ bị cỏ quên dần dần vùi lấp. Âu đó cũng là đoạn kết tất yếu của con đường giang hồ, con đường tội ác.
7/ ĐIỀN KHẮC KIM
Trong “bảng phong thần” của giang hồ Sài Gòn trước 1975, tên tuổi Điền Khắc Kim cũng lừng danh không kém gì Đại Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Y Càlết... những hung thần lề phố. Nhưng trước sau gì hắn vẫn là một tên tướng cướp không giống ai, một “tướng không quân”. Con đường leo lên vị trí đàn anh của hắn hoàn toàn nằm ngoài qui luật chung của giới giang hồ: không hề gây bè kết đảng, không xưng hùng xưng bá, không hề tổ chức những cuộc thanh trừng đẫm máu để tranh giành lãnh địa.
Điền Khắc Kim nổi tiếng vì là tác giả của hàng chục vụ cướp kinh thiên động địa với giá trị tài sản rất lớn mà nạn nhân tất tật đều là người Mỹ. Cứ cướp xong là hắn hiếp các nữ nạn nhân, sau đó không quên ghim lại một mảnh giấy ghi ba chữ: “Điền Khắc Kim”. Đã là tướng cướp thì chuyện vướng vòng lao lý là lẽ tất nhiên, nhưng với Điền Khắc Kim, nhà tù chỉ là chốn “vui thì ở, buồn là đi”, bắt hắn chỉ như bắt cóc bỏ đĩa. Tất cả những phi vụ kinh hoàng ấy, Điền Khắc Kim cũng chỉ đơn thương độc mã thực hiện, không hề có trợ thủ. Vì lý do này, báo chí Sài Gòn trước năm 1975 mới gán cho hắn biệt danh “Tướng cướp cô đơn” hoặc “Tướng cướp sôlô”. ít ai biết rằng, bức chân dung kinh khủng ấy lại được vẽ nên từ những nét cọ đầu tiên là một chuyện tình buồn trên một nền khung nghèo khó.
Điền Khắc Kim tên thật là Lê Văn Minh, con trai thứ hai trong một gia đình nheo nhóc có bốn anh chị em ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Tuổi thơ không êm đềm của hắn trôi qua dưới một mái nhà rách nát, lợp bằng những tấm tôn cũ thủng lỗ chỗ, vách là một hỗn hợp gồm ván ép, mảnh bìa carton, vỏ thùng phuy cũ và vô số mảnh tôn, thiếc đầu thừa đuôi thẹo khác. Mùa nắng, ngôi nhà nóng hầm hập. Mùa mưa, nóc dột tứ tung, nền thấp nên nước mưa từ các đường hẻm, rãnh cứ thi nhau cuốn rác rều ồng ộc tuôn vào nhà. Bốn chị em hắn tha hồ gọi nhau lội tứ tung, nhặt nhạnh lại những đôi dép đứt, giấy vụn, bao nilon đang nổi lều bều giữa nhà đã thành một bể nước bẩn và thi nhau chổng mông lên trời khua xô, thùng tát nước.
Cha mất sớm, toàn bộ gánh nặng mưu sinh đè trĩu lên đôi vai mẹ hắn. Cứ sáng tinh sương, thằng bé con đen đúa, mắt đầy ghèn lại bị lôi cổ dậy để ra lò bánh mì lấy những mẻ bánh đầu tiên đi bán bánh mì “chạy”. 8 giờ sáng, quẳng cái giỏ cần xé đã hết nhẵn, hắn lại lo chạy về phụ giúp mẹ bán bánh mì “nằm”. Tuổi thơ vất vả và thiếu thốn nên Minh không lớn nổi, người cứ loắt choắt, gầy và đem nhẻm, có phần nhút nhát vì mặc cảm. Việc học hành của hắn vì thế cũng chẳng bằng ai, chữ vào tai này lại ra tai kia rồi rụng mất.
Con nít nhà nghèo thế kỷ trước đói ăn nhưng lại dễ no đòn. Mỗi lần Minh bị đánh, có một con bé hàng xóm lại cạy vách nhìn vào trề môi trêu chọc. Con bé tên là Diễm, Nguyễn Thị Diễm, nhưng dân trong xóm cứ nôm na hình hài mà gọi nó là Diễm đèo, cũng như gọi Minh là Minh con bởi cả hai đều gầy quắt như quả dưa chuột đẹt trồng trên đất cằn bị ong chích. Bị trêu, Minh con tức lắm, rắp tâm tìm cách trả đũa. Làng Hạnh Thông Tây có nghề làm pháo gia truyền, hầu như nhà nào cũng có mâm quấn pháo nên quanh năm làng cứ đầy những tiếng đì đùng. Không có tiền mua, thằng oắt Minh con cứ lăn xả vào dưới những bánh pháo đang tóe lửa của các đám giỗ chạp, cưới hỏi, xô nhau giành giật với trẻ con hàng xóm để nhặt pháo lép cất dành, chờ Diễm đèo đi ngang qua đốt ném để “khủng bố”. Ban đầu, Diễm sợ khóc thét lên. Sau, nó lại ton ton chạy theo Minh nhặt pháo, miệng cười rổn rảng trong khi mắt nhắm tịt và hai ngón tay thì bịt chặt hai tai. Lâu dần thành quen, hai quả dưa chuột đẹt bị ong chích phải lòng nhau lúc nào không biết.
Con gái thường mau lớn hơn con trai. 16 tuổi, Diễm đèo trông phổng phao hẳn lên, mái tóc đỏ quạch đã mượt ra, nước da cũng trở nên mịn màng chứ không đen đúa, sần sùi như trước nữa. Đúng thời điểm đó, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam. Khu vực Hạnh Thông Tây, trại lính, sở Mỹ mọc lên nhan nhản. Trên các trục đường lộ quanh cái xóm nghèo của Minh con, Diễm đèo, quán rượu, nhà chứa, snack-bar cũng thi nhau mọc lên để hứng những tháng lương lính và bán đi tất tật những gì có thể bán. Dù chưa phải thiên nga, Diễm đèo cũng không còn là con vịt trời xấu xí nữa. Chưa kịp ngỏ lời, Minh con đã phải cay đắng nhìn mối tình đầu của mình lột xác thành một Hélen Diễm, cô tiếp viên xinh đẹp với váy ngắn cũn cỡn hằng đêm nằm lọt thỏm trong vòng tay lông lá của những tên lính Mỹ to con gấp đôi nó trong snack-bar. Minh cũng không khá gì hơn, nó bỏ học, trở thành một thằng ma cô dắt mối cho gái điếm. Tháng ngày của hắn được nối nhau bằng những trận đập lộn tóe lửa với đủ loại sắc lính, từ biệt động quân, thủy quân lục chiến, lính dù đến lính bộ binh - những kẻ thường kéo cả đoàn mò vào xóm Hạnh Thông Tây tìm gái chơi bời rồi giở trò ăn quịt. Đánh nhau tay không cũng có mà bằng gậy gộc, gạch đá, dao phay cũng có... Thằng bé hiền lành ngày xưa biến mất, thay vào đó là một thằng Minh con ma cô lầm lì, bất chấp với một vết sẹo dài cỡ hai lóng tay vắt qua má trái, một tay đứng bến được cả vùng Hạnh Thông Tây - ngã ba Chú ía - vành đai sân bay Tân Sơn Nhất nhớ mặt biết tên.
