Thứ Ba, 31 tháng 3, 2020

Anh em nhà Karamazov 4

Anh em nhà Karamazov 4
PHẦN VII
Chương 1: Mùi xác chết
Thi hài trưởng lão Zoxima đã được chuẩn bị để mai táng theo nghi lễ đã định. Khi các thầy tu và các nhà tu khổ hạnh từ trần, người ta không tắm rửa thi hài, điều đó ai cũng biết. “Khi một thầy tu về với Chúa (trong cuốn sách Lễ đồ sộ có nói), thầy tu được giao trách nhiệm khâm liệm dùng nước nóng lau mình người chết, trước hết cầm miếng bọt biển vạch dấu chữ thập trên trán trên ngực, tay, chân và đầu gối người chết, chỉ thế thôi.”
Cha Paixi đích thân làm tất cả những việc ấy. Sau đó, Cha mặc cho trưởng lão bộ áo thầy tu và bọc ngoài bằng tấm áo choàng lễ; theo quy định, tấm áo lễ bị rạch ra một chút để bọc chéo hình chữ thập. Cha đội lên đầu trưởng lão chiếc mũ phía sau gắn hình chữ thập tám nhánh. Mặt thì phủ tấm sa đen, mũ để lộ ra ngoài. Người ta đặt vào tay trưởng lão bức ảnh tượng Đấng Cứu thế.
Đến sáng, thi hài khâm liệm như thế được nhập quan (quan tài đã làm sẵn từ lâu). Người ta định để quan tài suốt ngày trong trai phòng (căn phòng lớn mà trước đây trưởng lão vẫn tiếp các giáo đồ và khách thế tục), bởi vì người quá cố mang chức sắc ieroxkhimonac (1) nên các thầy tu và thầy tế lễ không đọc Thánh thi mà đọc Phúc âm trong lễ tang. Ngay sau lễ cầu siêu, Cha Ioxif đọc kinh. Cha Paixi muốn sau đó đọc tiếp suốt ngày và suốt đêm, nhưng lúc này Cha rất bận và rất lo ngại cùng với Cha bề trên tu xá, bởi vì trong số giáo đồ của tu viện và những người thế tục ở khách xá của tu viện và từ thành phố kéo đến từng đám đông, người ta bỗng nhận thấy có cái gì lạ thường, càng về sau càng rõ rệt hơn, một sự xôn xao chưa từng thấy và “bất nhã”, một sự chờ đợi nôn nóng. Cha bề trên và Cha Paixi gắng hết sức tìm mọi cách trấn an những người đang xôn xao đến như vậy.
Chú thích:
(1) Một hàng giáo phẩm trong đạo chính thống (N.D).
Khi đã sáng rõ, có một số người ở thành phố đến, chậm chí mang theo người nhà ốm đau, đặc biệt là trẻ em; dường như họ chỉ đợi lúc này để làm việc ấy, rõ ràng họ hi vọng có một pháp lực tức thời chữa khỏi bệnh mà họ tin là sẽ thể hiện ra ngay. Đến, bây giờ mới thấy rõ ràng khi trưởng lão còn sống, người ta đã quá quen cho rằng Cha đích thực là vị thánh vĩ đại. Số người đến đây không phải chỉ toàn là dân thường. Sự mong chờ thiết tha của các tín đồ bộc lộ ra một cách vội vã và lộ liễu, thậm chí nôn nóng, Cha Paixi coi đó là chước cám dỗ hiển nhiên, tuy Cha đã cảm thấy trước từ lâu, nhưng thực ra vẫn không ngờ nó lại đến như thế. Gặp những thầy tu quá xúc động, Cha Paixi thậm chí quở trách họ: “Sự chờ đợi nôn nóng đến như thế về một cái gì trọng đại sẽ xảy ra tức thời là thái độ nông nổi chỉ có thể có giữa những người thế tục, không xứng với chúng ta.” Nhưng người ta chẳng mấy để ý đến lời Cha nói, thấy thế Cha lo lắng, mặc dù chính bản thân Cha (nếu nhớ lại mọi việc một cách chân thực), tuy bực bội về sự chờ mong quá nôn nóng, coi đó là nông nổi và phù phiếm, nhưng trong thâm tâm Cha cũng thầm mong như họ, điều mà Cha không dám tự thú nhận với mình. Tuy nhiên Cha đặc biệt khó chịu về một số cuộc gặp gỡ khơi gợi trong Cha những ngờ vực lớn qua một linh cảm nào đó. Trong đám đông chen chúc ở phòng người quá cố, Cha ghê tởm trong lòng khi thấy (điều này Cha cũng tự trách mình) Rakitin chẳng hạn, hay ông khách phương xa - ông thầy tu ở Obdorsk vẫn còn lưu lại tại tu viện, và không hiểu vì sao Cha Paixi cho rằng cả hai người này đều khả nghi, tuy không phải chỉ có họ nom khả nghi. Trong số tất cả những người tỏ ra xúc động, ông thầy tu Obdorsk xem ra chộn rộn nhất. Có thể thấy ông ta ở khắp nơi, chỗ nào cũng có mặt: ở đâu ông ta cũng hỏi han, cũng lắng nghe, cũng thì thầm với vẻ bí ẩn đặc biệt. Vẻ mặt ông ta hết sức sốt ruột, thậm chí dường như cáu kỉnh vì điều mong đợi mãi không xảy ra. Còn về Rakitin thì sau này mới rõ ràng anh ta có mặt trong tu xá từ sớm, theo sự ủy thác đặc biệt của bà Khokhlakova. Bà tà tốt bụng, nhưng tính tình nhu nhược, bà không được phép vào tu xá, nên vừa thức giấc và biết tin trưởng lão qua đời, bà tò mò không chịu nổi, liền phái Rakitin đến tu xá để quan sát mọi việc và viết tường trình gửi ngay về cho bà, cứ nửa giờ một lần, về tất cả mọi chuyện xảy ra. Bà coi Rakitin là một thanh niên sùng đạo và giàu đức tin biết đối xử khéo léo với tất cả mọi người và với mỗi người, anh ta biết tỏ ra mình là người đúng như ý người ta muốn, miễn là anh ta thấy rằng làm như thế có chút ít lợi lộc cho mình: Hôm ấy đẹp trời, trong số người hành hương tới đây có nhiều người tụ tập bên các nấm mồ ở tu xá, những nấm mồ này nhiều nhất là xung quanh nhà thờ, ngoài ra còn rải rác khắp tu xá. Khi đi vòng quanh tu xá, Cha Paixi bỗng nhớ tới Aliosa, đã lâu Cha không nhìn thấy anh, gần như từ đêm tới giờ. Vừa nhớ đến thì Cha thấy anh ở một góc xa nhất trong tu xá, bên bức tường xây, ngồi trên tấm bia mộ của một thầy tu mất tự đời nảo đời nào, nổi tiếng về công đức tu hành. Anh ngồi quay lưng về tu xá, dường như ẩn sau phần mộ. Đến sát tận nơi, Cha Paixi thấy Aliosa hai tay bưng mặt khóc không thành tiếng, nhưng hết sức đau xót, toàn thân rung lên theo từng cơn nức nở. Cha Paixi đứng cạnh anh một lát.
- Thôi đi con thân yêu, thôi đi, anh bạn. - Cuối cùng Cha nói, giọng đầy tình cảm, - con làm sao thế? Phải vui lên, đừng khóc. Hay con không biết hôm nay là ngày trọng đại nhất trong đời Thầy? Bây giờ Thầy ở đâu, lúc này, chỉ cần nhớ tới điều đó!
Aliosa toan ngước lên nhìn Cha, để lộ khuôn mặt khóc sưng húp, nom như mặt trẻ thơ, nhưng anh không thốt lên lời nào, lập tức quay đi và lại đưa hai tay ôm mặt.
- Nhưng có lẽ thế là phải. - Cha Paixi trầm ngâm thốt lên, - có lẽ cứ khóc đi, Chúa Kito cho con những giọt nước mắt ấy. “Những giọt lệ thương cảm của con chỉ làm cho tâm hồn thư thái và làm vui lòng người Thầy thân yêu của con,” - Cha thầm nhủ bỏ đi và trìu mến nghĩ đến Aliosa. Cha đi vội vàng, vì cảm lấy rằng nhìn Aliosa, có lẽ Cha cũng khóc mất thôi. Thời gian vẫn trôi, lễ tang và lễ cầu siêu vẫn tiếp diễn chỉn chu, Cha Paixi lại thay Cha Ioxif bên quan tài và tiếp tục đọc Phúc Âm.
Nhưng gần ba giờ chiều đã xảy ra điều mà tôi đã nhắc đến ở cuối quyển trước, điều không ai ngờ và trái ngược với hi vọng của mọi người, đến nỗi mà, tôi xin nhắc lại, mãi đến bây giờ ở thành phố chúng tôi và khắp các vùng lân cận người ta vẫn hết sức sôi nổi hồi tưởng lại tỉ mỉ câu chuyện phù phiếm về sự việc đã diễn ra. Ở đây một lần nữa tôi xin thêm một ý kiến riêng: tôi hầu như tởm lợm khi nhớ đến cái chuyện phù phiếm và quái gở ấy, thực ra là một việc tầm phào và rất tự nhiên, và cố nhiên tôi muốn bỏ qua không nhắc gì đến trong câu chuyện của tôi, nếu như nó không có ảnh hưởng hết sức mạnh và rõ ràng đến tâm hồn và trái tim nhân vật chính, tuy sau này mới trở thành nhân vật chính trong câu chuyện của tôi là Aliosa, tạo nên một sự đột biến và đảo lộn trong tâm hồn anh, khiến cho lí trí của anh bị xáo động lớn và trở nên vững vàng hẳn, vững vàng suốt đời và hướng tới một mục đích nhất định.
Vậy xin kể chuyện ấy. Trời chưa sáng, thi hài người quá cố, đã khâm liệm chu tất, được nhập quan, người ta đưa quan tài sang phòng thứ nhất, trước đấy là phòng tiếp khách, khi ấy giữa những người ở bên quan tài xảy ra câu hỏi: có cần mở các cửa sổ không? Nhưng câu hỏi này, do một người không rõ như buột miệng thốt lên, không được ai trả lời và hầu như chẳng ai để ý, trừ có một vài người nhẹ nhàng trách người đó, và trong thâm tâm họ cũng nghĩ như thế, đại ý là: cho rằng thi hài một người như thế có thể rữa nát và bốc mùi thì thật vô lí, đáng tiếc (nếu không phải là đáng cười), vì người hỏi câu đó quả là ít đức tin và nông nổi. Bởi thế người ta chờ đợi điều trái ngược hẳn lại.
Quá trưa một lát, đã xảy ra một việc mà những người vào ra đều nhận thấy nhưng vẫn im lặng, thậm chí không dám nói với bất cứ ai ý nghĩ vừa nảy ra trong đầu mình, nhưng tới ba giờ chiều thì cái đó đã rõ rành rành, không thể nào bác bỏ được, đến nỗi tin đó tức khắc bay khắp tu xá và những người hành hương đến thăm tu xá, lọt tới cả tu viện, khiến cho tất cả mọi người trong tu viện phải ngạc nhiên, và cuối cùng, sau một thời gian rất ngắn, đã truyền đến thành phố, làm cho cả người tin đạo lẫn không tin đều xúc động. Người không tin đạo khoái chí, còn trong số những người tin đạo, có một số người còn khoái chí hơn cả những người không tin, vì “người đời thích thấy bậc công chính sa ngã và bị ô nhục”, như chính trưởng lão quá cố đã nói trong một lần thuyết giáo. Số là từ trong quan tài dần dần có mùi hôi thối bốc ra, càng về sau càng rõ hơn, tới ba giờ chỉều thì đã nồng nặc và mỗi lúc một gớm ghiếc hơn. Đã lâu chưa từng có, thậm chí nhớ lại toàn bộ đời sống trước kia của tu viện cũng không thể tìm ra một sự việc nào quái quỷ, thô bỉ hết mức đến như thế, đến độ trong bất cứ trường hợp nào khác cũng không thể có chuyện như vậy, mà lại bộc lộ ra liền ngay sau biến cố ấy, cho dù ngay giữa các thầy tu đi nữa. Rồi sau đó, thậm chí nhiều năm sau, một số thầy tu có đầu óc, khi nhớ lại tỉ mỉ toàn bộ ngày hôm đó, vẫn ngạc nhiên và khiếp sợ không hiểu làm sao hiện tượng quái đản ấy lại có thể đạt tới mức độ như thế. Bởi vì trước đây có những thầy tu rất mực đạo hạnh và đạo hạnh của họ lồ lộ trước mắt mọi người, những trưởng lão rất kính Chúa mà khi chết, từ quan tài khiêm nhường của họ vẫn xông ra mùi hôi thối tự nhiên như mọi tử thi khác, thế nhưng điều đó không trở thành hiện tượng quái quỷ như thế này và không gây nên mảy may xúc động. Cố nhiên cũng có những người đã qua đời từ lâu mà ở tu viện người ta vẫn còn nhớ rất rõ về họ và theo lời truyền tụng, xác họ không bốc mùi, điều đó có một ảnh hưởng cảm động và bí ẩn đối với giáo đoàn và người ta nhớ mãi, coi đó là điều cao cả và huyền diệu, là lời hứa rằng trong tương lai, phần mộ của họ sẽ càng vinh hiển hơn, nếu như ý Chúa muốn thế. Trong số những người ấy, đặc biệt người ta ghi nhớ trưởng lão Jov, sống tới một trăm linh năm tuổi nhà khổ tu nổi tiếng, người ăn chay và kiêng nói vĩ đại, tạ thế đã lâu, từ những năm thứ mười của thế kỉ này, tất cả những người hành hương lần đầu tiên đến đây đều được người ta chỉ cho xem mộ của ông với niềm tôn kính đặc biệt, phi thường, đồng thời nhắc nhở một cách bí ẩn về những hi vọng cực kì lớn lao. (Đấy chính là nấm mồ mà ban sáng Cha Paixi bắt gặp Aliosa ngồi trên đó.) Ngoài vị trưởng lão đã tạ thế từ lâu ấy, người ta vẫn nhớ như in một đức cha cực kì cao trọng mới mất gần đây, trưởng lão Varxonofi, chính là người mà Cha Zoxima đã kế chân trưởng lão, người mà lúc còn sống, tất cả những người hành hương đến tu viện đều cho rằng đây đích thị là vị thành hài. Người ta vẫn truyền tụng rằng cả hai vị nằm trong quan tài như người còn sống và lúc đem mai táng, xác hoàn toàn không bốc mùi, gương mặt dường như rạng rỡ hẳn lên. Một số người thậm chí còn một mực nói rằng theo họ nhớ thì thi hài các vị ấy tỏa ra mùi hương trầm thơm phức. Nhưng mặc dù có những sự xác nhận long trọng như thế, vẫn khó giải thích được nguyên nhân trực tiếp khiến cho bên quan tài trưởng lão Zoxima lại có thể xảy ra một hiện tượng phi lý và tai ác như thế. Riêng tôi cho rằng ở đây có nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đồng thời.
Chẳng hạn trong số đó có cả sự thù địch thâm căn cố đế đối với thể chế trưởng lão, coi như một sự đổi mới tai hại, ở tu viện sự thù địch ấy ẩn sâu trong trí óc nhiều thầy tu. Cuối cùng, cố nhiên là tâm trạng ghen tị về đức thánh thiện của người đã khuất ngay khi Cha còn sống đức thánh thiện ấy đã vững vàng đến nỗi dường như không được phép phản đối, chỉ vì mặc dù vị trưởng lão đã quá cố thu phục được tình cảm của nhiều ngươi, bằng phép lạ thì ít, mà bằng tình yêu thì nhiều hơn, và đã tạo dựng được quanh mình cả một thế giới những người ái mộ mình, tuy nhiên, thậm chí chính vì thế mà tự chuốc lấy những kẻ ghen tị, và tiếp đó cả những kẻ thù dữ dội, công khai và giấu mặt không chỉ trong tu viện, mà cả ở ngoài đời. Chẳng hạn, Cha không làm hại ai, nhưng: “Vì sao ông ta được coi là thánh?” Chỉ vì một câu hỏi ấy, lặp đi lặp lại nhiều lần, rốt cuộc sản sinh ra cả một vực thẳm hận thù không đáy. Tôi cho rằng chính vì thế mà nhiều người khoái chí vô cùng khi nghe tin xác Cha bốc mùi, mà lại chóng vánh như thế, - Cha chết chưa được một ngày; đồng thời trong số những người trung thành với trưởng lão và cho đến lúc ấy vẫn tôn sùng Cha, có những người coi biến cố đó như sự sỉ nhục đối với cá nhân mình. Sự việc diễn ra dần dần như sau:
Ngay từ khi xác chết bắt đầu bốc mùi, chỉ nhìn những thầy tu vào phòng đặt quan tài cũng có thể biết họ đến đó làm gì. Họ vào, đứng một lúc, rồi đi ra để mau mau xác nhận tin ấy với đám đông xúm xít ở bên ngoài. Trong số những người đứng chờ, có những người gật đầu đau xót, số khác thậm chí không buồn che giấu niềm vui sướng của mình lồ lộ trong ánh mắt long lên dữ tợn. Chẳng ai trách họ, chẳng ai lên tiếng bênh vực, người quá cố, kể thì cũng lạ, vì người trung thành với trưởng lão vẫn chiếm đa số trong tu viện. Nhưng rõ ràng là lần này Chúa Trời để cho thiểu số tạm thời thắng thế. Chẳng mấy chốc cả những người thế tục cũng đến để do thám, phần lớn là những người có học. Dân thường ít người vào, tuy họ tụ tập rất đông ở cổng tu xá. Hiển nhiên là chỉ từ sau ba giờ chiều, số người thế tục đổ đến mới nhiều hẳn lên, đấy chính là do cái tin đầy sức cám dỗ. Những người đó hôm ấy có lẽ sẽ hoàn toàn không đến và không có ý định đến, bây giờ họ chủ tâm đến, trong đó có một số nhân vật quyền cao chức trọng. Tuy nhiên, bề ngoài sự trang nghiêm vẫn chưa bị phá vỡ, Cha Paixi vẻ mặt nghiêm nghị, tiếp tục đọc Phúc âm bằng giọng rắn rỏi, rành rọt, dường như không để ý gì đến việc đã xảy ra, tuy từ lâu Cha đã nhận thấy điều gì khác thường. Nhưng rồi những tiếng nói thoạt đầu rất khẽ, nhưng dần dần trở nên dứt khoát và hào hứng, đã đến tai Cha: “Vậy là sự phán xét của Chúa không như sự phán xét của người trần.” - Cha Paixi bỗng nghe thấy. Thốt lên câu ấy trước tiên là một người thế tục, một viên chức thành phố, đã đứng tuổi, được tiếng là người rất ngoan dạo, nhưng nói ra câu đó, chẳng qua ông ta chỉ lặp lại điều mà các thầy tu vẫn rỉ tai nhau từ lâu. Các thầy tu đã buông lời thất vọng từ lâu, nhưng tệ hại nhất là cứ mỗi lúc họ càng có vẻ đắc chí hơn khi nói ra điều đó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, ngay cả sự trang nghiêm cũng bắt đầu bị phá vỡ, và dường như tất cả mọi người thậm chí đều cảm thấy mình có quyền làm như thế. “Tại sao lại đến nỗi như vậy,” - một vài thầy tu nói, thoạt đầu có vẻ lấy làm tiếc, - “thân hình không lớn, gầy đét, chỉ có da bọc xương, làm sao lại đã có mùi?” “Như vậy là Chúa chủ ý chỉ vạch ra,” - những người khác vội vã nói thêm, ý kiến của họ được chấp nhận tức thời, bởi vì người ta lại vạch ra rằng nếu xác bốc mùi tự nhiên như mọi người trần tục sau khi chết thì cũng phải chậm hơn, chứ không quá chóng vánh như thế, ít nhất cũng phải qua một ngày đêm, còn đây thì lại “đi trước cả diễn biến của tự nhiên”, thành thử ở đây hẳn phải có ngón tay của Chúa Trời chứ không còn ai khác Chúa muốn chỉ rõ. Ý kiến ấy không thể bác lại được. Cha thủ thư Ioxif, con người củ mỉ cù mì được người quá cố yêu mến, lên tiếng bác lại một số kẻ độc mồm rằng “không phải ở đâu cũng thế”, trong đạo chính thống việc xác người công chính không bốc mùi không phải là một tín điều, mà chỉ là dư luận, thậm chí cả trong những nước theo đạo chính thống, như vùng Atox chẳng hạn, ở đây người ta chẳng bối rối gì lắm về mùi xác chết, việc xác chết không bốc mùi chẳng phải là dấu hiệu chủ yếu làm sáng danh những người được cứu rỗi, mà là màu xương, khi xác họ vùi dưới đất đã nhiều năm, thậm chí đã tiêu hết thịt, “và nếu như xương ngả màu vàng như sáp ong thì đấy là dấu hiệu quan trọng nhất tỏ rằng Chúa Trời ngợi khen người công chính đã qua đời, còn nếu xương không vàng, mà đen lại thì nghĩa là Chúa Trời xét rằng người đó không xứng được sáng danh”, - ở Atox là như thế, tại xứ sở bao la này, tự cổ xưa đạo chính thống vẫn là bất khả xâm phạm, vẫn được giữ gìn hết sức trong sáng” - Cha Ioxif kết luận. Những lời lẽ của Cha như gió thoảng ngoài tai, không gây được ảnh hưởng gì, thậm chí còn bị chế giễu: “Đấy toàn là lối phô trương sự thông thái và mới lạ, chẳng đáng nghe làm gì,” - một số thầy tu bụng bảo dạ. “Chúng ta theo lối cũ, bây giờ nảy nòi ra khối cái mới, cái gì cũng theo được ư?” - số khác nói thêm. “Chúng ta có nhiều đức cha thánh thiện không ít hơn họ. Họ ở dưới ách bọn Thổ Nhĩ Kỳ nên đã quên ráo cả rồi. Ở họ, đạo chính thống đã bị vẩn đục từ lâu, họ còn không có cả chuông nữa kia,” những người mạnh mồm giễu cợt nói thêm. Cha Ioxif bỏ đi, trong lòng chua xót, nhất là bản thân Cha nói lên ý kiến của mình không lấy gì làm cả quyết lắm, dường như bản thân Cha cũng chẳng tin gì mấy. Nhưng Cha bối rối vì thấy trước rằng một cái gì tệ hại đang bắt đầu diễn ra, thậm chí sự không tuân lời đang cất đầu dậy. Dần dần, tiếp sau Cha Ioxif, mọi tiếng nói hợp lí đều câm bặt. Và cứ như thể có sự phối hợp, tất cả những người yêu mến trưởng lão đã quá cố và đã từng ngoan ngoãn, cảm động phục tùng thể chế trưởng lão bỗng vô cùng khiếp sợ điều gì không rõ khi gặp nhau chỉ rụt rè nhìn mặt nhau. Những người thù địch thể chế trưởng lão, coi đó như một sự đổi mới, thì cất cao đầu kiêu hãnh. “Trưởng lão Varxonofi khi qua đời không những xác không nặng mùi, mà còn tỏa hương thơm,” - họ hí hửng nhớ lại, - “nhưng không phải vì Cha là trưởng lão mà được như vậy mà bởi vì bản thân Cha là bậc công chính.” Tiếp đó vị trưởng lão vừa qua đời phải hứng chịu những lời chê bai, thậm chí cả những lời kết tội tới tấp: “Cha truyền dạy điều bất chính, chủ trương rằng đời sống là lạc thú vô cùng lớn lao, chứ không phải là sự khuất lụy đẫm nước mắt,” - một số trong những kẻ đần độn nhất nói. “Cha tin theo mốt mới, Cha không thừa nhận ở địa ngục có lửa thiêu thật sự,” - một số kẻ còn đần độn hùa theo. “Cha không nghiêm ngặt trong việc ăn chay, Cha tự cho phép mình dùng của ngọt. Cha uống trà với mứt anh đào, rất thích món đó, các bà gửi biếu Cha. Nhà khổ tu có được phép uống trà không chứ?” - một số kẻ ghen tị nói. “Cha ngồi chễm chệ dương dương tự đắc,” - những kẻ độc bụng nhất tàn nhẫn nhớ lại. - “Cha tự coi mình là thánh, người ta quỳ trước Cha, Cha cho như thế là phải.” “Cha lạm dụng bí tích xưng tội,” - những người chống đối thể chế trưởng lão kịch liệt nhất hằn học rỉ tai nhau, trong số này thậm chí có những thầy tu già lão nhất, nghiêm ngặt nhất trong sự sùng tín, những người chay tịnh và kiêng nói chân chính, vẫn im lặng khi trưởng lão còn sống, bây giờ bỗng mở miệng, đấy mới thật là ghê gớm, vì lời nói của họ có ảnh hưởng mạnh đối với các thầy tu trẻ còn chưa vững vàng hẳn. Ông khách Obdorsk, thầy tu ở tu viện Thánh Xilvextr, lắng tai nghe hết những điều đó, lắc đầu thở dài: “Không, rõ ràng là hôm qua Cha Ferapont xét đoán đúng.” - ông ta nghĩ bụng, vừa đúng lúc ấy Cha Ferapont xuất hiện; dường như ông ta đến đây chính là để làm cho tình trạng chấn động càng trầm trọng thêm.
Phần 7 
Chương 1 - P2
Ở trên tôi đã nói rằng hiếm khi ông ta ra khỏi phòng tu bằng gỗ của mình ở khu nuôi ong, thậm chí đã từ lâu ông ta không đến nhà thờ, người ta bỏ qua điều ấy cho ông vì coi ông là người điên gàn, không buộc ông phải theo phép tắc chung mà ai nấy đều phải theo. Nhưng nếu nói cho hoàn toàn đúng sự thật thì người ta bỏ qua cho ông tất cả những điều ấy còn là vì một lý do cần thiết. Bởi vì một người ăn chay và kiêng nói phi thường như thế, ngày đêm cầu nguyện (thậm chí có khi ngủ mà vẫn quỳ gồi) thì ai mặt mũi nào mà dám bắt người đó cứ phải theo quy phép chung, nếu như người ta không muốn theo. “Cha thánh thiện hơn tất cả chúng ta và tu khắc khổ hơn cả mọi quy định, - các thầy tu chắc sẽ nói như vậy, - còn Cha không đi nhà thờ thì như vậy là Cha biết khi nào phải đến, Cha có phép tắc riêng của mình.” Vì ngại những điều tiếng như vậy nên người ta để Cha Ferapont được yên. Cha Ferapont hết sức không ưa trưởng lão Zoxima, chuyện ấy ai cũng biết. Thế mà bỗng nhiên có tin lọt đến tai Cha, dội đến phòng tu của Cha: “Sự phán xét của Chúa không như sự phán xét của người trần, thậm chí là đi trước diễn biến của tự nhiên.” Cần nói rằng ông thầy tu Obdorsk hôm qua đã đến thăm Cha và khiếp sợ khi rời khỏi Cha ra về, là một trong những người đầu tiên báo tin ấy cho Cha. Tôi cũng đã nói rằng Cha Paixi, tuy vẫn kiên gan đứng đọc Phúc âm bên quan tài, không gì lay chuyển được, mặc dù Cha không thể nghe thấy và nhìn thấy những gì diễn ra ở bên ngoài, nhưng trong lòng Cha đã đoán được đích xác tất cả những điều chủ yếu, bởi vì Cha biết thấu đáo giới thầy tu của mình. Cha không bối rối, mà chờ đợi tất cả những gì còn có thể xảy ra, không sợ hãi, dùng con mắt thấu suốt theo dõi kết cục sắp tới của sự xáo động mà tầm nhìn trí tuệ của Cha đã thấy được. Bất đồ tiếng ồn ào lạ thường phá tan bầu không khí nghiêm trang ở phòng ngoài đập vào tai khiến Cha sửng sốt. Cửa mở toang và Cha Ferapont xuất hiện ở ngưỡng cửa, đấng sau ông ta, như đã nói, thậm chí từ trong phòng cũng thấy rõ, có nhiều thầy tu đi theo đang xúm xít bên bậc tam cấp, trong đó có cả những người thế tục. Nhưng những người này không theo Cha Ferapont lên bậc tam cấp, mà dừng lại chờ xem Cha sẽ nói gì và làm gì nữa, vì họ linh cảm thấy, thậm chí hơi sợ hãi, mặc dù tất cả sự táo tợn của họ, rằng Cha Ferapont đến đây không phải là vô cớ.
Cha Ferapont dừng lại ở ngưỡng cửa, giơ hai tay lên, và dưới cánh tay phải của Cha ló ra cặp mắt nhỏ sắc sảo và tò mò của ông khách Obdorsk, người duy nhất không nén được và chạy theo Cha Ferapont lên bậc thềm vì quá đỗi tò mò. Ngoài ông ta ra, những người khác, trái lại, ngay khi cửa mở bung ra đánh rầm một tiếng, đã chen nhau lùi lại phía sau một chút vì cảm giác sợ hãi bất ngờ. Sau khi giơ hai tay lên, Cha Ferapont thốt nhiên gào to: “Tôi đuổi con quỷ!” - và lập tức lần lượt quay về khắp bốn phía, đưa tay làm dấu chữ thập cho bốn bức tường và bốn góc phòng. Những người đi theo hiểu ngay hành động đó của Cha Ferapont; bởi vì họ biết rằng bất kể vào nơi nào Cha cũng làm thế. Cha sẽ không ngồi và không nói lời nào khi chưa trừ ma quỷ.
- Quỷ sa tăng, cút xéo đi, quỷ Sa tăng, cút xéo đi! - Cứ mỗi lần làm dấu, Cha đều lặp lại. - Tôi đuổi quỷ! - Cha lại gào lên.
Cha mặc bộ áo chùng thô kệch, thắt lưng bằng dây thừng. Dưới tấm sơ mi bằng vái gai ló ra bộ ngực trần đầy lông trắng bạc. Hai chân đi đất. Cha vừa giơ tay lên thì có tiếng va động loảng xoảng của những sợi xích đeo dưới áo thụng. Cha Paixi ngừng đọc, đến về phía trước, đứng trước mặt Cha Ferapont, chờ đợi.
- Cha đến đây làm gì, trình đức Cha đáng kính? Vì sao Cha làm mất sự trang nghiêm? Cha làm náo loạn bầy chiên ngoan ngoãn để làm gì? - Cuối cùng Cha Paixi thốt lên, nghiêm nghị nhìn Cha Ferapont.
- Đến làm gì ấy hả. Cha hỏi làm gì? Cha tin cái gì? - Cha Ferapont quát lên, như điên khùng. - Đến để đuổi khách khứa của Cha ở đây, lũ quỷ nhơ nhớp. Tôi đến xem xem vắng tôi, Cha tụ tập chúng lại đây có nhiều không? Tôi muốn dùng chổi lá bạch dương quét ráo cả đi.
- Cha đuổi quỷ, nhưng có lẽ chính Cha lại phụng thờ quỷ, - Cha Paixi nói tiếp, không chút sợ sệt, - ai đã tự xưng: “Ta là thánh?” Có phải Cha không, thưa đức Cha?
- Tôi là kẻ nhơ nhớp, chứ không phải là thánh. Tôi không ngồi vào ghế bành để người ta tôn thờ mình như một thần tượng - Cha Ferapont lại gào lên. - Ngày nay người ta đang hủy diệt tín ngưỡng thiêng liêng. Người chết kia, vị thánh của các người. - Cha quay về đám đông, trỏ tay vào quan tài, - không thừa nhận là có quỷ, ông ấy đã cho thuốc uống để trừ quỷ: Vì thế ở chỗ các người, quỷ mới sinh sôi nảy nở như nhện trong các góc nhà. Còn ở đây thì bản thân ông ta bốc mùi hôi thối. Chúng ta đang nhìn thấy sự chỉ bảo nghiêm trọng của Chúa.
Điều đó quả thật đã có lần xảy ra trong đời Cha Zoxima. Một thầy tu bắt đầu nằm mơ thấy quỷ, rồi cuối cùng thấy thực. Khi thầy tu đó quá sợ hãi bộc lộ với trưởng lão, Cha khuyên ông ta liên tục cầu nguyện và ăn chay thật khe khắt. Nhưng cách đó không ăn thua gì, trưởng lão khuyên ăn chay và cầu nguyện đồng thời dùng một thứ thuốc. Hồi ấy, nhiều người khó chịu về chuyện đó và lắc đầu bàn tán với nhau, bực tức nhất là Cha Ferapont, ngay hồi ấy một số kẻ gièm pha đã vội mách ngay với Cha về cách chữa trị “lạ thường” đó của trưởng lão trong trường hợp đặc biệt ấy.
- Cha đi đi! - Cha Paixi nói với giọng oai nghiêm. - Con người không có quyền phán xét, đấy là quyền của Chúa. Có lẽ ở đây chúng ta đang thấy một “sự chỉ bảo” mà cả Cha cũng như tôi và bất cứ ai khác đều không thể hiểu nổi. Cha đi đi, đừng làm náo loạn bầy chiên! - Cha Paixi bền bỉ nhắc lại.
- Trưởng lão không ăn chay theo đúng phép tắc khổ tu, vì thế mới có sự thể này. Chuyện rành rành ra đấy, giấu giếm là có tội!
Ông thầy tu cuồng tín không chịu thôi, nhiệt tâm của ông ta đã quá bốc khiến ông ta mất cả khôn ngoan.
- Cha thích ăn kẹo, các bà thủ trong túi mang đến cho Cha, Cha uống trà với kẹo, Cha hi sinh cái bụng, nhồi cho đầy của ngọt ngào, do đó trí óc Cha đầy ắp những ý nghĩ cao ngạo… Bởi thế Cha chuốc lấy sự ô nhục như thế…
- Cha nói năng đến là bộp chộp, thưa Cha! - Cha Paixi cũng cất cao giọng. - Tôi khâm phục phép ăn chay và khổ tu của Cha, những lời Cha nói ra thật là bộp chộp, chẳng khác gì lời lẽ của một người phàm tục trẻ tuổi tính khí thất thường và ngu dại. Cha đi đi, tôi ra lệnh cho Cha đấy. - Cha Paixi kết luận, nói oang oang.
- Ừ, thì thôi đi! - Cha Ferapont đáp, dường như hơi luống cuống, nhưng vẫn hung hăng. - Các người thì thông thái rồi! Cậy học vấn nhiều, các người lên mặt với kẻ hèn kém này! Khi đến đây tôi là kẻ ít học, trong thời gian ở đây tôi đã quên sạch những gì tôi biết, chính Chúa Trời đã giữ gìn cho kẻ nhỏ bé như tôi khỏi bị ảnh hưởng bởi sự anh minh của các người…
Cha Paixi vẫn đứng trước ông ta, chờ đợi với vẻ kiên quyết.
Cha Ferapont im lặng một lát, rồi đột nhiên trở nên rầu rĩ, đưa tay phải lên ấp vào má, vừa nhìn quan tài trưởng lão vừa nói bằng giọng ngân nga:
- Sáng mai người ta sẽ hát bài thánh ca “Đấng Cứu giúp và Che chở” để ngợi khen ông ta, còn khi tôi chết, người ta sẽ chỉ ngâm bài thơ xoàng xĩnh “Đời vui thú biết bao” (2) - Cha nói bằng giọng thảm thiết và tiếc rẻ. - Các người kiêu căng và vênh váo đây là một chốn hoang vu! - Cha bỗng gào lên như người điên, rồi vung tay quay ngoắt đi và bước nhanh xuống bậc tam cấp.
Chú thích:
(2) Khi đưa thi hài một thầy tu bình thường từ phòng tu đến nhà thờ, hay sau tang lễ, đưa từ nhà thờ ra nghĩa địa, người ta ngàm bài “Đời vui thú biết bao…” Còn nếu người quá cố là ieroxkhimonac thì hát bài thánh ca: “Đấng Cứu giúp và Che chở” (chú thích của F. Dostoievsky).
Đám đông đứng chờ ở dưới ngập ngừng; có những người lập tức đi theo Cha, còn Cha Paixi theo Cha Ferapont ra bậc tam cấp vẫn đứng quan sát. Nhưng ông già hăng máu chưa chịu chấm dứt hẳn: đi được mười bước, ông ta bỗng quay về phía mặt trời lặn, giơ hai tay lên cao, rồi như cái cây bị phạt gốc, ông đổ vật xuống đất, gào toáng lên:
- Chúa của tôi đã thắng! Đấng Kito đã thắng mặt trời lặn! - ông gào như điên như cuồng, giơ hai tay về phía mặt trời, úp mặt xuống đất, khóc nức nở như đứa con nít, toàn thân run lên trong tiếng khóc và hài tay đang ra trên mặt đất. Lập tức mọi người đâm bổ đến chỗ Cha, tiếng kêu than, tiếng nức nở… Tất cả mọi người đều như lên cơn cuồng loạn!
- Đây mới là vị thánh! Đây mới là bậc công chính! - Tiếng reo hò nổi lên, không còn biết sợ nữa. - Người như thế mới đáng được tôn làm trưởng lão. - Một số khác nói thêm, coi bộ càng dữ tợn hơn.
- Cha sẽ không làm trưởng lão… Chính Cha sẽ khước từ… Cha sẽ không theo cái lối mới đáng nguyền rủa ấy… Cha sẽ không bắt chước việc làm ngu xuẩn của họ.
Tiếng những người khác nói đế vào sự thể sẽ đi đến đâu, khó mà tưởng tượng được, nhưng đúng lúc ấy có tiếng chuông gọi đi lễ. Mọi người nhất tề làm dấu thánh. Cả Cha Ferapont cũng đứng lên, làm dấu thánh, rồi đi về phòng mình, không hề ngoái nhìn lại, vẫn không ngừng la lên, những lời nói không còn mạch lạc gì nữa. Một số người đi theo Cha, ít thôi, đa số tản đi, vội vàng đến dự lễ. Cha Paixi chuyển cho Cha Ioxof đọc Phúc âm và xuống bậc tam cấp, tiếng hò la điên loạn của những người cuồng tín không làm Cha nao núng, nhưng Cha bỗng buồn não lòng và đặc biệt nhớ nhung một cái gì không rõ, Cha cảm thấy điều đó. Cha dừng lại và bỗng tự hỏi: “Vì sao ta buồn đến suy sụp tinh thần như vậy?” - và Cha ngạc nhiên hiểu ngay rằng nỗi buồn ấy của Cha rõ ràng do một duyên cớ rất nhỏ nhặt và riêng biệt: trong đám đông vừa nãy xúm xít ở gần cửa phòng. Cha bỗng nhận thấy Aliosa giữa những người khác đang xốn xao và Cha nhớ lại rằng nhìn thấy anh, lập tức Cha cảm thấy đau lòng. “Lẽ nào chàng trai này giờ đây chiếm vị trí lớn lao như thế trong trái tim ta?” - Cha bỗng ngạc nhiên tự hỏi.
Vừa hay Aliosa đi qua gần đấy, như vội vã đi đâu, nhưng không đi về phía nhà thờ. Luồng mắt hai người gặp nhau. Aliosa quay mắt đi ngay và nhìn xuống đất, chỉ qua bộ dạng của chàng trai, Cha Paixi đã đoán ra lúc này ở anh đang diễn ra sự thay đổi mạnh mẽ dường nào.
- Cả con cũng sa trước cám dỗ ư? - Cha Paixi đột nhiên kêu lên. - Cả con cũng ngã theo những người kém đức tin ư! - Cha Paixi chua xót nói thêm.
Aliosa dừng lại và nhìn Cha Paixi, cái nhìn hơi vu vơ, rồi quay mặt đi ngay và lại gằm mặt xuống đất. Anh đứng xoay nghiêng và không quay mặt về phía người hỏi. Cha Paixi chăm chú quan sát.
- Con vội đi đâu vậy? Có chuông lễ đấy? - Cha lại hỏi, nhưng Aliosa không trả lời.
- Con sẽ ra khỏi nhà tu chăng? Mà lại không xin phép, không được ban phép lành ư?
Aliosa đột nhiên nhếch mép cười gượng gạo, và một cách kì lạ rất kì lạ, anh ngước mắt lên nhìn vị cha đạo vừa hỏi anh: vị giáo đạo trước đây của anh, người đã từng làm chú trái tim và khối óc của anh, trưởng lão yêu quý của anh, trước khi qua đời đã giao phó anh cho đức cha này. Vẫn như lúc trước, anh không trả lời, phẩy tay dường như chẳng bận tâm gì đến lễ độ, rảo bước đi ra khỏi cổng nhà tu.
- Con sẽ còn trở lại! - Cha Paixi lẩm bẩm, nhìn theo Aliosa, vừa ngạc nhiên, vừa đau xót.