Lì lợm là thế nhưng với Diễm đèo, đúng hơn là với Hélen Diễm, Minh con vẫn không thể can đảm hơn để nói được một câu tỏ tình đàng hoàng thành thật. Chỉ duy nhất một lần, tức quá không chịu nổi, Minh con đã chặn Hélen Diễm khi cô đang cặp kè với một tên lính Mỹ, hỏi dấm dẳn:
- Mấy thằng lông khỉ này có gì hay? Sao cô cứ...
Cơn ghen của nó bị Diễm tàn nhẫn cắt đứt nửa chừng:
- Hỏi dzô duyên. Hổng có gì hay, nhưng tụi nó có tiền!
Rồi cô kéo tên Mỹ trẻ măng đang đứng trố mắt đi một nước, bỏ lại Minh con đứng trơ như phỗng, ngơ ngác giữa đường.
Khoảng cuối năm 1967, một biến cố nho nhỏ đã xô Minh con ra khỏi nghề dắt gái ở Hạnh Thông Tây: mẹ hắn lấy chồng. Bố dượng của hắn là một hạ sĩ quan lái xe người gốc Campuchia nhưng nói tiếng Việt nhuyễn như ăn cháo, tên là Kalon Rim. Bố dượng cũng cục tính, lầm lì y như thằng con, được cái cũng không tệ bạc gì với mấy đứa con riêng của vợ nên Minh con chẳng có lý do gì mà ghét lão. Nhưng chính vì tử tế nên lão đã nhất quyết bắt bốn anh em Minh cải họ theo mình để mang những cái tên rất Miên mà nó không hề thích, cũng chẳng hiểu nghĩa là gì. Minh con trở thành Kalon Theo, con Hòa em nó trở thành Kalon Hòa. Những cái tên có vẻ “cà chớn” khiến thằng ma cô bất mãn. Không nói không rằng, nó bỏ nhà, bỏ miệt Gò Vấp mò lên sống bụi đời ở trước khu chợ Dân Sinh, quận 1. Làm đủ thứ nghề, ngày bán báo, đánh giày, đêm ra lề đường Nguyễn Công Trứ thuê ghế bố ngủ. Không có tiền thì lót báo cũ nằm vạ vật. Chưa hề sung sướng bao giờ nên kiếp bụi đời, với Minh cũng chẳng có gì là khổ sở.
Trước lúc ra đi, thu hết can đảm, nó mò đến cái snack-bar nơi Hélen Diểm làm tiếp viên, trong túi là một bánh pháo dài cả thước. Diễm chưa kịp ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất ngờ, Minh con đã lôi bánh pháo ra, cầm trên tay trần, giơ cao và rút điếu thuốc trên miệng châm vào ngòi pháo. Pháo nổ tung tóe khiến gái bán bar và khách làng chơi cả Mỹ lẫn Việt được một phen nhốn nháo. Nhưng Diễm thì không. Không nhắm mắt, không bịt tai cũng không bỏ chạy, cô cứ đứng ngó trân trân dây pháo nổ điếc màng nhĩ trên tay tên bạn bụi đời. Viên pháo cuối cùng, Minh con bóp đít búng tung lên trời đúng khi nó vừa phát ra tiếng nổ. Xong, nó quay lưng đi thẳng, đi một mạch, không hề nói câu nào, bỏ lại một Hélen Diễm phía sau đang ngây người, nước mắt ròng ròng trước lời tỏ tình có một không hai của thằng con trai hàng xóm.
Khoảng nửa tháng sau, tháng 4.1968, tình cờ trên mục “đua xe cán chó” của một vài tờ báo, Minh con đọc được mẩu tin: “Một cô gái điếm cỡ 18 tuổi bị một toán lính Mỹ thay nhau hãm hiếp rồi lột truồng vứt xác ngoài bãi rác ở Gò Vấp”. Lòng điên dại, hắn vứt xấp báo chạy ngay về Hạnh Thông Tây. Nhưng đã quá muộn: cỗ quan tài có Hélen Diễm nằm trong đó đã vùi sâu vào đất lạnh! Mối tình đầu câm lặng kết thúc quá sớm trong bi thảm, hắn nhờ một cô bạn bán bar cùng với Diễm mua giúp khẩu Colt 45 với mấy kẹp đạn giắt vào bụng rồi lặng lẽ bỏ đi.
Ba năm liền sau đó, báo chí Sài Gòn thỉnh thoảng lại bị khuấy động bởi những vụ cướp hết sức kinh hoàng, nghi phạm tỏ ra cực kỳ liều lĩnh, hung hăng như thể đi cướp để mong được chết, như thể chỉ ngày mai là tận thế. Nạn nhân của những vụ cướp này đều là người Mỹ. Kẻ cướp, không ai khác chính là Lê Văn Minh, hắn đi cướp để trả thù.
Giữa tháng 2.1968, cùng một tên du thủ du thực khác là Lê Văn Hùng, Minh con đột nhập vào nhà một kỹ sư công chánh Mỹ trên đường Trần Quang Khải, dùng khẩu Colt 45 khống chế bà vợ ông ta cướp đi 5.000 USD và một số nhẫn, dây chuyền vàng, kim cương trị giá 17 triệu đồng. Đó là một số tài sản kếch xù, bởi vào thời điểm đó, giá vàng chỉ có 25.000đồng/lượng và 1 USD thì trị giá bằng 10 USD theo giá ngày nay. Nhưng vẫn chưa thỏa mãn, sau khi dồn hết số tài sản của viên kỹ sư vào bao tải, Minh con còn bắt tên Hùng cảnh giới để hắn lôi bà vợ Mỹ của ông kỹ sư ra hãm hiếp.
Bảy tháng sau, kịch bản lặp lại nhưng hung thủ chỉ một mình Minh con. Lần này, tại một cư xá Mỹ trên đường Trần Cao Vân, quận 1, gần hồ Con Rùa, Minh con lần lượt “viếng thăm” và dọn sạch 3 căn hộ, cướp đi một số tư trang tiền bạc trị giá 11 triệu đồng. Cả 3 bà vợ Mỹ đều bị hắn giở trò thú vật.
Bảy tháng sau nữa, tháng 5.1969, đến lượt vợ của tay Giám đốc hãng sản xuất băng đĩa Columbia, nhà riêng ở Xóm Chùa, Bình Thạnh trở thành nạn nhân của Minh con. Lần này, hắn cướp được khoảng 8 triệu đồng và hơn 2 kg magne dùng để sản xuất đĩa nhạc.
Cả Sài Gòn nhốn nháo, thất kinh nhưng cảnh sát thì chịu chết, không tài nào mò nổi tung tích hung thủ, bởi hắn hành động cực kỳ xuất quỷ nhập thần. Dù không bị nhận diện danh tánh, bóng ma Minh con cũng trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của các bà mệnh phụ giàu có có chồng là người Mỹ. An ninh tại nhà riêng và các cư xá Mỹ được tăng cường tối đa, nhưng nỗi khiếp đảm thì vẫn đeo đẳng. Đúng lúc đó, tháng 11.1969, Minh con lại đột nhập nhà một gái bán bar hạng sang lấy chồng Mỹ ở cư xá Đô Thành cướp 6 triệu đồng. Lần này, cô vợ là người Việt nên Minh con chỉ “đùa bỡn” một chốc rồi bỏ đi, không cưỡng đoạt.
Quá ngạc nhiên trước sự may mắn của mình, nàng kiều “me Mỹ” đã buột mồm hỏi thằng cướp vừa quay lưng bỏ ra đến cửa:
- Anh tên gì vậy?
Đến lượt thằng cướp ngạc nhiên. Không lẽ xưng tên thật, hắn bèn xưng đại một cái tên vừa chợt hiện trong đầu:
- Điền Khắc Kim!
Rồi còn cẩn thận viết cái tên này ra giấy ném lại cho cô gái. Trước khi rút lui, không hiểu sao hắn còn giải thích:
- Cô may mắn đấy. Tôi chỉ trả thù mấy thằng Mỹ chứ không trả thù người Việt.
Ngay tức khắc, báo chí Sài Gòn lại tranh nhau chạy những hàng tít giật gân về vụ “cướp nhà người Mỹ”, với đích danh thủ phạm là Điền Khắc Kim, dù chẳng ai có thể xác định được ai là Điền Khắc Kim giữa thành phố 4 triệu dân này. Chưa hết, nhiều tờ báo còn nhanh nhảu tự “điều tra”, gán thêm rất nhiều nguyên nhân ly kỳ rùng rợn, biện minh cho hành động làm nhục nạn nhân của Điền Khắc Kim ở các vụ trước đó là để “trả thù dân tộc (?!)”.
Sau vụ cướp này, để tránh bị tóm, Điền Khắc Kim đăng ký đi quân dịch. Với cái tên giả là Lê Minh Hùng, hắn trở thành một binh nhì mang số quân 71/116964 của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 48 bộ binh (ngụy). Ba tháng quân trường vừa kết thúc, máu giang hồ trỗi dậy, hắn lại đào ngũ về Sài Gòn tiếp tục đi ăn cướp.
Tháng 5.1970, Điền Khắc Kim đột nhập vào nhà một người Mỹ là Giám đốc Hội cha mẹ nuôi quốc tế trên đường Trần Quí Cáp (nay là Võ Văn Tần). Đi đêm lắm có ngày gặp ma, trong khi hắn sắp sửa giở trò đồi bại với bà vợ ở phòng ngủ thì trong phòng tắm, ông giám đốc đã cởi được dây trói chạy thoát ra ngoài gọi cảnh sát. Hoảng quá, hắn vội bắt cóc bà vợ làm con tin và tẩu thoát xuống quận 8. Sau khi hành hạ bà đầm chán chê, Điền Khắc Kim đã gọi taxi đưa trả bà về với ông chồng Mỹ. Vì sự liều lĩnh bỡn cợt này, hắn đã bị cặp vợ chồng Mỹ kia nhận diện và bị bắt, phải ra tòa lãnh án 20 năm tù.
Vào trại Chí Hòa, họp mặt với toàn những tay anh chị đầu trâu mặt ngựa, Điền Khắc Kim dù không băng đảng, người không một hình xăm vẫn nghiễm nhiên được đám tù hình sự xếp vào “chiếu trên”. Sự táo tợn, liều lĩnh và những cú “trả thù dân tộc” được các báo lá cải khai thác tối đa đã vô tình tạo cho Điền Khắc Kim một lai lịch đầy ánh hào quang, khiến những tên du thủ du thực phục lăn phục lóc. Nhờ có sự hỗ trợ của những tên đại bàng cộm cán ở Chí Hòa, Điền Khắc Kim có đủ tiền để mua được một tờ “giấy đi phép”, tức được phép tự do ra ngoài 12 hoặc 24 giờ, sau đó về trình diện. Lợi dụng “giấy đi phép”, hắn trốn luôn. Vừa ra khỏi nhà giam, hắn đã mò vào nhà một tên thiếu tá CIA Mỹ để cướp. Là một quân nhân quen hoạt động trong bóng tối, tên “xịa” không dễ gì để bị Điền Khắc Kim bắt nạt, đã kịp thời móc súng chống trả. Đang loay hoay trèo qua ban công, tính nhảy từ lầu hai xuống đất, Điền Khắc Kim đã bị tên thiếu tá CIA quất trúng một viên vào bụng, sụm ngay tại chỗ và bị cảnh sát ngụy tóm cổ, đưa vào Tổng Y viện Cộng Hòa (nay là Quân Y viện 175) chữa trị.
Vết thương vừa tạm bình phục, người còn xanh rớt như tàu lá, Điền Khắc Kim lại cưa còng trốn thoát. Sau mấy tháng nằm dưỡng thương, hắn lại lên kế hoạch tấn công một nhà buôn Mỹ trên đường Công Lý (nay là Nguyễn Văn Trỗi), cướp được 5.000 USD và 20 triệu đồng. Đúng lúc hắn đang hành hạ nữ nạn nhân người Mỹ xinh đẹp thì ông chồng bà ta trở về. Một cuộc đọ súng đã nổ ra. Trước khi ngã quị vì đạn khẩu Colt 45 của tên tướng cướp, tay nhà buôn Mỹ cũng đã kịp bấm cò tặng cho tên tướng cướp một viên vào ổ bụng.
Vết thương quá nặng, Điền Khắc Kim đã không còn cơ hội để trốn tù. Lần này, vì là một quân nhân, phạm tội khi đang đào ngũ, Điền Khắc Kim đã bị tống vào quân lao Gia Định, nơi giam giữ toàn những tên du đãng xuất thân từ lính tráng.