Phần 7 
Chương 2: Có một phút như thế
Cha Paixi cố nhiên đã không lầm khi nói quyết rằng “chú bé dễ thương” của Cha sẽ trở lại, thậm chí có lẽ Cha đã hiểu (dù không hoàn toàn nhưng vẫn cứ là sáng suốt) tâm trạng thực của Aliosa. Tuy nhiên, tôi xin thành thật thú nhận rằng bây giờ chính tôi cũng rất khó lòng truyền đạt rõ ràng ý nghĩa đích thực của khoảnh khắc lạ lùng và mập mờ đó trong đời của nhân vật còn quá trẻ trung ấy mà tôi rất đỗi yêu mến. Đáp lại câu hỏi đau buồn của Cha Paixi nêu ra với Aliosa: “Hay con ngả theo những người kém đức tin,” - cố nhiên tôi có thể thay Aliosa trả lời dứt khoát: “Không, anh ấy không ngả theo những người kém đức tin.” Hơn nữa, còn ngược hẳn lại là khác: tất cả sự bối rối của anh chính là bởi anh đã tin nhiều. Nhưng đúng là có bối rối, điều ấy đã xảy ra, và rất đỗi đau khổ, đến nỗi sau này, mãi sau này, Aliosa vẫn coi cái ngày đau buồn ấy là một ngày nặng nề nhất và tai ác nhất trong đời mình. Nếu người ta hỏi thẳng: “Chẳng lẽ anh ta buồn lo như thế chỉ là vì thi hài trưởng lão đáng lẽ phải lập tức bộc lộ phép lạ chữa bệnh thì lại sớm có mùi hay sao?” thì tôi sẽ trả lời ngay không ngần ngừ: “Vâng, quả là như thế.” Tôi chỉ yêu cầu bạn đọc đừng vội chê cười quá đáng tấm lòng trong trắng của chàng trai ấy của tôi. Bản thân tôi chẳng những không có ý định xin tha thứ cho anh ta, hay thay anh ta mà xin lỗi, hay bào chữa cho lòng tin chất phác của anh ta, viện cớ anh ta tuổi trẻ non nớt chẳng hạn, hay viện cớ anh ta chẳng tấn tới gì lắm trong việc học hành trước đây, v.v… nhưng thậm chí tôi sẽ làm ngược lại và tuyên bố dứt khoát rằng tôi thành thực kính trọng bản chất trái tim anh ta. Chắc chắn là một thanh niên khác dè dặt tiếp nhận những xúc động tình cảm, biết cách yêu không nồng cháy, mà chỉ yêu một cách đầm ấm, đầu óc tuy đúng đắn, nhưng so với tuổi thì quá chín chắn (vì vậy là rẻ tiền), một thanh niên như thế, tôi xin nói với các bạn là sẽ tránh được tình cảm đã xảy ra với chàng trai của tôi, nhưng trong một số trường hợp, quả thực là để mình bị lôi cuốn vào cuộc đam mê tuy là cuồng dại, nhưng do tình yêu lớn lao thôi thúc thì còn đáng trọng hơn là không đam mê gì hết! Nhất là trong thời tuổi trẻ bởi vì một thanh niên luôn luôn chín chắn thì chẳng hay ho gì và là thứ đồ rẻ tiền - ý kiến của tôi là như vậy!
Một số người chuộng lẽ phải có lẽ sẽ kêu lên: “Nhưng không phải thanh niên nào cũng có thể tin vào một thành kiến như vậy, và chàng trai của ông chẳng có quyền gì bắt mọi người phải theo anh cả.” Tôi sẽ trả lời như sau: Vâng, chàng trai của tôi tin, tin một cách thiêng liêng, không gì lay chuyển nổi nhưng tôi vẫn không xin tha thứ cho anh ta.
Các bạn ạ, tuy ở trên tôi đã tuyên bố (có lẽ là quá hấp tấp) rằng tôi sẽ không thanh minh, không xin lỗi và bào chữa cho nhân vật của tôi, nhưng tôi thấy vẫn cần làm sáng tỏ một điều để độc giả tiếp tục hiểu câu chuyện của tôi. Tôi xin nói thế này: đây không phải là chuyện chờ mong phép lạ. Không phải là việc nôn nóng chờ mong phép lạ một cách nông nổi. Aliosa cần phép lạ không phải đế giành phần thắng cho những niềm tin nào đó của mình, không phải để cho một định kiến nào đó có sẵn từ trước mau mau thắng một định kiến khác, không, hoàn toàn không: trong toàn bộ sự việc này trước hết, ở vị trí hàng đầu là một gương mặt hiện lên trước mắt anh, chỉ là một gương mặt - gương mặt trưởng lão yêu quý của anh, gương mặt của bậc công chính mà anh tôn thờ đến độ. Đúng là hồi ấy và suốt một năm trước, tất cả tình yêu ẩn sâu trong trái tim non trẻ và trắng trong của anh đối với “mọi người và mọi sự” có lúc chỉ tập trung vào một người, - có lẽ như vậy là không đúng lắm - ít ra là trong những lúc tình cảm bồng bột nhất, tất cả tình yêu của anh tập trung vào vị trưởng lão yêu dấu nay đã qua đời.
Thực ra, suốt một thời gian dài, đối với anh con người đó là lí tưởng tuyệt đối, mọi sinh lực tuổi trẻ của anh không thể không khao khát chỉ hướng về lí tưởng đó, thậm chí có những lúc anh quên hết cả “mọi người và mọi sự”. (Sau này anh nhớ lại rằng trong ngày đau buồn ấy, anh quên bẵng cả anh Dmitri thế mà hôm trước anh hết sức lo âu và buồn nhớ anh: anh cũng quên mang cho bố Iliusetrka hai trăm rúp, thế mà hôm trước anh hăm hở định thực hiện ngay việc đó.) Nhưng vẫn không phải là anh cần phép lạ, mà chỉ là cần “công lý tối cao”, nhưng theo niềm tin của anh thì công lý ấy đã bị phá hoại, do đó trái tim anh bị giáng một đòn tàn bạo và bất ngờ. Nhưng cớ gì trong sự mong đợi của Aliosa, bản thân tiến trình sự việc lại khiến cho công lý ấy mang hình thức phép lạ mà người ta trong chờ thể hiện ra ngay ở thi hài đấng giáo đạo mà anh tôn thờ? Nhưng mọi người trong tu viện đều nghĩ như thế và mong chờ điều đó, kể cả những người mà Aliosa khâm phục trí tuệ của họ, như Cha Paixi chẳng hạn, còn Aliosa không gợn chút hoài nghi, cũng chung niềm mơ ước với tất cả mọi người. Hơn nữa điều đó đã bắt rễ trong tim anh qua cả một năm sống trong tu viện, và trái tim anh đã có thói quen chờ mong như thế. Nhưng anh khao khát công lý, công lý chứ không phải chỉ là phép lạ! Thế những người mà anh hy vọng sẽ phải được tôn cao hơn ai hết trên cả cõi thế gian này thì đáng lẽ được vinh hiển xứng đáng, lại bị lật nhào và chịu nhục. Vì lẽ gì? Ai phán xét? Ai có thể phán xét như thế? - Đấy là những câu hỏi giày vò trái tim non trẻ trong trắng của anh. Anh không thể không cảm thấy bị xúc phạm, thậm chí tức giận trong lòng khi thấy bậc công chính nhất trong những người công chính phải chịu sự nhạo báng chua cay hằn học của đám đông nông nổi và thấp kém hơn đấng ấy quá nhiều như vậy. Ừ thì không có phép lạ gì đi nữa, ừ thì chẳng có gì huyền nhiệm và điều người ta mong đợi chẳng thể hiện ra ngay tức thời, sao lại nhục nhã như thế, sao lại bốc mùi sớm như thế, “đi trước cả sự diễn biến tự nhiên”, như những thầy tu ác độc đã nói? Sao lại có và sao họ lại tin rằng họ có quyền làm như thế? Đấng tối cao ở đâu và ngón tay Ngài ở đâu? Sao Ngài lại giấu ngón tay của Ngài đi “vào lúc cần thiết” (Aliosa nghĩ như vậy), như thể Ngài tự ý muốn phục tùng quy luật tự nhiên mù quáng, câm lặng và tàn nhẫn.
Vì thế tim Aliosa rỉ máu, và cố nhiên, như tôi đã nói, nguyên nhân trước hết ở đây là vì con người mà anh yêu quý nhất trần đời bị “ô nhục”, bị “ô danh”. Cứ cho rằng sự oán thán đó của chàng trai của tôi là nông nổi và vô lý đi, nhưng tôi nhắc lại lần thứ ba (và tôi xin đồng ý trước rằng như thế cũng là nông nổi): tôi lấy làm vui sướng rằng chàng trai của tôi không phải lẽ lắm trong lúc như thế này, nhưng với một người không đần thì thế nào rồi cũng có lúc lẽ phải đến với người đó, nhưng nếu vào một giây lát phi thường như thế mà tình yêu vẫn không nảy sinh trong trái tim chàng trai trẻ thì bao giờ nó sẽ đến? Tuy nhiên, trong trường hợp này, tôi không muốn lờ đi một hiện tượng hơi lạ lùng, tuy là chỉ thoáng qua, nhưng đã bộc lộ ra trong trí óc Aliosa vào cái phút ác hại làm anh rối loạn. Điều mới mẻ thoáng hiện ấy là: cảm giác dằn vặt vì bây giờ Aliosa không ngừng nhớ tới cuộc nói chuyện hôm qua với anh Ivan. Chính là bây giờ. Ồ, không phải là trong số những niềm tin nền tảng, tự phát, nếu có thể nói như vậy, trong tâm hồn anh đã có cái gì lung lay. Anh yêu Chúa Trời của mình và có niềm tin bất di bất dịch vào Chúa, tuy bất ngờ anh đã oán thán Chúa.
Nhưng, nhớ tới cuộc nói chuyện hôm qua với anh Ivan, một cảm tưởng mơ hồ nhưng đau khổ và tai ác bây giờ lại động đậy trong tâm hồn anh và mỗi lúc càng trôi nổi lên bề mặt. Khi trời đã tối hẳn, Rakitin đi qua vạt rừng thông từ tu xá đến tu viện bỗng thấy Aliosa nằm dưới gốc cây, úp mặt xuống đất và không động đậy, như đang nằm ngủ.
- Anh ở đây ư, Alecxei? Chẳng lẽ anh… - Anh ta thốt lên, ngạc nhiên, nhưng không nói hết câu, mà ngừng lại. Anh ta muốn nói: “Anh mà cũng đến nỗi như thế ư?” Aliosa không nhìn anh ta, nhưng qua một cử động của anh, Rakitin đoán ra ngay rằng Aliosa nghe thấy và hiểu anh ta.
- Anh làm sao thế chứ? - Anh ta tiếp tục ngạc nhiên, nhưng trên mặt anh ta sự ngạc nhiên đã bắt đầu nhường chỗ cho nụ cười mỗi lúc một rõ nét giễu cợt. - Này, tôi tìm anh đã hơn hai tiếng rồi đấy. Tự dưng anh biến mất. Anh làm gì ở đây vậy? Có chuyện gì không hay xảy đến với anh vậy? Ngẩng lên nhìn tôi một tí nào…
Aliosa ngẩng đầu lên, ngồi dậy, tựa lưng vào cái cây. Anh không khóc, nhưng vẻ mặt đau khổ, còn ánh mắt giận dữ. Nhưng anh không nhìn Rakitin, mà nhìn đi chỗ khác.
- Này, mặt anh nom khác hẳn. Không còn mảy may cái vẻ nhu mì trứ danh trước kia của anh. Anh giận ai phải không? Họ trêu chọc anh ư?
- Thôi đi! - Aliosa đột nhiên thốt lên, vẫn không nhìn Rakitin và xua tay mệt mỏi.
- Ồ bọn ta là như thế đấy! Cũng la hét hệt như những người trần tục khác! Vậy mà dự vào hàng thiên thần đấy. Này, Aliosa, anh làm tôi ngạc nhiên, anh nên biết điều đó, nói thực đấy. Đã lâu ở đây tôi không hề ngạc nhiên gì hết. Bởi vì tôi vẫn cho anh là người có học mà…
Cuối cùng Aliosa nhìn anh ta, nhưng hơi có vẻ lơ đãng, dường như vẫn chưa hiểu tí gì.
- Chẳng lẽ chỉ vì thi hài ông già của anh bốc mùi ư? Lẽ nào anh thực bụng tin rằng ông già sẽ làm phép lạ? - Rakitin kêu lên, lại chuyển sang sự ngạc nhiên hết sức thành thật.
- Tôi đã tin, vẫn tin và sẽ còn tin, anh còn muốn gì nữa? - Aliosa la lên một cách cáu kỉnh.
- Không muốn gì hết, bạn thân yêu ạ. Quái quỷ, điều đó thì bây giờ ngay đến đứa học trò mười ba tuổi cũng không tin. Thế nhưng, đồ quỷ… Thế là bây giờ anh tức giận Chúa Trời của anh, anh nổi loạn: anh không được thăng bậc, ngày lễ anh không được tặng huân chương! Rõ chán với anh!
Aliosa nheo mắt nhìn Rakitin hồi lâu và mắt anh bỗng lóe lên… nhưng không phải là căm tức Rakitin.
- Tôi không nổi loạn chống lại Chúa Trời của tôi, tôi “chỉ không chấp nhận thế giới này” của Chúa. - Aliosa bỗng mỉm cười gượng gạo.
- Không chấp nhận thế giỏi này là thế nào? - Rakitin hơi băn khoăn về câu trả lời của Aliosa, - nói vớ vẩn gì thế?
Aliosa không đáp.
- Thôi chuyện tầm phào đủ rồi, bây giờ vào việc thiết thực: hôm nay anh ăn chưa?
- Tôi không nhớ… hình như ăn rồi.
- Anh cần bồi bổ sức khỏe, mặt anh nom thế kia kìa. Nhìn anh mà thương hại. Đêm vừa rồi anh không ngủ, tôi nghe nói có cuộc chầu lễ gì đó. Rồi tiếp đến vụ náo động ấy… Chắc là anh mới chỉ ăn một mẩu bánh thánh. Trong nồi tôi có xúc xích dây, khi ở thành phố về tôi mang theo để phòng xa, nhưng xúc xích thì anh lại không…
- Đưa xúc xích đây.
- A ha! Thì ra anh thế đấy! Như vậy là hoàn toàn nổi loạn, dựng chiến lũy chống đối! Hà, người anh em ạ, việc này không nên coi thường. Đến tôi đi… Lúc này tôi muốn làm một hớp vodka, mệt chết đi được. Chắc anh không dám uống… hay anh sẽ uống?
- Đưa cả vodka ra.
- Ái chà chà! Kỳ lạ đấy, người anh em ạ! - Rakitin ngớ ra nhìn. - Gì thì gì, xúc xích hay vodka thì cũng là táo bạo cả, tốt thôi, không thể bỏ lỡ dịp, ta đi thôi.
Aliosa lẳng lặng đứng lên đi theo Rakitin.
- Anh Vanetrka nhà anh mà thấy thế này thì hẳn là ngạc nhiên lắm! Mà này, anh Ivan Fedorovich nhà anh sáng nay đi Moskva, anh biết không?
- Biết! - Aliosa nói bằng giọng thờ ơ và bỗng nhiên hình ảnh anh Dmitri thoáng qua trong óc anh, nhưng chỉ thoáng qua thôi, và tuy anh có nhớ đến một điều gì, một việc gì cấp bách không thể hoãn lại một phút, một bổn phận, một trách nhiệm gì ghê gớm, nhưng sự nhớ lại đó không gây cho anh một cảm tưởng nào, không thấu động đến trái tim anh, nó lập tức bay biến và bị quên đi. Mãi về sau, Aliosa vẫn nhớ lại chuyện ấy.
- Anh Vanetrka nhà anh có lần đã bảo tôi là “phường giá áo túi cơm, bất tài và tự do chủ nghĩa”. Anh cũng có lần không nén được và tỏ cho tôi hiểu rằng tôi là kẻ “bất lương”… Cũng được đi! Bây giờ tôi sẽ xem tài năng và sự chính trực của anh như thế nào (Rakitin thì thầm và thốt lên câu này, chỉ nói riêng với mình). Hừ, nghe đây! - Anh ta lại nói to. - Ta bỏ qua tu viện đi, đi đường mòn về thẳng thành phố. Hừm. Tôi có việc phải ghé qua nhà bà Khokhlakova. Anh tưởng tượng xem: tôi đã viết cho bà ấy về tất cả những chuyện đã xảy ra, bà ấy tức khắc viết cho tôi một lá thư ngắn, bằng bút chì (cái bà này rất thích viết những lá thư ngắn), rằng bà ta “không thể nào ngờ được một vị trưởng lão đáng kính như Cha Zoxima lại có hành vi như thế!” Bà ta viết thế đấy: “hành vi”! Bà ta cũng tức giận. Ôi chao, tất cả các người! Ấy khoan! - Bất thần anh ta lại quát lên, ngừng lời, đặt tay lên vai Aliosa, ngăn anh lại.
- Này Aliosa, - anh ta nhìn vào mắt Aliosa nói với vẻ dò xét, một ý nghĩ mới mẻ bất ngờ choán hết tâm trí anh ta, anh ta hớn hở hẳn lên, tuy bề ngoài anh ta cười cợt, nhưng rõ ông anh ta không dám nói ra ý nghĩ mới mẻ bất ngờ ấy, đến nỗi anh ta vẫn chưa thề tin vào cái trạng thái kì lạ và bất ngờ của Aliosa mà anh ta nhìn thấy bây giờ. - Aliosa, anh có biết bây giờ ta đi đâu hay hơn cả không? - Cuối cùng anh ta nói, giọng rụt rè có ý thăm dò.
- Đi đâu cũng được… tùy ý anh.
- Ta đến Grusenka, được không? Anh đi chứ? - Cuối cùng Rakitin nói, trong lòng vẫn run vì phấp phỏng chờ đợi.
- Thì đến Grusenka. - Aliosa lập tức điềm tĩnh trả lời, điều đó thật bất ngờ đối với Rakitin, sự ưng thuận mau chóng và bình tĩnh như thể khiến anh ta suýt nhảy về phía sau.
- Chà!… Thế chứ! - Anh ta suýt kêu lên vì ngạc nhiên, nhưng đột nhiên, anh ta khoác chặt tay Aliosa, lôi Aliosa đi thật nhanh trên con đường mòn, vẫn hãi rằng quyết tâm của bạn sẽ tan biến.
Hai người lẳng lặng đi, Rakitin thậm chí không dám lên tiếng.
- Cô ấy sẽ vui mừng biết mấy, vui mừng lắm… - Anh ta lẩm bẩm, rồi lại im bặt. Nhưng anh ta lôi Aliosa đến Grusenka không phải để làm vui lòng nàng. Anh ta là con người nghiêm túc và không bao giờ làm một việc gì mà không nhằm mục đích có lợi cho mình. Bây giờ anh ta nhắm hai mục đích cùng một lúc: thứ nhất là để trả thù tức là nhìn thấy “sự ô nhục của bậc công chính”, “sự sa ngã” có thể xảy ra của Aliosa, việc anh “từ ông thánh biến thành kẻ tội lỗi”, điều mà mới nghĩ đến anh ta đã cảm thấy khoái trá, hai là anh ta có một mục đích vật chất rất có lợi cho anh ta, dưới đây tôi sẽ nói đến.
“Vậy là đã có được một phút như thế.” - Anh ta vui vẻ nghĩ thầm trong bụng một cách hiểm độc, - “vì vậy ta phải chộp ngày lấy dịp này, vì nó rất thích hợp cho chúng ta.”
Phần 7  
Chương 3 - P1: Nhánh hành
Grusenka ở một nơi nhộn nhịp nhất trong thành phố, gần quảng trường Nhà thờ Lớn, nhà bà Morozova, vợ góa một thương gia. Nàng thuê một gian nhà gỗ nhỏ đầu hồi, liền với sân. Nhà Morozova là một tòa nhà đã rộng lớn, hai tầng, đã lâu đời và rất xấu xí, ở đó có bà chủ đã già với hai cô cháu gái đã đứng tuổi mà không chống, họ sống tách biệt với bên ngoài. Bà ta chẳng cần phải cho thuê gian nhà phụ ở sân nhưng mọi người đều biết rằng bà ta cho Grusenka ở (từ bốn năm trước) chỉ để chiều lòng người họ hàng của mình là thương gia Xamxonov, ông già công khai nuôi bao Grusenka. Người ta nói rằng khi đưa “ái phi” của mình đến, ông già hay ghen muốn nhờ con mắt soi mói của bà lão theo dõi hành vi của cô gái mới đến thuê nhà.
Nhưng con mắt soi mói chẳng bao lâu hóa ra vô ích, rốt cuộc Morozova thậm chí ít khi gặp Grusenka và chẳng để mắt làm rầy nàng nữa. Thực ra, đã bốn năm qua kể từ khi ông già đưa cô gái mười tám tuổi, rụt rè bẽn lẽn, mảnh dẻ, gầy nhom, tư lự và buồn rầu từ tỉnh lỵ về nhà này, từ bấy đến nay đã bao nhiêu nước chảy qua. Thế nhưng ở thành phố chúng tôi ai chẳng rõ mấy lai lịch cô bé này, ngay thời gian gần đây người ta cũng chẳng biết gì hơn, thậm chí cả khi đã rất nhiều người để ý đến “trang tuyệt sắc” này, qua bốn năm Agrafena Alecxandrovna đã trở thành một mĩ nhân như thế đấy. Chỉ nghe đâu rằng hồi mới mười bảy tuổi, nàng đã bị một kẻ nào lừa dối, đâu như một gã sĩ quan, sau đó gã bỏ rơi luôn. Gã sĩ quan bỏ đi và lấy vợ ở đâu không rõ, còn Grusenka lâm vào cảnh nhục nhã và bần cùng.
Nghe nói tuy Grusenka được ông già cứu ra khỏi cảnh cùng túng, nhưng nàng vốn là con nhà tử tế, hình như thuộc giới tăng lữ, nàng là con gái một viên trợ tế tạm nghĩ việc hay đại loại như thế. Thế rồi trong bốn năm trời, cô bé mồ côi đa cảm, tủi hận, đáng thương đã trở thành một phụ nữ Nga xinh đẹp, hồng hào, đẫy đà, tính tình bạo dạn và cương quyết, kiêu căng và trâng tráo, thạo kiếm tiền, keo kiệt và thận trọng, không rõ bằng cách ngay thẳng hay lừa lọc, nhưng theo người ta nói thi đã gây được một khoản vốn riêng. Có một điều mọi người đều biết chắc: khó mà gần được Grusenka, ngoài ông già bao nàng thì trong suốt bốn năm trời chưa có lấy một người nào có thể khoe là đã được nàng ban ân huệ. Đấy là sự thật hiển nhiên, vì đã có nhiều người theo đuổi phải bỏ cuộc, đặc biệt hai năm gần đây. Mọi mưu toan đều uổng công, một số người chẳng những phải tháo lui mà còn bị chê cười và mang nhục do sự khước từ cương quyết và cợt nhạo của cô nàng trẻ tuổi khó tính. Người ta còn biết rằng cô nàng, đặc biệt năm gần đây, đã bắt đầu chạy “phe”, và về mặt này nàng có khả năng lạ thường, thành thử rốt cuộc nhiều người gọi nàng là ả Do Thái thực thụ. Không phải nàng cho vay lãi, người ta biết rằng có thời gian nàng cùng với Fedor Pavlovich Karamazov mua hối phiếu với giá rẻ mạt, bằng một phần mười giá trị của nó, rồi sau đó có những lần lại bán được nguyên giá. Xamxonov ốm yếu, năm gần đây hai chân sưng phù không đi lại được, góa vợ, một bạo chúa đối với các con tin đã trưởng thành, nhà tư bản lớn, một người keo kiệt và khe khắt, nhưng lại chịu ảnh hưởng mạnh của cô gái được ông ta bao bọc, thoạt đầu ông ta rất nghiệt ngã với nàng, bắt nàng sống kham khổ, “ăn chay tu đạo”, như những kẻ hay giễu cợt đã nói. Nhưng Grusenka đã tự giải phóng, đồng thời vẫn làm cho ông già tin tưởng vô hạn ở sự chung thủy của nàng. Ông già này là một nhà kinh doanh lớn (bây giờ đã qua đời), cũng là một người có tính cách khác thường, cái chính là keo kiệt và sắt đá, tuy Grusenka đã chinh phục được ông ta đến mức ông ta không thể sống không có nàng (chẳng hạn hai năm gần đây là như thế) nhưng ông ta vẫn không cho nàng một khoản vốn lớn, thậm chí nàng dọa bỏ ông ta, ông ta cũng không lay chuyển. Nhưng ông ta cũng cho nàng một khoản vốn nhỏ, khi biết điều đó mọi người ngạc nhiên. “Cô khá tinh khôn,” - ông ta nói khi cho nàng tám ngàn đồng, - “cô tự lo liệu lấy mà làm ăn, nhưng nên biết rằng ngoài số chu cấp hàng năm như trước, cho đến khi tôi chết cô cũng không được thêm gì đâu, và trong di chúc tôi cũng không cho gì nữa.” Ông ta giữ lời: khi chết ông ta để lại tất cả cho các con trai mà suốt đời ông ta vẫn bắt phải ở với mình, coi ngang hàng như bọn đầy tớ, cùng với vợ con họ, còn Grusenka thậm chí không được nhắc đến trong di chúc. Những chuyện đó sau này người ta đã biết. Bằng cách khuyên nàng sử dụng “vốn riêng” như thế nào, ông ta đã giúp nàng khá nhiều và chỉ dẫn “công việc” cho nàng. Khi Fedor Pavlovich Karamazov thoạt đầu có quan hệ với Grusenka do một “phi vụ” tình cờ, sau lại đâm ra mê nàng đến mất trí - điều mà chính ông ta không ngờ - thì ông già Xamxonov, lúc ấy đã kề miệng lỗ, cười nhạo thỏa thích. Đáng chú ý là suốt thời gian Grusenka có quan hệ với ông già của mình, nàng dường như hoàn toàn thật lòng với ông ta, và đây dường như là người duy nhất trên đời mà nàng đối xử thật tâm như vậy. Gần đây nhất, khi Dmitri Fedorovich xuất hiện với mối tình của mình, ông già không cười nữa. Trái lại, có lần ông đã nghiêm trang khuyên Grusenka: “Nếu chọn một trong hai người, bố hay con trai, thì hãy chọn ông già, nhưng nhất định phải bắt lão già đểu giả cưới cô hẳn hoi, mà trước hết là phải cho cô một khoản vốn. Nhưng đừng thân mật quá với gã đại úy, kẻo rồi không thoát ra được đâu.” Đấy là lời ông già dâm đãng nói với Grusenka khi ông ta cảm thấy mình sắp chết đến nơi và quả nhiên, năm tháng sau ông ta từ trần. Xin nói qua rằng mặc dù trong thành phố chúng tôi nhiều người biết sự kình địch lố lăng, quái đản giữa hai cha con nhà Karamazov vì Grusenka, nhưng không mấy người hiểu ý nghĩa thực sự của mối quan hệ giữa ông già và con trai. Ngay cả hai người đầy tớ gái của Grusenka (sau khi đã xảy ra thảm họa mà sau này tôi sẽ nói đến) đã khai trước tòa rằng Agrafena Alecxandrovna tiếp Dmitri Fedorovich chỉ vì sợ, bởi chàng “dọa giết” nàng. Nàng có hai đầy tớ gái, một bà nấu bếp rất già, trước hầu hạ trong gia đình cha mẹ nàng, bà ta ốm yếu và gần như điếc, và cháu gái bà ta, một cô bé mười hai tuổi linh lợi, là hầu phòng của Grusenka.
Grusenka sống rất tằn tiện và nhà cửa bày biện rất thanh bạch. Gian nhà phụ nàng ở chỉ có ba phòng, kê những bàn ghế cổ lỗ bằng gỗ hồng sắc kiểu những năm hai mươi, của bà chủ nhà cho mượn. Khi Rakitin và Aliosa vào thì đã sẩm tối, nhưng nhà chưa lên đèn, Grusenka nằm trong phòng khách, trên chiếc đi văng lớn thô kệch, lưng tựa làm giả màu gỗ hồng sắc, đi văng cứng với lớp da bọc cũ nát, thủng lỗ. Nàng ngả đầu lên hai chiếc gối trắng nhồi lông chim. Nàng nằm ngửa, đuôi dài, không nhúc nhích, hai tay đệm dưới đầu. Nàng mặc tùng phục như đang chờ đón ai, áo dài lụa đen, đầu đội chiếc mũ nhẹ viền đăng ten gài chiếc kim vàng nặng nề. Đúng là nàng đang chờ ai, nom buồn bã và bồn chồn, mặt hơi tái, môi và mắt hừng hực, ngón chân phải nóng nảy gõ vào tay đi văng. Rakitin và Aliosa vừa đến, trong nhà đã hơi hoảng loạn: nghe tiếng động ở phòng ngoài, Grusenka nhảy ngay xuống khỏi đi văng và sợ hãi la lên: “Ai đấy?” Nhưng cô hầu gái đã đón khách và lập tức trả lời chủ:
- Không phải cậu ấy đâu ạ, mấy người khác, khách này thì không sao ạ.
“Cô ấy có chuyện gì vậy?” - Rakitin lẩm bẩm, cầm tay Aliosa kéo vào phòng khách. Grusenka đứng bên đi văng, dường như vẫn sợ hãi. Một mảng tóc tết bím màu hạt dẻ sẫm đổ ra khỏi mũ, xõa xuống vai bên phải, nhưng nàng không để ý đến và không sửa lại, cho đến khi nhìn kĩ hai người khách và nhận ra họ.
- A, anh đấy ư, Rakitin? Anh làm tôi hết hồn. Ai đi với anh thế? Trời ơi, anh đưa ai đến thế này! - Nhận ra Aliosa, nàng kêu lên.
- Thắp nến lên đi! - Rakitin nói, vẻ suồng sã ra dáng một người thân thuộc có quyền sai bảo trong nhà.
- Nến… cố nhiên là thắp nến… Fenia, đem cây nến đến đây… Ồ lại chọn lúc này mà đưa anh ấy đến! - Nhưng lại kêu lên, gật đầu với Aliosa và quay về phía tấm gương, nhanh nhẹn đưa hai tay lên sửa lại bím tóc. Dường như nàng không hài lòng.
- Không vừa ý cô ư? - Rakitin hỏi, gần như mếch lòng.
- Anh làm tôi hoảng sợ, Rakitin ạ, thế thôi. - Grusenka mỉm cười quay về phía Aliosa. - Anh đừng sợ tôi, Aliosa thân mến ạ, anh đến tôi mừng quá đi, anh là người khách bất ngờ của tôi. Còn anh làm tôi sợ quá, Rakitin ạ, tôi cứ tưởng Mitia xộc vào. Thế này nhé, ban nãy tôi đánh lừa anh ấy và bắt anh ấy thề danh dự là tin tôi, thế nhưng tôi đã nói dối anh ấy. Tôi bảo anh ấy rằng tôi đến Kuzma Kuzmitr, ông già của tôi, tôi sẽ đi suốt buổi tối, cùng với ông già tính tiền đến đêm. Tuần nào tôi cũng đến ông ấy tính toán sổ sách suốt một buổi tối. Chúng tôi ở trong buồng khóa cửa lại: ông ấy gảy bàn tính, còn tôi ngồi ghi sổ, ông ấy chỉ tin tôi thôi. Mitia tin rằng tôi ở đấy, thế mà tôi lại đóng cửa ngồi nhà, chỉ chờ một tin đưa đến. Sao Fenia lại cho các anh vào kia chứ! Fenia, Fenia! Chạy ra mở cổng nhìn xung quanh xem đại úy có lảng vảng quanh đâu đây không? Có lẽ anh ấy nấp rình, tôi sợ chết đi được!
- Không có ai đâu, cô Agrafena Alecxandrovna ạ, vừa nãy cháu đã nhìn khắp xung quanh, chốc chốc cháu lại đến nhòm qua khe cửa chính cháu cũng sợ run lên đây này.
- Cửa chớp có đóng không, Fenia? Mà buông rèm xuống đi, thế này này! - Nàng tự tay buông những tấm rèm nặng, - kẻo thấy có ánh sáng, anh ấy xông vào đấy. Hôm nay tôi sợ anh Mitia nhà anh. Aliosa ạ, - Grusenka nói to, lo lắng, nhưng tuồng như có phần hân hoan.
- Tại sao hôm nay cô lại sợ Mitenka? - Rakitin hỏi. - Mọi khi cô có sợ anh ta đâu, anh ta vẫn chịu cho cô sai khiến kia mà.
- Tôi đã bảo với anh là tôi đang đợi một tin báu ngọc mà, vì thế bây giờ tôi chẳng can gì đến Mitenka. Với lại anh ấy cũng không tin rằng tôi đến Kuzma Kuzmitr, tôi cảm thấy điều đó. Hẳn là bây giờ anh ấy đang phục trong vườn phía sau nhà Fedor Pavlovich để rình tôi. Nếu anh ấy đã phục ở đó thì tức là sẽ không đến đây, vậy thì càng hay! Quả thật là tôi đã đến Kuzma Kuzmitr, Mitia cùng đi với tôi đến đấy, tôi bảo với anh ấy rằng tôi sẽ ở đấy đến nửa đêm và lúc ấy nhất định anh ấy phải đến đưa tôi về. Anh ấy về tôi ngồi ở chỗ ông già khoảng mươi phút rồi về đây, tôi sợ quá chạy hộc tốc để khỏi gặp anh ấy.
- Thế cô diện như thế này để đi đâu? Cô đội cái mũ gì kì vậy?
- Sao anh lại tò mò thế, Rakitin! Tôi bảo với anh là tôi đang chờ tin mà. Nhận được tin là tôi vút đi ngay, các anh sẽ không còn thấy mặt mũi tôi đâu nữa. Tôi mặc đẹp để sẵn sàng đi ngay.
- Cô đi đâu?
- Biết nhiều chóng già đấy.
- Gớm chưa. Nom vui mừng hớn hở… Chưa bao giờ tôi thấy cô như thế. Diện như đi vũ hội. - Rakitin nhìn nàng từ đầu đến chân.
- Anh có hiểu gì mấy về vũ hội.
- Cô thì hiểu lắm à?
- Tôi đã từng xem vũ hội. Hơn hai năm trước Kuzma Kuzmitr cưới vợ cho con trai, tôi đứng ở hàng lan can nhìn xem. Nhưng mà Rakitin ạ, nói chuyện với anh làm quái gì, khi có một ông hoàng như thế này đang đứng đây. Một vị khách quý! Aliosa thân mến, tôi nhìn anh mà không tin; trời ơi, anh mà lại đến nhà tôi mới lạ chứ! Thực tình mà nói, tôi không sao ngờ tới, trước đây tôi không bao giờ tin rằng anh có thể đến nhà tôi. Kể thì đến bây giờ không phải lúc, nhưng tôi rất vui mừng! Ngồi xuống đi văng đi chỗ này này, thế, vầng trăng non của tôi ơi. Nói thực là tôi vẫn chưa hiểu rõ… Chà - chà, Rakitin, giá như hôm qua hay hôm kia anh đưa anh ấy đến thì hay biết mấy!… Nhưng thôi, thế này tôi cũng mừng lắm rồi. Mà có lẽ bây giờ lại càng hay, giữa lúc này, chứ không phải hôm kia…
Nàng ngồi thụp ngay xuống đi văng cạnh Aliosa, nhìn anh, vẻ thán phục ra mặt. Quả thật nàng vui mừng, nàng không nói dối. Mắt nàng rực lên, môi nàng cười, nhưng là cái cười hiền hậu, vui vẻ. Aliosa thậm chí không ngờ nét mặt nàng đôn hậu thế… Trước ngày hôm qua anh ít gặp nàng, anh có một quan niệm ghê sợ về nàng, còn hôm qua anh bàng hoàng kinh hãi về cái trò quỷ quyệt và độc ác của nàng chống lại Ekaterina Ivanovna và rất đỗi ngạc nhiên vì bây giờ bỗng nhiên anh thấy nàng khác hẳn, thật bất ngờ. Mặc dù lòng trĩu nặng nỗi đau xót riêng; vô tình mắt anh chăm chú nhìn nàng. Mọi cử chỉ của nàng dường như cũng khác hẳn hôm qua, dễ thương hơn: lối nói hầu như không còn cái giọng đường mật hôm qua, cử động không ẻo lả và kiểu cách như thế nữa… mà tất cả đều giản dị, hồn nhiên, động tác nhanh gọn, tin cậy, nhưng nàng có vẻ xúc động lắm.
- Trời ơi, tất cả những điều ấy đều xảy đến hôm nay, thật thế. - Nàng lại thủ thỉ. - Tại sao thấy anh đến tôi lại vui sướng như thế, chính tôi cũng không biết nữa, Aliosa ạ. Anh có hỏi, tôi cũng không biết!
- Cô không biết tại sao cô vui sướng à? - Rakitin nhếch mép cười - Trước đây cớ gì cô cứ nài tôi: dẫn anh ấy đến đi, tôi có mục đích riêng.
- Trước đây tôi có mục đích khác, bây giờ thì thôi rồi, không phải lúc nữa rồi. Tôi sẽ thết đãi các anh, thế đấy. Bây giờ tôi trở nên tốt bụng. Rakitin ạ. Anh ngồi xuống đi. Rakitin, đứng làm gì? Anh đã ngồi rồi ư? Ai chứ Rakitin thì không quên bản thân mình đâu. Aliosa ạ, bây giờ anh ta đang ngồi trước mặt chúng ta, vậy mà còn bực bội là làm sao, tôi không mời anh ta ngồi trước khi mời anh. Rakitin, tôi dễ mếch lòng lắm, đến là dễ mếch lòng! - Grusenka bật cười. - Đừng cáu. Rakitin, lúc này tôi hiền thôi mà. Sao anh nom buồn thế, Aliosa, hay anh sợ tôi? - Nàng nhìn vào mắt anh với vẻ giễu cợt vui vẻ.
- Anh ấy đang có sự đau xót. Không được thăng bậc.
- Cấp bậc gì?
- Trưởng lão của anh ấy bốc mùi khó ngửi.
- Bốc mùi sao kia? Anh định nói chuyện vớ vẩn, nhảm nhí gì vậy… Im đi, đồ ngốc. Aliosa, cho tôi ngồi lên đùi anh nào, thế! - Nàng tức khắc nhỏm người và vừa cười vừa ngồi tót lên đùi Aliosa, như con mèo nũng nịu, tay phải âu yếm choàng lấy cổ anh. - Tôi sẽ làm anh vui thú, anh chàng ngoan đạo của tôi ạ! Ồ không, anh cho phép tôi ngồi trên đùi anh mà không giận thực ư? Anh bảo một câu là tôi nhảy xuống ngay.
Aliosa lặng thinh. Anh ngồi không dám động đậy, anh nghe thấy lời Grusenka nói: “Anh bảo một câu là tôi nhảy xuống ngay,” nhưng anh không trả lời, như chết lặng đi. Nhưng anh không có cái cảm giác mà Rakitin chờ đợi và tưởng tượng ra cho anh trong lúc này: anh ta ngồi ở chỗ của mình hau háu nhìn bằng con mắt dâm đãng. Nỗi đau xót ghê gớm trong tâm hồn nuốt chửng mọi cảm giác có thể nảy sinh trong cảm Aliosa, và như lúc này anh có thể hoàn toàn hiểu rõ mình thì hẳn anh sẽ đoán ra rằng anh được bọc một lớp giáp sắt hết sức vững chắc chống lại mọi sự cám dỗ. Tuy nhiên, mặc dù lúc này tâm hồn anh đang rối loạn đến tê dại và trong lòng hết sức đau xót, bất giác anh vẫn ngạc nhiên về một cảm giác mới mẻ kỳ lạ: người phụ nữ này, người phụ nữ “đáng sợ” này bây giờ chẳng những không làm anh sợ như trước, nỗi sợ nảy sinh trong anh trước đây mỗi khi tơ tưởng đến phụ nữ, nếu như một mơ ước như thế thoáng hiện trong tâm hồn anh, nhưng trái lại, người phụ nữ này, mà anh sợ hơn hết thảy, đang ngồi trên đùi anh và ôm anh, bây giờ bỗng nhiên lại khơi dậy trong anh một tình cảm hoàn toàn khác, bất ngờ và đặc biệt, một cảm giác tò mò hơi lạ thường, hết sức mãnh liệt và chân tình đối với nàng, và không một chút sợ hãi, không một chút kinh hoàng như trước kia, đấy là điều quan trọng nhất bất giác làm anh ngạc nhiên.
- Thôi chuyện trò nhăng nhít thế đủ rồi. - Rakitin lớn tiếng nói. - Đưa sâm banh ra đây thì hơn, cô nợ tôi đấy, cô thừa biết đi rồi!
- Đúng là tôi nợ anh, Aliosa ạ, tôi có hứa rằng nếu anh ta rủ được anh đến thì ngoài mọi cái khác ra, tôi sẽ khao sâm banh. Ừ, thì sâm banh, tôi cũng sẽ uống! Fenia, Fenia, đưa sâm banh ra đây lấy cái chai Mitia để lại ấy, chạy nhanh lên. Tôi tuy bủn xỉn, nhưng cũng bỏ ra một chai không phải để mừng Rakitin đâu, anh là cây nấm, còn Aliosa là ông hoàng! Tuy bây giờ tôi chẳng bụng dạ đâu nghĩ đến chuyện ấy, nhưng thôi được, tôi sẽ uống với các anh, tôi muốn phá phách một chầu!
- Cô nói “lúc này” là thế nào, “tin” gì vậy, có bí mật không đấy? - Rakitin lại tò mò chêm lời, cố làm ra vẻ không để ý gì đến những lời châm chọc tới tấp phóng vào anh ta.
- Ồ chẳng phải là điều bí mật, chính anh cũng biết đấy, - Grusenka nói với vẻ lo ngại, quay đầu về phía Rakitin và hơi ngã người tách khỏi Aliosa, tuy vẫn ngồi trên đùi anh, một tay quàng cổ anh. - Chàng sĩ quan trở về, Rakitin ạ, chàng sĩ quan của tôi trở về.
- Tôi có nghe nói, nhưng đã về gần đến thế rồi kia à?
- Hiện giờ ở Mokroe và sẽ báo tin đến đây ngay, anh ấy đã viết thư cho tôi, tôi vừa nhận được ban nãy. Tôi đang chờ tin đây.
- Lạy Chúa! Sao lại ở Mokroe?
- Kể thì dài lắm, mà thôi miễn anh đi!
- Bây giờ thì sầu cho Mitenka! Anh ta có biết không?