Vào tù, để “giựt le” với đám du đãng đa phần thất học, Điền Khắc Kim tự khai đã học hết đệ nhị (lớp 11), dù kỳ thực hắn chưa hề học hết trung học đệ nhất cấp (cấp 2), kiến thức bị gió giang hồ thổi bay gần hết nên chữ xấu như gà bới. Lờ tịt sự khai man này, chỉ nhằm lợi dụng uy thế của tên cướp lừng danh để trị bọn tiểu yêu trong quân lao, đám cai ngục ở đây đã phong cho hắn cái chức “thư ký quân lao”. Dù là tên cướp đang ở tù, hắn vẫn ăn mặc tử tế như một sinh viên với áo sơmi đóng thùng cẩn thận, trên nắp túi còn giắt thêm một cây viết paker cho thêm phần trí thức.
Có một điều kỳ quái là, trong giới giang hồ, ngôi vị cao thấp thật sự chỉ được phân định rạch ròi khi ở... trong tù. Là “thư ký đề lao”, nghiễm nhiên Điền Khắc Kim trở thành vua một cõi. Đó chính là lúc bản chất lưu manh mạt hạng của tên tướng cướp bộc lộ đầy đủ nhất. Không có gì để nghi ngờ, việc Điền Khắc Kim trở thành hung thần, chuyên cướp, hiếp những người Mỹ giàu có khởi nguồn từ cái chết bi thảm của Hélen Diễm, mục đích chính là để trả thù. Nhưng, đó chỉ là những vụ đầu tiên, còn sau này, hắn đi cướp chỉ vì một mục đích duy nhất: kiếm tiền ăn chơi phè phỡn. Diễm đèo chỉ là kỷ niệm thoáng qua, một màn sương mờ cay nồng khói pháo, một gam màu lạ để Điền Khắc Kim tô vào bức tranh đầy hào quang ảo cho thêm phần thê thiết. Đích thực, hắn là một tên bệnh hoạn. Mỗi lần cướp về, hắn thường xổ tung tiền, vàng cho chúng bay vung vãi khắp nhà rồi nằm lăn lộn trên đó để tìm khoái cảm. Trong tù, bao nhiêu tiền làm luật hoặc do đàn em cống nộp, Điền Khắc Kim trải đầy ra dưới tấm drapp để “nằm cấn lưng nghe kêu rột rột đã tai chơi”. Đồng tiền được phong thánh thì nhân cách hóa tên đồ tể. Điền Khắc Kim không tiếc tay đánh đập đàn em, những tên tù hạng tép riu tứ cố vô thân, để thị oai và tiêu khiển. Và, khi gặp đúng đối thủ, hắn sẽ phải trả giá cho điều đó.
Sự buông lơi kỷ luật đã khiến khối hình sự trại giam Chí Hòa ngày càng trở nên hỗn loạn; đâm chém, thanh trừng nhau diễn ra liên miên. Không chịu nổi, cuối năm 1974, nhà tù Chí Hòa đã tiến hành một đợt thanh lọc, tống những tên đầu bò đầu bướu nhất của trại này sang quân lao Gia Định để tiện bề quản lý, tất cả có 32 tên. Vừa đến nơi ngồi tù mới, những tên cộm cán này đã la ó vang trời tính chuyện “làm reo”. Là “thư ký đề lao”, Điền Khắc Kim cũng có mặt trong buổi tiếp nhận những thành viên mới. Muốn thị oai, hắn xông ra quát:
- Muốn làm loạn hả? Không biết ông nội bay đang ở đây sao?
Nổi nóng, Lâm Chín ngón nhảy xổ ra:
- Mày là thằng chó nào?
Điền Khắc Kim tức lắm bảo:
- Đừng lộn xộn, ông nội mày là Điền Khắc Kim đây.
Lời hắn chưa dứt, Lâm Chín ngón đã nhảy xổ tới, một tay kẹp ngang cổ họng, một tay rút luôn cây paker trên túi áo hắn đâm thẳng xuống đầu kẻ mạnh mồm. Hung hăng nhưng nhỏ con, Điền Khắc Kim không chọi lại gã hộ pháp Lâm Chín ngón, cứ quẫy đạp lung tung nhưng vẫn không thoát, lãnh nguyên nhát đâm vào giữa trán. May cho hắn, đầu bút chọc trúng vết thẹo cũ do đạn của Biệt đội hình cảnh trước đây tặng. Thẹo trơn, vết đâm chệch đi nên Điền Khắc Kim không chết nhưng máu cứ tuôn xối xả, đỏ lòm khuôn mặt. Đến lúc đó, Lâm Chín ngón mới chịu buông tay, vứt “thằng oắt” sang một bên mặc cho hắn kêu la chói lói.
Sau trận đó, Điền Khắc Kim mới hết ngổ ngáo, tỏ ra biết điều hơn. Tháng 4.1975, sau khi phân loại, Điền Khắc Kim và một loạt tù trọng án tại quân lao Gia Định bị đổ xuống tàu, tống ra Côn Đảo. Tàu cập bến ngày 22.4.1975 thì 8 ngày sau, Côn Đảo giải phóng. Lợi dụng tình hình lộn xộn, Điền Khắc Kim và nhiều tên tù hình sự khác đã đánh lính gác, cướp súng chạy thoát ra ngoài.
Vừa được hít thở khí trời, hắn đã lập tức xông vào khu gia binh, gây liền hai vụ cướp tại nhà hai cảnh sát chế độ cũ. Côn Đảo đã giải phóng, “thù dân tộc” không còn nhưng trò đồi bại thì vẫn tồn tại, tên súc sinh đã không quên cưỡng đoạt hai bà vợ lính rồi rút lên núi trốn. Nhưng chỉ ba hôm sau, hắn đã bị lực lượng quân quản của đảo tóm cổ.
Sau một thời gian thụ hình tại Côn Đảo, Điền Khắc Kim được chuyển về trại giam Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Tại đây, giữa tháng 5.1978, cùng với tên Nguyễn Ngọc á - một trí thức ngồi tù vì tội... buôn heo lậu - Điền Khắc Kim đã cạy vách tôn nhà xí phòng giam trốn trại, sau đó trốn về Sài Gòn, lén lút trốn tại nhà vợ bé ở đường Hưng Phú, quận 8.