- Biết thế nào được! Chẳng biết tí gì! Biết thì anh ấy giết. Nhưng bây giờ tôi cũng chẳng sợ gì nữa, bây giờ tôi không sợ mũi dao của anh ấy. Im đi. Rakitka, đừng nhắc đến Dmitri Fedorovich: anh ấy làm tan nát trái tim tôi. Lúc này tôi không muốn nghĩ gì đến chuyện ấy. Nhưng tôi có thể nghĩ tới Aliosa, tôi đang nhìn Aliosa đây này… Mỉm cười với tôi đi, bạn thân yêu, vui lên đi, hãy mỉm cười đi về sự ngu ngốc của tôi, về niềm vui sướng của tôi… Anh ấy mỉm cười rồi! Mỉm cười rồi! Anh ấy nhìn mới âu yếm làm sao. Anh Aliosa ạ, tôi vẫn cứ tưởng anh giận tôi về chuyện xảy ra hôm kia với cô tiểu thư ấy. Tôi là đồ chó má, thế đấy… Có điều như thế vẫn là hay. Bất kể như thế là xấu hay tốt - Grusenka bỗng nhếch mép cười, và một nét tàn bạo thoáng hiện trong nụ cười của nàng. - Mitia kể lại với tôi rằng cô ả gào lên: “Phải cho nó ăn đòn!” Tôi đã chọc cô ta một vố điếng người. Cô ta mời tôi đến vì muốn thắng tôi, định phỉnh tôi bằng một miếng sôcôla… Không, như vậy tốt thôi. - Nàng lại mỉm cười - Thế mà tôi vẫn cứ sợ anh giận tôi.
- Mà có thể thật. - Rakitin chen vào, ngạc nhiên thật sự. - Aliosa ạ, hóa ra cô ta sợ anh thật đấy, mặc dù anh chỉ là chú gà con.
- Với anh thì anh ấy mới là chú gà con, Rakitin ạ… bởi vì anh không có lương tâm, thế đấy! Còn tôi, anh biết không, tôi yêu anh ấy bằng tâm hồn, thế đấy! Aliosa, anh có tin là tôi yêu anh bằng tất cả tâm hồn không?
- Cô là đồ trơ trẽn! Cô ta tỏ tình với anh đấy, Alecxei ạ!
- Thì sao, tôi yêu anh ấy đấy.
- Thế còn anh chàng sĩ quan? Thế còn cái tin báu ngọc từ Mokroe?
- Chuyện ấy khác, chuyện này khác.
- Đúng là miệng lưỡi đàn bà!
- Đừng chọc tức, Rakitin, - Grusenka sôi nổi đáp, - việc ấy khác việc này khác. Tôi yêu Aliosa một cách khác. Của đáng tội, Aliosa ạ, trước đây tôi có một ý định ranh ma với anh. Tôi là đứa hèn hạ, cuồng bạo thật, nhưng có những lúc tôi coi anh là lương tâm của tôi, Aliosa ạ. Tôi vẫn cứ nghĩ: “Ta là một đứa xấu xa, con người như thế hẳn phải khinh bỉ ta.” Hôm kia, khi từ nhà cô ả chạy về đây, tôi nghĩ như thế. Tôi đã để ý đến anh từ lâu, Aliosa ạ Mitia cũng biết, tôi đã nói với anh ấy. Mitia thì anh ấy hiểu. Anh có tin không chứ, Aliosa ạ, quả thật là đôi khi nhìn anh tôi thấy xấu hổ, tôi xấu hổ về bản thân tôi… Tại sao tôi cứ nghĩ đến anh và từ bao giờ, tôi không biết và không nhớ…
Fenia vào, đặt lên bàn chiếc khay có chai rượu đã mở nút và ba cốc đã rót rượu.
- Sâm banh đây rồi! - Rakitin reo lên. - Cô xúc động và mất bình tĩnh, Agrafena Alecxandrovna ạ. Cô uống một cốc rồi sẽ khiêu vũ cho mà xem. Chà chà, có cái việc này mà bọn họ cũng không biết làm, - anh ta nhìn chỗ sâm banh, nói thêm, - bà già rót sẵn rượu ở bếp, chai thì mở nút, rượu lại ấm nữa chứ. Nào thôi, uống tạm đi vậy.
Anh ta tới gần bàn, cầm lấy cái cốc, uống cạn một hơi và tự rót cho mình cốc nữa.
- Mấy khi được thưởng thức sâm banh, - anh ta vừa liếm mép vừa nói, - nào, Aliosa, cầm lấy cốc đi, ra mặt tài trai đi chứ.
- Chúng ta uống mừng cái gì nhỉ? Mừng cổng thiên đàng ư? Cầm cốc lên, Grusa, cô cũng uống mừng cổng thiên đàng đi!
- Cổng thiên đàng nào kia?
Nàng cầm cốc. Aliosa cầm lấy cốc của mình nhắp một ngụm, rồi đặt xuống.
- Không, tôi không uống thì hơn! - Anh mỉm cười hiền lành.
- Thế mà đã huênh hoang! - Rakitin quát lên.
- Nếu vậy thì tôi cũng không uống, - Grusenka nói, - mà tôi cũng chẳng muốn uống kia. Uống đi, Rakitin, một mình uống hết cả chai đi. Aliosa có uống thì tôi mới uống.
- Bắt đầu làm nũng rồi đấy! - Rakitin trêu chọc. - Mà nàng vẫn ngồi trên đùi chàng kia mà! Anh ta đang đau xót, còn cô thì có sao đâu? Anh ta nổi loạn chống lại Chúa Trời của mình, định chén xúc xích…
- Sao lại thế?
- Trưởng lão chết hôm nay, trưởng lão Zoxima, một vị thánh.
- Trưởng lão Zoxima chết rồi! - Grusenka kêu lên. - Trời ơi, thế mà tôi không biết! - Nàng sùng kính làm dấu. - Trời ơi, thế mà tôi đang làm gì đây, tôi ngồi trên lòng anh ấy!
Nàng bỗng bật dậy như sợ hãi, từ trên đùi Aliosa nhảy ngay xuống, đến ngồi xuống đi văng. Aliosa ngạc nhiên nhìn nàng một lúc lâu, gương mặt anh dường như sáng lên.
- Rakitin, - anh bỗng nói to và cương quyết, - đừng trêu chọc tôi bảo tôi nổi loạn chống lại Chúa Trời của tôi. Tôi không muốn gây thù oán gì với anh, vậy anh cũng nên tốt bụng hơn mới phải. Tôi đã mất một của báu mà anh chưa bao giờ có, vì thế bây giờ anh không thể phán xét tôi được. Tốt hơn hết là hãy nhìn chị ấy đây này: anh có thấy chị ấy thương tôi như thế nào không? Tôi đến đây tìm một tâm hồn độc ác, nhưng tôi tìm thấy người chị chân tình, một tâm hồn biết yêu… Bây giờ chị ấy thương tôi, Agrafena Alecxandrovna, tôi nói về chị đấy. Giờ đây chị đã vực dậy tâm hồn tôi.
Môi Aliosa run run, hơi thở nghẹn lại. Anh ngừng lời.
- Làm như cô ấy đã cứu anh không bằng! - Rakitin cất tiếng cười hằn học. - Vậy mà cô ấy muốn ăn, tươi nuốt sống anh đấy, anh có biết thế không?
- Thôi đi, Rakitin! - Grusenka bỗng bật dậy. - Cả hai anh đều im đi. Bây giờ tôi sẽ nói hết: Aliosa, anh đừng nói nữa, bởi vì lời anh nói làm tôi xấu hổ, bởi vì tôi độc ác, chứ không phải tốt bụng, tôi thế đấy. Còn anh, Rakitin, anh im đi, bởi vì anh nói dối. Đúng là tôi đã có ý định đê mạt, tôi muốn ăn tươi nuốt sống anh ấy, còn bây giờ thì anh nói dối, bây giờ hoàn toàn không phải thế… tôi không muốn nghe anh nói gì nữa, Rakitin ạ! - Tất cả những điều đó Grusenka nói với vẻ xúc động lạ thường.
- Cả hai đều nổi điên! - Rakitin rít lên ngạc nhiên nhìn cả hai người, - như những kẻ loạn trí, cứ như thể ta lọt vào một nhà điên. Họ làm cho nhau mủi lòng, họ sẽ òa khóc bây giờ đây!
- Tôi sẽ khóc, tôi sẽ khóc! - Grusenka lẩm bẩm. - Anh ấy gọi tôi là chị, tôi sẽ không bao giờ quên điều đó! Có điều là, Rakitin ạ, tôi cay độc ác nhưng đã có lần tôi cho người khác một nhánh hành.
- Nhánh hành nào kia? Hừ, quái quỷ, đúng là anh ấy loạn trí rồi!
Phần 7 
Chương 3 - P2
Rakitin ngạc nhiên thấy hai người hoan hỷ và anh ta bực tức, đáng ra anh ta có thể hiểu được rằng đối với cả hai người này, tất cả những gì có thể làm rung động tâm hồn họ đều trùng khớp nhau, điều không mấy khi xảy ra trong đời. Nhưng Rakitin vốn rất nhạy với tất cả những gì đụng chạm đến anh ta, lại rất thô bạo khi hiểu tình cảm và cảm giác của người khác, một phần vì tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, một phần vì anh ta hết sức ích kỷ.
- Này Aliosa thân mến ạ, - Grusenka bỗng phá lên cười một cách nóng nảy, nói với Aliosa, - ấy là tôi đã khoe với Rakitin là tôi đã từng cho một nhánh hành, nhưng với anh thì tôi không khoe khoang đâu, tôi kể với anh nhằm một mục đích khác. Đấy chỉ là một chuyện ngụ ngôn, nhưng là một chuyện ngụ ngôn hay, hồi còn bé tôi đã được Matriona kể cho nghe, Matriona là người nấu bếp cho tôi bây giờ ấy mà. Chuyện thế này này: Ngày xưa có một người đàn bà cực kì độc ác. Mụ chết đi không để lại một đức tính tốt nào cả. Quỷ bắt mụ ném xuống hồ lửa. Vị thần hộ mệnh của mụ nghĩ mãi: phải nhớ ra một đức tính tốt của mụ để trình với Chúa Trời: mụ đã nhổ một nhánh hành trong vườn ra đem cho một phụ nữ hành khất. Chúa Trời phán truyền: hãy lấy chính nhánh hành ấy đưa cho mụ ở dưới hồ, bảo mụ bám lấy nếu ngươi kéo được mụ lên thì mụ được lên thiên đàng, nếu nhánh hành đứt thì mụ cứ ở đấy. Thần chạy đến chìa cho mụ nhánh hành: này, mụ kia, nắm lấy - thần nói. Và thần thận trọng kéo mụ lên và đã gần kéo hẳn được mụ lên bờ, nhưng những kẻ tội lỗi khác ở dưới hồ thấy mụ được kéo lên liền bám cả lấy mụ đề cùng được thoát nạn. Mụ đàn bà này độc ác vô cùng, mụ dùng chân đạp họ: “Thần kéo ta lên, chứ không kéo các người, nhánh hành của ta chứ không phải của các người.” Mụ vừa nói câu đó thì nhánh hành đứt liền. Mụ rơi tõm xuống hồ và bị lửa thiêu đến tận bây giờ. Thần khóc và bỏ đi. Câu chuyện ngụ ngôn ấy như thế đấy Aliosa ạ, hãy ghi lòng tạc dạ, vì tôi chính là mụ đàn bà cực kì độc ác ấy. Tôi khoe với Rakitin rằng tôi đã có một nhánh hành, còn với anh thì tôi sẽ nói khác: cả đời tôi chỉ cho được có một nhánh hành, tất cả đức hạnh của tôi chỉ có thế. Vậy thì anh đừng có khen tôi, Aliosa ạ, đừng cho là tôi tốt bụng, tôi độc ác độc ác hết sức, anh mà khen tôi là làm cho tôi xấu hổ đấy. Thôi được, tôi sẽ thú nhận hết. Anh nghe đây, Aliosa: tôi rất mong nhử được anh đến đây và đã nài Rakitin, hứa trả cho anh ta hai mươi nhăm rúp nếu anh ta lôi được anh đến. Khoan, Rakitin, đợi đấy! Nàng bước nhanh đến gần bàn, mở ngăn kéo, lấy ví tiền, rút ra tờ hai mươi nhăm rúp.
- Tầm bậy! Quá ư tầm bậy! - Rakitin sững sờ, kêu lên.
- Cầm lấy đi, Rakitin, xong nợ nhé, chắc là anh không khước từ đâu, chính anh đòi hỏi kia mà. - Và nàng quẳng cho anh ta tờ giấy bạc.
- Tội gì mà không lấy, - Rakitin nói bằng giọng trầm lặng, rõ ràng là ngượng ngập, nhưng vẫn làm ra bộ hiên ngang để che giấu sự hổ thẹn, - sẽ có ích cho chúng ta, đời có những đứa ngu ngốc chỉ là để làm lợi cho người thông minh.
- Còn bây giờ thì anh im đi, Rakitin, tất cả những điều tôi sắp nói bây giờ không phải để cho lỗ tai anh đâu. Ngồi vào góc này và im mồm đi, anh không yêu chúng tôi, thế thì im đi.
- Cớ gì tôi phải yêu các người kia chứ? - Rakitin cằn nhằn, không che giấu sự hằn học. Anh ta nhét tờ hai mươi nhăm rúp vào túi hết sức sạn mặt với Aliosa. Anh ta trù tính sẽ lấy tiền công sau này, như thế Aliosa sẽ không biết gì, bây giờ vì xấu hổ mà anh ta tức giận. Cho đến lúc này anh ta vẫn thấy rằng khôn nhất là đừng cãi lại Grusenka, mặc dù tất cả những lời châm chọc của nàng, vì nàng vẫn có một quyền lực nào đó đối với anh ta. Nhưng bây giờ thì anh ta cáu:
- Vì lẽ gì mà yêu các người kia chứ, cả hai anh chị đã làm gì cho tôi?
- Yêu là yêu thế thôi, như Aliosa đây này.
- Anh ta yêu cô như thế nào và đã có gì chứng tỏ rằng anh ta luôn luôn nghĩ đến cô?
Grusenka đứng giữa phòng, nói một cách hăm hở, giọng phấn khích như loạn thần kinh:
- Anh im đi, Rakitin, anh không hiểu gì về chúng tôi đâu! Và không được gọi tôi bằng cô, tôi không cho phép, sao anh dám cả gan như thế! Ngồi vào góc kia và im đi, như thằng hầu của tôi ấy. Còn bây giờ, Aliosa ạ, tôi sẽ nói hết sự thật chỉ với anh thôi, để anh thấy tôi là đồ súc sinh như thế nào! Tôi không nói với Rakitin đâu, mà nói với anh đấy. Tôi muốn làm hại đời anh, Aliosa ạ, đấy là một sự thật lớn lao, tôi đã quyết như thế. Ý muốn ấy của tôi mạnh mẽ đến nỗi tôi đã bỏ tiền ra mua Rakitin để anh ta đưa anh đến đây. Vì sao tôi muốn như thế? Aliosa ạ, anh chẳng biết gì hết, thấy tôi anh quay mặt đi, khi đi qua gần tôi, anh gằm mặt xuống, còn tôi thì trước đó tôi đã nhìn anh một trăm lần, tôi đã hỏi mọi người về anh. Gương mặt anh khắc sâu trong tim tôi: “Anh ta khinh mình,” tôi nghĩ, “thậm chí anh ta không buồn nhìn mình.” Cuối cùng chính tôi cảm thấy ngạc nhiên về bản thân tôi: vì sao ta sợ chú bé này? Ta sẽ ăn tươi nuốt sống gã và cười vui thỏa thích. Tôi tức tối lắm, điều này chẳng biết anh có tin không: Ở đây không ai dám nói và nghĩ tới chuyện đến Agrafena Alecxandrovna để bờm xơm giăng gió, tôi chỉ có ông già ấy thôi, tôi bị ràng buộc với ông ta và bán mình cho ông ta, quỷ Sa tăng buộc chúng tôi có duyên nợ với nhau, ngoài ra không còn ai khác Nhìn anh, tôi quyết định: ta sẽ nuốt sống anh chàng này. Sẽ nuốt sống và cười thỏa thích. Anh thấy đấy, tôi là con chó dữ, vậy mà anh gọi tôi bằng chị! Bây giờ thì người đàn ông mà tôi oán hận đã về, bây giờ tôi ngồi đợi tin. Anh có biết người đó đã gây cho tôi nỗi oán hận như thế nào không? Năm năm trước Kuzma đã đưa tôi về đây, tôi chỉ ngồi lì một chỗ, tránh mặt mọi người, để không ai nhìn thấy tôi và nghe tiếng tôi, tôi khẳng khoeo, ngốc nghếch, chỉ ngồi khóc, suốt nhiều đêm không ngủ, tôi nghĩ: “Bây giờ anh ta ở đâu, anh chàng đã gây cho tôi nỗi oán hận ấy? Hẳn là bây giờ anh ta đang cùng ả khác chế nhạo tôi, tôi nghĩ, miễn là có lúc gặp được anh ta: tôi sẽ trả thù anh ta, trả thù ghê gớm!” Ban đêm tôi úp mặt vào gối khóc nức nở và cứ nghĩ mãi về chuyện ấy, tôi cố tình vò xé trái tim tôi, gặm nhấm mối căm giận anh ta cho nguôi nỗi lòng: “Ta sẽ trả thù anh ta, sẽ trả thù thật ghê gớm!” Đôi khi tôi thét lên như vậy trong bóng tối. Cứ chợt nhớ lại rằng tôi chẳng làm gì anh ta mà bây giờ anh ta chế nhạo tôi, và có lẽ đã quên hẳn tôi, không còn nhớ gì đến tôi nữa là tôi từ trên giường, nhảy xuống sàn, nước mắt chan hòa vì cảm thấy mình bất lực, run lên bần bật cho đến rạng sáng. Buổi sáng trở dậy, tôi càng như con chó dữ, tôi sẵn lòng nuốt tươi cả thế giới. Rồi sau đó, anh biết không: tôi bắt đầu dành dụm một số vốn, tôi đâm ra tàn nhẫn, thân hình đẫy ra, chắc anh tưởng tôi đã khôn lên chứ gì? Ồ không, điều này cả vũ trụ không ai nhìn thấy và biết được: khi bóng đêm buông xuống, vẫn như một con nhóc năm năm về trước, đôi khi tôi nằm nghiến răng suốt đêm: “Ta sẽ trả thù gã, ta sẽ trả thù gã,” tôi nghĩ. Anh có nghe tôi nói không đấy? Vậy thì bây giờ anh hiểu tôi: một tháng trước đột nhiên tôi nhận được lá thư: anh đã góa vợ, anh ta về đây, muốn gặp tôi. Lúc ấy tôi nghẹt thở, trời ơi, và tôi bỗng nghĩ: anh ta đến, huýt một tiếng sáo gọi tôi và tôi sẽ như con chó con bò lết đến với anh ta, con chó bị đánh, biết lỗi. Tôi nghĩ điều đó và không tin mình nữa: “Ta có phải là kẻ đê hèn hay không, ta có chạy đến với gã không.” Suốt tuần nay tôi tự giận mình ghê gớm, còn tức giận hơn cả năm năm trước. Bây giờ, Aliosa ơi, anh có thấy tôi dữ tợn, điên ruột như thế nào không, tôi nói hết sự thật với anh rồi đấy! Tôi giỡn Mitia để khỏi chạy đến đấy. Im đi, Rakitin, không phải anh có quyền phán xét tôi, tôi không nói với anh. Trước khi các anh đến, tôi nằm đây chờ đợi, nghĩ ngợi, quyết định số phận của mình, và không bao giờ các anh biết được tâm tình tôi lúc ấy thế nào. Không, Aliosa, hãy nói với cô tiểu thư ấy đừng tức giận về chuyện hôm kia… Cả thế gian không ai biết được lúc này tôi thế nào và không thể biết được… Có lẽ hôm nay tôi sẽ mang theo con dao, tôi vẫn chưa quyết định…
Nói ra điều “ai oán” ấy, Grusenka không nén lòng được, không nói hết lời đã đưa hai tay lên bưng mặt, gieo mình xuống đi văng, úp mặt vào gối khóc nức nở như trẻ nhỏ. Aliosa đứng dậy và đến gần Rakitin.
- Misa, - anh nói - đừng giận. Chị ấy xúc phạm anh, nhưng đừng giận. Anh có nghe chị ấy nói đấy chứ? Không thể đòi hỏi quá nhiều ở con người, phải nhân từ hơn…
Aliosa nói điều đó trong tâm trạng kích động không sao kìm nén được. Anh cần nói ra lời và anh nói với Rakitin. Nếu như không có Rakitin, anh sẽ kêu lên một mình. Nhưng Rakitin nhìn với vẻ giễu cợt, và Aliosa bỗng ngừng lại.
- Đấy là vì ban nãy người ta đã làm cho đầu óc anh đầy ắp trưởng lão của anh và bây giờ anh phóng trưởng lão của anh vào tôi, Aliosa người của Chúa ạ. - Rakitin nói, mỉm cười căm hờn.
- Đừng chế nhạo, Rakitin, đừng giễu cợt khi nói về người quá cố: Cha cao cả hơn tất cả mọi người trên trái đất này! - Aliosa la lên, giọng nghe như khóc. Tôi nói với anh không phải như một phán quan xét xử anh, mà như một bị cáo hèn hạ nhất. Tôi là gì trước chị ấy? Tôi đến đây để tự hủy hoại mình và nói: “Thôi được mặc!” là vì tôi hèn nhát, còn chị ấy đau khổ suốt năm năm, thế mà một người vừa đến nói với chị ấy một lời thành thật, chị ấy đã tha thứ hết, quên hết và khóc! Người gây cho chị ấy mối hận lòng đã trở lại, gọi chị ấy, và chị ấy tha thứ hết cho anh ta, vui sướng mau mau đến với anh ta, chị ấy sẽ không mang theo con dao đâu, không mang đâu! Không, tôi không cao cả được như thế! Tôi không biết anh có được như thế không, Misa ạ, nhưng tôi thì không! Hôm nay tôi vừa thâu nhận được bài học ấy. Chị ấy cao hơn chúng ta và có tình yêu… Trước đây anh có từng được nghe những gì chị ấy vừa kể với chúng ta không? Không, chưa từng được nghe; nếu được nghe thì anh đã hiểu hết từ lâu rồi cả người phụ nữ bị xúc phạm hôm nọ cũng sẽ tha thứ cho chị ấy! Người phụ nữ ấy sẽ tha thứ, nếu nàng biết chuyện… và nàng sẽ biết… Tâm hồn ấy vẫn chưa nguôi dịu, cần nương nhẹ nó… và trong tâm hồn ấy có lẽ tiềm tàng một kho báu…
Aliosa im tiếng, bởi vì anh nghẹn thở. Rakitin, mặc dù tức giận cành hông, cũng ngạc nhiên trân mắt nhìn. Anh ta không ngờ Aliosa hiền lành lại tuôn ra một tràng như vậy.
- Một trạng sư mới ra mắt! Anh mê cô ta chăng? Phải, ông thầy tu của chúng ta quả thực đã mê cô, cô thắng rồi! - Anh ta gào lên, cất tiếng cười trơ trẽn.
Grusenka cất đầu khỏi gối, nhìn Aliosa với nụ cười cảm kích ngời sáng trên khuôn mặt bỗng nhiên húp lên vì khóc.
- Mặc anh ta, Aliosa ạ, anh là thiên thần của tôi, anh biết anh ta thế nào rồi đấy, nói với anh ta làm gì, Mikhail Oxipovich ạ, - nàng nói với Rakitin, - tôi muốn xin lỗi vì đã mắng mỏ anh, nhưng bây giờ tôi lại không muốn nữa. Anh Aliosa, đến đây với tôi, ngồi xuống đây, anh hãy nói cho tôi biết (nàng lại cầm tay Aliosa, mỉm cười và nhìn vào mắt anh), anh hãy nói với tôi đi: tôi có yêu người đó không? Tôi có yêu con người phụ bạc ấy không? Trước khi anh đến đây, tôi nằm trong bóng tối, luôn luôn chất vấn trái tim mình: ta có yêu người ấy không? Anh giải đáp cho tôi đi. Aliosa, đã đến lúc rồi; anh định thế nào thì sẽ nên thế. Tôi có nên tha thứ cho anh ta không?
- Chị đã tha thứ rồi còn gì? - Aliosa mỉm cười nói.
- Quả thật là tôi đã tha thứ. - Grusenka trầm ngâm thốt lên. - Một trái tim hèn hạ biết bao! Mừng cho trái tim hèn hạ của tôi! - Nàng bỗng chộp lấy cốc rượu trên bàn, uống một hơi, rồi thẳng tay ném xuống sàn. Chiếc cốc vỡ tan, tiếng loảng xoảng dội lên.
Một nét tàn bạo thoáng hiện trong nụ cười của nàng.
- Mà có lẽ tôi chưa tha thứ đâu, - nàng bỗng nói bằng giọng hăm dọa, mắt găm xuống đất, như thể tự nói với mình. - Có lẽ trái tim chỉ mới có ý định tha thứ. Tôi sẽ còn chống cưỡng lại con tim. Anh Aliosa ạ, tôi quá yêu những giọt lệ năm năm qua của tôi… Có lẽ tôi chỉ yêu nỗi oán giận của tôi, chứ không phải là yêu anh ta!
- Tôi không muốn ở địa vị anh ta tí nào! - Rakitin làu bàu.
- Anh sẽ không bao giờ được ở địa vị như anh ta đâu, Rakitin ạ. Anh sẽ khâu giày cho tôi, Rakitin, tôi sẽ dùng anh vào việc như thế, người phụ nữ như tôi không bao giờ cái ngữ anh hòng mong được đâu… Mà ngay cả anh ta có lẽ cũng không hòng…
- Anh chàng kia ấy ư? Thế thì cô diện ngất như thế để làm gì? - Rakitin châm chọc cay độc.
- Đừng chê trách tôi mặc đẹp, Rakitin, anh chưa biết hết nỗi lòng tôi đâu! Nếu tôi muốn, tôi sẽ vứt bỏ bộ cánh này, bỏ ngay lúc này. - Nàng quát lên, giọng sang sảng. - Anh không biết bộ cánh này để làm gì đâu, Rakitin! Có thể tôi sẽ đến gặp anh ta và nói: “Anh đã thấy tôi như thế này bao giờ chưa?” Khi anh ta bỏ tôi, tôi chỉ là một con bé mười bảy tuổi, khẳng khiu, ốm o, hay khóc mà. Tôi sẽ đến ngồi sát vào anh ta, quyến rũ anh ta, khơi bùng lên ngọn lửa tình trong anh ta: “Anh thấy bây giờ tôi như thế nào rồi đấy,” - tôi sẽ nói, - “thôi, chịu tình suông vậy nhé, tôn ông của tôi ơi, của ngon không đến miệng ngài đâu!” Có lẽ bộ cánh này là để dùng vào việc ấy đấy, Rakitin ạ. - Grusenka kết thúc với tiếng cười hằn học. - Tôi là kẻ dữ dội, cuồng bạo, Aliosa ạ. Tôi sẽ vứt bỏ bộ cánh đẹp, tôi sẽ hủy hoại bản thân, hủy hoại sắc đẹp, tôi sẽ đốt cháy mặt, dùng dao rạch mặt, rồi sẽ đi ăn xin. Nếu tôi muốn, bây giờ tôi sẽ không đến với ai hết, nếu tôi muốn thì ngày mai tôi có thể gửi trả Kuzma tất cả những gì ông ta tặng tôi, tất cả tiền nong của ông ta, còn tôi sẽ suốt đời đi làm thuê công nhật… Anh nghĩ rằng tôi sẽ không làm như thế, không dám làm như thế phải không, Rakitin? Tôi sẽ làm, tôi sẽ làm, tôi có thể làm ngay bây giờ, miễn là đừng chọc tức tôi còn anh chàng kia thì tôi sẽ đuổi cổ đi, gí nắm tay vào mũi hắn, hắn đừng hòng tơ màng gì đến tôi!
Mấy lời sau cùng nàng gào lên trong cơn thác loạn, nhưng rồi lại không nén lòng được, đưa hai tay lên bưng mặt, nhào xuống úp mặt vào gối và run lên trong tiếng nức nở. Rakitin đứng dậy.
- Về thôi, - anh ta nói, - muộn rồi, người ta sẽ không cho vào tu viện đâu.
Grusenka bỗng bật dậy.
- Anh về ư, Aliosa! - Nàng kêu lên, đầy vẻ ngạc nhiên chua xót - Anh đối xử với tôi như thế sao: anh làm xáo động tâm hồn tôi, giày vò nó, thế rồi đêm nay tôi vẫn chỉ trơ trọi một mình.
- Anh ta ngủ đêm ở nhà cô sao được? Nhưng nếu anh ta muốn thì tùy! Tôi về một mình! - Rakitin bỡn cợt cay độc.
- Im đi, kẻ tâm địa độc ác, - Grusenka cuồng nộ quái lên. - Chưa bao giờ anh nói được với tôi những lời như anh ấy vừa nói.
- Anh ta đã nói gì đặc biệt với cô nào? - Rakitin làu nhàu vẻ cáu kỉnh.
- Tôi không biết, tôi không rõ, tôi chẳng rõ anh ấy đã nói với tôi điều gì khác thường, nhưng trái tim tôi rung động, anh ấy đã làm đảo lộn trái tim tôi… Anh ấy là người đầu tiên, người duy nhất thương tôi, thế đấy! Thiên thần của tôi ơi, sao trước đây anh không đến, - nàng bỗng quỳ thụp trước Aliosa, như trong cơn thác loạn, - suốt đời tôi chờ mong một người như anh, tôi biết rằng một người như thế sẽ đến và tha thứ cho tôi. Tôi biết sẽ có một người nào đó yêu tôi, dù tôi là đứa con gái nhơ nhuốc, yêu tôi không phải vì sự ô nhục của tôi.
- Tôi đã làm được điều gì đáng kể cho chị đâu? - Aliosa mỉm cười cảm động, trả lời, cúi xuống gần nàng và dịu dàng cầm tay nàng. - Tôi đã cho một nhánh hành, một nhánh hành nhỏ xíu, chỉ thế thôi, chỉ thế thôi…
Nói xong, anh bật khóc. Đúng lúc ấy ở phòng ngoài có tiếng ồn ào, có người nào vào nhà. Grusenka chồm dậy, như trong cơn sợ hãi khủng khiếp. Fenia sầm sập chạy vào, reo lên:
- Thưa cô cô yêu quý ơi, người đưa tin đã đến! - Cô hầu reo lên vui vẻ, thở hồng hộc. - Có xe ngựa từ Mokroe đến đón cô, Timofei đánh cỗ xe tam mã, họ sẽ đổi ngựa ngay bây giờ… Có thư, thư, thưa cô, thư đây này!
Cô bé cầm lá thư, vừa reo vừa vung lên. Grusenka giằng lấy lá thư và đem lại gần cây nến. Đấy chỉ là mẩu thư ngắn, có mấy dòng, nàng đọc xong trong nháy mắt.
- Anh ấy gọi! - Nàng la lên, mặt tái mét, méo xệch đi trong một nụ cười đau đớn, - anh ấy huýt sáo! Bò lết lại đây, con chó con!
Nhưng nàng chỉ lưỡng lự giây lát; bỗng nhiên máu dồn lên đầu và hai má nàng đỏ lựng.
- Tôi sẽ đi! - Nàng bỗng kêu lên. - Năm năm của tôi! Vĩnh biệt! Vĩnh biệt Aliosa, số phận đã định rồi… Các anh đi đi, đi đi, rời khỏi nhà tôi đi, để tôi khỏi nhìn thấy các anh nữa!… Grusenka đã bay vào cuộc đời mới… Anh cũng đừng để bụng oán giận tôi, Rakitin ạ. Có lẽ tôi đi đón cái chết! Ôi chao! Tôi như say rượu.
Nàng đột nhiên chạy vào phòng ngủ, bỏ mặc hai người.
- Hừ, bây giờ cô nàng thiết gì chúng ta nữa! - Rakitin càu nhàu - Ta đi đi, không thì tiếng la hét của đàn bà sẽ lập tức đập vào tai bây giờ, tôi chán ngấy nhưng tiếng la hét đầy nước mắt ấy lắm rồi…
Aliosa thẫn thờ để cho mình bị kéo đi. Ngoài sân có cỗ xe, người ta đang tháo ngựa, đi đi lại lại trong ánh sáng của cây đèn lồng, bận rộn ríu rít. Một cỗ xe tam mã mới được đưa vào cổng.
Nhưng Aliosa và Rakitin vừa xuống khỏi tam cấp thì cửa sổ buồng ngủ của Grusenka bỗng mở ra và nàng hét với theo Aliosa, giọng ngân vang:
- Aliosa thân mến, gửi anh lời chào Mitenka, nói với anh ấy đừng để bụng oán giận con bé độc ác này. Hãy nhắn hộ tôi nói với anh ấy rằng: “Grusenka đã về tay một thằng xỏ lá, chứ không thuộc về anh, một con người cao quý!” Và hãy nói thêm rằng Grusenka đã yêu anh ấy trong một giờ, vẻn vẹn có một giờ thôi, nhưng từ nay anh ấy hãy nhớ suốt đời một giờ ấy, hãy bảo rằng Grusenka ra lệnh cho anh ấy nhớ suốt đời…
Nàng dứt lời, giọng đầy tiếng nức nở. Cửa sổ sập lại.
- Hừm! Hừm! - Rakitin vừa cười vừa lẩm bẩm. - Ả đã cắt cổ Mitenka mà lại còn ra lệnh cho anh ta phải nhớ suốt đời. Đúng là thú dữ!
Aliosa không trả lời gì cả, tuồng như không nghe thấy. Anh rảo bước đi cạnh Rakitin, như thể vội vã lắm. Anh dường như mê man, bước đi như cái máy. Rakitin bỗng cảm thấy đau buốt như thể có ai thọc ngón tay vào vết thương còn mới nguyên của anh ta. Vừa rồi, khi đưa Aliosa đến nhà Grusenka, anh ta không ngờ đâu như thế; sự thể hoàn toàn không đúng như anh ta hết sức mong muốn.
- Gã sĩ quan ấy của cô ta là người Ba Lan. - Anh ta nói, cố nén lòng. - Bây giờ gã hoàn toàn không phải là sĩ quan, mà là một viên chức thuế quan ở Sibir, tại một nơi nào vùng biên giới với Trung Quốc, thằng cha Ba Lan này hẳn là một gà hèn kém. Đâu như gã đã mất chỗ làm. Bây giờ gã nghe nói Grusenka đã có vốn tiếng, vì thế gã trở lại, tất cả phép lạ là ở đấy.
Aliosa lại như thể không nghe thấy, Rakitin không nén nổi nữa:
- Sao, anh đã làm cho một kẻ tội lỗi tin theo đạo rồi hả? - Rakitin cười với Aliosa một cách độc ác. - Anh đã làm cho một con điếm trở lại con đường chính đạo phải không? Anh đã đuổi được bảy con quỷ rồi chứ gì? - Thì ra những phép lạ mà chúng ta chờ đợi là thế, nó đã diễn ra!
- Thôi đi, Rakitin. - Lòng đầy đau khổ, Aliosa đáp.
- Bây giờ anh “khinh” tôi về chuyện hai mươi nhăm rúp ban nãy chứ gì? Mi đã bán người bạn chân chính, ý anh muốn nói thế. Nhưng anh không phải là Chúa Kito, còn tôi không phải là Juda.
- Ơ kìa, Rakitin, tôi cam đoan với anh rằng tôi đã quên chuyện ấy rồi. - Aliosa kêu lên. - Chính anh lại nhắc đến…
Nhưng Rakitin đã điên tiết lên:
- Quỷ xé xác tất cả các người đi! - Anh ta bỗng tru tréo lên. - Quái lạ, tôi lại dây vào với anh làm gì kia chứ! Từ nay trở đi tôi không thèm biết đến anh nữa. Anh đi một mình đi, con đường của anh đây này!
Anh ta quay ngoắt sang phố khác, bỏ mặc Aliosa một mình trong bóng tối. Aliosa ra khỏi thành phố, vượt qua cánh đồng về tu viện.
Phần 7  
Chương 4:
Thành Cana xứ Galilei
Khi Aliosa về đến tu xá thì đã muộn lắm rồi theo nếp sinh hoạt trong tu viện, người coi cổng cho anh vào qua một đường riêng. Chuông đã điểm chín giờ, giờ này ai nấy đều nghỉ ngơi yên tĩnh sau một ngày xáo động đến như thế. Aliosa rụt rè mở cửa và vào phòng trưởng lão, nơi đặt quan linh cữu. Ngoài Cha Paixi đọc Phúc âm một mình trước linh cữu, và anh chàng tập tu Porfin mệt mỏi vì cuộc chuyện trò đêm qua và sự tất bật hôm nay, đang ngủ say lì trên sàn ở phòng bên, trong phòng này không còn ai. Cha Paixi có nghe thấy Aliosa vào, nhưng không nhìn về phía anh. Aliosa đi vào góc phòng phía bên phải cửa quỳ xuống và cầu nguyện. Tâm hồn anh đầy ắp những cảm giác mơ hồ, không một cảm giác nào nổi bật lên, bộc lộ rõ ràng, trái lại cái nọ chen lẫn cái kia trong một vòng luân chuyển thầm lặng, đều đặn. Nhưng trong lòng cảm thấy thư thái, và điều lạ lùng là Aliosa không lấy thế làm ngạc nhiên. Anh lại nhìn thấy cỗ linh cữu ấy trước mặt mình, cái thi hài quý báu đối với anh mà giờ đây đã được bao bọc kín mít nhưng trong tâm hồn anh không còn sự thương cảm sướt mướt, nhức nhối, đau khổ như sáng nay nữa. Giờ đây, bước vào phòng, anh quỳ trước linh cữu như trước một thánh tích, nhưng trong trí óc và trái tim ngời ngợi niềm vui. Một cửa sổ phòng đã mở, không khí tươi mát, lành mạnh. “Như vậy là mùi bốc ra nặng hơn vì thế người ta mới quyết định mở cửa sổ,” - Aliosa nghĩ. Nhưng ý nghĩ ấy về mùi xác chết, mới gần đây anh còn cảm thấy là khủng khiếp và ô nhục, thì giờ đây không còn gợi lên trong anh nỗi buồn phiền và phẫn nộ như trước nữa. Anh bắt đầu khe khẽ cầu nguyện như cái máy. Nhưng mẩu ý nghĩ thoáng hiện, bừng lên như những ngôi sao rồi tắt ngay, thay thế nhau, nhưng trong tâm hồn có một cái gì toàn vẹn, vững chắc, thư thái, anh ý thức được điều đó. Đôi khi anh bắt đầu cầu nguyện nhiệt thành, anh rất muốn ngợi khen và yêu mến… Nhưng khi đã bắt đầu cầu nguyện, anh bừng chuyển sang một cái gì khác, bắt đầu nghĩ ngợi, quên cả cầu nguyện, quên cả mình ngừng ở đoạn nào. Anh bắt đầu lắng nghe Cha Paixi đọc, nhưng quá mệt mỏi, anh dần dần ngủ chập chờn…
“Ba ngày sau tại thành Cana xứ Galilei có đám cưới,” - Cha Paixi đọc, - “và mẹ Chúa Jesus cũng có mặt ở đó. Đức Chúa Jesus và các môn đồ được mời đến dự” (1).
Chú thích:
(1) Phúc âm theo thánh Gioan, II, 1-10 (N.D).
“Đám cưới ư? Cưới… là cái gì…” - ý nghĩ ấy như cơn lốc trong trí óc Aliosa. - “Nàng cũng có hạnh phúc… nàng đi ăn tiệc… Không, nàng sẽ không mang theo con dao, sẽ không mang theo con dao… Đấy chỉ là lời “ai oán”… lời nói ai oán thì nên tha thứ, nhất định phải tha thứ. Những lời ai oán an ủi tâm hồn… không có những lời đó thì nỗi đau xót của người ta quá nặng nề. Rakitin rẽ vào ngõ hẻm. Chừng nào Rakitin còn nghĩ về nhưng điều xúc phạm đến mình thì anh ta sẽ còn đi vào ngõ hẻm… Nhưng còn đường cái… con đường lớn thẳng tắp, sáng sủa, ngời sáng như pha lê, và mặt trời ở cuối con đường ấy… Gì thế nhỉ? Người ta đang đọc gì thế?”
“Vừa khi thiếu rượu, mẹ Đức Chúa Jesus nói với Ngài rằng, người ta không còn rượu…” - Aliosa nghe thấy đoạn ấy.
“À phải, ta bỏ sót một quãng, mà ta không muốn bỏ sót, ta thích đoạn này: đấy là thành Cana ở Galilei, phép lạ thứ nhất… A, phép lạ ấy, a, phép lạ đáng yêu ấy! Chúa Kito đến không phải để nhìn thấy nỗi đau xót, mà để thấy niềm vui sướng của con người… “Ai yêu người đời thì cũng yêu niềm vui sướng của họ…” Trưởng lão đã quá cố vẫn luôn miệng nhắc lại điều này, đấy là một trong những ý nghĩ chủ chốt của Người… không thể sống không có niềm vui sướng. Mitia vẫn nói thế… Đúng, Mitia… Tất cả những gì chân chính và đẹp đẽ bao giờ cũng tràn đầy sự tha thứ tất thảy - vẫn chính Mitia đã nói điều đó…”
“Jesus nói với mẹ, hỡi người đàn bà kia, sự này là thế nào đối với tôi và với bà, giờ của tôi chưa đến. Mẹ Ngài nói với những người hầu: Ngài bảo sao cứ thế mà làm.”
“Cứ thế mà làm… Niềm vui sướng, niềm vui sướng của những người nghèo, rất là nghèo… Cố nhiên là họ nghèo, vì thế ngay cả đám cưới mà cũng thiếu rượu… các sử gia viết rằng quanh hồ Jenezaret và các vùng lân cận, dân chúng toàn là hạng nghèo khổ nhất mà trí tưởng tượng có thể hình dung ra được… Và một trái tim cao cả khác của một người cao cả khác cũng có mặt tại đây, trái tim của Mẹ Ngài, Mẹ biết Ngài đến đây không phải chỉ để thực hiện công ích vĩ đại ghê gớm của Ngài, mà tại tim Ngài cảm nhận được sự vui vẻ của những con người tối tăm, tối tăm và chất phác đã ân cần mời Ngài đến dự đám cưới nghèo nàn của họ. “Giờ của tôi chưa đến!” - Ngài nói, miệng mỉm cười hiền từ (nhất định Ngài mỉm cười hiền dịu với Mẹ)…
Thực vậy đâu phải Ngài xuống trần để làm tăng thêm rượu cho nhưng đám cưới nhà nghèo? Vậy mà Ngài đã đến và làm theo ý Mẹ… A, Cha lại đọc.”
“Jesus báo họ, đổ nước vào các hũ và đổ cho đầy, và bảo họ: bây giờ múc đem ra cho người chủ trì bữa tiệc, họ đem ra.
Người chủ trì bữa tiệc nếm nước lã đã thành rượu, và người chủ trì bữa tiệc không biết rượu này ở đâu ra, nhưng những người hầu đã múc nước thì biết rõ, ông ta gọi chú rể lại.
Và bảo chú rể: Ai cũng rót rượu ngon trước, đến khi khách đã uống nhiều rồi thì mới đãi rượu kém hơn ra, còn anh lại giữ rượu ngon đến bây giờ.”
Nhưng gì thế này, gì thế này? Tại sao căn phòng lại rộng ra… A phải, đây là đám cưới, tiệc cưới… Ừ, cố nhiên. Còn kia là khách khứa, cặp vợ chồng trẻ ngồi kia, và đám đông vui vẻ… còn người chủ tiệc sáng suốt đâu rồi? Nhưng ai kia? Ai? Căn phòng lại rộng ra… Ai đứng lên sau chiếc bàn lớn kia nhỉ? Sao thế? Cả Thầy cũng ở đây ư? Thầy ở trong quan tài kia mà?… Nhưng Thầy ở đây… Thầy đứng dậy, nhìn thấy ta, Thầy đang đến đây… Trời ơi!…
Đúng, Thầy đến chỗ anh, ông già nhỏ bé gầy gò, mặt chi chít nếp nhăn li ti, vui sướng và cười hiền lành. Không còn cỗ quan tài, và Thầy vẫn mặc bộ quần áo hôm qua, khi khách khứa đến thăm Thầy. Gương mặt vẫn hồ hởi, mắt long lanh. Thế là thế nào, vậy ra Thầy cũng đến dự tiệc, Thầy cũng được mời đến dự đám cưới ở Cana xứ Galilei…
- Con yêu quý, ta cùng được mời, được mời và được gọi tới, - tiếng nói hiền từ của Cha vang lên phía trên đầu anh. - Tại sao con ẩn vào đó để người ta không thấy con… rồi con cũng sẽ đến với chúng ta, tiếng nói của Cha, của trưởng lão Zoxima… Sao lại không phải là Cha, khi Cha đang gọi? Trưởng lão đưa một tay ra nâng Aliosa dậy, Aliosa đang quỳ liền đứng lên.
- Chúng ta đang dự cuộc vui, - ông già nhỏ bé gầy gò nói. - Chúng ta uống rượu nho mới, rượu của niềm vui mới, lớn lao; con thấy không, bao nhiêu là khách. Kia là chú rể và cô dâu, kia là người chủ tiệc sáng suốt, ông ta đang nấu rượu nho mới. Tại sao thấy ta con ngạc nhiên? Ta đã cho một nhánh hành, vì thế ta ở đây. Nhiều người có mặt ở đây chỉ vì đã cho một nhánh hành, chỉ một nhánh hành nhỏ… Sự nghiệp của chúng ta là cái gì? Con hiền lành của ta, chú bé nhu mì của ta, hôm nay con cũng đã đưa nhánh hành cho một người phụ nữ đang khao khát sự cứu giúp đó. Hãy bắt đầu sự nghiệp của con đi, con thân yêu, con hiền lành của ta! Con có thấy mặt trời của chúng ta không, con có thấy không?
- Con sợ… Con không dám nhìn… - Aliosa lẩm bẩm.
- Đừng sợ Ngài. Ngài uy nghi đến đáng sợ, cao siêu kinh khủng, nhưng lòng lành vô cùng, về tình yêu Ngài giống chúng ta và cùng vui với chúng ta, Ngài biến nước thành rượu nho để khách khỏi mất vui, Ngài đang chờ những người khách mới. Ngài không ngừng mới gọi khách mới và lần này là gọi đi mãi mãi. Kìa, người ta đưa rượu nho mới đến, thấy không, người ta mang đến những vò rượu…
Có cái gì rực cháy trong tim anh, một cái gì bỗng tràn đầy tim anh đến độ đau đớn, những giọt lệ hân hoan từ tâm hồn anh ứa ra… Anh đang rộng hai tay, kêu lên một tiếng và tỉnh dậy…
Lại cỗ quan tài, khung cửa sổ mở và tiếng đọc Phúc âm khe khẽ, trịnh trọng, rành rọt. Nhưng Aliosa không còn nghe thấy đọc gì nữa. Điều kỳ lạ là anh ngủ thiếp đi lúc đang quỳ, vậy mà bây giờ anh lại đứng, và bỗng nhiên, như bật khỏi chỗ, anh rảo chân tiến ba bước vững chắc tới sát quan tài. Thậm chí anh đụng vai vào Cha Paixi và không để ý đến. Cha ngừng đọc, ngước mắt lên nhìn anh một thoáng, nhưng lập tức quay đi nơi khác, vì hiểu rằng có điều gì kì lạ xảy đến với chàng trai. Aliosa nhìn cỗ quan tài chừng nửa phút, nhìn thi hài liệm kín, bất động, nằm dài, ảnh thánh trên ngực, đầu đội chiếc mũ có cây thập giá tám nhánh. Mãi đến bây giờ anh mới nghe thấy tiếng nói của Thầy, tiếng nói ấy vẫn còn vang trong tai. Anh vẫn còn lắng tai nghe, vẫn còn chờ đợi những âm thanh… nhưng bất thần anh quay ngoắt đi, ra khỏi phòng.
Anh không dừng ở bậc tam cấp, mà đi nhanh xuống. Tâm hồn anh tràn đầy niềm hân hoan, khao khát tự do, không gian rộng rãi. Trên đầu anh, vòm trời trải rộng bao la, chi chít những vì sao hiền hòa lấp lánh. Dải ngân hà chẻ đôi trải dài từ thiên đỉnh tới chân trời, lúc này vẫn còn mờ mờ. Đêm tươi mát và thanh vắng hoàn toàn bất động, trùm lên trái đất. Những ngọn tháp màu trắng và những nóc nhà thờ bọc vàng lấp lánh trên nền trời xa xa. Những đám hoa mùa thu lộng lẫy trong những bồn hoa quanh nhà thiếp ngủ cho đến sáng. Cái tĩnh lặng của thế gian dường như hòa với cái tĩnh lặng của bầu trời, bí mật của thế gian tiếp cận với bí mật của tinh tú… Aliosa đứng nhìn và bỗng nhiên đổ vật xuống đất.
Anh không biết vì sao anh ôm lấy đất, anh không hiểu rõ tại sao một ý muốn không thể cưỡng lại được thôi thúc anh hôn đất nhưng anh vừa hôn vừa khóc nức nở, nước mắt như mưa, và với tình cảm cuồng nhiệt, anh thề sẽ yêu đất, yêu mãi mãi. “Hãy tưới cho đất những giọt nước mắt vui của con và hãy yêu những giọt nước mắt ấy…” - mấy lời đó ngân vang trong tâm hồn anh.
Anh khóc gì? Ôi, trong trạng thái xuất thần, anh khóc cả những vì sao trên bầu trời không sâu thẳm đang lấp lánh với anh, và “không xấu hổ về sự cuồng nhiệt ấy”. Dường như những sợi chỉ từ vô vàn thế giới ấy của Chúa đều tức thời hội tụ lại trong tâm hồn anh, và tâm hồn anh run lên vì “tiếp xúc với các thế giới khác”. Anh muốn tha thứ cho tất cả, về mọi sự và muốn cầu xin tha thứ. Ôi, không phải xin tha thứ cho mình, mà cho mọi người về mọi sự, còn “những người khác cũng cầu xin cho tôi”, - những lời đó lại âm vang trong tâm hồn anh. Nhưng mỗi lúc anh càng cảm thấy rõ ràng, dường như sờ mó thấy, một cái gì rắn chắc, kiên cố như vòm trời này nhập vào tâm hồn anh. Một ý tưởng gì không rõ ngự trị trong trí óc anh, lần này thì suốt đời, mãi mãi. Khi sụp xuống đất, anh là một chàng trai yếu ớt. Khi đứng lên anh đã là một chiến sĩ cứng rắn, anh bỗng ý thức được và cảm thấy điều đó trong phút xuất thần ấy của mình. Sau này, suốt đời Aliosa không bao giờ quên được phút ấy. “Giờ ấy có người nào đã viếng thăm tâm hồn tôi,” - sau này anh nói, và tin chắc ở lời mình nói.
Ba ngày sau anh rời khỏi tu viện, đúng như lời trưởng lão đã quá cố bảo anh “lưu lại đời trần tục”.
PHẦN VIII
Chương 1: Kuzma Xamxonov
Khi Grusenka tung cánh bay vào cuộc đời mới, và gửi lời chào cuối cùng đến Dmitri Fedorovich đồng thời dặn chàng hãy nhớ mãi một giờ yêu đương nàng đã dành cho chàng thì đúng lúc ấy, Dmitri không hề hay biết gì về sự việc xảy ra với nàng, chàng cũng đang bối rối ghê gớm và lo âu kinh khủng.
Hai ngày gần đây, chàng lâm vào một trạng thái như thể thực sự có thể bị viêm não, sau này chàng nói như vậy. Sáng hôm trước, Aliosa không sao lùng tìm được chàng, còn anh Ivan hôm ấy không thể hẹn gặp chàng ở quán ăn.
Chủ nhà theo lời dặn của Dmitri, giấu kỹ không cho biết chàng đi đâu. Trong hai ngày ấy đúng là chàng lồng lộn khắp bốn phương, “đấu tranh với số phận và tự cứu mình”, như cách nói của chàng sau này, thậm chí chàng biến khỏi thành phố mấy tiếng vì có việc khẩn cấp, mặc dù chàng rất sợ phải rời khỏi thành phố, không để mắt tới Grusenka dù chỉ một lúc. Tất cả những điều đó sau này đã được xác minh hết sức tỉ mỉ và ghi thành biên bản, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ chỉ nêu ra điều cần thiết nhất trong câu chuyện về hai ngày ấy trong đời Dmitri, hai ngày trước thảm họa ghê gớm bất thần ập xuống đầu chàng.
Grusenka tuy quả thực có yêu chàng chân thành trong một giờ, đấy là sự thật, nhưng đôi khi cũng nhẫn tâm hành hạ chàng, đến là tàn bạo. Cái chính là chàng không đoán được gì về ý định của nàng, cũng không có đủ khả năng moi điều bí mật ấy bằng sự âu yếm hay bằng sức mạnh: không đời nào nàng lộ ra, mà chỉ nổi giận và đoạn tuyệt hẳn với chàng, chàng hiểu điều đó. Chàng hồ nghi - và hồ nghi hoàn toàn đúng - rằng chính nàng đang tự đấu tranh, đang phân vân lạ thường, đang quyết định một việc gì mà không thể quyết được, vì thế chẳng có lý do để cho rằng đôi lúc hẳn là nàng căm thù chàng với sự say đắm của chàng, cứ nghĩ thế là tim chàng lịm đi. Có lẽ đúng như thế, nhưng Grusenka buồn vì chuyện gì thì chàng vẫn không hiểu được. Thực ra toàn bộ câu hỏi dằn vặt chàng rút lại chỉ là nàng chọn ai: “Chàng, Mitia, hay Fedor Pavlovich.” Ở đây cần ghi nhận một điều chắc chắn: chàng tin chắc rằng Fedor Pavlovich nhất định sẽ đề nghị chính thức cưới Grusenka làm vợ và không lúc nào chàng tin rằng ông già dâm đãng hi vọng đạt được ý nguyện chỉ bằng giá ba ngàn rúp. Biết Grusenka và tính cách của nàng, chàng suy luận như vậy. Vì thế, có những lúc chàng tưởng rằng Grusenka bị giày vò và phân vân chỉ vì nàng không biết chọn ai trong hai người, chọn ai có lợi cho nàng hơn.
Còn về việc “chàng sĩ quan” sắp trở về, gã sĩ quan có vai trò ác hại trong đời Grusenka mà nàng đang rất đỗi hồi hộp và lo sợ chờ anh ta tới, thì kì lạ thay, trong những ngày ấy Dmitri không hề nghĩ đến. Sự thật dù mấy ngày gần đây nhất, Grusenka tuyệt không nói gì với chàng về chuyện ấy. Tuy nhiên chàng đã được nàng cho biết về lá thư nàng nhận được cách đây một tháng do kẻ đã từng quyến rũ nàng gửi đến, chàng cũng biết một phần nội dung lá thư. Lần ấy, trong một lúc tức giận, Grusenka đã cho chàng xem lá thư gần như chằng có giá trị gì. Rất khó giải thích tại sao: có lẽ chỉ đơn giản là đang buồn phiền vì phải lao vào cuộc tranh chấp quái gở và khủng khiếp với cha để giành giật người phụ nữ này, chàng không thể quan niệm được điều gì đáng sợ và nguy hiểm hơn cho mình, ít ra là trong lúc ấy. Chàng không tin là có gã chồng chưa cưới tự đâu bỗng xuất hiện sau năm năm biệt tăm, đặc biệt là việc gã sắp trở về. Hơn nữa trong lá thư đầu tiên của “gã sĩ quan” mà chàng đã được xem, việc kẻ tình địch mới này sẽ về chỉ được nói đến một cách hết sức vu vơ: thư viết hết sức mơ hồ, rất đỗi khoa trương, đầy giọng đa cảm.
Cần lưu ý rằng lần ấy Grusenka giấu chàng mấy dòng cuối lá thư có nói rõ ràng hơn một chút về việc gã sĩ quan trở lại. Thêm nữa, sau này Mitenka nhớ lại rằng lúc ấy hình như chàng nhận thấy gương mặt Grusenka bất giác lộ vẻ khinh bỉ kiêu kì đối với bức thông điệp từ Sibir gửi tới. Sau đó Grusenka không hề cho biết gì về mọi quan hệ tiếp theo với người tình địch mới này của Mitenka. Như vậy dần dần chàng quên bẵng viên sĩ quan. Chàng chỉ nghĩ đến chuyện bất kể sự thể xoay chuyển thế nào, cuộc đụng độ quyết liệt với bố xảy ra đến nơi rồi và hẳn là phải được giải quyết trước mọi việc khác. Lòng chết lặng đi, từng phút chàng chờ đợi quyết định của Grusenka và vẫn tin rằng nó sẽ xảy ra dường như bất ngờ, theo cảm hứng. Ngộ nhỡ nàng sẽ bảo: “Đưa em đi, em mãi mãi là của anh” - thế là xong hết, chàng sẽ lập tức đưa nàng đến tận cùng trời cuối đất. Ồ, sẽ lập tức đưa đi thật xa, nếu không phải là cùng trời cuối đất thì cũng là nơi góc bể chân trời nào của nước Nga, rồi sẽ cưới nàng ở đấy và cùng nàng sống incognito (1), không để ai hay biết gì về hai người, ở đây cũng như ở đấy, chàng mơ ước cuồng nhiệt về cuộc đời ấy, một cuộc đời khác, đổi mới và “đức hạnh”. Chàng khao khát sự phục sinh và đổi mới ấy. Cái vũng xoáy nhơ nhớp mà chàng tự ý sa vào đã hút chàng quá chặt, và cũng như rất nhiều người trong những trường hợp như thế này, chàng tin nhiều nhất vào sự thay đổi địa điểm: miễn là không phải những con người ấy, miễn là không phải hoàn cảnh ấy miễn là bay ra khỏi chốn đáng nguyền rủa này - thế là tất cả sẽ phục hồi, sẽ đổi mới!.
Chú thích:
(1) Tiếng Latin: mai danh ẩn tích.
Nhưng đấy chỉ là trường hợp xảy ra giải pháp thứ nhất, giải pháp may mắn. Còn một giải pháp, một kết cục khác, một kết cục khủng khiếp. Ngộ nhỡ nàng sẽ bảo: “Anh đi đi, bây giờ tôi quyết định chọn Fedor Pavlovich và sẽ lấy ông ấy, tôi không cần anh,” khi ấy thì… khi ấy… Tuy nhiên Mitia không biết khi ấy sẽ thế nào, cho đến giờ phút cuối cùng chàng vẫn không biết, về điểm này nên thể tất cho chàng. Chàng không có ý định rõ rệt, không mưu toan giết người. Chàng chỉ theo dõi, dò xét và đau khổ, nhưng vẫn chỉ chờ đón cái kết thúc thứ nhất, may mắn cho đời mình. Thậm chí chàng xua đuổi mọi ý nghĩ khác. Nhưng ở đây đã bắt đầu một nỗi khổ tâm khác, đến đây đã xuất hiện một vấn đề mới, ngoài rìa, nhưng cũng tai ác và không thể giải quyết được. Ấy là nếu như nàng nói với chàng: “Em là của anh, hãy đưa em đi” thì làm thế nào đưa nàng đi được? Lấy đâu ra phương tiện, đào đâu ra tiền? Đúng vào lúc ấy, tất cả mọi khoản mà Fedor Pavlovich thí cho đều đặn từ nhiều năm nay đã cạn sạch.
Cố nhiên Grusenka có tiền, nhưng về mặt này Mitia khái tính lắm: chàng muốn đưa nàng đi và cùng nàng sống cuộc đời mới bằng tiền của mình, chứ không phải bằng tiền của nàng. Chàng không thể tưởng tượng mình sẽ lấy tiền của nàng, ý nghĩ ấy làm cho chàng đau khổ đến độ ghê tởm, quằn quại. Ở đây tôi sẽ không nói nhiều về việc này, không phân tích kĩ, mà chỉ ghi nhận: trạng thái tâm hồn chàng lúc ấy là như thế. Tất cả những điều đó một cách gián tiếp và vô thức, có thể là do sự giày vò ngấm ngầm của lương tâm về số tiền đã lén lút chiếm đoạt của Ekaterina Ivanovna: “Với một người phụ nữ ta là thằng đểu cáng, với người phụ nữ kia ta cũng lại là thằng đểu cáng,” - chàng nghĩ, như tự thú với mình, - “Grusenka mà biết thì nàng cũng chẳng thèm lấy một thằng đểu cáng như thế.” Vậy thì làm cách nào, lấy đâu ra số tiền tai ác ấy? Không có tiền thì hỏng hết, chẳng nên cơm cháo gì, “tất nhiên chỉ vì thiếu tiền, ôi nhục nhã.”
Tôi xin nói trước: nói cho đúng, có lẽ chàng biết phải xoay tiền ở đâu, biết số tiền ấy nằm ở đâu. Lần này tôi sẽ không nói gì kỹ hơn, bởi vì rồi sau mọi việc sẽ sáng tỏ; nhưng đây là điều gay go nhất cho chàng, và tôi xin nói ra điều đó, tuy là không thật rõ ràng: để lấy được khoản tiền đó ở một chỗ nào đó, để có quyền lấy số tiền ấy, trước hết cần trả lại ba ngàn đồng cho Ekaterina Ivanovna - nếu không thì “ta là tên móc túi, ta là thằng đểu cáng, mà ta không muốn là thằng đểu cáng khi bước vào cuộc sống mới”. Mitia quyết định, bởi vậy chàng quyết đảo lộn cả thế giới nếu cần, nhưng dù thế nào trước hết cũng phải trả cho Ekaterina Ivanovna ba ngàn đồng ấy. Quá trình dứt khoát đi đến quyết định ấy diễn ra có thể là trong những giờ cuối cùng của cuộc đời chàng, chính trong cuộc gặp gỡ cuối cùng với Aliosa hai ngày trước vào một buổi tối, trên đường, sau khi Grusenka lăng nhục Ekaterina Ivanovna, còn Mitia, sau khi nghe Aliosa kể lại chuyện ấy đã thừa nhận mình là kẻ đểu cáng và bảo em nói lại với Ekaterina Ivanovna như vậy, “nếu điều đó có thể làm cho nàng nguôi lòng chút ít.” Đêm hôm ấy, khi chia tay với em, trong lúc phẫn chí, chàng cảm thấy chẳng thà “giết người, cướp của mà trả được nợ cho Chúa” còn hơn. “Chẳng thà đối với kẻ bị giết và bị cướp cũng như đối với mọi người, ta là kẻ giết người và trộm cướp và sẽ phải đi Sibir còn hơn là để Katia có quyền nói rằng ta phản bội nàng, ta ăn cắp tiền của nàng và dùng tiền của nàng trốn đi với Grusenka để bắt đầu cuộc sống mới hạnh phúc! Ta không thể như thế được!” Mitia nghiến răng thốt lên và quả thực có lúc chàng tưởng tượng rằng cuối cùng chàng sẽ bị viêm não mất. Nhưng tạm thời chàng vẫn đấu tranh…
Điều lạ lùng là: khi quyết định như vậy, dường như chàng chỉ còn tuyệt vọng mà thôi; bởi vì lấy đâu ra số tiền lớn như vậy, nhất là một kẻ kiết xác như chàng? Tuy thế mà suốt thời gian ấy chàng vẫn một mực hi vọng sẽ xoay được số tiền ấy, nó sẽ tự đến với chàng, như thế tự trên trời sa xuống. Nhưng đấy là tâm trạng thường có của những người như Dmitri Fedorovich suốt đời chỉ biết phung phí tiền của được thừa kế, chứ không hề biết kiếm tiền được bằng cách nào. Giờ đây, sau khi chia tay với Aliosa ngày hôm kia, một cơn lốc kì quái quay cuồng trong đầu óc chàng, làm rối tung mọi ý nghĩ. Vậy là chàng đã bắt đầu bằng một mưu đồ man rợ. Mà có lẽ chính trong tình thế như vậy, những con người như thế lại cho rằng những mưu đồ hoang đường nhất lại có nhiều khả năng thực hiện nhất. Đột nhiên chàng quyết định đến thương gia Xamxonov, người nuôi bao Grusenka và đề nghị với ông ta một “kế hoạch”, nhờ đó mà moi được ở ông ta luôn một lúc toàn bộ số tiền cần có. Về khía cạnh thương mại, chàng không nghi ngờ gì ở kế hoạch của mình, chỉ nghi ngại về việc Xamxonov nhìn nhận hành động đột ngột của chàng như thế nào nếu ông ta không chỉ nhìn từ khía cạnh thương mại. Mitia tuy biết mặt thương gia này, nhưng không quen ông ta, thậm chí chưa lần nào nói chuyện với ông ta. Nhưng không hiểu sao, thậm chí đã từ lâu, chàng tin chắc rằng lão già dâm đãng đã một chân trong mồ có lẽ lúc này hoàn toàn không chống đối, nếu Grusenka tìm cách nào đó sống cuộc đời lương thiện, lấy một người chồng “đáng tin cậy”. Ông ta chẳng những sẽ không chống đối, mà còn mong muốn điều đó, và gặp dịp thuận tiện thì chính ông ta sẽ giúp một tay. Theo lời đồn hay đôi ba lời do chính Grusenka nói ra, chàng kết luận rằng ông già thích Grusenka lấy chàng hơn là lấy Fedor Pavlovich. Có lẽ nhiều bạn đọc truyện này sẽ cho rằng việc Dmitri Fedorovich trông mong vào sự giúp đỡ của ông già và định tiếp nhận vợ chưa cưới của mình, nếu có thể nói như vậy, từ tay lão già nuôi báo cô ta thì thật là thô lỗ và không biết tởm. Tôi chỉ có thể lưu ý rằng Mitia coi quá khứ của Grusenka là đã vùi sâu hẳn. Chàng nhìn quá khứ đó với niềm thông cảm vô hạn và với tất cả niềm đam mê bốc lửa của mình, chàng quyết định rằng một khi Grusenka sẽ nói rằng nàng yêu chàng và lấy chàng thì lập tức nàng sẽ là một Grusenka hoàn toàn mới, và cùng với nàng, chàng cũng sẽ là một Dmitri Fedorovich hoàn toàn mới, không còn một thói xấu nào, chỉ toàn là đức hạnh: hai người sẽ tha thứ cho nhau và sẽ bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn mới. Còn về Kuzma Xamxonov thì chàng coi là một người có vai trò ác hại trong quãng đời xui xẻo trước đây của Grusenka, nàng chưa bao giờ yêu ông ta, mà điều chủ yếu là ông ta cũng đã “lùi vào dĩ vãng”, đã hết đời, thành thử coi như không còn ông ta nữa. Thêm nữa, bây giờ thậm chí Mitia không thể coi ông ta là người, bởi vì trong thành phố, ai nấy đều biết đấy chỉ là tấm thân tàn ốm yếu, giữ quan hệ có thể nói là chỉ trên tình cha con với Grusenka, chứ hoàn toàn không phải trên cơ sở như trước kia, và đã từ lâu như thế, ngót một năm rồi. Dù sao, về phần Mitia, như vậy cũng là quá chất phác, bởi vì mặc dù tất cả thói xấu của mình, chàng là một người rất chất phác. Vì chất phác, chàng thực sự tin chắc rằng ông già Kuzma sắp sửa sang thế giới bên kia giờ đây thành thật hối hận về quá khứ của mình với Grusenka, và bây giờ Grusenka không có người bảo trợ và người bạn nào trung thành hơn ông già đã trở nên vô hại này.
Hôm trước nói chuyện với Aliosa ở cánh đồng và sau đó gần suốt đêm Mitia không ngủ, thì hôm sau chàng đến nhà Xamxonov vào quãng mười giờ sáng và bảo gia nhân vào trình ông chủ. Đây là ngôi nhà cũ kĩ, ảm đạm, rộng thênh thang, hai tầng, có nhà phụ quanh sân và một gian nhà ngang. Ở tầng dưới gồm có hai người con trai của Xamxonov cùng với vợ con của họ, người em gái già khụ của ông ta và người con gái không có chồng. Ở nhà ngang có hai người quản lý cùng con gái sống chật chội trong những căn phòng của họ, còn ở tầng trên chỉ có một, mình ông già, thậm chí ông không cho người con gái cùng ở tầng trên, bà ta chăm nom ông và vào những giờ nhất định cũng như bất kì lúc nào ông gọi đều phải chạy lên gác, mặc dù bà ta đã từ lâu mắc chứng khó thở. “Tầng lầu” ấy gồm vô số phòng lớn bầy biện theo kiểu cổ của thương gia, với những dãy dài ghế bành và ghế dựa thô kệch bằng gỗ hồng sắc kê dọc chân tường, nom tẻ nhạt, với những chùm đèn pha lê bọc lụa, với những tấm, gương ủ ê trên các khoảng tường giữa các cửa sổ. Tất cả những căn phòng đó đều trống không, không có người ở, vì ông già ốm yếu chỉ thu mình trong một buồng ngủ nhỏ ở cuối tầng, hầu hạ ông ta ở đây có một mụ già đầu bịt tấm khăn và một “cậu bồi” thường ngồi trên chiếc rương lớn ở phòng ngoài. Ông già hai chân sưng húp, hầu như không đi được nữa, chỉ thỉnh thoảng đứng dậy khỏi chiếc ghế bành da, và mụ già dìu ông ta đi một vài lượt trong phòng. Ông ta nghiêm khắc và ít nói ngay cả với mụ già này. Khi gia nhân trình với ông ta rằng có “viên đại úy” đến thăm, ông ta lập tức ra lệnh từ chối. Nhưng Mitia khăng khăng xin gặp và người nhà trình lại lần nữa. Kuzma Kuzmir hỏi kỹ gã bồi: có việc gì, nom gã thế nào, có say rượu không? Gã có làm ầm ĩ không? Và được trả lời là “ông ta không say, nhưng không chịu ra về”, ông già lại ra lệnh từ chối. Mitia đã dự đoán trước sự tình này, nên lần này chàng mang theo giấy và bút chì, chàng viết lên mẩu giấy một dòng rõ nét: “Việc hết sức khẩn cấp có quan hệ thiết thân đến Agrafena Alecxandrovna” và gửi mẩu giấy cho ông già. Nghĩ một lát, ông già bảo đưa khách vào phòng lớn và sai mụ già xuống bảo người con trai út phải lên ngay chỗ ông có việc. Người con trai út này cao ngót hai mét, sức vóc phi thường, cạo râu và mặc theo kiểu Đức. Anh ta lên ngay và chẳng nói chẳng rằng. Con cái ông ta người nào đến trước mặt bố cũng run sợ. Ông bố gọi chàng dũng sĩ này lên không phải vì sợ gã đại úy, ông ta đâu phải người non gan, mà chỉ để phòng xa, cái chính là cho có người làm chứng. Có cậu con trai dìu đỡ và gã bồi một bên, ông ta rốt cuộc cũng lê được ra phòng khách. Hẳn là ông ta có một cảm giác tò mò khá mạnh. Căn phòng nơi Mitia ngồi chờ cực kì rộng lớn, âm u, khiến người ta buồn chết cả cõi lòng, có hai dãy cửa sổ dãy nọ trên dãy kia, có bao lơn dành cho ban hát, tường giả đã hoa cương, có ba chùm đèn pha lê lớn bọc lụa. Mitia ngồi trên chiếc ghế dựa cạnh cửa ra vào, nôn nóng chờ đợi số phận của mình. Khi ông già xuất hiện ở phía đối diện, cách chỗ Mitia ngồi chừng mươi xagien (3), chàng đột nhiên bật dậy và bước rắn rỏi kiểu nhà binh đến về phía ông già. Mitia ăn vận lịch sự. Áo dài cài cúc, hai tay đi găng đen cầm chiếc mũ tròn, hệt như ba ngày trước ở tu viện, tại phòng trưởng lão, trong cuộc họp mặt gia đình với bố và các em. Trịnh trọng và nghiêm nghị, ông già đứng đợi chàng tới gần, ông ta đã quan sát chàng từ đầu đến chân. Mitia cũng sửng sốt vì thời gian gần đây mặt Kuzma Kuzmir húp lên ghê quá: môi dưới của ông ta vốn đã dày bây giờ xệ hẳn xuống. Ông ta chẳng nói chẳng rằng, trình trọng nghiêng mình chào khách, đưa tay chỉ cho khách chiếc ghế bành cạnh đi vàng, còn ông ta vịn tay người con trai, rên rỉ một cách đau đớn, ngồi xuống đi văng đối diện với Mitia, còn Mitia nhìn thấy những cố gắng đau đớn của ông ta, lập tức chàng cảm thấy ân hận và hổ thẹn một cách tế nhị về thân phận hèn mọn của mình lúc này trước nhân vật quan trọng như thế bị mình quấy quả.
Chú thích:
(3) 1 xagien = 2.13 mét.
- Thưa ông, ông cần gì ở tôi? - Sau khi đã ngồi xuống, ông già nói chậm rãi, rành rẽ, nghiêm nghị nhưng lễ độ.
Mitia giật mình, toan bật dậy, nhưng lại ngồi xuống. Liền đó chàng lên tiếng, nói to và nhanh, nóng nảy làm điệu bộ, hết sức kích động và kiên quyết. Rõ ràng con người này đã cùng đường, mạt vận, đang tìm một lối thoát cuối cùng, và nếu không thành công thì sẵn sàng trẫm mình tức khắc. Tất cả những điều đó có lẽ ông già Xamxonov đã hiểu ngay trong khoảnh khắc, nhưng nét mặt ông vẫn không thay đổi và lạnh như tượng.
- Kính thưa cụ Kuzma Kuzmir, chắc cụ đã nhiều lần nghe nói về những cuộc va chạm giữa tôi và ba tôi, ông già nhà tôi đã chiếm đoạt phần tài sản tôi được thừa kế của mẹ tôi… bởi vì cả thành phố đã đồn inh lên về việc đó… thiên hạ vẫn hay bàn tán về những chuyện không nên bàn tán mà… Ngoài ra, có thể cụ đã nghe qua Grusenka… xin lỗi, Agrafena Alecxandrovna… cô Agrafena Alecxandrovna mà tôi hết sức côn kính… - Mitia mở đầu như vậy và ngừng lại. Nhưng chúng tôi sẽ không dẫn ra đúng nguyên văn lời nói của chàng, mà chỉ trình bày lại. Số là từ ba tháng trước, Mitia đã chú tâm hỏi ý kiến một luật sư ở tỉnh lị.
“Một luật sư danh tiếng, thưa cụ Kuzma Kuzmir, ông Pavel Pavlovich Komefodov, chắc cụ cũng biết tiếng chứ ạ? Trán rất rộng, một đầu óc chính khách… ông ấy cũng biết cụ… hết lời ca ngợi cụ…” - Mitia lại ngừng bặt. Nhưng không phải chàng chịu thôi hẳn, chàng lập tức nhảy sang chuyện khác và đi xa hơn.
Chính ông Komefodov ấy, sau khi hỏi kỹ mọi chi tiết và xem tất cả những giấy tờ mà Mitia có thể đưa ra cho ông ta, ông ta đưa ra ý kiến rằng về làng Tresniasnia mà lẽ ra Mitia phải được thừa kế của mẹ thì có thể phát đơn kiện và như vậy sẽ làm cho ông già xấu nết kinh hoảng… “bởi vì không phải mọi cánh cửa đã đóng kín và bộ máy tư pháp biết đường luồn lách.” Tóm lại có thể hi vọng đòi Fedor Pavlovich phải trả thêm sáu ngàn rúp thậm chí bảy ngàn, mà có thể là hai mươi tám, “ba mươi, ba mươi, cụ Kuzma Kuzmir ạ, vậy mà cụ tưởng tượng xem, tôi mới moi được của ông già tàn bạo ấy chưa đến mười bảy ngàn!… “Vậy mà tôi đã bỏ qua việc đó, vì tôi không biết kiện tụng, nhưng khi về đây, tôi bàng hoàng hay tin ông già lại phản tố tôi: vậy thưa cụ Kuzma Kuzmir rất mực cao quý, cụ có ưng để tôi nhượng cho cụ mọi quyền của tôi đối với ông già quái quỷ ấy, còn cụ chỉ cần đưa cho tôi ba ngàn rúp thôi… Cụ không đời nào bị thua thiệt, tôi lấy danh dự thề với cụ như vậy, mà trái hẳn lại, cụ có thể kiếm được sáu hay bảy ngàn chứ không phải là ba ngàn… Cái chính là phải làm xong “ngay hôm nay”. Tôi sẽ nhượng quyền cho cụ ở chỗ chưởng khế hoặc giả… Tóm lại, tôi sẵn sàng làm mọi việc, trao cho cụ mọi giấy tờ cụ muốn, tôi sẽ kí kết… chúng ta sẽ làm giấy tờ ngay bây giờ, nếu có thể được, nếu như có thể được, ngay sáng hôm nay… Giá như cụ đưa cho tôi ba ngàn đồng… bởi vì ở thị trấn này chẳng ai đọ được với cụ… như vậy là cụ sẽ cứu tôi khỏi… tóm lại là cụ sẽ cứu được kẻ khốn khổ này để hắn làm một việc hết sức cao quý, một việc vô cùng cao cả, có thể nói như vậy… vì tôi có tình cảm hết sức cao quý với một người mà cụ biết rất rõ và được cụ chăm sóc như con đẻ. Nếu không phải là cụ coi người đó như con thì tôi đã không đến đây. Cụ có thể coi là ở đây có ba người chạm trán với nhau, bởi vì số mệnh đúng là con quái vật đáng sợ, cụ Kuzma Kuzmir ạ! Đầu óc hiện thực, cụ Kuzma Kuzmir ạ, cần có đầu óc hiện thực. Bởi vì cụ thì đáng xếp ra một bên từ lâu rồi, vậy còn lại hai cái trán cụng nhau, tôi diễn đạt có thể là vụng về, nhưng tôi đâu phải là nhà văn. Một cái trán là của tôi, còn cái kia là của ông già ác ôn nọ. Vậy cụ chọn đi: tôi hoặc lão già ác ôn kia. Bây giờ tất cả ở trong tay cụ: ba số phận và hai vận mạng… Xin cụ thứ lỗi, tôi nói lung tung, nhưng cụ hiểu cho… nhìn cặp mắt đáng kính của cụ tôi thấy là cụ đã hiểu… Còn nếu cụ không hiểu thì ngay hôm nay tôi sẽ gieo mình xuống nước, thế là xong!
Mitia chấm dứt đoạn diễn từ lố lăng của mình bằng câu “thế là xong”, và chờ câu trả lời cho đề nghị dớ dẩn của mình. Nói xong câu cuối cùng, chàng bỗng tuyệt vọng cảm thấy hỏng cả rồi, nhất là chàng đã phun ra những lời lảm nhảm quái gở. “Lạ thật, khi đến đây mình tưởng đâu mọi chuyện sẽ êm đẹp, thế mà bây giờ thì lại đâm ra lảm nhảm như vậy,” - một ý nghĩ thoáng qua trong đầu óc thất vọng của chàng. Suốt thời gian chàng nói, ông già ngồi không nhúc nhích, dõi nhìn chàng bằng ánh mắt giá băng.
Để cho Mitia phải chờ chừng một phút, rồi Kuzma Kuzmir nói bằng giọng hết sức kiên quyết và buồn rầu:
- Xin lỗi ông, chúng tôi không làm những loại công việc như thế.
Mitia bỗng cảm thấy hai chân bủn nhủn.
- Thế thì tôi biết làm thế nào bây giờ, cụ Kuzma Kuzmir. - Chàng nói lí nhí, môi tái nhợt mỉm cười. - Chết tôi rồi, cụ nghĩ sao?
- Xin lỗi ông…
Mitia vẫn đứng và trân mắt nhìn, bỗng nhiên chàng nhận thấy một diễn biến gì đó trên mặt ông già. Chàng rùng mình.
- Ông ạ, những việc loại đó không ở trong tầm tay chúng tôi, - ông già nói một cách chậm rãi. - Rồi là ra hầu tòa, luật sư, thật là vô phước! Nếu ông muốn thì ở đây có một người mà ông có thể nhờ cậy được…
- Trời ơi, ai vậy?…
- Cụ hồi sinh cho tôi, thưa cụ Kuzma Kuzmir. - Mitia bỗng lắp bắp.
- Ông ta không phải người ở đây, và bây giờ ông ta cũng không có mặt ở đây. Ông ta gốc gác nông dân, buôn gỗ, biệt hiệu là Liagavyi. Đã một năm nay ông ta thương lượng với ông cụ nhà ông về khu vườn ở Tresniasnia, chưa ngã ngũ, chắc ông có nghe nói. Bây giờ ông ta vừa trở lại đấy và trú chân ở nhà Cha Ilinxki, cách ga Volovia đâu khoảng mười hai dặm, làng Ilinxki. Ông ta có viết thư cho tôi về việc ấy, tức là về khu rừng nọ, hỏi ý kiến tôi. Fedor Pavlovich định đích thân đến gặp ông ta. Vậy nếu như ông đến trước khi cụ Fedor Pavlovich gặp và đề nghị với Liagavyi điều ông vừa nói với tôi thì có lẽ ông ta sẽ chấp nhận…
- Thật là cao kiến! - Mitia hân hoan reo lên. - Tôi đang cần chính một người như thế, chính một người như thế! Ông ta đang mặc cả, người ta đòi giá cao, vậy mà tôi đem đến cho ông ta giấy tờ để sở hữu chính cái đó, ha ha ha! - Mitia bỗng bật ra tiếng cười cụt lủn, nhạt nhẽo, bất ngờ đến nỗi Xamxonov ngất đầu ra phía sau.
- Tôi biết tạ ơn cụ thế nào đây, cụ Kuzma Kuzmir. - Mitia sôi nổi la lên.
- Có gì đâu. - Xamxonov nghiêng đầu…
- Cụ không biết chứ, cụ đã cứu tôi, linh tính đã xui khiến tôi tìm đến cụ… Tôi đến ông cha đạo ấy thôi!
- Chẳng đáng phải cảm ơn.
- Tôi bay đi ngay đây. Tôi đã lạm dụng sức khỏe của cụ. Suốt đời tôi sẽ không quên, một người Nga nói với cụ điều ấy đấy, cụ Kuzma Kuzmir ạ, một người Nga!
- Không dám.
Mitia toan bắt tay ông già, nhưng có vẻ gì ác ý thoáng hiện trong mắt ông ta. Mitia rụt tay lại, nhưng lập tức tự trách mình đa nghi. “Ấy là bởi ông ta mệt…” - chàng thoáng nghĩ.
- Đấy là vì nàng! Vì nàng, thưa cụ Kuzma Kuzmir! Cụ cũng hiểu là vì nàng! - Chàng bỗng gào vang khắp phòng, cúi chào, quay ngoắt đi và sải dài bước như ban nãy, vội vã đi ra cửa, không hề ngoái lại. Chàng hoan hỷ đến run lên. “Mọi chuyện hỏng cả rồi, thế mà thần hộ mệnh đã cứu ta.” - Chàng nghĩ thầm. - “Một người kinh doanh như ông già này mà đã vạch đường chỉ lối thì… đương nhiên đó là con đường chắc ăn. Phải vút đi ngay thôi. Đêm nay ta sẽ trở về, đêm nay ta sẽ trở về, sẽ thành công thôi. Lẽ nào ông già lại chơi xỏ ta?” Mitia thốt lên khi bước vào phòng mình, cố nhiên trí óc chàng không thể nghĩ khác được: hoặc đấy là lời khuyên xác đáng của một nhà kinh doanh, am hiểu công việc, biết rõ tay Liagavyi ấy. Sau này, mãi về sau, khi thảm họa đã xảy ra, ông già Xamxonov mới vừa cười vừa thú nhận là ông ta chơi xỏ “viên đại úy” ông ta là con người độc ác, lạnh lùng, hay giễu cợt và có những ác cảm bệnh hoạn. Phải chăng vẻ hân hoan của viên đại úy hay niềm tin ngu ngốc của “gã bán trời không văn tự” cho rằng Xamxonov, có thể bị dụ hoặc bởi cái trò phi lý như “kế hoạch” của gã, hay sự ghen tuông của ông già về Grusenka - tôi không biết lí do gì đã thôi thúc ông già, nhưng lúc mà Mitia đứng trước ông ta, cảm thấy chân tay bủn rủn và ngơ ngẩn kêu lên rằng thế là chết mình rồi thì chính lúc ấy ông già nhìn chàng với vẻ độc ác vô cùng và nghĩ ra cách chơi xỏ chàng.