Trước khi trở thành tên cướp lừng danh (1968), Minh con đã lấy vợ - một phụ nữ bình thường nhà ở đường Tôn Đản, quận 4. Khi vợ sinh con đầu lòng, gió giang hồ đã cuốn Minh con đi mất, vợ con hầu như chẳng mấy lúc đoái hoài. Tiền bạc cướp được, hắn chỉ ăn chơi, đập phá cho kỳ hết, chẳng giúp được gì vợ con. Đã thế, hắn lại còn đeo thói trăng hoa. Năm 1969, trong một lần trốn sự truy lùng của Biệt đội hình cảnh (ngụy) tại khu vực Bến Tàu, quận 8, hắn tình cờ gặp chị Phạm Thị Dung. Khuôn mặt ưa nhìn của cô gái bán sương sâm đã khiến tên cướp sa cơ thoáng chạnh lòng. Ngoắt chị Dung lại, tướng cướp Điền Khắc Kim gọi một lúc 10 ly sương sâm, ngồi tì tì húp. Xong xuôi, hắn chùi mép, bảo:
- Đói quá, tôi ăn sương sâm trừ cơm. Bữa nay không có tiền, em cho tôi thiếu, mai mốt muốn bao nhiêu tôi trả bấy nhiêu.
Khuôn mặt hiền lành, khắc khổ, giọng nói có vẻ thành thật khiến cô gái bán sương sâm nghèo không nỡ làm dữ, chỉ im lặng thở dài và quảy gánh đi. Độ một tuần sau, khi quay trở lại chỗ cũ chị đã thấy Minh con đứng từ xa toét miệng cười. Đưa cho chị một xấp tiền dày cộm, hắn bảo:
- Khỏi thối, để đó tôi ăn sương sâm trừ dần.
Rồi hắn lại bắt chị ngồi múc từ từ đủ 10 ly để hắn ngồi nhẩn nha ăn, vừa ăn vừa nói đủ chuyện huyên thuyên chi địa.
Khi số sương sâm đã đủ với số tiền Minh con đưa thì cũng đủ thì giờ để cô chủ buông đòn gánh nằm vào lòng hắn. Hắn bảo:
- Anh làm công nhân, nghèo, không có tiền đám cưới, em chịu không?
Thở dài, chị lại gật đầu. Đã thương rồi thì không đám cưới với ăn sương sâm thiếu nào có khác gì nhau.
...ở với nhau được một mặt con, chị Dung mới biết Minh con đã có vợ có con, nhưng ván đã đóng thuyền, cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Lâu lâu, hắn tạt về, đưa cho chị một số tiền lớn (vừa cướp được) bảo là mới “trúng áp phe”, để chị sửa lại cái nhà, sắm thêm cho mẹ, cho con vài ba tấm áo mới, thế là đủ mãn nguyện để khoe với xóm giềng. Không ngờ, cuối năm đó, sau nhiều tháng hắn đi biền biệt, Dung mới ngớ ra: Minh con - anh chồng hiền lành tử tế - lại là Điền Khắc Kim, “tướng cướp cô đơn” khét tiếng. Chị khóc, khóc rất nhiều. Sau ba bốn bận thăm nuôi, chị đành xem như Minh con đã chết, chỉ câm nín bán sương sâm nuôi mẹ già và ba đứa con thơ.
Đùng một cái, thằng chồng dối trá quay trở lại. Hung thần với ai, tướng cướp với ai, chứ với chị, hắn mãi mãi là một “anh Minh”, cha của ba đứa nhỏ. Khuyên không được, chị cũng không nỡ tố giác chồng, đành nhẫn nhục cưu mang che giấu Điền Khắc Kim, dù chị biết rất rõ chồng mình là tên tù vượt ngục. Với Điền Khắc Kim, tấm lòng người vợ chính là nơi trú ẩn cuối cùng. Vợ lớn của hắn ở đường Tôn Đản, ngay sau khi hắn bị đày ra Côn Đảo đã bán nhà, ôm con đi biệt xứ, không còn trông mong gì nữa...
ở nhà một thời gian, Điền Khắc Kim mò ra đường Hồ Văn Ngà, tìm một người bạn gái cũ đang sống lắt lay bằng nghề bán hàng lạc-xoong (đồ cũ) tính cậy nhờ để tìm sinh kế. Vừa ra đến nơi, hắn đã bị công an phát hiện và bắt giữ, sau đó bị đưa lên cải tạo tại trại Tống Lê Chân (Sông Bé). Ngồi trại đến tháng 7.1983, hắn lại trốn. Con thú dữ sổng chuồng ngày càng liều lĩnh và hung bạo hơn. Vừa đặt chân trở lại Sài Gòn, hắn đã một mình gây hàng loạt vụ cướp mới. Lần này, đa số nạn nhân của tên cướp hết thời đều là đàn bà, con nít, những kẻ yếu ớt, cô đơn.
Một lần, vừa cướp được một chiếc xe đạp trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thì hắn bị công an vây bắt. Cùng đường, hắn kê súng vào bụng anh công an bóp cò nhưng đạn lép, không nổ nên bị tóm tại trận.
Trở vào trại giam, cố hết sức, Điền Khắc Kim vận công, gồng bụng làm bục vết thương Mỹ bắn ngày nào. Được công an đưa vào Bệnh viện Bình Dân cấp cứu. 3 giờ sáng, lợi dụng lúc anh công an gác cửa ngủ gục, hắn lại bẻ còng trốn thoát. Vì vụ đào tẩu này, dư luận Sài Gòn lại có dịp ồn lên.
Trong khi Điền Khắc Kim đang bị truy nã ráo riết thì tại những quầy sách ở đường Đặng Thị Nhu, quận 1 lại có kẻ táo gan xuất hiện xưng danh hắn. Ông ta đi tất cả quầy sách, gom hết những cuốn “Bố già” của Mario Puzzo mà không hề trả tiền. Nghe xưng Điền Khắc Kim, các chủ quầy sách thất kinh, vội đi báo công an. Bị bắt, gã điên này sửng cồ:
- Để xem Điền Khắc Kim với bố già Victor Don Carléon ai bảnh hơn ai. Nó ngon, tôi thách nó đấu súng.
Không thể nhốt một gã điên, công an đành phải cho xe chở hắn về chỗ cũ. Được thả, hắn phản đối quyết liệt:
- Sao không bắt tôi?
Người ta bảo:
- Ông có tội gì mà bắt?
Hắn tỉnh queo:
- Sao không? Điền Khắc Kim là tôi, kẻ cướp, hiếp, bắn lòi ruột cả chục thằng Mỹ, sao không có tội?
Tiếng tăm đen đúa lẫy lừng là thế nhưng đoạn cuối cuộc đời ngang dọc, Điền Khắc Kim đã tự biến mình thành một tên lưu manh mạt hạng. Không còn những vụ đột nhập xuất quỉ nhập thần, không còn các phi vụ rượt đuổi và đấu súng dữ dội, cũng không vấn vương mùi thuốc pháo đớn đau hay vị ngọt mát lãng mạn của ly sương sâm bên bến tàu vất vả, cái còn lại của hắn chỉ là những vụ trộm cắp, cướp giật vặt vãnh của một tên hạ lưu bần tiện. Lần cuối cùng, hắn bị dân phòng phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh tóm cổ trong đêm khi đang tẩu tán một chiếc xe đạp và mớ quần áo cũ do một đàn em là Lê Văn Thanh trộm được ở một căn nhà bên cầu Rạch Ông, quận 8. Lúc đó là tháng 4.1985. Khi chị Dung dẫn ba đứa con, đứa lớn 15 tuổi, đứa nhỏ mới lên 3 vào trại giam thăm nuôi, Điền Khắc Kim đã ngượng ngùng cúi mặt. Và khóc. Hắn biết thời làm gió làm mưa đã hết. Cái tên Điền Khắc Kim đã vĩnh viễn không còn ám ảnh hay khuấy động được ai nữa.