Mitia đi khỏi, Kuzma Kuzmir giận tái người quay lại bảo con trai phải làm sao từ nay không còn thấy bóng vía thằng khốn khó ấy nữa, cấm cửa hắn, nếu không thì…
Phần 8 
Chương 2: Liagavyi
Lão không nói hết câu dọa dẫm, những người con trai mặc dù đã nhiều lần thấy lão nổi cơn lôi đình cũng vẫn giật mình khiếp sợ. Suốt một giờ sau lão già vẫn run lên vì giận, đến tối lão phát ốm và cho đi mời “thầy lang”.
Vậy thì phải “phi nước đại” đến đấy ngay, nhưng chẳng có xu nào đế thuê xe ngựa, kể ra thì hai đồng hai mươi kopek đấy vẻn vẹn có thế thôi, đó là tất cả những gì còn lại sau ngần ấy năm phong lưu! Nhưng ở nhà chàng còn chiếc đồng hồ cũ bằng bạc, đã không chạy từ lâu. Chàng đem đến tiệm đồng hồ của một người Do Thái ở chợ. Y trả cho chàng sáu rúp. “Thật không ngờ!” - Mitia khoái chí kêu lên (chàng vẫn còn khoái chí), vơ lấy sáu rúp và chạy về nhà. Ở nhà chàng mượn thêm ba rúp của chủ nhà cho đủ số, họ sẵn lòng cho chàng vay, mặc dù đấy là những đồng cuối cùng của họ, vì họ yêu chàng lắm. Trong lúc hân hoan, chàng bộc lộ với họ rằng số phận của chàng đang được quyết định và kể với họ, tất nhiên là rất vội vã, hầu hết toàn bộ “kế hoạch” mà chàng đã trình bày với Xamxonov, cách giải quyết của Xamxonov, những hi vọng sau này của mình, vân vân và vân vân. Trước đó, họ đã được chàng cho biết nhiều bí mật của chàng, bởi thế họ coi chàng như người nhà, chứ không phải là một chàng quý tộc kênh kiệu. Góp nhặt được chín rúp bằng cách như vậy. Mitia cho người đi thuê xe ngựa bưu trạm đến ga Volovia. Nhưng như vậy là người ta đã có một sự kiện được xác nhận là “ngay trước khi xảy ra một biến cố nào đó, buổi trưa Mitia không còn một xu nào, và để có tiền, anh ta đã bán đồng hồ và vay ba rúp của chủ nhà, tất cả những việc này đều có người làm chứng.” Tôi nêu sự kiện này ra trước, rồi sau này sẽ rõ tôi làm thế để làm gì.
Khi xe ngựa phóng về ga Volovia, Mitia tuy hớn hở vui sướng vì linh cảm thấy rằng cuối cùng chàng sẽ dứt điểm, tháo gỡ được “mọi việc”, nhưng chàng vẫn run sợ trong lòng: vắng chàng Grusenka sẽ làm thế nào? Ngộ nhỡ chính hôm nay nàng sẽ quyết định đến với Fedor Pavlovich thì sao? Chính vì lẽ ấy khi đi chàng không cho nàng biết và dặn chủ nhà đừng cho ai biết chàng đi đâu nếu có ai đến hỏi. “Nhất định tối nay phải trở về, nhất định phải như thế,” - chàng nhắc đi nhắc lại trong lúc bị xóc nảy người trong xe, - “có lẽ phải lôi lão Liagavyi về đây… để làm cho xong việc kí kết giấy tờ…” Lòng chết lặng đi, Mitia mơ ước như vậy, nhưng than ôi, nhưng mơ ước ấy đâu có thành sự thực theo “kế hoạch” của chàng.
Thứ nhất, chàng mất thời giờ vì khi rời khỏi ga Volovia chàng đã đi đường hương lộ. Đi con đường này không phải là mười hai dặm, mà là mười tám dặm. Hai nữa, chàng không gặp Cha Ilinxki ở nhà, Cha sang làng bên. Mitia phóng sang làng đó, ngựa không thay, đã kiệt sức, vì thế trong thời gian Mitia lùng tên Cha thì đêm đã xuống. Cha xứ, một người rụt rè và nom dịu dàng, lập tức nói rõ cho chàng biết rằng cái ông Liagavyi ấy thoạt đầu có ở nhà Cha, nhưng hiện giờ ở Xukhoi Poxioloc, hôm nay ông ta ngủ đêm ở nhà người gác rừng, vì ông ta cùng buôn gỗ ở đấy. Mitia khẩn khoản nài Cha đưa chàng đến Liagavyi ngay bây giờ, “có thể nói như vậy là Cha cứu chàng”, thoạt đầu Cha có ngần ngừ, nhưng rồi cũng thuận đưa chàng đến Xukhoi Poxioloc, có lẽ vì tò mò. Nhưng khốn nỗi Cha lại khuyên nên “đi bộ”, vì chỉ “già” một dặm thôi. Tất nhiên Mitia đồng ý và sải dài bước đến nỗi đức Cha tội nghiệp gần như chạy mới theo kịp. Cha chưa già và là người rất thận trọng. Mitia nói luôn với Cha những “kế hoạch” của mình, sôi nổi và nôn nóng xin Cha khuyên mình nên xử sự với Liagavyi như thế nào, chàng nói suốt dọc đường. Cha chăm chú nghe, nhưng ít góp bàn. Về những câu hỏi của Mitia, Cha trả lời lảng tránh: “Tôi không biết, ôi chao, tôi không biết, làm sao tôi biết được” v.v… Khi Mitia nói về sự đụng độ giữa mình với bố về tài sản thừa kế thì thậm chí Cha sợ hãi, vì Cha có một số quyền lợi lệ thuộc vào Fedor Pavlovich. Nhưng Cha ngạc nhiên muốn biết tại sao Mitia gọi người nông dân lái buôn Gorskin là Liagavyi, Cha thấy nhất thiết phải giải thích cho Mitia biết rằng người ta có gọi ông ta là Liagavyi thật đấy, nhưng tên ông ta không phải là Liagavyi, gọi ông ta bằng cái tên ấy thì ông ta giận lắm, nhất thiết phải gọi ông ta là Gorskin. “Không thì không dàn xếp được việc gì với ông ta đâu, mà ông ta chẳng buồn nghe nữa kia,” - Cha kết luận.
Mitia hơi ngạc nhiên và giải thích rằng chính Xamxonov gọi ông ta như thế. Nghe nói vậy, Cha lập tức lảng chuyện, tuy rằng Cha sẽ làm được một việc tốt nếu như Cha giải thích cho Dmitri Fedorovich biết điều phóng đoán của mình: Xamxonov đã đích thân xui chàng đến gặp một tay như Liagavyi thì phải chăng vì lí do gì đó lão muốn bày trò giễu cợt và hẳn là chẳng có gì tốt lành? Nhưng Mitia chẳng có thời giờ bận tâm đến “những chuyện vặt vãnh như thế”. Chàng vội vã bước đi, chỉ khi đã đến Xukhoi Poxioloc, chàng mới nhận ra rằng hai người đã đi không phải một dặm hay dặm rưỡi, mà chắc chắn là ba dặm; chàng bực tức nhưng nín nhịn. Họ vào nhà người gác rừng, chỗ quen biết của Cha đạo, ở phần nửa căn nhà, còn Gorskin ở phần nửa sạch sẽ bên kia, cách nhau gian phòng ngoài. Họ vào gian nhà sạch sẽ ấy và thắp cây nến mới. Gian nhà được sưởi rất nóng. Trên chiếc bàn gỗ thông có cái ấm xamôva đã tắt, cạnh đấy là cái khay với mấy cái chén, một chai rhum đã uống cạn, một chai vodka uống dở và một mẩu bánh mì lúa mạch ăn còn thừa. Bản thân ông khách nằm sóng sượt trên chiếc ghế dài, bộ quần áo mặc ngoài vo tròn gối dưới đầu, ông ta ngáy như kéo bễ. Mitia băn khoăn. “Tất nhiên phải đánh thức ông ta dậy: việc của ta quá quan trọng, ta rất vội, ta phải trở về hôm nay,” - Mitia lo lắng. Nhưng cha đạo và người gác rừng vẫn im lặng, không tỏ ý gì. Mitia đến gần và bắt đầu lay gọi, lay gọi thật lực, nhưng ông ta không thức tỉnh. “Ông ta say,” - Mitia quyết định, - “nhưng ta biết làm thế nào được trời ơi, ta biết làm thế nào được!” Bỗng nhiên, sốt ruột điên người, chàng giật cây giật chân người đang ngủ, lay đầu ông ta, xốc ông ta dậy, đặt ngồi lên ghế, tuy nhiên cổ gắng một lúc lâu vẫn chỉ thu được kết quả là người kia làu bàu mấy tiếng vô nghĩa, văng lời chửi tục, tuy là không rõ tiếng.
- Ông nên chờ thì hơn, - Cha đạo khuyên. - bởi vì rõ ràng là ông ta chẳng còn biết trời đất gì nữa hết.
- Ông ta đã uống rượu suốt ngày hôm nay. - Người gác rừng nói…
- Trời ơi! - Mitia kêu lên. - Giá như các ông biết việc của tôi cần như thế nào và bây giờ tôi tuyệt vọng biết chừng nào.
- Không, ông nên chờ đến sáng thì hơn. - Cha nhắc lại.
- Đến sáng ư? Chết nỗi, không thể được! - Tuyệt vọng, suýt nữa chàng lại bổ tới lay gọi lần nữa, nhưng rồi thôi ngay, vì hiểu rõ có cố gắng mấy cũng vô ích. Cha im lặng, người gác rừng còn ngái ngủ thì cau có.
- Thực tế tạo ra cho người ta những bi kịch ghê gớm quá! - Mitia thốt lên hoàn toàn thất vọng. Mồ hôi túa ra trên mặt chàng.
Nhân lúc này, Cha giãi bày rất có lí rằng cho dù có đánh thức được ông ta đi nữa thì đang say mèm ông ta cũng không thể bàn bạc gì cả, “mà việc của ông lại quan trọng, thành thử đợi đến sáng là hơn…”
Mitia giơ hai tay lên và đồng ý.
- Thưa Cha, tôi sẽ ở đây với một cây nến và chờ lúc thuận lợi. Ông ta tỉnh dậy là tôi bắt đầu ngay… Tôi sẽ trả tiền nến. - Chàng nói với người gác rừng, - cả tiền trọ nữa, chú sẽ nhớ đến Dmitri Karamazov. Phiền một nỗi là tôi không biết thu xếp thế nào cho Cha bây giờ: Cha ngủ đâu kia chứ?
- Không sao, tôi sẽ trở về nhà. Tôi sẽ mượn con ngựa của chú này và về được. - Cha trỏ người gác rừng. - Tạm biệt, chúc ông mọi sự như ý.
Họ giải quyết như thế. Cha cưỡi ngựa ra về, vui mừng vì đã thoát thân, nhưng vẫn bối rối lắc đầu nghĩ ngợi: liệu ngày mai có nên báo trước cho Fedor Pavlovich biết cái chuyện lạ kì này không, bởi vì Fedor Pavlovich là ân nhân của Cha, “kẻo không, chẳng may ông ta mà biết được thì sẽ cáu tiết chẳng thèm ban ân huệ cho nữa.”
Người gác rừng gãi ngứa một lúc, rồi lẳng lặng về gian phòng của mình, còn Mitia, ngồi xuống chiếc ghế dài, chờ dịp thuận lợi, như lời chàng nói. Một nỗi buồn sâu xa bao trùm tâm hồn chàng như một màn sương mù dày đặc. Một nỗi buồn sâu thẳm, ghê gớm! Chàng ngồi nghĩ ngợi, nhưng không thể nghĩ gì đến nơi đến chốn được. Cây nến gần tàn cháy leo lét, dế kêu lích tích, căn phòng được sưởi quá nóng ngột ngạt không thể chịu nổi. Chàng bỗng hình dung ra khu vườn, lối đi sau vườn, cửa nhà ông bố bí mật mở ra và Grusenka chạy vào…
Chàng bật dậy khỏi ghế.
- Bi kịch! - Chàng nghiến răng thốt lên, như cái máy đến gần người đang ngủ và nhìn vào mặt ông ta. Đây là một tay mugich gầy nhom, chưa già, mặt dài ngoằng, tóc xoăn màu hạt dẻ sáng, râu màu hung nhạt thưa và dài, mặc chiếc sơ mi vải hoa với chiếc gilê màu đen, ở túi gilê thòi ra chuỗi dây đeo chiếc đồng hồ bạc.
Mitia nhìn bộ mặt ấy mà căm ghét vì ông ta tóc xoăn. Uất nhất là chàng có việc khẩn cấp đứng chờ ông ta, chàng đã hi sinh bao nhiêu thứ, vứt bỏ rất nhiều cái, kiệt cả sức lực, vậy mà chàng cha vô công rồi nghề này, “mà số phận của chàng tùy thuộc vào y, lại ung dung ngáy khò khò, như y từ hành tinh khác đến”. “Ôi, sự mỉa mai của số phận!” - Mitia kêu lên, và bỗng nhiên, hoàn toàn điên đầu, chàng lại đâm bổ tới lay gọi gã mugich say. Chàng lay gọi một cách cuồng nộ, giật, đẩy, thậm chí đánh, nhưng chàng loay hoay đến năm phút mà vẫn không ăn thua gì, thất vọng vì hết phương kế chàng lại về ngồi xuống ghế của mình.
- Dớ dẩn, dớ dẩn! - Mitia kêu lên. - Và… đê mạt biết bao! - Không hiểu vì sao chàng bỗng nói thêm. Chàng đau đầu kinh khủng: “Mặc xác hắn chăng? Về quách cho xong,” - chàng thoáng nghĩ. - “Không, chờ đến sáng. Ta sẽ cố ý ở lại đây, cố ý! Không thì ta đến đây làm gì kia chứ? Vả lại cùng chẳng có phương tiện gì mà đi khỏi đây, ôi, vô nghĩa!” đầu chàng mỗi lúc một nhức nhối hơn. Chàng ngồi không nhúc nhích và không còn nhớ mình đã thiu thiu ngủ rồi ngủ ngồi lúc nào. Có lẽ chàng ngủ khoảng hai tiếng hay hơn thế.
Chàng mở choàng mắt vì đau đau không thể chịu nổi, đau đến phát thét lên. Hai bên thái dương như có búa gõ, đỉnh đầu nhức buốt. Sau khi choàng tỉnh dậy, một lúc lâu chàng vẫn chưa tỉnh hẳn và chưa hiểu được có chuyện gì xảy ra với chàng. Cuối cùng chàng đoán ra rằng trong căn phòng đốt lò sưởi tích quá nhiều than khí và có lẽ gã kia đã chết. Tay mugich say rượu vẫn nằm ngáy: cây nến đã cháy nhoét và chỉ chực tắt. Mitia kêu lên và loạng choạng lao qua phòng ngoài vào phòng người gác rừng. Anh ta thức dậy ngay, nhưng nghe nói ở phòng bên kia bị ngạt, anh ta đi cắt đặt mọi việc, nhưng có thái độ thản nhiên kì lạ đối với sự việc đó khiến cho Mitia ngạc nhiên đến bực tức.
- Nhưng ông ấy chết rồi, ông ấy chết rồi, thế thì… thế thì ra sao đây? - Mitia điên cuồng la lên.
Họ mở cửa ra vào, mở cửa sổ, mở nắp ổng thông gió lò sưởi. Mitia mang ở phòng ngoài vào một xô nước, thoạt tiên vã nước lên đầu mình, rồi tìm được một mảnh giẻ, nhúng nước và đắp lên đầu Liagavyi. Người gác rừng vẫn tiếp tục giữ thái độ khinh khỉnh trước sự việc đó, và sau khi mở cửa sổ, anh ta nói cấm cẳn:
“Thế là được rồi,” - và anh ta lại đi ngủ, bỏ lại cho Mitia cây đèn gió bằng sắt tây đã thắp sáng. Mitia bận rộn với người say rượu bị ngạt chừng nửa tiếng, luôn tay đắp giẻ ướt lên đầu ông ta và thực sự có ý định thức suốt đêm, nhưng mệt quá, chàng ngồi xuống một lát nghỉ lấy hơi và nhắm mắt lại, rồi tự dưng nằm dài ra trên ghế và ngủ say như chết.
Chàng tỉnh dậy thì đã muộn lắm rồi. Bấy giờ đã khoảng chín giờ sáng. Mặt trời chói lọi rọi vào hai khung cửa sổ nhỏ. Tay mugich tóc xoăn hôm qua ngồi trên ghế dài, đã mặc chiếc áo khoác. Trước mặt ông ta là chiếc ấm xamôva mới và một chai rượu mới. Chai rượu hôm qua đã uống hết, còn chai mới đã uống quá nữa. Mitia bật dậy và đoán ra ngay rằng tay mugich trời đánh này lại say, say mèm, không thể nào làm cho tỉnh lại được nữa.
Chàng nhìn y một lúc, mắt trợn trừng. Tay mugich lẳng lặng nhìn chàng một cách quỷ quyệt, với vẻ điềm nhiên xấc láo, thậm chí là khinh mạn, Mitia cảm thấy thế. Chàng lao bổ đến.
- Xin phép ông, ông thấy đó… tôi… chắc ông đã nghe người gác rừng ở gian bên kia nói lại: tôi là đại úy Dmitri Karamazov, con trai cụ Karamazov, ông đang thương lượng mua rừng của ba tôi…
- Anh nói nhảm! - Tay mugich bỗng nói dằn từng tiếng giọng cương quyết và bình tĩnh.
- Nhảm là thế nào? Ông biết cụ Fedor Pavlovich chứ ạ?
- Tôi chẳng biết ông Fedor Pavlovich nào của nhà chú cả. - Tay mugich nói, lưỡi líu lại.
- Ông mua rừng của ông thân sinh tôi mà; ông tỉnh lại đi, tĩnh trí lại đi. Cha Pavel Ilinsky đưa tôi đến đây… Chính ông viết thư cho Xamxonov, ông ấy bảo tôi đến gặp ông… - Mitia hổn hển.
- Nói nhảm! - Liagavyi lại dằn từng tiếng.
- Hai chân Mitia lạnh giá.
- Xin ông, đây không phải là chuyện đùa! Có lẽ ông chếnh choáng. Nhưng rốt cuộc ông đã nói được, hiểu được… không thì tôi chẳng hiểu gì hết.
- Anh là thợ nhuộm!
- Xin ông, tôi là Karamazov, Dmitri Karamazov, tôi có một đề nghị với ông… một đề nghị có lợi… rất có lợi… chính về khu rừng.
Tay mugich vuốt râu một cách trịnh trọng.
- Ồ anh thầu khoán việc này, và là thằng đểu cáng. Anh là thằng đểu cáng.
- Tôi cam đoan là ông lầm! - Mitia thất vọng vặn vẹo hai tay.
Lão mugich vẫn vuốt râu và bỗng nheo mắt quả quyết.
- Nhưng này, chú nói đi: chú hãy chỉ cho tôi biết có luật pháp nào cho phép làm điều hèn mạt không, nghe đây! Chú mày là thằng đểu cáng, chú mày hiểu chưa?
Mitia sầm mặt lui lại, bỗng nhiên chàng cảm thấy “như có cái gì dập vào trán”, như sau này chàng thuật lại. Bất thần đầu óc chàng như lóa sáng, “ngọn đuốc bừng lên, và tôi hiểu hết”.
Chàng đứng ngây ra, băn khoăn không hiểu tại sao một người như chàng, dù sao thì cũng là người thông minh mà lại tin theo lời khuyên ngu ngốc như thế, lao đầu vào một trò phiêu lưu như thế và tiếp tục cái trò đó suốt một ngày đêm, bận bịu với tay Liagavyi, đắp giẻ ướt lên đầu cho y… “Phải rồi, y say, say mèm và sẽ uống say bí tỉ một tuần nữa, còn trông mong gì ở y kia chứ? Nếu như Xamxonov cố ý xui ta đến đây để xỏ ta thì sao? Nếu như nàng… Trời ơi, ta đã làm gì thế này?…”
Liagavyi ngồi nhìn chàng và cười. Vào lúc khác dù Mitia có lẽ sẽ giết chết thằng ngu độn này cho hả giận, nhưng bây giờ chàng cảm thấy mình yếu như một đứa trẻ. Chàng thong thả đến chiếc ghế dài, lấy áo bành tô, lẳng lặng mặc vào và ra khỏi nhà. Ở gian bên kia, chàng không thấy người gác rừng, chẳng có ai ở đấy.
Chàng lấy trong túi ra khoản tiền lẻ năm mươi kopek và đặt lên bàn, trả tiền trọ đêm, tiền nến và sự quấy quả của mình. Ra khỏi nhà, chàng thấy xung quanh toàn là rừng, ngoài ra không còn gì nữa. Chàng cứ đi phứa, thậm chí chẳng nhớ ra khỏi nhà, mình rẽ phải hay rẽ trái: đêm hôm qua, khi vội vã cùng cha đạo đến đây, chàng không để ý đến đường đi. Chàng không có ý trả thù ai, kể cả Xamxonov. Chàng bước đi trên con đường rừng nhỏ hẹp, chẳng có chủ định gì, lòng dạ rối bời, “đầu óc trống rỗng”, chẳng hề biết mình đi đâu. Bất cứ đứa trẻ nào lúc này cũng có thể bắt nạt chàng, chàng đã quá suy kiệt cả về thể xác lẫn tâm hồn. Nhưng rồi chàng cũng ra được khỏi rừng: trước mắt, những cánh đồng đã gặt sạch trơn trải rộng mênh mông. “Thất vọng biết bao, xung quanh toàn là cảnh chết!” - chàng vừa nhắc đi nhắc lại vừa tiếp tục bước tới.
Dịp may đã cứu chàng: chàng gặp chiếc xe ngựa chở một thương gia già. Khi chiếc xe đến chỗ chàng. Mitia hỏi đường, thì ra xe cũng về Volovia. Chàng lương lượng với họ và được họ cho đi nhờ. Ba giờ sau tới nơi. Ở ga Volovia, Mitia lập tức thuê xe ngựa về thành phố, bây giờ chàng mới thấy đói lả. Trong lúc thắng ngựa, chàng bảo làm trứng tráng. Chàng ăn một nhoáng hết chỗ trứng, ăn hết một khoanh bánh mì to, một số xúc xích lùng tìm được và uống ba li vodka. Lại sức rồi, chàng phấn chấn, tâm hồn lại trở nên sáng sủa. Chàng thôi thúc người đánh xe phóng như bay trên đường, và bất đồ nảy ra một kế hoạch mới, lần này thì “chắc ăn” để cùng lắm là tối nay xoay cho ra số tiền “trời đánh” ấy. “Ai ngờ đâu, nào ai ngờ chỉ vì ba ngàn rúp vớ vẩn mà hỏng cả một kiếp người!” - Chàng kêu lên đầy khinh miệt. - “Ngay hôm nay ta sẽ giải quyết xong!” Nếu như không luôn luôn nghĩ đến Grusenka và lo có chuyện gì xảy ra với nàng thì có lẽ chàng lại hoàn toàn vui vẻ. Nhưng ý nghĩ về nàng như mũi dao nhọn cắm vào tâm hồn chàng. Về đến nơi Mitia đâm bổ ngay đến Grusenka.
Phần 8
Chương 3: Mỏ vàng
Chuyến viếng thăm ấy của Mitia chính là điều mà Grusenka đã hết sức sợ hãi kể lại với Rakitin. Lúc ấy nàng đang chờ “tin hỏa tốc”; và rất mừng là hôm qua, và hôm nay Mitia đều không đến, nàng hi vọng có lẽ trời sẽ xui khiến Mitia đừng đến trước khi nàng ra đi, vậy mà bỗng nhiên chàng ập đến. Sự việc tiếp diễn như thế nào chúng ta đã biết: để gạt khéo Mitia ra, nàng nhờ chàng đưa mình đến nhà Kuzma Xamxonov, viện cớ nàng rất cần đến để “tính sổ sách”, Mitia lập tức đưa nàng đi, rồi khi chia tay với chàng ở cổng nhà Kuzma, nàng bắt chàng hứa sẽ đến đón nàng vào nửa đêm để đưa nàng về. Mitia vui sướng vì sự sắp đặt như thế: “Nàng ở nhà Kuzma tức là sẽ không đến Fedor Pavlovich… miễn là nàng không nói dối”, - chàng lập tức nghĩ thế. Nhưng chàng đồ rằng nàng không nói dối. Chính chàng là loại người ghen tuông mà khi chia tay với người phụ nữ mình yêu thì liền nghĩ ra đủ mọi điều ghê gớm về những gì đang xảy ra với nàng, về việc nàng “phụ tình” như thế nào, nhưng khi lại đến với người yêu, lòng bàng hoàng tuyệt vọng, tin chắc như dinh đóng cột nàng nàng đã bội tình với mình, nhưng mới thoạt nhìn khuôn mặt tươi cười, vui vẻ, âu yếm của người phụ nữ đó thì đã phấn chấn trở lại, quên hết mọi nghi ngờ và vừa họ thẹn vừa vui sướng tự mắng mình ghen tuông. Đưa Grusenka tới nơi, chàng chạy bổ về nhà mình. Ôi, hôm nay chàng có biết bao nhiêu việc phải làm cho xong! Nhưng ít ra lòng chàng nhẹ nhõm. “Bây giờ cần mau mau đến hỏi Xmerdiakov xem tối hôm qua có xảy ra chuyện gì không, nàng có đến Fedor Pavlovich không, biết đâu đấy!” - Ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Như vậy chàng chưa kịp chạy về đến nhà thì cơn ghen đã cuộn lên trong trái tim bất an của chàng.
“Ghen! Otello không ghen, chàng cả tin.” - Puskin nhận xét như vậy, và chỉ riêng nhận xét đó đã chứng tỏ trí tuệ sâu sắc phi thường của nhà thơ vĩ đại của chúng ta. Chẳng qua là tâm hồn Otello tan nát và cảm quan của chàng về thế giới trở nên rối loạn, vì chàng mất lí tưởng. Nhưng Otello không ẩn núp, do thám, rình mò: chàng cả tin. Trái lại, cần phải ra sức khêu gợi, thôi thúc, xúi giục, chàng mới đoán ra sự phụ tình. Kẻ ghen tuông thực sự không thế. Thậm chí ta không thể tưởng tượng nổi một kẻ ghen tuông có chịu đựng sự ô nhục và đồi bại về đạo đức đến mức nào mà không hề bị lương tâm cấn rứt. Nhưng không phải đấy toàn là những kẻ có tâm hồn ti tiện và bẩn thỉu. Trái lại, người có tấm lòng cao quý, có tình yêu trong trắng đầy hi sinh vẫn có thể núp dưới gầm bàn, mua chuộc những kẻ đê mạt nhất, dùng nhưng cách do thám và nghe trộm xấu xa nhơ bẩn nhất.
Otello sẽ không bao giờ cam chịu sự phụ tình, - tuy chàng hiền lành và ngây thơ như đứa trẻ. Kẻ ghen tuông thực sự dù không thế: khó mà tưởng tượng nổi kẻ cả ghen có chế chấp nhận và cam chịu những gì, có thể tha thứ đến mức nào! Những kẻ cả ghen có thể và có khả năng tha thứ hết sức nhanh chóng (tất nhiên là sau một trận lôi đình) cả cho tội phản bội quả tang, khi chính anh ta nhìn thấy cảnh ôm hôn nhau, miễn là anh ta có thể tin chắc rằng chẳng hạn “đây là lần cuối cùng” và từ nay kẻ tình địch sẽ biến mất, sẽ bỏ đi tận cùng trời cuối đất, hay chính anh ta sẽ đưa nàng đến một nơi nào mà kẻ tình địch đáng sợ ấy không lai vãng đến nữa. Tất nhiên sự làm lành ấy chỉ được một thời gian ngắn, vì cho dù kẻ tình địch có biến mất thật đi nữa thì ngày mai anh ta sẽ lại phát minh ra kẻ tình địch khác và ghen với người mới này. Thử hỏi thứ tình yêu mà cứ phải rình mò theo dõi như thế thì có nghĩa lí gì, thứ tình yêu mà người ta phải ráo riết canh giữ như thế có giá trị gì không? Nhưng kẻ thực sự cả ghen không bao giờ hiểu được điều đó, ấy thế mà trong số họ quả tình vẫn có những người có tấm lòng cao cả. Kể cũng lạ, chính những người có tấm lòng cao cả ấy, khi đứng trong một xó kín để rình rập và nghe trộm thì tuy hiểu rất rõ, “bằng tấm lòng cao cả của mình”, tất cả sự đê nhục mà họ đã tự chuốc lấy, nhưng ít ra là giây phút ấy, khi họ đứng trong xó kín, họ không bao giờ cảm thấy lương tâm cắn rứt. Mitia thì hễ cứ thấy mặt Grusenka là tính ghen biến đâu mất, trong khoảnh khắc chàng trở nên cả tin và cao thượng, thậm chí chính chàng tự chính mình có những tình cảm xấu. Nhưng điều đó chỉ có nghĩa là tình yêu của chàng với người phụ nữ ấy có cái gì cao cả hơn chàng tưởng nhiều lắm, chứ không phải chỉ là đam mê, không phải chỉ là “đường cong thân thể” mà chàng đã nói với Aliosa. Nhưng hễ Grusenka đi đâu vắng, Mitia lập tức lại bắt đầu nghĩ cho nàng đủ mọi thứ tội phản bội, hèn hạ và xảo quyệt.
Vậy là, cơn ghen lại sục sôi trong lòng chàng. Dù sao phải gấp lên. Việc đầu tiên là phải giật tạm đâu một ít tiền. Chín rúp hôm qua đã chi vào tiền xe gần hết, mà không có tiền thì không đi đâu nổi lấy một bước. Nhưng cùng với kế hoạch mới, chàng đã nghĩ cách xoay đâu ra tiền, giật tạm thôi, và chàng mưu tính chuyện ấy từ lúc ngồi trên xe ngựa. Chàng có hai khẩu súng tay rất tốt, có cả đạn, dùng để đấu súng, nếu cho đến giờ chàng vẫn chưa đem cầm thì bởi vì chàng thích chúng hơn mọi thứ khác. Ở quán “Thủ đô”, đã từ lâu chàng có quen sơ sơ một viên chức trẻ tuổi và cũng ở quán ấy, chàng được biết gã viên chức độc thân và khá dư dật này mê chơi súng, mua các loại súng tay, súng lục, dao găm, treo khắp các mặt tường, đem khoe cả với kẻ thân người quen, giảng giải cực kì thông thạo về hệ thống máy móc của súng, cách nạp đạn, cách bắn, v.v… Không do dự, Mitia đến ngay anh ta và đề nghị anh ta cho cầm hai khẩu súng lấy mười rúp Người viên chức thích quá khuyên Mitia bán đứt cho anh ta, nhưng Mitia không chịu, thế là anh ta đưa cho chàng mười rúp, tuyên bố dứt khoát không lấy lãi. Hai bên chia tay nhau trên tình thân hữu. Mitia vội vã, chàng tức tốc đến cái chòi lúa sau nhà Fedor Pavlovich để mau mau gọi Xmerdiakov. Nhưng như vậy lại có thêm một sự kiện là hai ba giờ trước khi xảy ra biến cố mà dưới đây tôi sẽ nói đến, Mitia không có một xu dính túi, chàng đã đem món đồ vật ưa thích của mình đi cầm lấy mười rúp, thế mà ba giờ sau chàng có trong tay hàng nghìn rúp… Nhưng thế là tôi lại nói trước mất rồi.
Tại nhà Maria Kondratievna (người hàng xóm nhà Fedor Pavlovich), chàng cực kì sửng sốt và bối rối hay tin Xmerdiakov ngã bệnh. Chàng nghe kể về chuyện Xmerdiakov ngã xuống hầm nhà, rồi về cơn động kinh, việc bác sĩ đến, sự chăm sóc của Fedor Pavlovich. Chàng tò mò nghe tin Ivan Fedorovich sáng nay đã đi Moskva. “Hẳn là chú ấy đã đi qua Volovia trước ta,” - Dmitri Fedorovich nghĩ, nhưng Xmerdiakov khiến chàng lo ngại ghê gớm. - “Làm thế nào bây giờ, ai sẽ canh giữ, ai sẽ báo cho ta biết?” Chàng háo hức hỏi mấy người phụ nữ ấy xem tối qua có thấy gì lạ không? Hai người phụ nữ này hiểu rất rõ chàng muốn hỏi gì, họ nói cho chàng hoàn toàn hết nghi ngờ: chằng có ai đến, Ivan Fedorovich ngủ đêm tại nhà, “mọi sự đều ổn cả”. Mitia nghĩ ngợi. Chắc chắn hôm nay vẫn phải canh giữ, nhưng canh ở đâu: ở đây hay ở cổng nhà Xamxonov? Chàng quyết định là cả ở đây và ở đằng ấy, còn tạm thời, tạm thời.
Nguyên do là chàng đang mưu tính thực hiện “kế hoạch” ấy, cái kế hoạch ban nãy, lần này thì chắc ăn, chàng đã nghĩ ra từ lúc còn trên xe ngựa và không thể trì hoãn được nữa. Mitia quyết định bỏ ra một giờ để thực hiện kế hoạch đó: “Trong một giờ ta sẽ giải quyết xong hết, sẽ biết hết mọi chuyện, bây giờ trước hết ta sẽ đến nhà Xamxonov xem có Grusenka ở đấy không, rồi sẽ trở lại đây trước mười một giờ ta sẽ có mặt ở đây, rồi ta sẽ lại đến nhà Xamxonov đón nàng để đưa nàng về nhà.” Chàng quyết định như vậy.
Chàng bay về nhà, tắm rửa, chải đầu, chải áo, ăn vận chỉnh tề và đến bà Khokhlakova. Hỡi ôi, “kế hoạch” của chàng là ở đấy. Chàng định vay bà ta ba ngàn rúp. Lạ nhất là bỗng nhiên, thật bất ngờ, chàng tin chắc lạ thường rằng bà ta sẽ không khước từ. Có lẽ người ta sẽ lấy làm ngạc nhiên rằng nếu tin chắc như thế thì tại sao chàng không đến đấy trước, đấy có thể nói là chỗ quen thuộc của mình, mà lại đến Xamxonov, một người thuộc loại xa lạ với chàng mà thậm chí chàng không biết nói năng với ông ta ra sao.
Nhưng duyên do là tháng gần đây, chàng hầu như không giao thiệp với bà ta, ngay cả trước kia chàng cũng chỉ quen sơ, ngoài ra chàng biết rất rõ ràng bà ta không chịu đựng được chàng. Bà ta căm ghét chàng ngay từ đầu chỉ vì chàng là chồng chưa cưới của Ekaterina Ivanovna, còn bà thì không hiểu vì sao, lại cứ muốn Ekaterina Ivanovna bỏ chàng và lấy “Ivan Fedorovich đáng yêu, con người có học và hào hiệp, cốt cách sao mà phong nhã”. Bà ta ghét cay ghét đắng cung cách của Mitia. Mitia thì chế nhạo bà ta, có lần còn nói rằng người đàn bà này “tràn trề sức sống và buông thả, rất kém học thức”. Vậy mà mới sáng nay thôi, lúc ngồi trong xe ngựa, một ý nghĩ đặc sắc lóe lên trong trí óc chàng: “Nếu bà ta nhất quyết không muốn ta lấy Ekaterina Ivanovna, muốn chống phá đến mức ấy (chàng biết rằng hầu như đến mức loạn thần kinh) thì lí gì bây giờ bà ta lại từ chối ta ba ngàn rúp, chính là để với số tiền ấy ta có thể bỏ Ekaterina, mãi mãi đi hắn khỏi nơi này?”
Nhưng bà quý phái cao sang ấy, một khi đã dở chứng nhất quyết muốn điều gì thì họ không còn tiếc gì, miễn là đúng ý họ. Vả lại “bà ta giàu có lắm mà,” - Mitia suy luận. Còn về “kế hoạch” thì vẫn y nguyên như trước, nghĩa là đề nghị nhượng lại quyền của mình về Tresniasnia, nhưng không phải với mục đích thương mại như với Xamxonov hôm qua, không phỉnh phờ bà ta như hôm qua đã làm với Xamxonov, bằng cách đưa ra khả năng kiếm được không phải ba ngàn rúp, mà gấp đôi, sáu hay bảy ngàn rúp, mà chỉ đưa ra đảm bảo cao quý về món nợ. Phát triển ý nghĩ mới mẻ ấy của mình, Mitia hoan hỉ, như chẳng bao giờ cũng thế khi nảy ra bất cứ sáng kiến gì hay có quyết định bất ngờ gì. Chàng say mê với mọi ý nghĩ mới lạ. Tuy nhiên khi bước chân lên bậc tam cấp nhà bà Khokhlakova, bỗng chàng cảm thấy lạnh sống lưng vì khiếp sợ: mãi đến lúc này chàng mới cảm thấy thật rõ, chính xác với mức toán học, rằng đây là hi vọng cuối cùng của chàng, rằng nếu việc này mà hỏng thi sau đó không còn gì nữa, “chỉ còn nước cắt cổ hay trấn lột một người nào đó để có ba ngàn rúp, hết đường rồi…” Khi chàng kéo chuông thì đã bảy giờ rưỡi tối.
Thoạt đầu, công việc có vẻ xuôi lọt: vừa báo tin xong, chàng được tiếp đón nhanh chóng lạ thường. “Cứ như thể bà ấy đang chờ ta đến,” - Mitia thoáng nghĩ, tiếp đó, khi chàng vừa được đưa vào phòng khách thì bà chủ gần như chạy xộc vào và nói thẳng rằng bà đang đợi chàng…
- Tôi đợi anh, tôi đợi anh! Tôi không hề nghĩ rằng anh lại đến thăm tôi, hẳn anh cũng đồng ý như thế, nhưng tôi vẫn đợi, chắc anh ngạc nhiên về linh cảm của tôi, Dmitri Fedorovich ạ. suốt buổi sáng nay tôi tin chắc rằng anh sẽ tới.
- Quả là đáng ngạc nhiên, thưa bà. - Mitia nói lúng túng ngồi xuống, - nhưng… tôi đến có một việc cực kì quan trọng… việc quan trọng nhất trong những việc quan trọng, đối với riêng tôi thôi, thưa bà, với riêng tôi thôi, và tôi đang vội…
- Tôi biết là có việc cực kì quan trọng, anh Dmitri Fedorovich ạ. Đây không phải là linh tính, không phải là khuynh hướng lạc hậu tin vào phép lạ (anh có nghe tin về trưởng lão Zoxima chứ?), đây là sự chính xác toán học: anh không thể không đến, sau tất cả những gì đã xảy ra với Ekaterina Ivanovna, anh không thể không đến, không thể không đến, đấy là quy tắc toán học.
- Đó là tinh thần thực tế của đời sống thực, thưa bà, thế đấy ạ! Nhưng, xin bà cho phép tôi trình bày…
- Đúng là tinh thần thực tế, anh Dmitri Fedorovich ạ. Tôi hoàn toàn tán thành tinh thần thực tế, tôi đã nhận được bài học quá cay đắng về phép lạ rồi. Anh có nghe tin trưởng lão Zoxima đã qua đời rồi chứ?
- Không, thưa bà, lần đầu tiên tôi nghe thấy. - Mitia hơi ngạc nhiên… - Trong đầu chàng thoáng hiện hình ảnh Aliosa.
- Đêm vừa rồi, anh tưởng tượng xem…
- Thưa bà, - Mitia ngắt lời, - tôi chỉ tưởng tượng tôi đang ở trong tình cảnh vô cùng tuyệt vọng và nếu bà không giúp tôi thì mọi việc hỏng hết và tôi đi đời nhà ma trước tiên. Bà thứ lỗi cho cách diễn đạt nhàm sáo, nhưng tôi đang lên cơn sốt bừng bừng…
- Tôi biết, tôi biết anh đang lên cơn sốt, tôi biết hết, trạng thái tinh thần của anh không thể khác thế được, anh muốn nói gì tôi biết hết cả rồi. Tôi đã lưu tâm đến số phận của anh từ lâu rồi, Dmitri Fedorovich ạ, tôi vẫn theo dõi và nghiên cứu… Ôi, hãy tin rằng tôi là một bác sĩ tâm thần giàu kinh nghiệm, Dmitri Fedorovich ạ.
- Thưa bà, nếu bà là một bác sĩ tâm thần giàu kinh nghiệm thì tôi là một con bệnh giàu kinh nghiệm. - Mitia gắng tỏ ra nhã nhặn. - Tôi linh cảm thấy rằng nếu bà quan tâm đến số phận tôi như vậy thì bà sẽ giúp tôi trong lúc tôi đang nguy khốn, nhưng nếu vậy thì xin bà cho phép tôi rốt cuộc được trình bày với bà cái kế hoạch mà tôi đánh liều đến nói với bà… và điều mà tôi mong chờ ở bà… Tôi đến, thưa bà…
- Chẳng cần trình bày, điều đó chẳng có gì quan trọng. Còn về chuyện giúp đỡ thì anh không phải là người đầu tiên tôi giúp đỡ đâu, anh Dmitri Fedorovich ạ. Chắc anh có nghe nói về bà Belmexova, em họ tôi, chồng bà ta gặp cảnh nguy biến, đi đời nhà ma, theo cách nói bóng bẩy của anh, Dmitri Fedorovich ạ, tôi đã bày cho ông ta nuôi ngựa, bây giờ nhà ông ta phát đạt. Anh có biết gì về việc nuôi ngựa không, Dmitri Fedorovich?