8/ HUỲNH TỲ
Nhị ca mất số
Trong quá trình ngoi lên trở thành ông trùm của giới tội phạm Sài Gòn, Năm Cam đã lần lượt thực hiện các bước núp bóng, lợi dụng rồi hạ bệ hàng loạt đàn anh lớn nhỏ. Giang hồ sợ nhất Năm Cam ở điểm y không từ bất cứ ai và sẵn sàng xuống tay cực kỳ tàn bạo để tiêu diệt tất cả những kẻ cản đường hắn, cho dù người đó từng là chiến hữu, đàn anh hay có tình đệ tử lâu năm ân nghĩa với y. Ngoài Lâm Chín ngón trở thành tàn phế vì acid, Dung Hà bỏ mạng vì ăn đạn, trong danh sách giang hồ cộm cán bị Năm Cam “lấy số” còn phải kể thêm Huỳnh Tỳ - kẻ có thời được giang hồ Sài Gòn xem như nhân vật số 2 chỉ đứng sau Đại Cathay trong nhóm “Tứ đại giang hồ”.
Lai lịch một danh xưng
Huỳnh Tỳ tên thật là Nguyễn Thuận Lai, sinh năm 1944, hơn Năm Cam 3 tuổi. Có lẽ anh ta là tay giang hồ “có số má” duy nhất từ nhỏ chí lớn vẫn không thay đổi chỗ ở, hàng chục năm nay vẫn sống tại nhà số 4/1 Nguyễn Văn Tráng, quận 1. Tp. Hồ Chí Minh.
Năm 1960, học hết đệ tam (lớp 10) ở trường Nguyễn Bá Tòng, chú nhóc Nguyễn Thuận Lai nghỉ ngang, theo cha làm lơ xe đò tuyến Sài Gòn - Nha Trang - Pleiku. Chính nghề lơ xe đường dài đã khiến tên học trò hiền lành nhanh chóng tiêm nhiễm đủ mọi thói hư tật xấu của đàn ông con trai thời chiến. Đến tuổi quân dịch, để tránh bị bắt lính, Nguyễn Thuận Lai đổi tên thành Huỳnh Tỳ - một cái tên gắn chết cả đời với nghiệp chướng giang hồ.
Góc đường Lê Lai, quận 1 có một rạp hát khá nổi tiếng là rạp Aristo.  Năm 1954, gánh hát Kim Chung của ông bầu Long di cư vào Nam, lấy rạp Aristo làm đại bản doanh. Ăn theo gánh hát, những trục đường như Lê Lai, Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), Nguyễn Văn Tráng... quán ăn, hàng giải khát nổi lên khá náo nhiệt, đồng thời cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi, trẻ bán báo, đánh giày qui tụ. Khu vực này lại gần chợ Bến Thành và ga Sài Gòn. Mỗi lần “móc đổng” (giật đồng hồ), “ăn kẹp” (móc túi) ngoài chợ xong, đám lưu manh thường chạy ngay về khu Lê Lai để trốn tránh. Tam giác Lê Lai - Nguyễn Văn Tráng - Gia Long nhanh chóng trở thành một mảnh đất màu mỡ để hứng hàng ăn cắp, móc túi bán giá rẻ và tổ chức các loại dịch vụ như sòng bài, động chích, tiệm hút, gái... cho đám cô hồn các đảng này ăn khao bằng tiền trộm cướp. Cùng với hai tay anh chị khác là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế, Huỳnh Tỳ với kinh nghiệm “du thủ du thực” học được trên những chuyến xe đò đường trường đã đứng ra nhận bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này. Thằng lơ xe cục tính nhanh chóng ngoi lên vị trí ông trùm, sau hàng loạt những vụ chém lộn tưng bừng với các băng đảng khác. Ngoài Ngô Văn Cái và Ba Thế, dưới trướng Huỳnh Tỳ còn có thêm một loạt đàn em khác như Cu Ba đen, Tâm vồ, Hùng phốc, Luân sún... Trong gánh hát, bầu Long cũng thu dụng một loạt tay đao búa từng nổi tiếng một thời tại Hà Nội để làm chân bảo vệ. Đám này gồm Sinh càn, Phúc đen, Tâm Ba tai... Ngoài giờ bảo vệ, bọn chúng thường tụ tập tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo. Ngứa mắt, Huỳnh Tỳ và đàn em đã gây nhiều trận đập lộn tóe lửa với đám bảo vệ này. Để yên thân, bầu Long đã khôn khéo đãi tiệc dàn hòa hai bên, thu dụng luôn cả băng của Huỳnh Tỳ, chấp nhận đặt các ông tướng gốc Hà Nội vào dưới trướng của y, đồng thời để cho Huỳnh Tỳ và đàn em ra vào rạp Aristo tùy thích. 
Khi quân đã hùng, tướng đã mạnh, nội các tam đầu chế gồm Tỳ, Cái, Thế thường tụ nhau bia rượu, bài bạc suốt ngày tại rạp hát Aristo cho nên được giang hồ gọi luôn là băng Aristo để phân biệt với băng Cathay do Lê Văn Đại cầm đầu có khu vực hoạt động là chợ Cầu Ông Lãnh, cách đó chỉ hơn nửa cây số.