- Không mảy may, thưa bà, chao ôi, thưa bà, không mảy may! - Mitia nóng nảy gào lên và thậm chí toan đứng dậy. - Thưa bà, tôi chỉ xin bà nghe tôi nói cho hết, chỉ xin bà hai phút nói thoải mái để có thể trình bày đầy đủ với bà dự tính của tôi khi đến đây. Thêm nữa, tôi cần thời gian, tôi vội ghê lắm!… - Mitia gào lên như điên, cảm thấy bà ta lại sắp nói, và chàng hi vọng gào át được bà ta. - Tôi đến đây trong tình cảnh tuyệt vọng… vô cùng tuyệt vọng, đến để xin bà cho vay ba ngàn rúp, có bảo đảm chắc chắn, hết sức chắc chắn, thưa bà! Chỉ xin bà cho tôi được trình bày…
- Để sau, để sau hãy hay! - Bà Khokhlakova xua tay ngăn lại, - mà dù anh định nói gì đi nữa thì tôi cũng biết trước cả rồi, tôi đã nói với anh như thế rồi cơ mà. Anh hỏi mượn tiền, anh cần ba ngàn rúp, nhưng tôi sẽ đưa cho anh nhiều hơn, nhiều gấp bội, tôi sẽ cứu anh; Dmitri Fedorovich ạ, nhưng anh phải nghe lời tôi mới được!
Mitia lại bật dậy.
- Thưa bà, bà có lòng tốt đến thế kia ư! - Chàng kêu lên bằng giọng đầy cảm kích. - Trời ơi, bà đã cứu tôi. Thưa bà, bà cứu vớt một con người đã buộc lòng phải chọn cái chết, cứu hắn khỏi phát súng tự vẫn… Đội ơn bà suốt đời…
- Tôi sẽ đưa cho anh không phải ba ngàn, mà nhiều hơn vô kể kia! - Bà Khokhlakova reo lên, mỉm cười tươi rồi nhìn sự hoan hỉ của Mitia.
- Nhiều vô kể ư? Nhưng tôi không cần nhiều đến thế. Tôi chỉ cần ba ngàn rúp tai ác nọ, còn về phần tôi, tôi đến để trình bày với bà sự bảo đảm về số tiền nọ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn và đề nghị với bà một kế hoạch…
- Thôi thôi, anh Dmitri Fedorovich, đã nói là làm, - bà Khokhlakova ngắt lời với vẻ đắc thắng nhã nhặn của bậc ân nhân. - Tôi hứa cứu anh và sẽ cứu anh. Tôi sẽ cứu anh như đã cứu Belmexova. Anh nghĩ thế nào về những mỏ vàng, Dmitri Fedorovich?
- Về mỏ vàng, thưa bà? Tôi chưa bao giờ nghĩ gì về nó.
- Ngược lại tôi đã nghĩ hộ anh! Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại chán ra rồi! Suốt một tháng nay tôi để ý đến anh vì mục đích ấy. Đã hàng trăm lần tôi nhìn thấy anh khi anh đi ngang qua, và tôi tự nhủ: đây là một người cương nghị nên đi khai thác mỏ. Thậm chí tôi đã nghiên cứu dáng đi của anh và quyển định: người này sẽ tìm được nhiều mạch mỏ.
- Căn cứ vào dáng đi ư, thưa bà? - Mitia mỉm cười.
- Chứ gì nữa, căn cứ vào dáng đi. Sao, chẳng lẽ anh không thừa nhận rằng có thể nhìn dáng đi mà đoán tính cách con người sao, Dmitri Fedorovich? Khoa học tự nhiên xác nhận điều đó. Ồ, bây giờ tôi là người có đầu óc thực tế, anh Dmitri Fedorovich ạ.
Phần 8
Chương 3 - P2
Từ hôm nay, sau cái chuyện xảy ra ở tu viện làm tôi rất đỗi buồn phiền, tôi đã trở những người hoàn toàn thực tế và muốn lao đầu vào hoạt động thực tế. Tôi đã được chữa khỏi bệnh. Đủ rồi! Như Turghenev đã nói. (1)
Chú thích:
(1) “Đủ rồi!” - tên một truyện vừa của I. X. Turghenev (N.D).
- Nhưng thưa bà, ba ngàn rúp mà bà đã hết sức rộng lượng hứa cho tôi vay…
- Số tiền ấy không lọt đi đâu khỏi tay anh, Dmitri Fedorovich ạ, - bà Khokhlakova tức khắc ngắt lời. - Cứ coi như ba ngàn ấy đã ở trong túi anh rồi, không phải ba ngàn, mà là ba triệu, Dmitri Fedorovich ạ, trong thời gian ngắn nhất! Tôi sẽ nói anh nghe ý định của tôi: anh sẽ đi tìm mỏ, sẽ kiếm bạc triệu, lúc trở về anh sẽ là nhà hoạt động, anh sẽ dẫn dắt chúng tôi theo con đường thiện. Lẽ nào cứ để cho bọn Do Thái thâu tóm hết nguồn lợi? Anh sẽ xây dựng những tòa nhà và những xí nghiệp này khác. Anh sẽ cứu giúp những người nghèo, họ sẽ cầu phước cho anh. Bây giờ là thời đại đường sắt, Dmitri Fedorovich ạ. Bộ tài chính sẽ biết tiếng anh và cần đến anh, vì bộ này hiện đang rất quẫn. Đồng tiền của ta sụt giá đến nỗi làm tôi ngủ không yên, Dmitri Fedorovich ạ, người ta ít biết nỗi niềm này cho tôi…
- Thưa bà, thưa bà! - Dmitri Fedorovich lại ngắt lời, một linh cảm khiến chàng lo lắng. - Có lẽ tôi sẽ nhất nhất theo lời khuyên của bà, lời khuyên thật khôn ngoan, thưa bà, có lẽ tôi sẽ đi đến đấy đi tìm mỏ… và tôi sẽ lại đến thưa chuyện với bà về việc ấy thậm chí đến nhiều lần… nhưng bây giờ, ba ngàn đồng mà bà đã rất đỗi rộng lượng… Ôi, số tiền ấy sẽ cởi trói cho tôi, nếu có thể thì ngay hôm nay… Nghĩa là, thưa bà, hôm nay tôi không còn chút thời giờ nào cả…
- Thôi đủ rồi, Dmitri Fedorovich, đủ rồi! - Bà Khokhlakova vẫn lại ngắt lời chàng. - Xin hỏi một câu: anh có đi tìm mỏ vàng không, anh đã quyết tâm chưa, trả lời dứt khoát đi.
- Tôi sẽ đi, thưa bà, sau này… Tôi sẽ đi bất cứ nơi nào bà muốn, thưa bà… nhưng bây giờ…
- Hãy khoan! - Bà Khokhlakova kêu lên, bật dậy và đâm bổ tới chỗ cái bàn viết tuyệt diệu có vô số ngân kéo và bắt đầu rút hết ngân này đến ngăn khác, lục tìm cái gì cực kì hối hả.
“Ba ngàn đồng!” - Mitia nghĩ, lặng người đi, - “mà ngay bây giờ, không cần giấy tờ gì, không chứng từ, ồ, thật là cao nhã! Một người phụ nữ tuyệt diệu, giá như bà ta không lắm lời đến thế….”
- Đây rồi! - Bà Khokhlakova vui sướng kêu lên, quay lại với Mitia, - tôi đã tìm thấy cái này!
Đấy là bức tượng thánh nhỏ bằng bạc có dây đeo mà người ta thường đeo trên mình cùng với cây thập giá.
- Cái này đem từ Kiev về đây, Dmitri Fedorovich ạ. - Bà ta nói tiếp với giọng sùng kinh. - Nó thuộc loại những thánh tích của thánh Varvara tuẫn đạo đấy. Cho phép tôi đeo lên cổ anh và như vậy là cầu Chúa cho anh, bước vào cuộc đời mới giành được những kì tích mới.
Quả thật bà ta đeo bức tượng thánh vào cổ cho anh và sửa lại cho ngay ngắn. Mitia hết sức bối rối cúi xuống, giúp bà ta, và cuối cùng đã choàng được sợi dây qua cà vạt và cổ áo sơ mi, đeo bức tượng thánh ngay ngắn trước ngực.
- Bây giờ thì anh có thể đi được rồi đấy! - Bà Khokhlakova thốt lên, đắc chí ngồi về chỗ.
- Thưa bà, tôi cảm động quá… thậm chí tôi không biết cảm ơn thế nào… về những tình cảm như thế, nhưng… nếu bà biết đối với tôi lúc này thời gian quý biết bao!… Số tiền mà tôi hết lòng mong chờ bà sẽ rộng lượng… Ôi, thưa bà, nếu như bà tốt đến như thế, rộng lượng với tôi đến như thế khiến tôi vô cùng cảm kích, - Mitia đột nhiên hào hứng kêu lên, - thì xin bà cho biết… vả chăng bà cũng đã biết từ lâu rồi… tôi yêu một người ở đây. Tôi đã phụ tình Katia… Ekaterina Ivanovna, tôi muốn nói thế. Ôi, tôi thật là bất nhân, bất lương đối với nàng, nhưng ở đây tôi đã yêu một phụ nữ khác… thưa bà, có lẽ là một người mà bà khinh miệt, vì bà biết hết mọi việc mà, nhưng tôi không thế bỏ được người đó, không thể nào bỏ được, bởi vì bây giờ, ba ngàn đồng ấy…
- Bỏ hết cả đi, anh Dmitri Fedorovich ạ! - Bà Khokhlakova ngắt lời, giọng hết sức kiên quyết. - Bỏ hết, nhất là đàn bà. Mục đích của anh là hầm mỏ, mà đưa đàn bà đến đấy làm quái gì. Sau này, khi anh trở về, giàu có và danh tiếng, anh sẽ tìm được người bạn lòng trong giới thượng lưu cao sang nhất. Đấy sẽ là một cô gái tân tiến, có học thức và không thành kiến. Đến lúc ấy, vấn đề phụ nữ mà bây giờ mới được đặt ra sẽ chín muồi và sẽ xuất hiện người phụ nữ mới…
- Thưa bà, không phải thế, không phải thế… - Dmitri Fedorovich van vỉ, suýt chắp tay lại.
- Chính thế đấy, Dmitri Fedorovich ạ, đấy chính là cái anh cần, cái anh khao khát mà không tự biết. Tôi hoàn toàn không thờ ơ với vấn đề phụ nữ hiện nay, Dmitri Fedorovich ạ. Sự phát triển của phụ nữ và thậm chí vai trò chính trị của phụ nữ trong tương lai gần đây nhất, đấy là lí tưởng của tôi. Tôi có một đứa con gái, Dmitri Fedorovich ạ, người ta ít biết tôi về mặt này. Tôi đã viết về vấn đề này cho nhà văn Sedrin. Nhà văn này đã chỉ bảo cặn kẽ cho tôi về thiên chức của phụ nữ, vì thế năm ngoái tôi đã gửi cho ông một lá thư không đề tên vẻn vẹn có mấy chữ: “Tôi ôm hôn ông, nhà văn của tôi, nhân danh người phụ nữ tân tiến, ông cứ tiếp tục đi.” Và tôi ký tên: “Một người mẹ.” Tôi muốn ký: “Một người mẹ tân tiến”, nhưng cứ phân vân, cuối cùng tôi chỉ ký: “một người mẹ” như thế đẹp hơn, Dmitri Fedorovich ạ, vả lại tiếng “tân tiến” có thể gợi cho họ nhớ tới tạp chí “Người tân tiến”, một kỷ niệm cay đắng của họ về kiểm duyệt hiện nay (2). Ôi trời ơi, anh làm sao thế?.
Chú thích:
(2) “Người đương thời” (“Xovremenik”) là một tạp chí văn học và chính trị - xã hội, Xantykov Serdin và Nekraxov lãnh đạo tạp chí này một thời gian. Ở đây có sự chơi chữ Xovremenik có nghĩa là: hiện tại, tân tiến, đương thời… (N.D).
- Thưa bà, - rốt cuộc Mitia bật dậy, chắp hai tay lại trước mắt bà ta với vẻ van vỉ bất lực, - bà làm tôi đến phát khóc mất, nếu như bà trì hoãn điều mà bà đã hết sức rộng lượng…
- Cứ khóc đi, Dmitri Fedorovich, khóc đi! Đấy là những tình cảm tuyệt đẹp… anh sắp phải đi vào con đường như thế kia mà! Nước mắt sẽ làm anh vợi đi nỗi lòng, rồi sau này trở về, anh sẽ vui sướng. Anh sẽ từ Sibir về đây chỉ cốt để chia sẻ niềm vui sướng với tôi…
- Nhưng xin bà thứ lỗi, - Mitia bong kêu lên, - lần cuối cùng tôi van bà, bà nói đi, hôm nay tôi có thể được bà trao cho số tiền bà đã hứa không? Nếu không phải là bây giờ thì bao giờ tôi đến lấy?
- Tiền nào, Dmitri Fedorovich?
- Ba ngàn rúp mà bà đã hứa… mà bà đã hết sức rộng lòng…
- Ba ngàn? Ba ngàn rúp? Ồ không, tôi không có ba ngàn rúp, - bà Khokhlakova thốt lên với một vẻ ngạc nhiên bình tĩnh. Mitia sững sờ…
- Thế sao… vừa nãy… bà nói… thậm chí bà còn bảo là cứ coi như tiền đã ở trong túi tôi rồi…
- Ồ không, anh không hiểu tôi, Dmitri Fedorovich. Nếu vậy thì anh không hiểu tôi. Tôi nói về hầm mỏ… Quả thật là tôi hứa với anh số tiền còn lớn hơn ba ngàn nhiều, tôi nhớ ra cả rồi, nhưng đấy chỉ là tôi nói về hầm mỏ.
- Thế còn tiền? Còn ba ngàn ấy? - Dmitri Fedorovich kêu lên một cách ngớ ngẩn.
- Ồ nếu anh nói về tiền thì lúc này tôi không có đâu. Bây giờ tôi chằng có đồng nào, chính lúc này tôi đang có chuyện rắc rối với viên quản lí, hôm vừa rồi tôi phải mượn của ông Miuxov năm trăm rúp. Không, không, tôi không có tiền. Mà anh Dmitri Fedorovich ạ, cho dù có tiền, tôi cũng không cho anh vay. Thứ nhất là tôi không cho ai vay bao giờ. Cho vay là sinh chuyện xích mích. Nhưng với anh, đặc biệt với anh thì tôi càng không cho vay, vì tôi yêu anh, tôi muốn cứu anh nên không cho vay, vì chỉ có mỗi một việc cần cho anh mà thôi: hầm mỏ, hầm mỏ và hầm mỏ!…
- Ôi đồ quỷ tha ma bắt!… Mitia bỗng gầm và đấm thật lực xuống bàn.
- Chết chết! - Bà Khokhlakova sợ hãi kêu lên và nhào sang đầu kia phòng khách.
Mitia nhổ bọt đánh toẹt một cái và bước ra khỏi phòng, ra khỏi nhà, ra đường, đi vào bóng tối. Chàng đi như người mất trí, tự đấm ngực mình, đúng vào chỗ mà hai ngày trước chàng đã đấm vào đó trước mặt Aliosa khi gặp em lần cuối cùng vào buổi tối trong bóng tối, trên đường, đấm ngực đúng vào chỗ ấy nghĩa là thế nào và như vậy chàng muốn nói gì, tạm thời đấy vẫn là điều bí mật trên đời chưa ai biết, điều bí mật mà hôm ấy chàng vẫn không hết lộ ngay cả với Aliosa, nhưng đấy là nỗi nhục nhã ê chề của chàng, là sự bại vong và tự sát của chàng, chàng đã quyết định như thế nếu như không xoay được ba ngàn rúp để trả Ekaterina Ivanovna và như vậy là cất bỏ khỏi ngực mình, khỏi “chỗ ấy trên ngực”, nỗi ô nhục mà chàng vẫn đeo ở đấy và nó đè nặng lương tâm chàng. Tất cả những điều đó sau này sẽ được nói rõ hết với bạn đọc, nhưng bây giờ, khi mà hi vọng cuối cùng của chàng đã tan biến, con người cường tráng như thế vừa rời khỏi nhà bà Khokhlakova được mấy bước đã nước mắt chan hòa như đứa trẻ. Cứ như thế, thẳng ra quảng trường và bỗng cảm thấy mình xô toàn thân vào một vật gì. Có tiếng rú thất thanh của một bà già suýt bị chàng xô ngã.
- Trời ơi, suýt nữa hù làm chết người ta! Đi gì mà cứ đâm bừa đi thế, thằng ôn dịch kia!
- Kìa, bà đấy ư? - Mitia kêu lên khi nhận ra bà già trong bóng tối. Đấy chính là người đầy tớ già hầu hạ Kuzma Xamxonov mà hôm qua Mitia hết sức để ý đến bà ta.
- Nhưng ông là ai chứ, thưa ông? - Bà già đổi giọng khác hẳn. - Tối quá tôi không nhận ra ông.
- Bà ở nhà ông Kuzma Xamxonov, hầu hạ ông ấy chứ gì?
- Đúng ạ, tôi vừa đến nhà ông Prokhrytr… Nhưng sao tôi vẫn không nhớ ra ông nhỉ?
- Này, bà ơi, cô Agrafena Alecxandrovna hiện giờ có ở đằng nhà không? - Mitia hỏi, mất bình tĩnh vì nóng ruột chờ đợi. - Ban nãy tôi đưa cô ấy đến nhà mà.
- Cô ấy có đến, thưa ông, ngồi một lát, nhưng đi rồi.
- Sao? Đi rồi à? - Mitia kêu lên. - Đi khi nào?
- Đi ngay, chỉ ở đấy có một lát thôi. Kể cho ông Kuzma Kuzmitr một câu chuyện làm ông bật cười rồi đi ngay.
- Nói lão, con mụ trời đánh thánh vật! - Mitia gào lên.
- Ấy ấy! Mụ già kêu lên, nhưng Mitia đã biến mất. Chàng cắm cổ chạy về nhà bà Morozova. Đấy đúng là quãng thời gian Grusenka đi Mokroe, nàng đi trước đó chưa quá mười lăm phút.
Fenia đang ngồi với bà mình, bà lão Matriona, ở trong bếp thì “đại úy” chạy xộc vào. Thấy chàng, Fenia la toáng lên.
- Mày la lối à? - Mitia gào lên - Cô đâu?
Không để cho con bé Fenia đang sợ chết điếng kịp trả lời, chàng sụp ngay xuống chân nó:
- Fenia, vì Chúa Kito của chúng ta, nói đi, cô đâu?
- Ông ơi, cháu không biết gì hết, cậu Dmitri Fedorovich quý mến ơi, cháu không biết gì hết, cậu có giết cháu, cháu cũng không biết gì hết, - Fenia thề thốt. - Ban nãy chính cậu đưa cô ấy đi mà…
- Cô ấy đã về nhà rồi…
- Thưa cậu, cô không về, thề có Chúa, cô không về!
- Nói láo, - Mitia quát. - Chỉ nom mày sợ hãi thế kia tao cũng biết cô ấy đâu rồi!…
Chàng lao vọt ra ngoài. Fenia bị một phen hoảng sợ, vui sướng vì mình thoát nạn một cách dễ dàng, nhưng nó hiểu rõ ràng chẳng qua là Mitia không có thời giờ, chứ không thì nó điêu đứng với chàng. Nhưng lúc chạy ra, chàng vẫn làm cho Fenia và bà lão Matriona ngạc nhiên vì một hành động hết sức bất ngờ: trên bàn có một cái cối bằng đồng, trên cối đặt cái chày nhỏ bằng đồng, dài chỉ một phẫn tư arsin, lúc chạy ra Mitia một tay mở cửa, tay kia vơ lấy cái chày và đút vào túi bên, rồi biến luôn.
- Trời ơi, ông ta định giết ai đấy! - Fenia giơ hai tay lên.
Phần 8 
Chương 4: Trong bóng tối
Mitia chạy đi đâu? Dễ biết thôi: “Nàng có thể ở đâu, nếu không phải là ở nhà Fedor Pavlovich. Ở nhà Xanuonov ra, nàng chạy thắng đến với ông già, bây giờ thì rõ rồi. Mưu mô, lừa dối rõ rành rành…” Tất cả những ý nghĩ ấy quay cuồng như lốc trong óc chàng. Chàng không chạy đến sân nhà Maria Kondratievna. “Chẳng nên đến đấy, hoàn toàn không nên: không được có một hành động nhỏ nhặt nào gây lo ngại… chúng sẽ phi báo ngay, sẽ phản ta… Maria Kondratievna hiển nhiên là âm mưu với ông già, Xmerdiakov cũng thế, chúng bị mua chuộc cả rồi!” Chàng có một dự định khác: chàng đi vòng thật xa, qua đường ngõ vòng quanh nhà bố, đi hết phố Dmitrovskaia, rồi vượt qua cây cầu nhỏ và vào cái ngõ hẻm phía sau nhà, ngõ này vắng, không nhà cửa, một phía có hàng rào vườn nhà Fedor Pavlovich. Ở đây chàng chọn một chỗ, hình như chính là chỗ mà theo câu chuyện truyền tụng chàng đã biết thì Lizaveta Xmerdiasaia đã vượt tường. “Nếu ả vượt qua được,” - không biết vì sao chàng thoáng nghĩ, - “thì tại sao ta lại không vượt qua nhỉ?” Quả thực chàng nhảy lên và tức khắc khéo léo bám một tay vào bờ tường, rồi kiên quyết đu lên, ngồi vắt vẻo trên bờ tường như người cưỡi ngựa. Gần đây, trong vườn có nhà tắm hơi, nhưng từ trên tường có thể nhìn thấy những cửa sổ sáng đèn. “Đúng rồi, đèn sáng trong phòng ngủ của ông già, nàng ở đấy!” và chàng nhảy xuống vườn. Tuy chàng biết Grigori ốm, có lẽ cả Xmerdiakov cũng ốm thật, chẳng ai nghe thấy tiếng động của chàng, nhưng bản năng vẫn khiến chàng nép mình cho kín, đứng im tại chỗ, nghe ngóng. Nhưng xung quanh lặng phắc như tờ và như trêu ngươi, không gian hoàn toàn yên tĩnh không một phẩy gió.
“Chỉ có cái yên lặng thì thầm,” - không hiểu sao câu thơ ấy chợt đến trong trí nhớ, - “miễn sao không ai nghe thấy tiếng động khi ta vượt tường, hình như không.” Đứng một lát rồi chàng nhẹ nhàng đi trên cỏ trong vườn; vòng qua những cây to và bụi cây, chàng đi một lúc lâu, rón rén từng bước, lắng nghe từng bước chân mình. Chàng đi chừng năm phút thì đến chỗ cửa sổ, sáng ánh đèn. Chàng nhớ rằng ở đấy, ngay dưới những cửa sổ có mấy bụi cơm cháy và tú cầu to cao, um tùm. Cửa lớn ra sân ở phía bên trái mặt nền đóng kín, chàng đã chú tâm xem xét kĩ lúc đi qua đó. Cuối cùng chàng đến được chỗ bụi cây và nấp ở đấy. Chàng nín thở. “Bây giờ phải chờ một lát,” - chàng nghĩ, - “nếu họ đã nghe thấy tiếng bước chân ta và bây giờ lắng tai nghe thì để cho họ không nghi ngờ gì… chỉ cần đừng ho, đừng hắt hơi…”
Chàng chờ khoảng hai phút, nhưng tim đập dồn dập, rồi có lúc chàng gần như nghẹn thở. “Không, nhịp tim đập sẽ không trở lại bình thường đâu,” - chàng nghĩ. - “Ta không thể đợi lâu hơn nữa.” Chàng đứng trong bóng tối sau bụi cây, nửa phía trước bụi cây được ánh sáng cửa sổ chiếu sáng. “Tú cầu, quả tú cầu đẹp xiết bao!” - chàng thì thầm, không biết vì sao. Rón rén cứng bước êm ru, chàng đến gần cửa sổ và nhón chân lên. Cả phòng ngủ của Fedor Pavlovich bày ra trước mắt chàng như trên lòng bàn tay. Đấy là căn phòng nhỏ ngăn đôi suốt chiều ngang bằng mấy tấm bình phong màu đỏ, “bình phong Tàu”, như Fedor Pavlovich vẫn gọi. “Bình phong Tàu,” - Mitia thoáng nghĩ, - “còn đằng sau bình phong là Grusenka.” Chàng nhìn kĩ Fedor Pavlovich. Ông mặc chiếc áo choàng mới bằng lụa kẻ sọc, thắt dây lưng bằng lụa hai đầu có núm tua, Mitia chưa từng thấy ông mặc chiếc áo ấy bao giờ. Dưới cổ áo choàng ló ra bộ đồ lót sạch tinh sang trọng, chiếc sơ mi vải mỏng hàng Hà Lan, cúc vàng. Đầu ông vẫn bịt tấm khăn màu đỏ mà Aliosa đã từng nhìn thấy. “Ông già diện ghê,” - Mitia nghĩ, Fedor Pavlovich đứng gần cửa sổ, có vẻ đăm chiêu, thình lình ông ngẩng đầu lên, lắng tai nghe một chút, rồi chẳng nghe thấy gì, ông tới gần bàn, rót nửa li cognac và uống. Đoạn ông thở căng lồng ngực, lại đứng một lát, lơ đãng tới gần tấm gương trên tường, đưa tay phải vén tấm khăn đỏ quấn trên trán lên một chút, nhìn kĩ những vết thâm tím và những mảng vảy vẫn còn lại. “Ông già chỉ có một mình,” - Mitia nghĩ, - “nhiều phần chắc là chỉ có một mình.” Fedor Pavlovich rời, khỏi tấm gương, đột nhiên quay về phía cửa sổ và nhìn ra ngoài, Mitia tức khắc nhảy vào bóng tối.
“Có lẽ cô ả ở sau tấm bình phong, ngủ rồi cũng nên,” - tim chàng nhói lên. Fedor Pavlovich lùi xa cửa sổ. “Ông già nhìn ra cửa sổ trông ngóng cô nàng, như vậy là nàng không có ở đây: cớ gì ông ấy nhìn vào bóng tối?… Nghĩa là đang sốt ruột điên lên đây?” Mitia lập tức nhào tới và lại nhìn vào cửa sổ. Ông già đã ngồi bên bàn, nom buồn thỉu buồn thiu. Cuối cùng ông chống khuỷu tay, bàn tay phải áp vào má. Mitia hau háu quan sát.
“Ông già chỉ có mỗi một mình, một mình!” - Chàng lặp lại. - “Nếu có nàng ở đấy thì vẻ mặt ông đã khác.” Lạ lùng thay: việc nàng không có ở đây bỗng lại làm cho lòng chàng sôi lên một nỗi bực tức vô lí, kì quặc. “Không phải ta bực vì nàng không có mặt ở đây,” - Mitia nhận định và tự trả lời liền, - “mà bởi vì ta không thể biết chắc nàng có đây hay không?” Sau này chàng nhớ lại rằng lúc ấy trí óc chàng sáng sủa lạ thường và chàng cân nhắc mọi việc hết sức tỉ mỉ nắm bắt từng nét nhỏ. Nhưng nỗi buồn phiền vì không biết chắc và sự phân vân tăng nhanh lạ thường trong lòng chàng. “Rút cục thì nàng có đây hay không có đây?” - chàng tức sôi lên. Bất thình lình chàng cả quyết đưa tay gõ khe khẽ vào khung cửa sổ. Chàng gõ theo quy ước của ông già với Xmerdiakov: hai tiếng thong thả, tiếp đến ba tiếng mau: túc-túc- túc, nghĩa là “Grusenka đã đến.” Ông già giật mình, ngẩng đầu lên, đứng phắt dậy, đâm bổ đến cửa sổ. Mitia lùi vào bóng tối, Fedor Pavlovich mở cửa và thò cả đầu ra ngoài.
- Grusenka, em đấy ư? Có phải em đấy không? - Ông nói bằng giọng gần như thì thầm, run run. - Em ở đâu đấy, mẹ tôi ơi, thiên thần bé bỏng của tôi, em ở đâu đấy? - Ông già xúc động ghê gớm, thở hổn hển.
“Ông ấy có mỗi một mình!” - Mitia quyết định.
- Em ở đâu đấy? - Ông già lại lớn tiếng gọi và thò hẳn đầu lẫn vai ra ngoài, nhìn bốn phía, bên phải và bên trái, - lại đây! Tôi đã có sẵn quà tặng em rồi, lại đây, tôi sẽ cho xem!…
“Ông già nói về cái phong bì đựng ba ngàn rúp đấy,” - Mitia thoáng nghĩ.
- Kìa, em ở đâu đấy?… Hay ở bên cửa ra vào? Tôi mở ngay đây…
Ông già suýt nhào ra khỏi cửa sổ, nhìn về phía bên phải, phía có cửa ra vào vườn, cố nhìn kĩ trong bóng lối. Chắc chỉ giây lát nữa là ông sẽ chạy ra mở cửa lớn, không chờ Grusenka đánh tiếng trả lời. Mitia đứng nhìn ở phía bên, không động đậy. Cả khuôn mặt trông nghiêng đáng ghét của ông già, cái yết hầu thây lẩy, cái mũi khoằm hớn hớ chờ đợi khoái lạc, cặp môi, tất cả đều được soi tỏ trong ánh sáng chênh chếch của ngọn đèn ở bên trái căn phòng. Mitia bỗng tức điên lên: “Đấy, kẻ tình địch của ta, kẻ làm khổ ta, kẻ làm khổ đời ta!” Đấy là cơn tức giận điên cuồng bất ngờ đầy hằn thù mà chàng cảm thấy trước và đã báo cho Aliosa trong cuộc nói chuyện với em trong chòi hóng mát bốn ngày trước, khi chàng trả lời câu hỏi của Aliosa: “Sao anh có thể nói rằng anh sẽ giết cha?”
“Tôi không biết, tôi không biết,” - lúc ấy chàng nói, - “có thể tôi không biết, mà có thể tôi sẽ giết. Tôi sợ rằng bộ mặt ông già vào đúng lúc ấy sẽ làm tôi căm ghét. Tôi căm ghét cái yết hầu của ông ta, cái mũi ông ta, vẻ giễu cợt trơ trẽn của ông ta. Tôi ghê tởm. Đấy chính là điều tôi sợ, ngộ nhỡ tôi không nén được.”
Sự ghê tởm mỗi lúc một tăng, đến mức không thể chịu đựng nổi, Mitia không còn biết thế nào là phải nữa và rút phăng chiếc chày đồng trong túi ra.
“Lúc ấy Chúa đã ngăn giữ tôi,” - sau này chính Mitia nói như vậy. Đúng lúc ấy Grigori Vaxilievich đang ốm chợt thức giấc trên giường mình. Tối hôm ấy lão đã chữa bệnh bằng cái cách mà Xmerdiakov đã kể với Ivan Fedorovich, nghĩa là để vợ đánh gió cho mình bằng thứ rượu thuốc bí truyền cực mạnh, phần còn lại thì lão uống trong lúc vợ lầm rầm đọc bài “cầu nguyện” gì đó cho lão, đoạn lão đi ngủ. Marfa Ignatievna cũng uống, nhưng vì không quen uống rượu, mụ lăn ra ngủ say như chết bên cạnh chồng. Nhưng thật là bất ngờ, đương đêm Grigori thình lình thức giấc, nghĩ ngợi một lát, rồi liền đó lại cảm thấy đau buốt ghê gớm ở ngang lưng, nhưng lão cứ ngồi dậy trên giường.
Nhưng rồi lão lại ngẫm nghĩ điều gì, đứng dậy và nhanh chóng mặc quần áo. Có lẽ lão cảm thấy lương tâm cắn rứt vì mình nằm ngủ, nhà không có ai canh gác “trong thời khắc nguy hiểm như thế này”. Xmerdiakov kiệt lực sau cơn động kinh, nằm không động đậy trong căn buồng nhỏ bên cạnh Marfa Ignatievna không nhúc nhích. “Bà lão đuối sức rồi,” - Grigori Vaxilievich nghĩ khi nhìn vợ và vừa rên vừa đi ra tam cấp. Cố nhiên lão muốn đứng ở tam cấp mà nhìn xung quanh, vì lão không còn đủ sức đi nữa, lưng và chân phải đau không thể chịu nổi. Nhưng lão chợt nhớ ra rằng lúc tối chưa khóa cửa vườn. Lão là con người chu đáo và cẩn thận từng li từng tí, con người của trật tự được quy định một lần cho mãi mãi và của thói quen nhiều năm. Khập khiễng và oằn oại vì đau, lão xuống bậc tam cấp và đi về phía vườn. Đúng là cửa vườn mở toang. Lão bước vào vườn như cái máy: có lẽ nào mường tượng ra hay quả thật đã nghe thấy một âm thanh gì đó, nhưng khi nhìn về phía bên trái, lão thấy cửa sổ buồng chủ bỏ ngỏ, không thấy ai ở đấy, chẳng có ai ngó ra. “Tại sao cửa sổ mở, bây giờ không phải là mùa hè!” Grigori nghĩ và bất thình lình, đúng lúc ấy, trước mặt lão có cái gì khác thường động đậy trong vườn. Hình như có một người chạy qua trong bóng tối, cách lão chừng bốn chục bước, lướt đi rất nhanh như cái bóng.
“Trời ơi!”
Grigori thốt lên, choáng người, quên cả đau ngang lưng, lao lên chặn đường kẻ đang chạy. Lão băng lối tắt, rõ ràng lão thuộc đường trong vườn hơn kẻ kia. Kẻ đó chạy về phía nhà tắm, vòng ra phía sau, nhảy lên tường… Grigori vẫn dõi nhìn, không để mất hút và cắm đầu chạy. Lão chạy đến chân tường, đúng lúc kẻ kia đã leo lên. Grigori điên tiết gào lên, xông tới, hai tay túm chặt lấy chân kẻ kia.
Đúng rồi, linh cảm không đánh lừa lão, lão nhận ra hẳn, chính hắn, “thằng hung đồ giết cha”.
- Thằng giết cha! - Lão già hét toáng lên, nhưng chỉ kịp hét lên câu đó thôi; lão bỗng gục xuống như bị sét đánh. Mitia lại nhảy xuống vườn, cúi xuống xem lão bị đánh thế nào. Tay Mitia cầm chiếc chày đồng, như cái máy chàng quăng nó xuống cỏ. Cái chày rơi cách Grigori hai bước, nhưng không rơi xuống cỏ, mà ở trên lối đi, chỗ dễ thấy nhất.
Trong mấy giây, chàng nhìn lão già nằm trước mắt chàng. Đầu lão già đẫm máu; Mitia đưa tay sờ. Sau này chàng nhớ rõ ràng lúc ấy chàng rất muốn “biết chắc” chàng có đánh vỡ sọ lão già không, hay chỉ làm lão ngất đi thôi. Nhưng máu chảy xối xả, tia máu nóng hổi thoáng chốc đã tưới đẫm những ngón tay run rẩy của Mitia. Chàng nhớ mình đã rút trong túi ra chiếc mùi xoa mới trắng tinh mà chàng mang theo khi đến nhà bà Khokhlakova và ấp nó vào đầu lão già, ngơ ngẩn cố lau máu trên trán và trên mặt. Nhưng chỉ thoáng chốc chiếc khăn đã đẫm máu. “Trời ơi, ta làm thế này để làm gì nhỉ?” - Mitia chợt tỉnh ngộ. - “Nếu ta đã đánh vỡ sọ thì làm thế nào mà biết được… với lại bây giờ đằng nào chàng thế thôi!” - Chàng nói thêm bằng giọng tuyệt vọng, - “đã đánh chết lão thì thây kệ… Cứ mặc lão nằm đấy!” - chàng nói to và phọt lên bờ tường, nhảy xuống ngõ hẻm và cắm đầu chạy. Chiếc khăn tay đẫm máu nắm chặt trong bàn tay phải, chàng vừa chạy vừa nhét nó vào túi sau chiếc áo ngoài. Chàng chạy thục mạng, và mấy người qua đường gặp chàng trên đường phố tăm tối sau này nhớ lại rằng đêm hôm ấy họ đã gặp một người chạy như điên. Chàng lao như bay vào nhà bà Morozova. Trước đó, ngay sau khi chàng đi khỏi, Fenia đã đâm bổ đến gặp bác gác sân Nazar Ivanovich, van xin bác ta “vì Chúa Kito” mà “đừng cho đại úy vào nhà nữa, dù là hôm nay hay ngày mai”. Nazar Ivanovich ưng thuận, nhưng rủi thay, bà chủ lại gọi bác ta lên có việc, đang đi gặp người cháu trai, một gã hai mươi tuổi mới ở quê lên, bác ta bảo gã coi sân, nhưng lại quên không dặn về việc ông đại úy. Đến cổng, Mitia gõ cửa. Gã trai nhận ra chàng ngay: Mitia đã nhiều lần cho gã tiền trà thuốc. Gã lập tức mở cửa cho chàng vào, mỉm cười vui vẻ, vội vàng niềm nở báo cho chàng biết “Agrafena Alecxandrovna hiện không có nhà.”
- Cô ấy ở đâu, Prokho? - Mitia bỗng dừng lại.
- Cô ấy mới đi thôi, khoảng hai giờ trước, đi Mokroe, với Timofei!
- Đi làm gì? - Mitia quát lên.
- Cháu làm sao mà biết được, cô đến với một ngài sĩ quan nào đó ông ta gọi cô ấy đến và cho xe ngựa với đón…
Mitia bỏ rơi gã trai và chạy xộc vào chỗ Fenia như người điên.
Phần 8 
Chương 5: Một quyết định bất ngờ
Cô gái đang ngồi ở bếp với bà, hai bà cháu sửa soạn đi ngủ. Hi vọng ở Nazar Ivanovich, họ lại không cài cửa bên trong. Mitia chạy xộc vào, nhảy xổ tới bóp cổ Fenia.
- Nói ngay đi, cô đâu, bây giờ cô ấy ở Mokroe với ai? - Chàng điên cuống rống lên.
Cả hai người phụ nữ la thất thanh.
- Ối, cháu sẽ nói, ối, cậu Dmitri Fedorovich quý mến ơi, cháu sẽ nói hết, không giấu giếm chút gì. - Fenia sợ chết điếng, nói liến thoáng. - Cô đi Mokroe đến với ông sĩ quan.
- Sĩ quan nào? - Mitia rống lên.
- Ông sĩ quan trước kia, chính ông ta, người cũ của cô ấy, cái ông năm năm trước đã bỏ cô ấy đi biệt. - Fenia nói, vẫn liến láu như vậy.
Dmitri Fedorovich buông tay, không xiết cổ cô gái nữa.
Chàng đứng trước mặt nó, tái mét như xác chết, không nói lên lời, nhưng nhìn mắt chàng thì thấy chàng hiểu hết ngay, mới thoạt nghe đã tức thời hiểu hết, cho tới từng chi tiết nhỏ, chàng đã đoán ra hết. Nhưng Fenia tội nghiệp lúc ấy hồn vía đâu mà để được nàng chàng có hiểu hay không. Lúc chàng chạy vào nó ngồi trên cái rương như thế nào thì giờ vẫn thế. Toàn thân run lấy bầy, hai tay giơ về phía trước như muốn tự vệ, đờ ra trong tư thế ấy. Cặp mắt hãi hùng trố ra nhìn chằm chằm vào chàng. Mà lúc ấy hai tay chàng lại vấy máu nữa chứ. Hẳn là lúc chạy dọc đường chàng đã đưa tay lên trán, quệt mỏ hôi mặt, vì vậy trên trán và má bên phải của chàng vẫn còn những vết máu nhoe nhoét. Lúc này Fenia có thể lên cơn thần kinh lắm, còn bà bếp già đứng bật dậy, mắt nhìn như điên dại, gần như ngất xỉu. Dmitri Fedorovich đứng một lúc và bỗng nhiên, như cái máy ngồi phịch xuống chiếc ghế cạnh Fenia.
Chàng ngồi và không phải là suy nghĩ, mà như thể sợ hãi tuồng như sững sờ. Nhưng mọi việc rõ như ban ngày: gã sĩ quan ấy chàng biết về y, chàng biết rõ hết, chính Grusenka cho chàng biết chàng biết cách đây một tháng y đã gửi đến một lá thư. Vậy là trong một tháng, suốt một tháng, việc đó đã được tiến hành hoàn toàn giấu kín chàng, cho đến tận lúc nhân vật mới ấy trở về, vậy mà chàng không nghĩ gì đến y. Nhưng tại sao có thể như thế, làm sao chàng có thể không nghĩ đến y? Tại sao chàng lại quên bẵng mất viên sĩ quan ấy, sao chàng quên phắt đi nhỉ? Câu hỏi ấy lù lù trước mắt chàng như một con quái vật. Chàng ngắm nghía con quái đó trong tâm trạng sợ hãi thực sự, sợ đến lạnh người.
Nhưng bỗng nhiên, chàng nói với Fenia bằng giọng khẽ khàng và hiền lành, như một đứa trẻ ngoan ngoãn và dịu dàng, dường như quên hẳn rằng ban nãy chàng đã làm nó sợ chết khiếp, xúc phạm và hành hạ nó. Chàng bắt đầu căn vặn Fenia một cách đích xác lạ thường, thậm chí đáng ngạc nhiên ở địa vị của chàng lúc này. Còn Fenia, tuy vẫn ngơ ngẩn nhìn đôi tay bê bết máu của chàng, nhưng cũng sẵn lòng và vội vã lạ kì trả lời từng câu hỏi của chàng, thậm chí dường như hấp tấp phơi bày hết “sự thật đích thực”. Dần dần, thậm chí nó vui sướng trình bày hết mọi chi tiết, và hoàn toàn không phải vì muốn làm khổ chàng, mà dường như hết lòng hết sức muốn mau mau giúp đỡ chàng. Nó kể với chàng không sót chi tiết nào: mọi chuyện xảy ra hôm nay, cả chuyến viếng thăm của Rakitin và Aliosa, cả việc nó phải đứng canh chừng, cả việc cô chủ ra đi và hướng về phía cửa sổ gào lên bảo Aliosa nhắn lại rằng nàng gửi lời chào Mitenka, nhắn chàng “hãy mãi mãi nhớ rằng nàng đã yêu chàng trong một tiếng đồng hồ”. Nghe nói nàng gửi lời chào, Mitia bỗng nhiên cười, đôi má tái nhợt của chàng đỏ hồng lên. Lúc ấy, Fenia nói với chàng, không chút sợ sệt về sự tò mò của mình:
- Cậu Dmitri Fedorovich ơi, tay cậu sao thế, toàn máu là máu!
- Ừ, - Mitia trả lời như cái máy, lơ đãng nhìn hai tay mình và quên câu hỏi của Fenia. Chàng lại đắm chìm trong im lặng. Từ lúc chàng chạy vào, đã hai mươi phút rồi. Nỗi lo sợ ban nãy đã qua, hình như bây giờ lòng chàng đã lại tràn đầy một quyết tâm mới, sắt đá. Chàng bỗng đứng lên và trầm ngâm mỉm cười.
- Thưa ông, chuyện gì xảy ra với ông thế? - Fenia thốt lên, lại trỏ vào tay chàng. - Fenia nói với giọng thương hại, như thể nó là người thân thiết nhất với chàng trong lúc chàng đau khổ.
Mitia lại nhìn hai tay mình.
- Đây là máu, Fenia ạ. - Chàng vừa nói vừa nhìn nó với vẻ lạ lùng. - Đây là máu người, trời ơi, sao lại gây đổ máu làm gì kia chứ! Nhưng… Fenia này… Ở đây có một bức tường cao nom đáng sợ, nhưng… sáng tinh sương ngày mai, khi “vầng dương bay lên”, Mitia sẽ nhảy qua bức tường đó… Mày không hiểu là bức tường gì đâu, Fenia ạ, nhưng không sao… đằng nào dù ngày mai mày cũng sẽ nghe thấy và hiểu hết… bây giờ thì từ biệt! Ta sẽ không làm rầy ai cả và sẽ tháo lui, ta biết cách tháo lui. Cứ sống hạnh phúc, hỡi niềm vui sướng của ta… em đã yêu ta một giờ thì hãy mãi mãi nhớ đến Mitenka Karamazov… Cô vẫn gọi ta là Mitenka phải không, mày nhớ chứ?
Nói xong mấy lời trên, chàng đột ngột ra khỏi bếp! Việc chàng đi ra như thế làm Fenia hoảng sợ hầu như còn hơn ban nãy, lúc chàng vào và nhảy bổ đến bóp cổ nó.
Đúng mười phút sau, Dmitri Fedorovich vào nhà Petr Ilich Perkhotin mà trước đó chàng đã cầm mấy khẩu súng tay. Đã tám giờ rưỡi, Petr Ilich dã dùng trà xong, vừa mặc áo ngoài, định đến quán “Thủ đô” chơi bi-a, Mitia gặp anh ta đang đi ra. Thấy chàng và khuôn mặt bê bết máu của chàng, anh ta kêu lên:
- Trời ơi! Anh làm sao thế?
- Thế này này. - Mitia nói nhanh, - tôi đến lấy mấy khẩu súng của tôi và trả tiền anh. Cảm ơn anh. Tôi vội lắm, Petr Ilich ạ, làm ơn mau mau lên cho.
Petr Ilich mỗi lúc càng ngạc nhiên: anh ta bỗng nhìn thấy tay Mitia cầm một đống tiền, cái chính là chàng cầm tiền một cách lạ thường, chưa hề có ai cầm tiền đi vào nhà như thế: cả xếp giấy bạc cầm ở tay phải, giơ về phía trước như để phô trương. Về sau, thằng nhỏ của gã viên chức gặp Mitia ở phòng ngoài nói rằng khi bước vào, hai tay chàng cầm giấy bạc, vì thế ở ngoài đứng nhìn vào, mọi người đều thấy chàng cấm tiền ở tay phải. Toàn giấy bạc trăm sặc sỡ, kẹp giữa những ngón tay vấy máu. Sau này, khi trả lời những người cần biết về số tiền - ước chừng bao nhiêu - Perkhotin nói rằng khó mà ước lượng được, có lẽ hai ngàn, có lẽ ba, nhưng là một “tệp dày”. Còn về bản thân Dmitri Fedorovich, như sau này Perkhotin khai, “vẻ hết sức bồn chồn, nhưng không say, mà tuồng như bị kích động, rất lơ đãng, đồng thời dường như đăm chiêu, có điều gì nghĩ ngợi mà không quyết được. Chàng rất vội, trả lời xẵng giọng, rất kì lạ, có lúc hình như hoàn toàn không đau buồn, thậm chí còn vui vẻ là đằng khác.”
- Anh làm sao thế, vừa có chuyện gì xảy ra với anh thế? - Petr Ilich lại la lên, ngơ ngác nhìn ông khách. - Sao người anh toàn máu là máu thế, anh ngã hay sao, nhìn xem này!
Anh ta nắm lấy khuỷu tay Mitia và kéo đến trước gương. Thấy mặt mình vấy máu, Mitia giật mình và cau mày giận dữ.
- Ồ đồ quỷ! Chỉ còn thiếu nước ấy nữa thôi. - Chàng làu bàu tức giận, chuyển nhanh mớ giấy bạc từ tay phải sang tay trái và lật đật rút chiếc khăn tay trong túi ra. Nhưng chiếc khăn cũng bết máu (chàng đã dùng chính chiếc khăn này lau đầu và mặt Grigori): không còn một chỗ nào trắng, chẳng những máu đã bắt đầu khô mà còn bết thành cục và khăn không mở ra nữa. Mitia hằn học ném chiếc khăn xuống sàn.
- Chà, quái quỷ! Anh có miếng giẻ nào không… tôi muốn lau chùi đi…
- Thế ra anh chỉ bị dính máu, chứ không phải là bị thương ư? Thế thì rửa đi là hơn, - Petr Ilich đáp. - Chậu đây này, để tôi lấy cho.
- Chậu à? Tốt lắm, nhưng tôi để món này vào đâu? - Vẻ băn khoăn rất lạ lùng, chàng trỏ cho Petr Ilich thấy tập giấy bạc trăm rúp của mình, nhìn anh ta một cách dò hỏi, như thề anh ta phải quyết định cho chàng để tiền của chàng vào đâu.
- Bỏ vào túi hay để lên bàn kia kìa, chẳng mất đâu.
- Bỏ vào túi hả? Ồ, bỏ vào túi. Tốt đấy… không, anh thấy chứ, toàn là chuyện vớ vẩn! - Chàng bỗng quát lên, dường như bỗng ra khỏi trạng thái lơ đãng. - Anh ạ, ta hãy giải quyết xong việc này đã, anh trao lại mấy khẩu súng cho tôi, còn tiền của anh đây… vì tôi rất cần, cần lắm lắm… và không có chút thời gian nào cả…
Chàng lấy trong tập giấy bạc một tờ trăm rúp, đưa cho người viên chức.
- Tôi không có tiền trả lại, - anh ta nói, - anh có tiền nhỏ hơn không?
- Không, - Mitia nói, lại nhìn xếp giấy bạc, và dường như không tin ở lời mình nói, dùng ngón tay xem thử mấy tờ trên cùng, - không, toàn loại như thế, - chàng nói thêm và lại nhìn Petr Ilich, vẻ dò hỏi.
- Làm sao tự dưng anh đâm ra giàu có đến thế? - Chàng viên chức hỏi. - Khoan, tôi sẽ sai thằng nhỏ chạy đến Plotnikov. Họ thường đóng cửa muộn, nhờ họ đổi tiền lẻ cho. Này, Misa! Anh ta gọi to ra phòng ngoài.
- Đến tiệm Plotnikov, tuyệt diệu! - Mitia reo lên, như chợt nãy ra ý gì đó. - Misa, - chàng quay về phía thằng bé vừa vào. - Hãy chạy đến tiệm Plotnikov và bảo rằng ông Dmitri Fedorovich gửi lời chào và lát nữa ông ấy sẽ đến… Mà nghe đây, nghe đây nhé: bảo ông ta sửa soạn cho ta rượu sâm banh, ba tá, và đóng gói như lần trước ta đi Mokroe ấy… Hồi đó tôi lấy của ông ta bốn tá; chàng bỗng nói với Petr Ilich, - họ biết rồi đấy, đừng lo, Misa, chàng lại quay về phía thằng bé. - Nghe kĩ đây nhé: báo lấy pho mát, bánh nướng Strasburg, cả hồi trắng hun khói, giăm bông, trứng cá, tất cả những gì họ có, khoảng một trăm - một trăm hai mươi rúp, như lần trước ấy… Bảo họ đừng quên các món làm quà kẹo, lê, đưa hấu hai, ba hoặc bốn quả, à không, dưa thì một quả cũng đủ rồi, cả sôcôla, kẹo đường phèn, kẹo thơm beclingo, kẹo caramen mềm, tất cả những gì họ đã đóng gói cho ta chuyến đi Mokroe lần trước, kể cả sâm banh thì vào khoảng ba trăm rúp. Lần này cũng đúng như thế. Nhớ lấy nhé, Misa, nếu như cháu tên là Misa… Tên nó là Misa phải không? - Chàng lại nói với Petr Ilich.
- Khoan đã, - Petr Ilich ngắt lời, lo lắng nghe và nhìn Mitia. - Anh nên đích thân đến mà bảo thì hơn, kẻo nó lầm lẫn mất.
- Lầm lẫn, tôi thấy nó sẽ lầm lẫn mất! Này, Misa, thế mà ta đã toan hôn em về việc ta nhờ em… Nếu em không lầm lẫn thì ta sẽ cho em mười rúp, chạy mau đi… Sâm banh, cần nhất là sâm banh, cả cognac, cả vang đỏ và vang trắng, tất cả như hồi ấy… Họ biết như hồi ấy là thế nào đấy.
- Này anh, hãy nghe tôi! - Petr Ilich nóng nảy ngắt lời - Tôi bảo là chỉ sai nó đi đổi tiền thôi và bảo họ đừng đóng cửa hàng vội, rồi anh sẽ đến và tự đặt mua… Đưa đồng bạc của anh đây. Đi đi, Misa, ba chân bốn cẳng lên! - Hình như Petr Ilich có ý đẩy Misa đi cho mau, vì khi đến trước ông khách, nó trố mắt nhìn bộ mặt đầy vết máu của ông ta và đôi tay bết máu cầm một tệp tiền giữa những ngón tay run run và nó cứ đứng ngây ra, há hốc mồm vì ngạc nhiên và sợ hãi, và có lẽ chẳng nhớ gì mấy những điệu ông ta dặn nó.
- Thôi, bây giờ đi rửa ráy đi. - Petr Ilich nói, giọng nghiêm khắc. - Để tiền lên bàn hay cho vào túi? Nào, ta đi thôi. Cởi áo ngoài ra.
Anh ta giúp Mitia cởi áo và bỗng lại kêu lên:
- Ô kìa, cả áo anh cũng vấy máu!
- Ồ không… không phải áo có máu. Chỉ một tí ở ống tay áo thôi! Chỉ là ở chỗ này, chỗ để chiếc khăn tay. Thấm qua túi. Ở nhà Fenia, tôi đã ngồi lên chiếc khăn tay, vì thế máu thấm qua, - Mitia lập tức giải thích với vẻ cả tin kì lạ. Petr Ilich vừa nghe vừa cau có.
- Thật rủi cho anh; anh đánh nhau với ai hẳn thôi. - Anh ta lẩm bẩm.
Mitia bắt đầu rửa ráy. Petr Ilich cầm vò đổ nước. Mitia vội vã, xát xà phòng qua loa. (Hai tay chàng run run, sau này Petr Ilich nhớ lại.) Petr Ilich lập tức bảo chàng xát xà phòng nhiều hơn và kì cọ kĩ hơn. Lúc ấy dường như anh ta có quyền lực gì với Mitia, càng về sau càng nhiều hơn. Nhân tiện xin nói rõ: chàng trẻ tuổi này không phải là tay rụt rè.
- Xem kìa, không rửa kĩ dưới móng tay, thôi, bây giờ kì cọ mặt đi, chỗ này này: ở thái dương, cạnh tai… Anh mặc chiếc sơ mi này mà đi à? Anh đi đâu thế? Xem kìa, gấu tay áo bên phải toàn máu là máu.
- Ồ có máu. - Mitia vừa nói - Thế thì thay áo trong đi.
- Không có thời giờ. Tôi làm thế này, anh xem đây… - Mitia nói tiếp, vẫn với vẻ cả tin như vậy, chàng đã dùng khăn lau mặt, lau tay và mặc chiếc áo ngoài - tôi xắn rìa tay áo chỗ này lên, nó sẽ bị che lấp dưới áo ngoài… Anh thấy đấy!
- Bây giờ anh cho biết anh gặp chuyện gì không hay này ở đâu? Anh đánh nhau với ai hẳn thôi? Có phải ở quán ăn như lần trước không? Lại lão đại úy mà hồi ấy anh đã đánh và kéo râu lão phải không? - Petr Ilich nhớ lại, như có ý trách móc. - Anh còn đánh ai nữa… hay là giết người?
- Bậy! - Mitia thốt lên.
- Bậy là thế nào?
- Thôi đi. - Mitia nói và nhếch mép cười, - vừa rồi tôi đã giẫm bẹp một mụ già ở quảng trường.
- Giẫm bẹp! Một bà già?
- Một lão già! - Mitia gào lên, nhìn thẳng vào mặt Petr Ilich, vừa cười vừa gào lên như nói với người điếc.
- Ôi chao, quái quỷ, một lão già, một mụ già… Anh đã giết người nào chắc?
- Chúng tôi làm lành với nhau rồi. Túm chặt lấy nhau, rồi làm lành với nhau. Ở một chỗ. Chúng tôi chia tay thân thiện. Một thằng ngốc… hắn đã tha thứ cho tôi… bây giờ thì chắc hắn đã tha thứ… Nếu hắn đứng lên được thì hắn không tha thứ đâu, - Mitia bỗng nháy mắt. - Nhưng mà thôi, kệ xác hắn, này, Petr Ilich ạ, kệ hắn; cóc cần! Lúc này tôi không muốn đụng đến chuyện ấy! - Mitia kiên quyết cắt đứt.
- Tôi cho rằng anh sẵn lòng dính vào bất cứ chuyện gì… như hồi ấy chuyện không đâu mà anh cũng lôi thôi với ông đại úy già… Anh đã đánh nhau và bây giờ anh chạy đi đánh chén, anh anh thế đấy. Ba tá sâm banh, dùng làm gì mà lắm thế?
- Hoan hô! Bây giờ thì đưa súng đây. Thực anh là tôi không có thì giờ. Tôi muốn nói chuyện với anh, bạn thân mến ạ, nhưng không có thời giờ. Với lại cũng chẳng cần nữa, nói thì cũng muộn rồi. A! Tiền đâu rồi, tôi nhét vào đâu rồi nhỉ? - Chàng kêu lên và bắt đầu thọc tay lục túi.
- Anh để lên bàn… chính tay anh… nó kia kìa. Anh quên à? Với anh tiền đúng là như rác hoặc như nước. Súng của anh đây. Lạ thật, mới lúc hơn năm giờ anh còn đem cầm mấy khẩu súng lấy mười rúp, vậy mà bây giờ anh có hàng ngàn đồng. Có dễ đến hai ba ngàn chắc?
- Có lẽ là ba. - Mitia bật cười nhét tiền vào túi quần bên.
- Để thế dễ mất lắm. Anh tìm được mỏ vàng chắc?
- Mỏ ư? Mỏ vàng! - Mitia gào tướng lên và cười sằng sặc, - Perkhotin, anh có muốn đi tìm mỏ không? Ở đây có một quý bà sẽ phóng tay cho anh ngay ba ngàn rúp, miễn là anh chịu đi tìm mỏ. Bà ta đã phóng tay cho tôi, bà ta thích đào mỏ lắm! Anh biết bà Khokhlakova chứ?
- Tôi không quen, nhưng có nghe nói và đã nhìn thấy bà ta. Bà ấy cho anh ba ngàn ư? Dám phóng tay như vậy ư? - Petr Ilich nhìn với vẻ ngờ vực.
- Này anh ạ, ngày mai khi mặt trời lên, khi Fobut (1) vĩnh viễn trẻ bay lên ngợi ca Chúa Trời, anh hãy đến bà Khokhlakova và hỏi bà ta: có phải bà ta đã cho tôi ba ngàn đồng không? Hãy hỏi xem.
Chú thích:
(1) Tên thứ hai của thần Apollon (N.D).
- Tôi không biết mối quan hệ của ông với bà ta… nếu ông nói chắc như thế thì đúng là bà ta đã cho ông… Bây giờ ông sụ tiền như vậy thì hẳn là ông không đi Sibir, mà dùng ba ngàn đồng ấy.… Hỏi thật, ông đi đâu bây giờ?
- Đi Mokroe.
- Đi Mokroe à? Đêm hôm thế này!
- Trước đây có tất cả, bây giờ phút chốc trở nên trắng tay! - Mitia bỗng thốt lên.
- Sao lại trắng tay? Có hàng nghìn thế kia mà lại tay trắng thế nào?
- Tôi không nói về tiền. Vứt quách hàng nghìn ấy đi! Tôi nói về tính tình đàn bà kia:
“Cả nghe, nông nổi, thất thường
Nữ nhi xấu thói đủ đường xưa nay.”
- Tôi đồng ý với Uylixơ, ông ta nói thế đấy.
- Tôi không hiểu anh!
- Anh say chắc?
- Không say, mà còn tệ hơn kia.
- Tôi say về tinh thần, Petr Ilich, say về tinh thần, thôi đủ rồi, đủ rồi Anh làm gì thế, nạp đạn súng à?
- Nạp đạn.
Quả vậy, Mitia mở cái hộp đựng súng, mở nút lọ thuốc súng, cẩn thận đổ và nhồi thuốc. Rồi chàng lấy viên đạn, và trước khi nạp, chàng cầm viên đạn bằng hai ngón tay giơ lên trước mặt phía trên ngọn nến.
- Sao anh lại nhìn viên đạn làm gì thế? - Petr Ilich nhìn theo với vẻ tò mò lo lắng.
Thế thôi. Trí tưởng tượng. Nếu như anh định tống viên đạn này vào não mình thì khi nạp đạn súng, anh có nhìn nó hay không?
- Nhìn làm gì?
- Nó sẽ xuyên vào nào tôi, vì thế muốn nhìn xem nó như thế nào… Nhưng đấy là chuyện vớ vẩn thôi, chuyện vớ vẩn trong giây lát ấy mà. Xong rồi đấy. - Chàng nói thêm, cho viên đạn vào và dùng một túm xơ đay đóng cho chặt khít. - Petr Ilich thân mến, trò vớ vẩn, toàn là vớ vẩn thôi mà, giá như anh biết được là vớ vẩn đến mức nào. Cho tôi một mẩu giấy nào.
- Giấy đây.
- Không, giấy nhẵn, sạch, để viết kia. Thế, được, - Mitia vơ lấy cây bút trên bàn, viết nhanh trên giấy hai dòng, gấp tư tờ giấy lại và nhét vào túi gilê. Súng thì chàng cho vào hộp, khóa lại và cầm trên tay. Rồi chàng nhìn Petr Ilich, trầm ngâm mỉm cười một lúc.
- Bây giờ ta đi thôi. - Chàng nói.
- Đi đâu? Không, khoan đã… Có lẽ anh muốn tống viên đạn này vào não… - Petr Ilich nói với giọng lo lắng.
- Viên đạn, thật là vớ vẩn! Tôi muốn sống, tôi yêu cuộc sống! Anh nên biết như thế. Tôi yêu Fobut tóc vàng và ánh sáng nóng rực của thần… Petr Ilich, anh có biết lánh mình đi không?
- Lánh mình thế nào kia?
- Nhường đường. Nhường đường cho người mà ta yêu và cho kẻ ta thù ghét. Để cho cái ta căm ghét trở thành cái đáng yêu - nhường đường như thế đấy! Và nói với họ: Chúa ở cùng các người, cứ đi đi, đi qua đi, còn tôi…
- Còn anh thì sao?
- Thôi đủ rồi, ta đi đi.
- Thế là tôi sẽ nói cho một người nào đó biết, - Petr Ilich nhìn Mitia, - để ngăn không cho anh đến đấy. Bây giờ anh đến Mokroe đế làm gì?
Ở đấy có một người phụ nữ, một người phụ nữ, với anh như thế là đủ rồi đấy, Petr Ilich, thôi đi!
- Này anh, tuy anh là người mọi rợ, nhưng trước nay tôi vẫn thích anh… vì thế tôi lo lắng.
- Cảm ơn người anh em. Tôi mọi rợ, anh nói thế. Những kẻ mọi rợ, mọi rợ! Tôi chỉ nhắc đi nhắc lại một điều: những kẻ mọi rợ, mọi rợ!
Misa hấp tấp bước vào với một tập tiền lẻ và trình lại rằng ở cửa hàng Plotnikov “mọi người nháo cả lên” và đem tới nào chai rượu, nào cá, nào trà… mọi việc sắp xong cả rồi, Mitia lấy tờ mười rúp đưa cho Petr Ilich Và quẳng cho Misa mười rúp khác.
- Không được! - Petr Ilich kêu lên. - Ở nhà tôi không làm thế được, vả lại nuông nó như thế làm hỏng nó. - Cất tiền của anh đi, để vào đây này, phung phí làm gì? Rồi ngày mai cần tiền, anh sẽ lại đến tôi vay mười rúp cho mà xem. Sao anh lại nhét vào túi bên thế? Rơi mất thôi!
- Này, anh bạn đáng mến ơi, đi Mokroe với tôi nhé!
- Tôi đến đấy làm gì kia chứ?
- Này, nếu anh muốn tôi sẽ mở ngay một chai, ta uống mừng cuộc sống! Tôi muốn uống, nhất là uống với anh. Tôi chưa bao giờ uống với anh, phải không?
- Đến quán rượu uống cũng được, ta đi đi, chính tôi có việc đến đấy.
- Tôi không có thời giờ đến quán rượu, còn ở cửa hàng nhà Plotnikov, ta vào căn buồng phía sau uống với nhau. Nếu anh muốn, bây giờ tôi sẽ ra cho anh một câu đố!
- Đố đi!
Mitia lấy trong túi gilê mảnh giấy của mình, trải ra và đưa cho xem. Trên giấy có viết bằng nét chữ to, rành rẽ: “Tôi sẽ tự hành tội mình suốt đời, tôi trừng phạt cả cuộc đời tôi!”
- Ồ phải, tôi sẽ nói cho một người nào đó biết, tôi sẽ đi báo cho họ biết. - Đọc xong mẩu giấy, Petr Ilich lẩm bẩm.
- Không kịp đâu, bạn thân mến ạ, ta đi uống thôi, nào đi!.
Phần 8  
Chương 5 - P2
Cửa hàng của Plotnikov hầu như chỉ cách nhà Petr Ilich có một nhà, nó ở góc phố. Đấy là cửa hàng thực phẩm phụ lớn nhất thành phố chúng tôi, thành phố của những thương gia giàu có cửa hàng này khá bề thế. Ở đây có đủ mọi thứ có trong bất cứ cửa hàng nào ở Thủ đô, mọi thứ thực phẩm khô: rượu nho “do anh em Elixxeev đóng chai”, hoa quả, xì gà, trà, đường, cà phê, v.v… Ở đây bao giờ cũng có ba người tài công và hai thằng nhỏ sai vặt. Tuy vùng chúng tôi đã sa sút, các địa chủ đi nơi khác, việc buôn bán xẹp đi, nhưng hàng thực phẩm phụ vẫn phát đạt, thậm chí mỗi năm càng khá hơn: loại hàng này không bao giờ thiếu người mua. Ở cửa hàng người ta nóng lòng chờ Mitia. Người ta nhớ rất rõ ràng ba tuần trước, cũng y như lần này, chàng lấy luôn một lúc mấy trăm rúp các loại hàng và rượu nho, trả tiền mặt (tất nhiên người ta không bán chịu cho chàng), họ vẫn nhớ rằng cũng như bây giờ, chàng cầm trong tay một tập giấy bạc lớn và tiêu vung vãi, không mặc cả, không suy tính và không buồn suy tính xem chàng cần ngần ấy thứ hàng và rượu nho để làm gì? Sau đó, cả thành phố kháo rằng lần ấy, cùng với Grusenka đi Mokroe “trong một đêm và một ngày tiếp sau đó, gã xài phí luôn ba ngàn đồng và sau cuộc ăn chơi trở về, gã không còn một xu, trần trụi như lúc lọt lòng mẹ”. Chàng đã gọi cả một đoàn Zigan (lúc ấy đang lưu lại ở vùng chúng tôi), trong hai ngày, nhân chàng say rượu, bọn họ đã bòn được của chàng vô khối tiền và uống cơ man nào là rượu nho đắt tiền.
Người ta kể lại, để chế nhạo Mitia, rằng ở Mokroe chàng đã cho các gã mugich nốc đẫy sâm banh, đem kẹo và bánh ngọt Strasburg cho bọn đàn bà con gái nhà quê ăn no đẫy. Ở thành phố chúng tôi, đặc biệt trong quán rượu, người ta còn chê cười lời thú nhận thành thực và công khai của Mitia hồi ấy (cố nhiên không dám chê cười trước mặt, chê cười trước mặt chàng thì hơi nguy hiểm), chàng thú thật rằng suốt cuộc “đào tẩu” ấy, chàng chỉ được Grusenka “cho phép hôn chân nàng, ngoài ra không cho gì hơn”.
Khi Mitia cùng với Petr Ilich đến cửa hàng thì ở lối vào họ đã thấy một cỗ xe tam mã chực sẵn, trong xe trải thảm, có chuông nhạc đầy đủ, gã đánh xe Andrei đang chờ Mitia. Ở cửa hàng người ta gần như đã “xếp” xong một thùng hàng, chỉ chờ Mitia đến là đóng đinh và đưa lên xe. Petr Ilich ngạc nhiên.
- Anh kịp thuê xe vào lúc nào vậy? - Anh ta hỏi Mitia.
- Lúc chạy đến nhà anh, tôi gặp Andrei và bảo anh ta cho xe đến thẳng cửa hàng. Khỏi mất thì giờ! Lần trước tôi gọi xe của Timofei, bây giờ thì Timofei đang dong ngựa phóng đi trước tôi cùng một ả phù thủy. Andrei, liệu chúng ta có muộn quá không?
- Họ đi trước ta chỉ khoảng một giờ, có khi chưa đến chừng ấy cùng lắm là một giờ thôi! - Andrei vội trả lời. - Tôi sửa soạn xe cho Timofei, tôi biết xe hắn chạy thế nào rồi. Họ đi không bằng chúng ta đâu, ông Dmitri Fedorovich, không bì nổi với xe chúng ta đâu. Sớm hơn ta không đến một giờ đâu. - Andrei hăm hở nói, gã đánh xe này chưa nhiều tuổi lắm, tóc màu hung nhạt, gầy gò mặc áo chẽn lưng, chiếc áo khoác vắt trên tay.
- Năm chục rúp uống vodka, nếu chỉ chậm hơn có một giờ.
- Một giờ thì đảm bảo, ông Dmitri Fedorovich ạ, mà có thể không đến nửa giờ, chứ đừng nói gì đến một giờ.
Mitia tuy rối rít ra lệnh, nhưng chàng nói và ra lệnh hơi kì lạ, lộn xộn, không có thứ tự. Nói được phần đầu chàng quên mất phần cuối. Petr Ilich thấy cần phải xen vào giúp giải quyết công việc.
- Bốn trăm rúp, không dưới bốn trăm, đúng y như lần trước. - Mitia ra lệnh. - Bốn tá sâm banh, không kém một chai.
- Anh cần nhiều thế để làm gì? Khoan đã! - Petr Ilich la lên. - Hòm gì đây? Có những gì trong này? Bốn trăm rúp mà có thế này thôi ư?
Mấy viên tài công cuống quýt giải thích, lời lẽ ngọt như mía lùi, rằng trong thùng thứ nhất này chỉ có nửa tá sâm banh và “những thứ cần thiết ngay để vào cuộc” - đồ nhắm, kẹo, kẹo thơm v.v.… Còn “hàng tiêu dùng” chính sẽ được đóng gói và gửi riêng, đi tức thì, cũng như lần ấy, bằng xe riêng, cũng xe tam mã, và sẽ đến kịp thời “chỉ một giờ sau khi ông Dmitri Fedorovich đến nơi”.
- Không quá một giờ, không được quá một giờ, và lấy thật nhiều kẹo thơm cùng kẹo caramen mềm, bọn con gái thích thứ ấy! - Mitia hăm hở dặn.
- Kẹo caramen mềm thì được: Nhưng sâm banh dùng làm gì đến bốn tá. Một tá là đủ. - Petr Ilich gần như phát cáu. Anh ta bắt đầu mặc cả, anh ta đòi bản thanh toán, anh ta không yên tâm. Nhưng chỉ bớt được có một trăm rúp. Cuối cùng thỏa thuận là các thứ đưa đến không quá ba trăm rúp.
- Mà thôi, thây kệ! - Petr Ilich kêu lên, như sực tỉnh. - Ta cần quái gì nhỉ? Cứ việc vứt tiền đi, đó là tiền anh ăn không được kia mà!
- Lại đây, anh chàng hết kiệm, lại đây, đừng giận. - Mitia kéo anh ta vào căn phòng đằng sau cửa hàng. - Họ sẽ đưa vào đây một chai, hai ta sẽ uống với nhau. Chà, phải, chúng ta sẽ cùng đi, vì anh là người dễ mến, tôi thích những người như thế.
Mitia ngồi xuống chiếc ghế mây trước chiếc bàn con trải tấm khăn ăn hết sức bẩn. Petr Ilich ngồi xuống trước mặt chàng, sâm banh được đưa vào ngay. Người ta hỏi các ông có dùng sò huyết không, “sò thượng hạng, vừa nhận được”.
- Phế đi, tôi không ăn, cũng chẳng cần gì hết. - Petr Ilich đáp gần như hằn học.
- Không có thời giờ ăn sò, - Mitia nói, - vả chăng cũng không cảm thấy thiếu. Này, bạn ạ, - anh bỗng nói với giọng đầy tình cảm, - tôi chẳng bao giờ ưa cái cảnh mất trật tự này.
- Ai mà ưa sự vô trật tự! Ba tá sâm banh cho bọn quê mùa, thế thì ai mà không nổi cáu lên.
- Tôi không nói chuyện ấy, tôi nói về trật tự tối cao kia. Trong tôi không có trật tự, trật tự tối cao… Nhưng… thế là hết cả rồi, buồn phiền làm gì. Muộn rồi, thây kệ hết! Cả cuộc đời tôi là sự mất trật tự, cần lập lại trật tự. Chơi chữ phải không?
- Nói lảm nhảm, chứ không phải là chơi chữ.
“Sáng danh Chúa cả trên trời,
Sáng danh Chúa cả trong tôi.”
Mấy câu thơ ấy đã có lần buột ra từ tâm hồn tôi, không phải là thơ mà là nước mắt… chính tôi sáng tác… nhưng không phải là vào lúc tôi nắm râu lão đại úy lôi đi…
- Tại sao anh bỗng nhắc đến ông ta?
- Sao tự dưng bỗng nhắc đến ông ta à? Vớ vẩn thôi! Tất cả đều đang kết thúc, tất cả đều san bằng nhau, một cái gạch, thế là chung cuộc.
- Thực tình tôi vẫn bị ám ảnh về mấy khẩu súng của anh.
- Súng xiếc gì, vớ vẩn thôi! Uống đi và đừng có tưởng tượng. Tôi yêu cuộc sống, tôi quá yêu cuộc sống, đến mức đâm ra ghê tởm. Đủ rồi! Chúc mừng cuộc sống, bạn thân mến, ta uống mừng cuộc sống, tôi đề nghị nâng cốc mừng cuộc sống! Tại sao tôi bằng lòng bản thân mình. Tôi đê hèn, nhưng tôi bằng lòng bản thân mình. Tuy tôi khó tâm vì tôi đê tiện, nhưng tôi bằng lòng bản thân mình. Tôi cảm tạ sự sáng tạo, bây giờ tôi sẵn lòng cảm tạ Thượng đế và sự sáng tạo của Thượng đế, nhưng… cần diệt con sâu hôi thối để nó đừng bò đi làm hại những người khác. Ta uống mừng cuộc sống, người anh em thân mến! Và mừng một bà hoàng của những bà hoàng.
- Mừng cuộc sống và có lẽ mừng bà hoàng hậu của anh.
Họ cạn cốc. Mitia tuy hân hoan và đầu óc phân tán, nhưng hơi buồn. Dường như chàng có một mối bận tâm nặng nề và không sao giải quyết được.
- Misa… Misa của anh về rồi đấy ư? Misa thân mến, em lại đây uống với ta một cốc, mừng thần Fobut tóc vàng ngày mai sẽ lại hiện lên…
- Cho nó uống làm gì! - Petr Ilich cáu kỉnh kêu lên.
- Anh cho phép, không sao, tôi muốn thế mà.
- Chà!
Misa cạn cốc, cúi chào và chạy đi.
- Nó sẽ nhớ đến tôi lâu hơn. - Mitia nói. - Tôi yêu một người phụ nữ, một người phụ nữ! Phụ nữ là gì? Bà hoàng của trái đất! Tôi buồn, Petr Ilich. Anh còn nhớ Hamlet chứ: “Tôi buồn lắm, buồn lắm, Horaxio… A, Ioric tội nghiệp!” Có lẽ tôi chính là Ioric. Chính bây giờ tôi là Ioric, còn sau này là cái xương sọ.
Petr Ilich nghe và im lặng, Mitia cũng im lặng một lát.
- Con chó nhỏ bé này của ai thế? - Thấy con chó nhỏ bé mắt đen trong góc nhà, chàng lơ đãng hỏi viên tài công.
- Của bà Varvara Alecxeevna đấy, bà chủ chúng tôi ấy mà, loại chó nhỏ. - Viên tài công trả lời. - Ban nãy bà ấy vừa đem tới và bỏ quên ở đây. Sẽ phải mang trả cho bà ấy thôi.
- Tôi đã thấy một con hệt như thế… Ở trung đoàn… - Mitia trầm ngâm thốt lên, - có điều nó bị gãy một chân sau… Petr Ilich nhân đây tôi muốn hỏi anh: trong đời anh đã bao giờ ăn cắp cái gì chưa?
- Hỏi gì lạ thế?
- Không, hỏi chơi thế thôi. Anh ạ, lấy cái gì trong túi người khác ấy mà? Tôi không nói về của công, của công thì mọi người đều thó, anh cố nhiên cũng thế…
- Xéo anh đi!
- Tôi nói của cải của người khác kia: moi trong túi, trong ví tiền, sao?
- Có lần tôi ăn cắp của mẹ đồng hai mươi kopek, năm tôi lên chín, lấy trên bàn. Tôi lấy trộm và nắm chặt trong tay.
- Thế rồi sao?
- Chẳng sao cả. Tôi giữ ba ngày, rồi tôi xấu hổ, thú nhận và trả lại.
- Rồi sao nữa?
- Đương nhiên là ăn đòn. Thế còn anh thì sao, anh có ăn cắp lần nào không?
- Có! - Mitia nháy mắt ranh mãnh.
- Ăn cắp cái gì? - Petr Ilich tò mò muốn biết.
- Ăn cắp của mẹ đồng hai chục kopek, năm tôi lên chín, ba ngày sau trả lại. - Nói xong, Mitia đứng phắt dậy.
- Ông Dmitri Fedorovich, ông mau lên chứ? - Andrei gọi to ở ngoài cửa.
- Xong rồi chứ? Ta đi thôi! - Mitia cuống quýt. - Một điều cuối cùng nữa và… một cốc vodka cho Andrei trước khi lên dường! Thêm một li cognac nữa! Cái hộp này (hộp đựng súng) cho xuống dưới ghế ngồi của tôi. Từ biệt anh, Petr Ilich, đừng oán giận tôi nhé.
- Thế ngày mai anh về chứ?
- Nhất định.
- Bây giờ xin thanh toán dứt khoát chứ ạ? - Viên tài công vội tới
- A phải, thanh toán đi! Nhất định rồi!
Chàng lại rút trong túi ra tập tiền, lấy ba tờ bạc trăm quăng xuống quầy và hấp tấp ra khỏi cửa hàng. Mọi người theo chân tiễn chàng, cúi chào, chúc chàng may mắn. Andrei khà một tiếng sau li cognac vừa uống cạn và nhảy lên ghế. Nhưng Mitia vừa ngồi xuống thì Fenia đột nhiên xuất hiện trước mặt chàng. Nó hớt hải chạy tới, không ra hơi, khoanh tay lại và sụp xuống dưới chân chàng la lên:
- Lạy ông, ông Dmitri Fedorovich quý mến ơi, xin đừng giết cô chủ con! Con lại đi kể hết với ông! Xin ông cũng đừng giết ông ta, người yêu trước đây của cô con ấy mà! Bây giờ ông ấy sẽ lấy cô Agrafena Alecxandrovna, vì thế ông ấy mới từ Sibir trở về. Ông ơi, xin đừng hại đời người khác!
- Thì ra là thế đấy! Bây giờ anh sẽ làm vô khối việc điên rồ! - Petr Ilich lẩm bẩm một mình. - Bây giờ dù hiểu cả rồi, không hiểu sao được kia chứ. Dmitri Fedorovich, đưa hai khẩu súng đây cho tôi, nếu anh muốn là người, - Perkhotin la to với Mitia, - nghe tôi nói, Dmitri!
- Súng ư? Cứ chờ đấy, bạn thân mến ạ, dọc đường tôi sẽ ném chúng xuống vũng nước. - Mitia đáp. - Fenia, đứng lên, đừng nằm rạp trước mắt ta. Mitia không làm hại ai đâu, từ nay kẻ ngu ngốc này sẽ không làm hại ai nữa. Này, Fenia, - khi đã ngồi xuống, chàng lớn tiếng nói với nó, - ban nãy ta xúc phạm đến em, hãy thứ lỗi cho ta, thứ lỗi cho kẻ đê tiện… Mà không tha thứ thì cũng chẳng cần! Bởi vì bây giờ đằng nào cũng thế thôi! Đi đi, Andrei. phóng thật nhanh vào!
Andrei ra rồi, nhạc ngựa ngân vang.
- Vĩnh biệt Petr Ilich! Giọt nước mắt cuối cùng dành cho anh!…
“Gã không say mà nói năng lung tung quá thể!” - Petr Ilich nhìn theo, nghĩ. Anh ta định ở lại coi giùm việc gửi một số thực phẩm và rượu vang còn lại theo sau (cũng bằng xe tam mã) vì cảm thấy bọn này sẽ ăn gian của Mitia, nhưng bỗng nhiên anh ta cáu với bản thân, nhổ bọt và đến quán chơi bi-a.
- Một thằng ngốc, tuy cũng là người tốt… - anh ta làm bẩm một mình lúc đi đường - Ta cũng có nghe nói về tay “sĩ quan trước kia” của Grusenka. Ồ, nếu hắn đã tới dù… Chết nỗi, những khẩu súng ấy? Nhưng mà quái quỷ, mình là người trông nom gã chắc? Mặc xác bọn họ. Với lại cùng chẳng có chuyện gì đâu. Bọn to mồm, có thế thôi. Chúng nốc rượu vào rồi đánh nhau, choảng nhau rồi làm lành. Đây có phải là những người nói là làm đâu? “Tôi sẽ lánh đi” và “tôi sẽ tự hành tội mình” là thế nào, sẽ chẳng có chuyện gì đâu. Khi say gã đã gào lên một nghìn lần của ấy ở quán ăn. Bây giờ thì đã không say. “Say về tinh thần”, - những tên đểu cáng thích nói như thế. Mình là người trông nom gã chắc? Đúng là gã đã đánh nhau, mặt bê bết máu. Đánh nhau với ai nhỉ? Đến quán án ta sẽ biết. Chiếc khăn tay cũng vấy máu… Hừ quái quỷ, chiếc khăn vẫn còn ở trên sàn nhà ta… cóc cần!
Khi đến quán ăn; trong lòng hết sức bực bội, Petr Ilich xà ngay vào bàn bi-a. Ván bi-a làm anh ta vui lên. Chơi xong ván nữa, anh ta bỗng nói với một người bạn chơi về việc Dmitri Karamazov lại có tiền, dễ đến ba ngàn, chính mắt anh ta nhìn thấy, và gã lại đi Mokroe để ăn chơi với Grusenka. Người nghe tiếp nhận câu chuyện đó với thái độ tò mò gần như bất ngờ. Mọi người đều lên tiếng, không cười, mà có vẻ nghiêm trang khá kì lạ. Thậm chí người ta ngừng chơi.
- Ba ngàn à? Gã moi đâu ra những ba ngàn?
Họ tiếp tục hỏi han. Họ tỏ ra ngờ vực về chuyện bà Khokhlakova.
- Phải chăng gã đã cướp đoạt của ông già?
- Ba ngàn! Có cái gì không ổn.
- Gã đã bô bô nói rằng gã sẽ giết ông già, mọi người ở đây đều nghe thấy. Gã nói chính về ba ngàn ấy…
Petr Ilich nghe và bỗng nhiên anh ta trả lời các câu hỏi một cách khô khan và dè dặt. Anh không đả động gì đến việc mặt và tay Mitia có máu, vậy mà khi đến đây anh ta đã định kể hết. Họ bắt đầu chơi ván thứ ba, dần dần câu chuyện về Mitia không ai nói đến nữa, anh ta đặt cây gậy xuống và không ăn bữa tối như đã định, mà ra khỏi tiệm ăn. Ra đến quảng trường, anh băn khoăn thậm chí ngạc nhiên về bản thân mình. Anh ta chợt hiểu ra rằng lúc này anh ta muốn đến nhà Fedor Pavlovich để hỏi thăm xem đã có chuyện gì xảy ra. “Vì một chuyện không đâu ta sẽ làm cho cả nhà người ta thức giấc và gây tai họa. Hừ, quái quỷ, ta là người hầu của họ chắc?”