Khoảng năm 1964, nhờ sự liều lĩnh của Đại Cathay, băng Cathay bắt đầu mạnh lên. Sau khi diệt băng Bé Bún, quận 4, đâm tên này đổ ruột, Đại dần dần thôn tính được toàn bộ khu Da Heo (đường Nguyễn Công Trứ) của tay anh chị Tám Lâu, thò tay gom luôn cả sòng bạc hẻm 100 của Bảy Sy (anh rể Năm Cam) rồi vươn ra thâu tóm luôn cả sòng bạc của Đực Bà Tiều tại Chợ Cầu Muối... trở thành đại ca có máu mặt nhất của khu vực quận Nhất, quận Nhì và quận Tư. Lo sợ thế lực của băng Cathay sẽ “nuốt” mất cả khu Lê Lai, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó tướng Ngô Văn Cái và Thế Aristo tìm cách diệt Đại. Rủ thêm Hùng phốc và Luân, hai giang hồ cộm cán khác, cả băng Aristo bày tiệc trên lầu rạp hát mời Đại Cathay tới giao lưu. Không mảy may nghi ngờ, Đại Cathay tới ngay. Chưa lên hết cầu thang, Đại Cathay đã chột dạ: nụ cười đón khách của Thế Aristo đột nhiên thay đổi. Chưa kịp hỏi, Đại Cathay đã bị Thế đá lộn cổ xuống thang lầu. Cùng một lúc, Tỳ, Cái, Luân, Hùng bốn kẻ phục kích nhất tề rút dao xông vào chém tới tấp. Vừa đỡ đòn, vừa tìm đường thoát thân, Đại Cathay lết được ra khỏi tử địa, mình mẩy đầy thương tích nhưng may mắn thoát chết. Khi những vết thương vừa bắt đầu kéo da non, Đại Cathay  đã giắt dao, đơn thân độc mã đi tìm từng tên một để trị tội. Huỳnh Tỳ và bốn tên giang hồ đồng mưu lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương trong cùng một hoàn cảnh, là khi chúng đang ngồi nhậu tại quán Kiều Chánh. Nhắm thế không chơi lại Lê Văn Đại, cũng không thể “trải đệm” tên này, vì băng Cathay quá mạnh, Huỳnh Tỳ đành thay mặt cả băng bắn tiếng cầu hòa. Đang say máu, Đại Cathay không nghe, vẫn tiếp tục tìm cả 5 tên để chém. Hoảng quá, cả 5 tên phải mời bầu Long đứng ra tìm Tám Lâu, đàn anh cũ của Đại Cathay nhờ nói giúp. Biết tính Đại Cathay, Tám Lâu lại phải cạy cục nhờ hai tay anh chị lừng danh là Ba Hội và Cảnh Tượng (đều lớn hơn Đại Cathay vài mươi tuổi), bày tiệc tại quán Biên Thùy ở chợ Cầu Muối mời thằng em đến khuyên giải. Nể tình và nể tuổi tác, Đại mới nguôi ngoai, chấp nhận cho Huỳnh Tỳ và 4 tên cùng băng đến dập đầu xin lỗi, để rồi sau đó băng Aristo vĩnh viễn bị xóa sổ, quân tướng đều qui về dưới quyền sai phái của một đại ca duy nhất là Lê Văn Đại. Cuộc hợp nhất giang hồ giữa thập kỷ 1960 đã đẻ ra danh xưng “Tứ đại giang hồ” Đại-Tỳ-Cái-Thế, với Đại Cathay, kẻ không đối thủ đứng đầu và xếp phía sau là ba đối thủ của kẻ... không đối thủ.
Huỳnh Tỳ bị Năm Cam “lấy số”
Mất ngôi đầu lĩnh, Huỳnh Tỳ tự an ủi mình với danh hảo là nhị ca trong “tứ đại giang hồ” hay mỹ miều hơn, gọi là “tứ đại Thiên Vương”, cung cúc phò tá Đại Cathay trong các cuộc thanh trừng theo kiểu xã hội đen. Đáp lại, y được Đại Cathay giao quyền trông coi một loạt các sòng bài, tiệm hút không chỉ trong địa bàn khu Lê Lai mà cả địa bàn khu Cầu Muối. Cứ độ 10 giờ sáng, Huỳnh Tỳ lại có mặt tại các sòng bạc của Đực Bà Tiều và Bảy Sy để thu xâu nộp cho Đại Cathay nuôi quân. Còn buổi tối, hắn lại diện đồ “kẻng” theo đàn anh vào các vũ trường tha hồ đập phá. Thời hoàng kim của băng Đại Cathay kéo dài đến tháng 6.1966 thì chấm dứt, khi Đại Cathay bị bắt, băng Cathay tan rã. Vào thời điểm đó, Năm Cam vẫn chỉ là một tên phá gia chi tử, thường trộm tiền của Bảy Sy ăn xài vung vít, chưa có tên tuổi, số má gì trên chốn giang hồ.
Sau giải phóng, cả Tỳ, Cái, Thế lẫn Năm Cam và nhiều tên xã hội đen vằn vện khác đều thay nhau vào tù ra khám. Ra tù, Năm Cam dần dần củng cố thế lực, ngày một phất lên, đến đầu những năm 1990 đã nghiễm nhiên trở thành ông trùm của thế giới ngầm. Trong khi đó, hầu hết các “đàn anh” cũ của Năm Cam đều vì ma túy mà trở thành dặt dẹo. Ngô Văn Cái quyết cai ma túy bằng cách uống rượu, cuối cùng chết bất đắc kỳ tử vì ung thư gan. Nguyễn Kế Thế không chịu nổi mối giày vò vì lỡ thời phải ăn bám vợ (vốn là chủ một động tiêm chích), khoảng năm 1985 đã lặng lẽ bỏ lại toàn bộ tư trang, tài sản và ra miền Trung nương nhờ cửa Phật, đến nay vẫn không tăm tích. Một cao thủ giang hồ khác là Đức Raymond không chịu nổi cảnh đói thuốc phải ngửa tay xin tiền bạn bè, chịu sự khinh miệt, đã tự xử đời mình bằng thuốc độc.
Huỳnh Tỳ vốn cũng nghiện nặng. Sau giải phóng, giang hồ không còn đất sống, Huỳnh Tỳ thường xuyên đói thuốc vã mồ hôi. Gánh nặng kinh tế gia đình càng chồng chất thêm khi vợ anh ta mất vào năm 1978, để lại cho Tỳ hai đứa con nhỏ dại, trai mới 4 tuổi, gái mới 2 tuổi. Không băng nhóm, không nghề ngỗng, không đủ dũng khí để tự xử như Đức Raymond hay tiếp tục xưng hùng xưng bá như Lâm Chín ngón, Huỳnh Tỳ phải xoay sang mánh mung cò con, từ xóc bầu cua, tổ chức đánh chẵn - lẻ đầu hẻm đến bán lẻ, chích dạo ma túy để nuôi con và nuôi thân, chỉ mong được no cả dạ dày lẫn no óc. Hậu quả là trong vòng 20 năm (1975-1995), Huỳnh Tỳ phải ra vào trại cải tạo, nhà giam hơn chục bận.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, khoảng đầu năm 1992, Huỳnh Tỳ đã liên kết được với một số tên giang hồ hết thời như Minh ba giá (Lương Văn Lâm), Trần Thị Ngàn, Minh bu, Lý Đôi, Thành đôla tổ chức được một sòng bạc tại hẻm 98F Lê Lai, gồm cả đánh tài xỉu, chẵn lẻ và xóc đĩa. Chuyện đến tai Năm Cam. Không kiêng nể xót thương gì các đàn anh thất thế, Năm Cam ra lệnh dẹp ngay. Huỳnh Tỳ không nghe, vẫn tiếp tục chơi. Ngay lập tức, sòng bạc này liên tục bị Cảnh sát Hình sự khám xét và giám sát, không con bạc nào dám bén mảng. Biết là Năm Cam ra tay triệt hạ, Huỳnh Tỳ phải mang lễ vật đến ngọt nhạt năn nỉ, mời Năm Cam hùn vốn và được ông trùm đồng ý.
Vốn mà Năm Cam góp vào là Thành Chân, tay giang hồ trẻ tuổi nhưng lão luyện, có đầu óc, được Năm Cam phái đến giám sát, tổ chức sòng. Tên thứ hai là Lê Thị Điệu, vợ Thọ đại úy, được Năm Cam đặc trách cho phép hành nghề cầm đồ và cho vay nặng lãi tại sòng. Ngoài phần ăn chia theo tỉ lệ hùn hạp, mỗi tuần Huỳnh Tỳ phải mang đến nộp cho ông trùm 5 triệu đồng tiền xâu. Kể từ đó, công việc làm ăn trở nên hanh thông, không bị băng nhóm khác hay công an đến hỏi thăm nữa. Tự đánh giá cao vai trò của mình, Năm Cam lại bắt Huỳnh Tỳ nộp thêm mỗi tuần từ 3 - 5 triệu đồng nữa, gọi là “phí ngoại giao”, để ông trùm “hương hoa” cho “người nhà nước”. Dù biết tỏng đây là trò ăn chặn, tiền đưa ra chỉ chảy vào túi tham của Năm Cam, Huỳnh Tỳ vẫn phải cay đắng mở rộng hầu bao, không dám hó hé. Mối quan hệ hùn hạp này kéo dài từ đầu tháng 7 đến tháng 12.1992 thì chấm dứt. Thời điểm này, tên tuổi của Năm Cam bị khui ra trên một tờ báo. Cho rằng ông trùm sắp bị bắt, nghĩa là sẽ quay về vị trí thằng nhãi, chẳng việc quái gì phải sợ, Huỳnh Tỳ bèn ngưng không cúng nộp tiền xâu và chuẩn bị trục xuất đám đàn em Năm Cam. Sự “dại dột” lập tức được trả giá: Ngày 6.1.1993, sòng bạc hẻm 98F bị công an bắt quả tang, hơn 10 “nhân viên” của sòng phải tra tay vào còng, xộ khám.
Vụ bố ráp này Huỳnh Tỳ may mắn cùng với Minh ba giá thoát được, nhưng anh ta hiểu ngay đó là đòn trừng phạt của Năm Cam. Rất dễ hiểu, những kẻ bị bắt đều là chiến hữu của Huỳnh Tỳ, còn những đàn em của Năm Cam phái đến hoặc tin cậy như Thành Chân, Minh bu, Lý Đôi, thị Điệu thì không một ai bị tóm.
Bị truy nã, Huỳnh Tỳ không còn con đường nào khác, lại phải đi “bằng đầu gối” đến tạ tội và cầu cạnh Năm Cam. “Ông trùm” lại gia ân, phái đàn anh đi tổ chức các sòng bạc khác ở quận 4, quận 8 và Biên Hòa. Để tỏ lòng trung thành, Huỳnh Tỳ đã “đau xót” tiếp tay cho Năm Cam trừng phạt dằn mặt một “giang hồ cầm bút” thường ký tên T.
Trước giải phóng, T. là một cây bút phóng sự có hạng, chuyên khai thác đề tài xã hội đen. Giang hồ Sài Gòn rất kiêng ký giả này vì anh ta rất giỏi võ, từng là một đai đen nhị đẳng Taekwondo, sau giải phóng lại trở thành đệ tử chân truyền đời thứ 7 của võ phái Vịnh Xuân nổi tiếng. Tật xấu của anh ta là nghiện thuốc phiện, cho nên không tờ báo nào nhận T., ngay cả đại sư Nam Anh - Chưởng môn phái Vịnh Xuân - cũng phải trục xuất võ sĩ tài năng này ra khỏi võ đường. Để kiếm sống T. phải cộng tác với khá nhiều tờ báo, với sở trường là những phóng sự nóng bỏng về cuộc sống và mánh lới giang hồ. Anh ta là nhà báo đầu tiên ném tên tuổi Năm Cam lên mặt báo. Găm hận vào lòng, Năm Cam rắp tâm dằn mặt T. để trả đũa. Giữa năm 1995, khi ký giả T. đang phê thuốc phiện tại một động hút của Huỳnh Tỳ ở đường Lê Lai thì công an ập vào. Bị bắt quả tang, T. đành khăn gói vào trại, bị cai nghiện bắt buộc. Khi nồng độ ma túy trong máu anh ta đã loãng thì Năm Cam bất ngờ ghé thăm. “Trời đất, chỗ anh em không, sao lại ra nông nỗi này. Để tôi nói với mấy ảnh một tiếng”. Chả biết Năm Cam nói với ai, nói kiểu gì, nhưng chỉ vài giờ sau chuyến thăm viếng bất thường, T. đã được phóng thích. Biết mình không phải đối thủ của Năm Cam, lại xấu hổ với đồng nghiệp nghề báo, ký giả T. sau chuyến ấy đã vĩnh viễn gác bút, chấm dứt một cái tên khá lừng lẫy cả trên mặt báo lẫn chốn giang hồ.
Sau vụ giúp Năm Cam dằn mặt ký giả, Huỳnh Tỳ còn tiếp tục phò tá con cáo già một thời gian, được Năm Cam trả công nên không bị bắt, dù đang có lệnh truy nã. Tháng 9.1995, tội lỗi của Năm Cam lại bị báo chí phanh phui, Huỳnh Tỳ lại trở mặt không nộp xâu nữa. Không lâu sau đó, Năm Cam bị bắt đi cải tạo. Không còn ai bảo kê, ngày 31.10.1995, Huỳnh Tỳ cũng bị tóm cổ và ra tòa lãnh án.
Sau này, khi cả Năm Cam lẫn Huỳnh Tỳ đều đã được trả tự do, Năm Cam đã “cạch” không cho tên đàn anh này bén mảng đến sòng bài của y nữa. Bị thất sủng, song với “nhị ca mất số”, đó lại là điều may, bởi chính vì “mất số” nên anh ta mới không trở thành bị cáo một lần nữa trong chuyên án “Năm Cam và đồng bọn”. Đó là điều an ủi cuối cùng của Huỳnh Tỳ, kẻ đã từng là một nhị ca lẫy lừng trở thành một giang hồ dặt dẹo bị chính giang hồ coi rẻ.
Vũng Tàu, tháng 9.1999
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9.2003
Nguyễn Hồng Lam
Theo https://trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...