Trong lòng hết sức bực bội, anh ta đi thẳng về nhà và sực nhớ tới Fenia: “Ờ, đồ quỷ, giá như ban nãy ta hỏi nó thật kĩ,” - anh ta bực bội nghĩ, - “thì có lẽ ta đã biết hết.” Anh ta bỗng hết sức nôn nóng nhất quyết muốn nói chuyện với Fenia để dò hỏi cho ra, thành thử nửa đường anh ta rẽ quặt về nhà Morozova, nơi Grusenka thuê phòng ở. Đến nơi, anh ta gõ cổng, tiếng gõ vang dội trong đêm yên tĩnh dường như bỗng làm cho anh ta tỉnh rượu và nổi cáu. Đã thế chẳng ai đáp lại, trong nhà ngủ cả. “Ta sẽ gây chuyện om sòm cả ở đây nữa!” - anh ta nghĩ, trong lòng có phần đau khổ, nhưng đáng lẽ bỏ đi hẳn, anh ta lại ra sức đập cổng, tiếng ầm ầm vang khắp phố. “Mặc kệ, ta sẽ gõ cho phải mở ra dù thôi, gõ cho kì phải mở cửa!” - anh ta lẩm bẩm, cứ mỗi tiếng gõ lại càng điên tiếc lên vì tự cáu với mình, nhưng vẫn cứ đập cổng liên hồi.
Phần 8 
Chương 6: Chính ta đến đây!
Dmitri Fedorovich bay đến Mokroe. Phải vượt qua quãng đường hơn hai chục vectơ, nhưng mấy con ngựa của Andrei phóng như thế thì chỉ một giờ mười lăm phút là đến nơi. Xe phóng nhanh khiến Mitia tỉnh người ra. Không khí trong lành và hơi lạnh, trên bầu trời quang mây lấp lánh những vì sao lớn.
Chính đêm ấy, có lẽ đúng giờ ấy, Aliosa phủ phục xuống đất phấn khích thề “sẽ yêu đất mãi mãi”. Nhưng tâm hồn Mitia rối bời, lúc này có nhiều điều vò xé cõi lòng anh, song toàn bộ con người anh chỉ hướng về nàng, không gì cưỡng lại nổi, hướng về nữ hoàng mà anh đang bay tới để nhìn thấy nàng lần cuối. Tôi chỉ nói một điều: thậm chí trái tim anh không chút nào cưỡng lại Có lẽ người ta sẽ không tin tôi, nếu tôi nói rằng anh chàng cả ghen này không hề cảm thấy mảy may ghen tuông đối với người mới xuất hiện này, kẻ tình địch bất thần từ dưới đất chui lên này.
Bất cứ kẻ nào khác mà xuất hiện như thế thì chàng sẽ ghen ngay, có lẽ chàng sẽ lại nhúng đôi tay đáng sợ của mình vào máu, nhưng với người này, “người đầu tiên này của nàng” dù giờ đây, ngồi trên cỗ xe tam mã phóng như bay, chàng chẳng những không hề cảm thấy một chút căm hận nào đối với y, thậm chí cả cảm giác thù địch cũng không: của đáng tội, chàng chưa hề thấy mặt y. “Không còn phải bàn cãi gì nữa, đấy là quyền của nàng và của anh ta; đấy là mối tình đầu của nàng mà suốt năm năm nàng không quên: như vậy là suốt năm năm ấy nàng chỉ yêu anh ta, vậy thì ta xen vào làm gì kia chứ? Ta thì nước non gì? Hãy lánh xa, Mitia, nhường đường đi! Giờ đây ta là cái quái gì. Bây giờ dù không có người sĩ quan ấy dù cũng hết cả rồi, cho dù anh ta không xuất hiện thì cũng chấm dứt cả rồi…”
Chàng sẽ trình bày những cảm giác của mình bằng những lời như thế, nếu như chàng có thể suy xét được. Nhưng lúc ấy chàng không còn suy xét được nữa. Toàn bộ quyết tâm của chàng giờ đây nảy sinh mà không có suy xét gì hết, nó nảy sinh trong khoảnh khắc, chàng cảm thấy và chấp nhận toàn bộ cùng với mọi hậu quả, ngay từ lúc chàng còn ở chỗ Fenia, khi nghe thấy lời đầu tiên của nó. Tuy nhiên, mặc dù quyết tâm như vậy, tâm hồn chàng vẫn rối loạn, rối loạn đến đau khổ: quyết tâm rồi mà vẫn không yên lòng. Có quá nhiều cái đã qua giày vò chàng. Đôi lúc chàng thấy điều đó thật kì lạ: chính chàng đã viết ra giấy bản án của mình: “Tôi sẽ hành tội tôi và tự trừng phạt mình”, mẩu giấy ấy còn ở đây, trong trí chàng, đã sẵn sàng; súng đã nạp đạn, chàng đã quyết chấm dứt hết vào ngày mai, khi tia sáng nóng ấm đầu tiên của “Fobut tóc vàng” chạm vào chàng, ấy thế mà vẫn không thể thanh toán hẳn tất cả những gì đã giày vò chàng mà nay đã lùi về dĩ vãng, chàng đau khổ cảm thấy điều đó, và nghĩ về chuyện ấy lòng chàng đầy thất vọng. Trên đường, có lúc chàng muốn bảo Andrei dừng xe lại, nhảy ra khỏi xe, lấy khẩu súng đã nạp đạn và chấm dứt hết thảy, không chờ đến rạng sáng.
Nhưng khoảnh khắc đó vụt qua như một tia lửa. Vả chăng cỗ xe tam mã phóng như bay, “ngốn nuốt không gian”, và càng gần đến đích dù ý nghĩ về nàng, chỉ về nàng thôi, lại choán lấy tâm trí chàng mỗi lúc một mãnh liệt hơn và xua đuổi mọi bóng ma ghê rợn khác khỏi tim chàng. Ôi, chàng khao khát muốn nhìn thấy nàng, dù chỉ thoáng qua, dù chỉ từ xa! “Bây giờ nàng ở bên anh ta, ta sẽ xem bây giờ nàng như thế nào bên anh ta, người yêu trước kia của nàng, ta chỉ cần thế thôi.” Và chưa bao giờ trong lồng ngực chàng dậy lên tình yêu như thế đối với người phụ nữ ấy, người phụ nữ có vai trò tai hại trong số phận chàng, chưa bao giờ chàng có một tình cảm mới mẻ đến như thế, một tình cảm bất ngờ đối với chính bản thân chàng, trìu mến đến độ chàng muốn van nài, muốn biến mất trước mặt nàng. “Ta sẽ tan biến trước mặt nàng!” - chàng bỗng thốt lên trong một cơn hoan hỉ cuồng loạn.
Xe phóng đi đã được ngót một giờ. Mitia im lặng, còn Andrei tuy vốn lắm mồm cũng không thốt lên lời nào, dường như không dám lên tiếng, hăm hở thúc mấy con ngựa của mình: ba con ngựa hồng gầy hom hem nhanh chân. Bỗng nhiên Mitia hết sức lo lắng kêu lên:
- Andrei! Nhỡ họ ngủ rồi thì sao?
Câu hỏi ấy chợt nảy ra trong óc chàng, cho đến giờ chàng vẫn chưa nghĩ tới điều đó.
- Hắn là họ đã đi nằm rồi, ông Dmitri Fedorovich ạ.
Mitia đau đớn chau mày: thật vậy, chàng bay tới… với những tình cảm như thế… mà họ ngủ… có lẽ nàng cùng đang ngủ, cạnh hắn… tim chàng giận sôi lên.
- Thúc ngựa đi, Andrei, phóng thật lực, Andrei, nhanh lên! - Chàng gào thét điên cuồng.
- Có lẽ họ chưa đi ngủ đâu. - Sau một lúc im lặng, Andrei suy luận. - Vừa rồi Timofei có bảo rằng họ đi đông người…
- Ở trạm ngựa à?
- Không phải ở trạm, mà tại quán trọ Plaxtunov, một trạm tự do.
- Tôi biết, vậy anh nói là họ có đông người phải không? Ở đâu mà đông? Có những ai? - Mitia sồn sồn lên, lo lắng ghê gớm khi nghe cái tin bất ngờ ấy.
- Cứ theo lời Timofei thì toàn các ông lớn: hai người ở thành phố, là ai thì tôi không biết, chỉ nghe Timofei nói thôi, hai người vùng này, hai người kia hình như ở nơi khác đến, có thể còn thêm ai nữa, tôi không hỏi kĩ. Anh ta bảo là họ chơi bài.
- Chơi bài à?
- Nếu họ đánh bài thì có lẽ họ chưa ngủ đâu. Lúc này chắc mới hơn mười giờ, không khuya hơn đâu.
- Thúc ngựa đi, Andrei, thúc ngựa gấp lên! - Mitia lại nóng nảy la lên.
- Tôi có điều muốn hỏi, thưa ông. - Andrei im lặng một lát, rồi lại lên tiếng, - nhưng chỉ sợ ông nổi cáu với tôi thôi.
- Anh cần gì?
- Ban nãy Fedoxia Markovna sụp xuống dưới chân ông van xin ông đừng hại đời cô chủ của nó và một người nào đó nữa… thế mà thưa ông, tôi đang đánh xe đưa ông đến đấy… Thứ lỗi cho tôi, thưa ông, là vì lương tâm cắn rứt, có lẽ tôi nói năng ngu xuẩn…
Từ phía sau, Mitia bỗng vỗ lấy vai anh ta.
- Anh là người, đánh xe phải không? Người đánh xe chứ gì? - Chàng bắt đầu nổi cơn điên…
- Vâng, đánh xe…
- Thế thì anh biết là cần phải nhường đường cho người ta. Là đánh xe thì không nhường đường cho ai, cứ đè bừa đi, bởi vì xe ta đang đi đây hay sao! Không, anh đánh xe, không được đè chết người ta! Không được đè người, không được làm hỏng cuộc đời con người; nếu đã trót làm hỏng cuộc đời con người thì hãy tự trừng phạt mình… nếu đã làm hại, đã giết chết cuộc đời của ai đó dù hãy tự hành tội mình và hãy cút đi.
Tất cả những điều đó buột ra từ miệng Mitia như trong cơn loạn thần kinh. Andrei tuy ngạc nhiên về ông khách thuê xe, nhưng vẫn bắt chuyện.
- Đúng thế, thưa ông Dmitri Fedorovich, ông nói đúng đấy ạ, không nên đè bẹp con người, cũng như không nên làm khổ bất cứ sinh vật nào, bởi vì mọi sinh vật đều do Chúa tạo ra, như con ngựa chẳng hạn, thế mà có kẻ vô cớ đánh đập nó tàn nhẫn, tuy cũng là dân đánh xe cả… Bọn nó chẳng e dè gì cả, cứ lao bừa đi, lao bạt mạng.
- Lao xuống địa ngục à? - Mitia bỗng ngắt lời và phá lên cười, tiếng cười bất ngờ, cụt lủn. - Andrei, anh là con người chất phác, - chàng lại nắm chặt lấy hai vai anh ta, - anh nói đi - Dmitri Fedorovich Karamazov có xuống địa ngục hay không, anh nghĩ sao?
- Tôi không biết, ông ạ, cái đó tùy ở ông, bởi vì chúng tôi… Thưa ông, ông biết đấy, khi Con Chúa Trời bị dòng đánh câu rút chết trên cây thập giá thì Ngài xuống thẳng địa ngục và tha cho tất cả những kẻ tội lỗi bị đày dọa ở đấy. Địa ngục rên rỉ vì nghĩ rằng bây giờ sẽ không còn những kẻ tội lỗi xuống đây nữa. Khi đó Chúa Trời nói với Diêm Vương: “Đừng rền rĩ, hỡi địa ngục, vì từ nay sẽ có đủ các loại công khanh, quan lại, quan tòa và bọn nhà giàu xuống đây, và địa ngục sẽ lại đầy ắp kẻ tội lỗi như ngàn đời nay, cho đến khi nào ta trở lại lần nữa.” Đúng như thế, Ngài nói đúng như thế…
- Truyền thuyết dân gian, hay tuyệt! Quất con bên trái, Andrei!
- Thế đấy thưa ông, địa ngục dành cho những kẻ đó, - Andrei quất con ngựa bên trái, - còn về ông thì thưa ông, chúng tôi coi ông vẫn chỉ như đứa trẻ nhỏ… Chúng tôi rất mực tôn linh ông… Và tuy ông hay nổi giận, quả có thể, thưa ông, nhưng Chúa tha thứ cho ông vì anh tính ông chất phác.
- Thế còn anh, anh có tha thứ cho tôi không, Andrei?
- Tôi làm sao phải tha thứ cho ông, ông chẳng làm gì tôi cả.
- Không, thay cho tất cả mọi người, một mình anh cho tất cả mọi người, ngay bây giờ, lúc này, ở đây, trên đường, anh có tha thứ cho tôi hay không? Nói đi, hỡi tâm hồn bình dân kia!
- Ôi thưa ông! Đánh xe cho ông thật đáng sợ, ông nói chuyện đến là kì lạ…
Nhưng Mitia không để ý nghe. Chàng chỉ cầu nguyện với vẻ kích động cực độ và ngơ ngẩn làm bẩm một mình:
- Lạy Chúa, xin chấp nhận tôi trong cả sự phi pháp của tôi, nhưng đừng phán xét tôi. Xin cho tôi tránh khỏi sự phán xét của Chúa… Đừng phán xét tôi, vì tôi đã tự lên án mình rồi; đừng có phán xét tôi, vì tôi yêu Chúa! Tôi ti tiện, nhưng tôi yêu Chúa: Chúa có bắt tôi xuống địa ngục, tôi cũng sẽ yêu Chúa và ở đấy tôi vẫn sẽ gào lên rằng tôi yêu Chúa mãi mãi… Nhưng xin hãy đề tôi yêu cho trọn… Ở đây, bây giờ, yêu cho trọn, chỉ năm tiếng đồng hồ cho đến khi ló ra tia nóng rực của Ngài… bởi vì tôi yêu bà hoàng của lòng tôi. Tôi yêu và không thể không yêu. Chúa nhìn thấy toàn bộ con người tôi đấy. Tới nơi tôi sẽ sụp xuống trước mặt nàng: em có lí vì đã bỏ qua anh… Vĩnh biệt, hãy quên nạn nhân của mình đi, đừng bao giờ bận tâm gì cả!
- Mokroe! - Andrei la lên, trỏ rồi về phía trước.
Qua bóng đêm nhạt nhòa bỗng hiện lên một khối nhà trải ra trên một khoảng mênh mông. Làng Mokroe có hai ngàn dân, vào giờ này cả làng đã đi ngủ, chỉ đây đó trong bóng tối còn thấp thoáng nhưng ánh đèn thưa thớt.
- Thúc ngựa mau lên, Andrei, mau lên, ta tới rồi! - Mitia la lên như trong cơn sốt.
- Họ chưa ngủ! - Andrei lại thốt lên, giơ rồi trỏ nhà trọ của Platunov ở ngay lối vào làng, cả sáu cửa sổ trông ra đường đều sáng trưng.
- Họ chưa ngủ! - Mitia vui sướng đỡ lời, - nổi nhạc ngựa vang lừng lên, Andrei, thúc ngựa phóng đại đi, rung nhạc ngựa lên, đánh xe tới cho thật rùm beng. Sao cho cả bàn dân thiên hạ đều biết ta đã tới! Ta đến đây! Chính ta đến đây! - Mitia reo lên như điên dại.
Andrei thúc ba con ngựa kiệt quệ phi nước đại và quả thực là làm rùm beng lên khi đánh xe tới cái bậc, tam cấp cao và ghìm ngựa lại, mấy con ngựa mình ướt đẫm, đã gần kiệt quệ, Mitia nhảy từ trên xe xuống, vừa hay chủ nhà, lúc ấy quả thật đã đi ngủ, ra bậc tam cấp tò mò nhìn xem ai cho xe tới mà như vậy, Trifon Borisovich đấy ư?
Ông chủ khom mình nhìn kỹ, chạy vội xuống, hoan hỷ và khúm núm đâm bổ đến đón khách.
- Trời ơi, ông Dmitri Fedorovich! Chúng tôi lại được tiếp đón ông đấy ư?
Chủ nhân Trifon Borisovich này là một tay mugich mập mạp, khỏe mạnh, tầm vóc trung bình, mặt hơi phị, bề ngoài nom nghiêm khắc và quyết liệt, đặc biệt đối với cánh nông dân Mokroe, nhưng có tài đổi nét mặt nhanh chóng, tỏ ra hết sức xun xoe khi ngẩn thấy hơi đồng. Y mặc theo kiểu Nga, sơ mi cổ cài cúc bên, áo ngoài chẽn lưng, ý có khá nhiều tiền, nhưng vẫn luôn luôn mơ ước địa vị cao sang hơn. Già nửa số nông dân ở đây nằm trong móng vuốt của y, tất cả đều vay nợ y. Y thuê đất và mua đất của địa chủ, còn nông dân phải nai lưng ra canh tác cho y để trừ số nợ mà không bao giờ trả hết được. Y góa vợ và có bốn con gái lớn; một ả đã góa chồng. Ở với bố cùng hai con nhỏ, cháu trai của y, và làm việc cho bố như người làm công nhật. Một ả nửa tuy là nông dân nhưng lấy được một tay viên chức, gã này kiếm được chân thư kí, giỏi nịnh bợ, ở một phòng của quán trọ, giữa nhưng tấm ảnh gia đình, có treo tấm ảnh nhỏ xíu của gã viên chức đó mặc sắc phục và mang ngù vai. Hai ả con gái sau, vào ngày lễ nhà thờ hay khi đến thăm nhà ai, đều mặc áo dài màu da trời hay xanh lá cây may đúng mốt, ôm sát thân và đuôi áo dài lê thê, nhưng sáng hôm sau, lại như mọi ngày, dậy từ tinh mơ và cầm chổi quét các phòng, đổ nước bẩn và hót nc sau khi khách trọ ra đi. Mặc dù đã kiếm được hàng nghìn, Trifon aonxưtr rất thích bóc lột khách ăn chơi và vẫn nhớ rằng chưa đầy một tháng trước, trong thời gian Dmitri Fedorovich đến ăn chơi ở đây cùng với Grusenka, trong có một ngày y đã kiếm chác được của Dmitri Fedorovich hơn hai trăm rúp, nếu không phải là ba trăm, vì thế bây giờ y vui sướng, nhanh nhảu đón chàng, chỉ thấy xe chàng đến một cách oai phong như thế y đã lại đánh hơi thấy kiếm chác được rồi.
- Trời ơi, ông Dmitri Fedorovich, chúng tôi lại được hầu ông đấy ư?
- Khoan, ông Trifon Borisovich, - Mitia lên tiếng, - trước hết hãy nói đến điều quan trọng nhất: cô ấy đâu?
- Agrafena Alecxandrovna ấy ư? - Chủ quán hiểu ra ngay, nhìn chằm chằm vào mặt Mitia bằng cái nhìn tinh tường. - Vâng, cô ấy ở đây hiện đang…
- Với ai, với ai?
- Mấy ông khách qua đây… Một viên chức, hình như là người Ba Lan, nghe tiếng nói đủ biết, chính ông ta cho xe đến đón cô ấy; còn một người khác nữa, bạn ông ta hay người bạn đường thì không rõ, mặc thường phục…
- Sao, họ ăn chơi linh đình phải không? Họ giàu lắm hả?
- Ăn chơi cái quái gì? Xoàng thôi, ông Dmitri Fedorovich ạ.
- Xoàng à, thế còn những người kia?
- Người thành thị, hai ông… Họ từ Tresnia trở về, và cũng dừng lại ở đây. Một người trẻ tuổi, hình như chỗ bà con với ông Miuxov, tên là gì tôi quên mất rồi… còn người kia dù chắc ông biết ông điền chủ Maximov, ông ta hành hương, ông ta đã đến tu viện vùng nhà, ông ta đi với người họ hàng trẻ tuổi ấy của ông Miuxov…
- Có ngần ấy người thôi à?
- Có thế thôi!
- Thôi được đừng nói nữa, bây giờ hãy nói tới điều quan trọng nhất: cô ấy làm gì, cô ấy thế nào?
- Cô ấy đến ban nãy, hiện đang ngồi với họ.
- Cô ấy có vui không? Có cười không?
- Không, hình như chẳng mấy cười… thậm chí có vẻ chán ngán, chải tóc cho người trẻ tuổi.
- Cho anh chàng sĩ quan người Ba Lần ấy à?
- Cái ông Ba Lần ấy còn trẻ gì nữa, mà cũng không phải là sĩ quan; không, ông ạ, không phải chải tóc cho ông ta, mà cho người cháu của ông Miuxov, cái anh trẻ tuổi ấy… khốn nỗi tên anh ta tôi quên mất rồi.
- Kanganov phải không?
- Đúng là Kanganov.
- Được, tôi sẽ tự quyết định. Họ chơi bài phải không?
- Ban nãy kia, nhưng đã thôi rồi, tiếp đó họ uống trà, người viên chức đòi rượu mùi.
Khoan đã, Trifon Borisovich, khoan, bạn thân mến, rồi tôi sẽ quyết định. Bây giờ hay trả lời điều quan trọng nhất: ở đây có bọn Zigan không?
- Bây giờ chẳng nghe ai nói đến bọn ấy nữa, ông Dmitri Fedorovich ạ, các quan trên đã đuổi họ đi hết rồi, nhưng bọn Do Thái thì có đấy, họ chơi đàn ximbalum và violon, họ ở Rogiodexvenskaia, có thể cho đi gọi ngay bây giờ họ sẽ đến.
- Cho gọi ngay đi, nhất định rồi! - Mitia reo lên. - Gọi cả bọn con gái như lần trước ấy, nhất là Marfa, cả Xtepanieda, Arina nữa. Hai trăm rúp cho ban đồng ca!
- Với số tiền như thế tôi có thể đánh thức cả làng dậy, mặc dù bây giờ đã ngủ li bì. Nhưng cậu Dmitri Fedorovich ơi, có đáng phí tiền như thế cho bọn mugich ở đây không, hay cả bọn con hát nữa? Vung ra một khoản tiền như thế cho một lũ hèn hạ và thô lỗ dường ấy! Bọn nông dân của chúng tôi đâu có đáng hút xì gà, vậy mà cậu lại cho chúng hút. Bây giờ người chúng bốc mùi xì gà hôi xì, quân ăn cướp ấy. Còn bọn con gái, cả lũ chúng nó đều đầy chấy rận. Thôi để tôi dựng mấy con gái của tôi dậy, khỏi phải tiền nong gì hết, chứ đừng nói đến khoản lớn như vậy, chúng nó vừa mới đi nằm, tôi sẽ đá lưng chúng bắt chúng hát cho cậu nghe. Lần trước cậu đã cho bọn mugich uống sâm banh, ôi cha cha!
Trifon Borisovich tiếc cho Mitia thật là dại: hồi ấy chính y đã thủ được của chàng sáu chai sâm banh, lại nhặt được dưới gầm bàn thờ một trăm rúp và nắm chặt trong tay. Thế là y lấy được tờ giấy bạc đó.
Trifon Borisovich, lần ấy tôi đã xài ở đây hơn một ngàn rúp. Ông nhớ chứ?
- Dạ thưa ông, sao lại không nhớ, ông xài có đến ba ngàn rúp.
- Thế thì lần này tôi cũng có như thế, thấy chứ?
Chàng rút tập tiền ra và dí vào mũi ông chủ.
- Bây giờ ông nghe đây và hiểu cho kĩ nhé: một giờ nữa sẽ có rượu nho, món ăn nguội, bánh và kẹo, mang hết cả lên. Cái hòm hiện ở xe của Andrei thì mang lên ngay, mở ra ngay và đưa sâm banh ra… Cần nhất là gọi bọn con hát, nhất định phải gọi cho bằng được Marfa…
Chàng quay về xe và lấy dưới ghế ngồi ra cái hộp đựng súng của mình.
- Nhận tiền đi này, Andrei! Mười lăm rúp tiền xe, còn đây năm chục rúp cho anh uống rượu… vì anh sẵn sàng phục vụ tôi, vì anh yêu mến tôi… Hãy nhớ đến ông chủ Karamazov!
- Tôi sợ, thưa ông… - Andrei ngần ngừ, - năm rúp tiền trà thuốc thôi, hơn thì tôi không nhận đâu. Bác Trifon Borisovich làm chứng đấy nhé. Thứ lỗi cho “tôi đã nói những lời ngu xuẩn…
- Sợ gì, - Mitia nhìn anh ta từ đầu đến chân, - nhưng thôi, đã thế thì mặc anh! - Chàng nói to, vứt cho anh ta năm rúp. - Ông Trifon Borisovich, bây giờ lẳng lặng đưa tôi đi, để tôi ngó qua bọn họ tí chút mà họ không nhận thấy tôi. Họ ở đâu, trong phòng xanh à?
Trifon Borisovich e sợ nhìn Mitia, nhưng lập tức thực hiện điều chàng yêu cầu: y thận trọng dẫn chàng vào phòng ngoài, còn y vào căn phòng lớn đầu tiên giáp với căn phòng có khách đang ngồi và trở ra, cầm luôn cây nến đi. Rồi y lén đưa vào, để chàng ở một góc tối, từ chỗ đó chàng tha hồ nhìn kĩ những người đang nói chuyện mà họ không nhìn thấy chàng. Nhưng Mitia nhìn không lâu và cũng không thể nhìn rõ được: nhìn thấy nàng, tim chàng đập thình thịch, mắt mờ đi. Nàng ngồi bên bàn, trong chiếc ghế bành, hơi xoay nghiêng, còn ngồi trên đi văng cạnh nàng là Kanganov đẹp trai và còn rất trẻ. Nàng cầm tay anh ta và hình như nàng cười, anh ta không nhìn nàng, mà lớn tiếng nói gì, coi bộ bực bội, với Maximov ngồi bên kia bàn đối diện với Grusenka, Maximov cười cái gì rất vui vẻ. Còn gã ấy ngồi trên đi văng, bên cạnh đi vãng là một người lạ mặt ngồi trên chiếc ghế dựa gần tường. Gã ấy ngồi ngả ngớn trên đi văng, hút ống điếu, và Mitia chỉ thoáng nhận xét gã hơi béo, mặt to, hẳn là không cao và hình như có điều gì cáu kỉnh. Người lạ mặt kia Mitia có cảm giác là cao quá khổ; nhưng chàng không thể thấy rõ gì hơn nữa: hơi thở tắc nghẹn. Chàng không thể đứng lâu thêm phút nào nữa, chàng đặt hộp súng lên tủ ngăn kéo và toàn thân lạnh giá, tim lịm đi, bước thẳng vào căn phòng xanh có mấy người kia.
- Ôi! - Grusenka sợ hãi kêu rú lên, nàng là người trước tiên nhận thấy chàng.
Phần 8
Chương 7 - P1: Người tình trước kia
Mitia bước những bước dài vội vã tới sát gần bàn.
- Thưa các vị, - chàng nói to, gần như hét lên, nhưng lắp bắp. - Tôi… tôi chẳng làm gì đâu! Đừng sợ, - chàng kêu lên, - tôi chẳng làm gì đâu, chẳng làm gì đâu, - chàng bỗng quay về phía Grusenka, nàng ngồi ghế bành, nghiêng về phía Kanganov và níu chặt lấy tay anh ta. - Tôi… tôi cùng trên đường đi. Tôi dừng ở đây đến sáng thôi. Thưa các vị, tôi là khách qua đường… có thể ở đây với các vị đến sáng được không? Chỉ đến sáng thôi, lần cuối cùng, ngay trong căn phòng này.
Mấy câu chót đó chàng nói với người beo béo hút ống tẩu ngồi trên đi văng. Gã rút ống tẩu khỏi miệng với vẻ quan trọng và nghiêm giọng nói:
- Panie (1), phòng này chúng tôi thuê riêng. Còn có những phòng khác.
Chú thích:
(1) Thưa ông (tiếng Ba Lan).
- Ô sao lại hỏi thế, anh Dmitri Fedorovich, cần gì phải hỏi thế? Kanganov bỗng lên tiếng. - Ngồi xuống đây với chúng tôi, chào anh!
- Chào bạn quý mến… con người vô giá! Tôi xưa nay vẫn kính trọng anh… - Mitia mau miệng đáp lại một cách vui vẻ, chìa tay cho anh ta qua bàn.
- Ái anh nắm chặt quá! Làm gãy ngón tay người ta rồi còn gì! - Kanganov bật cười.
- Anh ấy vẫn bắt tay như vậy đó, bao giờ cũng thế! - Grusenka vui vẻ lên tiếng, mỉm cười vẫn còn rụt rè, nhìn Mitia, hình như nàng biết chắc là chàng sẽ không phá đám, nàng nhìn chằm chằm vào chàng, hết sức tò mò và vẫn còn lo lắng. Ở chàng có cái gì khiến nàng hết sức sửng sốt, nàng hoàn toàn không ngờ chàng vào đúng lúc này với thái độ như thế và nói năng như thế.
- Chào ông, - cả điền chủ Maximov ở phía bên trái cũng lên tiếng một cách ngọt ngào. Mitia đâm bổ tới chỗ ông ta.
- Xin chào, thì ra ông cũng ở đây, tôi vui mừng vì ông cũng ở đây! Thưa các vị tôi… - chàng lại nói với pan (2) hút ống tẩu, rõ ràng chàng coi y là người có vai trò chính ở đây. - Tôi đã bay tới đây. Tôi muốn sống giờ cuối cùng và ngày cuối cùng trong căn phòng này, trong chính căn phòng này… nơi tôi đã tôn thờ… bà hoàng của tôi! Thứ lỗi cho tôi panie. - Chàng kêu lên với giọng cuồng loạn. - Tôi bay tới và tôi đã thề rằng… Ôi, đừng sợ, đêm cuối cùng của tôi! Chúng ta sẽ uống để dàn hòa với nhau, panie!.
Chú thích:
(2) Người quý tộc Ba Lan (N.D).
Người ta sẽ đưa rượu nho lên ngay bây giờ… Tôi đã đem theo trong xe. - Chàng bỗng rút tập giấy bạc ra, chẳng rõ để làm gì. - Xin phép panie. Tôi muốn có nhạc, đàn hát om sòm, đúng y như lần trước Nhưng con sâu, con sâu vô dụng sẽ bò trên mặt đất, rồi không còn nó nữa! Trong đêm cuối cùng tôi sẽ nhớ đến ngày vui sướng của tôi…
Chàng gần như ngạt thở. Chàng muốn nói nhiều điều, nhưng chỉ buột ra toàn những lời cảm thán lạ lùng. Pan Ba Lan ngồi không nhúc nhích, nhìn chàng, tập tiền của chàng, nhìn Grusenka và băn khoăn ra mặt.
- Nếu Krulova của tôi cho phép… - Gã bắt đầu nói.
- Krulova là cái quái gì, tiếng ấy nghĩa là hoàng hậu phải không? - Grusenka ngắt lời. - Nghe các anh nói, tôi thấy nực cười cho các anh. Anh Mitia ngồi xuống đây, anh nói gì vậy? Xin đừng làm chúng tôi sợ. Anh sẽ không làm chúng tôi hoảng sợ chứ phải không? Nếu anh không làm cho chúng tôi sợ thì tôi sẽ rất vui mừng…
- Tôi mà lại làm cô sợ ư? - Mitia bỗng kêu lên, giơ hai tay lên cao. - Ô, cứ đi đi, cứ đi đường của cô đi, tôi không gây trở ngại đâu! Đột nhiên, bất ngờ cho tất cả mọi người, và cố nhiên chính chàng cũng không ngờ, chàng gieo mình xuống ghế và nước mắt tuôn trào, quay đầu về phía tường đối diện, hai tay giữ chặt thành ghế, như ôm lấy nó.
- Kìa, lại thế nữa, anh lại thế rồi! - Grusenka thốt lên bằng giọng trách móc. - Trước đây anh ấy đến chỗ tôi cũng hệt như vậy: bỗng nhiên nói một thôi một hồi, tôi chẳng hiểu gì cả. Một lần anh ấy cùng khóc như thế này, lần này cũng lại khóc, xấu hổ quá chừng! Cớ gì anh khóc kia chứ? Còn có gì để khóc nữa kia chớ? - Nàng bỗng nói thêm với vẻ bí ẩn và dằn mạnh từng tiếng.
- Tôi… tôi không khóc. Nào thôi, xin chào! - Chàng quay phắt lại trên ghế và bỗng bật cười, nhưng không phải là tiếng cười khô khan ngặt nghẽo của chàng, mà là cười một thôi dài, không thành tiếng, nóng nảy và rung động.
- Đấy, lại thế rồi… Nào, anh hãy vui lên, vui lên đi chứ! - Grusenka khuyên nhủ chàng. - Tôi rất vui sướng, vì anh đã đến, rất vui sướng, Mitia, tôi rất vui sướng, anh nghe thấy chứ? Tôi muốn anh ấy ngồi đây với chúng ta, - nàng nói như ra lệnh với tất cả mọi người tuy rõ ràng là chỉ cốt nói với người ngồi trên đi văng. - Tôi muốn, tôi muốn! Nếu anh ấy bỏ đi thì tôi cũng bỏ đi, tôi cũng sẽ bỏ đi, thế đấy! - Nàng nói thêm, mắt rực lên.
- Bà hoàng của tôi muốn thế nào dù đấy là luật lệnh! - Pan Ba Lan nói, hôn tay Grusenka một cách phong nhá. - Xin mời pan chung vui với chúng tôi! - Gã nói với Mitia một cách lịch thiệp.
Mitia lại nhỏm dậy, rõ ràng định tuôn ra một tràng nữa, nhưng té ra không phải vậy.
- Ta uống đi, panie! - Chàng chỉ buột ra như thế. Mọi người bật cười.
- Trời ơi! Thế mà tôi cứ tưởng anh ấy lại muốn diễn thuyết. - Grusenka thốt lên bằng giọng xúc động. - Này anh Mitia, - nàng nói thêm một cách khẩn khoản, - anh đừng chồm chồm lên nữa nhé còn anh mang sâm banh đến thì tuyệt quá. Em sẽ uống sâm banh, chứ rượu mùi thì em không chịu nổi. Hay nhất là anh đã đến đây, không thì đang chán chết đi được. Anh đến lại để ăn chơi vung tàn tán lên chứ gì? Cất tiền vào túi đi! Anh kiếm đâu ra lắm tiền thế?
Mitia vẫn nắm một đống giấy bạc nhàu nát trong tay, mọi người đều để ý, nhất là mấy người Ba Lan, chàng ngượng ngùng đút ngay số tiền vào túi. Chàng đỏ mặt. Đúng lúc ấy chủ quán đem vào một chai sâm banh đã mở nút để trên chiếc khay cùng với mấy cái cốc. Mitia cầm lấy chai rượu, nhưng bối rối đến nỗi không biết làm gì. Kanganov đỡ lấy và thay chàng rót rượu ra cốc.
- Đưa nữa lên, một chai nữa! - Mitia lớn giọng nói với chủ quán và quên chạm cốc với pan mà chàng đã trịnh trọng mời uống với chàng để dàn hòa, chàng uống một hơi cạn cốc, không đợi ai cả. Gương mặt chàng bỗng khác hẳn. Không kính trọng và bi thảm như lúc chàng vào, mà có vẻ ấu trĩ. Chàng dường như hết sức nhún nhường và hạ mình. Chàng nhìn mọi người với vẻ rụt rè và vui sướng, cứ khúc khích cười một cách kích động, với vẻ biết ơn của một con chó con có lỗi lại được vuốt ve và cho vào nhà. Chàng dường như quên hết mọi sự và nhìn tất cả mọi người với niệm thán phục, với nụ cười trẻ thơ. Chàng cứ vừa cười vừa nhìn Grusenka không dứt và xích ghế của mình tới sát cạnh ghế dài của nàng. Chàng chăm chú nhìn kĩ cả hai pan, tuy chàng còn ít hiểu họ. Pan ngồi trên đi văng khiến chàng chú ý vì phong thái chững chạc, ngữ điệu Ba Lan và nhất là chiếc ống tẩu. “Thì có sao đâu, gã hút tẩu cũng tốt chứ sao,” - Mitia nghĩ. Khuôn mặt hơi phị, nom đã ngót bốn chục tuổi, với cái mũi rất nhỏ, bên dưới là hai hàng ria cực mảnh, nhuộm màu, nom trâng tráo, khuôn mặt ấy tạm thời chưa khiến cho Mitia thắc mắc gì cả. Thậm chí cả bộ tóc giả rất xấu xí, sản phẩm của Sibir với hai hàng tóc mai chải lật về phía trước nom đến lố bịch cũng không làm cho Mitia sửng sốt lắm: “Gã đeo tóc giả, như vậy là cần phải như thế,” - chàng tiếp tục nghĩ một cách khoan khoái. Pan kia, ngồi sát tường, trẻ hơn pan trên đi văng, nhìn mọi người trong phòng với vẻ xấc xược và hăm hở, lẳng lặng nghe mọi người nói chuyện với vẻ khinh miệt, hắn làm Mitia ngạc nhiên chỉ vì tầm vóc hắn rất cao, chẳng tương xứng chút nào với pan ngồi trên đi văng. “Hắn mà đứng lên thì có lẽ đến năm mét!” - chàng thoáng nghĩ. Chàng cũng thoáng có ý nghĩ rằng gã cao lớn này có lẽ là bạn và thủ hạ của pan trên đi văng, tuồng như “vệ sĩ” của gã, cố nhiên pan trên đi văng chỉ huy pan cao lớn. Nhưng Mitia cảm thấy tất cả những điều đó hết sức hay và chí phải. Tất cả cảm giác cạnh tranh quy tụ trong con chó con. Chàng vẫn chưa hiểu gì về Grusenka và cái giọng bí ẩn của nàng khi nàng nói mấy câu đó. Lòng rộn nàng, chàng chỉ hiểu rằng nàng dịu dàng với chàng, nàng “tha thứ” cho chàng và đến ngồi gần chàng. Chàng mê thích vô cùng khi thấy nàng hớp từng ngụm rượu vang. Thế nhưng mọi người đều im lặng khiến chàng ngạc nhiên, chàng nhìn tất cả bọn họ bằng con mắt chờ đợi: “Sao chúng ta lại cứ ngồi không thế này, phải bắt đầu làm trò gì đi chứ, các vị?” - cái nhìn tươi cười của chàng dường như nói vậy.
- Ông ta chuyên môn bịa chuyện, làm cho chúng tôi cứ cười suốt! - Kanganov nói và trỏ Maximov, dường như đoán được ý chàng.
Mitia nhìn quanh về phía Kanganov, rồi nhìn Maximov.
- Bịa chuyện ư? - Chàng cất tiếng cười khô khan, cụt lủn, như có điều gì vui thú. - Ha ha!
- Đúng thế. Các ông tưởng tượng xem, ông ta nói chắc rằng tất cả kị binh của ta vào những năm hai mươi đều lấy vợ người Ba Lan; nhưng đấy là chuyện cực kì vô lí, phải không?
- Lấy vợ người Ba Lan à? - Mitia phụ họa và tỏ ra rất khoái trá.
Kanganov rất hiểu quan hệ của Mitia với Grusenka, anh ta cũng đoán biết cả về gã Ba Lan, nhưng chẳng quan tâm lắm, thậm chí chẳng quan tâm chút nào, anh ta chú ý nhất đến Maximov. Anh ta cùng Maximov đến đây là do tình cờ và gặp các pan ở quán trọ này lần đầu tiên trong đời. Grusenka thì anh ta đã biết từ lâu, thậm chí đã có lần cùng một người khác đến nhà nàng. Lần ấy nàng không ưa anh ta. Nhưng ở đây thì nàng nhìn anh ta rất dịu dàng. Trước khi Mitia đến, thậm chí nàng còn tỏ ra âu yếm với anh ta, nhưng anh ta vẫn lãnh đạm. Đấy là một chàng trai tuổi chưa quá hai mươi, y phục sang trọng, gương mặt trắng trẻo rất dễ ưa, có bộ tóc màu hạt dẻ sáng, dày rậm, rất đẹp. Trên gương mặt trắng trẻo ấy, đôi mắt màu xanh quyến rũ biểu lộ sự thông minh, đôi khi sâu sắc thậm chí không hợp lứa tuổi, mặc dù chàng trẻ tuổi có lúc nói và nhìn hệt như một đứa con nít và tuyệt nhiên không lấy thế làm ngượng ngùng, dù biết rõ như thế. Nói chung anh ta rất đặc sắc, thậm chí tính khí thất thường lộ vẻ đờ đẫn và ương bướng: anh ta nhìn, nghe mà dường như mải mê mơ tưởng điều gì. Khi thì anh ta uể oải lười nhác, khi thì bỗng nhiên xúc động, đôi khi có lẽ vì một nguyên nhân hết sức không đâu.
- Ông tưởng tượng xem, đã bốn ngày nay tôi đi đâu cũng cho ông ta theo. - Anh ta nói tiếp, kéo dài từng tiếng dường như uể oải nhưng không hề vênh váo, mà hoàn toàn tự nhiên. - Ông nhớ chứ, từ ngày mà ông em của ông đẩy văng ông ta ra khỏi xe ấy mà. Từ đó tôi rất để ý đến ông ta, tôi đưa ông ta về quê, nhưng bây giờ ông ta luôn luôn nói dóc, đến nỗi đi với ông ta đâm ra xấu hổ. Bây giờ tôi đưa ông ta trở lại…
- Ông chưa từng nhìn thấy phụ nữ Ba Lan nên mới nói cái điều không thể có được, - pan hút tẩu nói với Maximov.
Pan hút tẩu nói tiếng Nga vốn rất sõi. Ít ra cũng sõi hơn nhiều chứ không như gã vờ ra như vậy. Những từ tiếng Nga, nếu gã có dùng thì cũng phát âm chệch đi theo kiểu Ba Lan.
- Thì chính tôi đã lấy một panie Ba Lan mà, - Maximov cười hi hí đáp lại.
- Ồ thế ông cũng đã phục vụ trong kị binh à?
- Chính ông vừa nói về kị binh mà. Ông cũng là kị binh à? - Kanganov xen vào.
- Phải, cố nhiên, ông ta mà là kị binh ư? Ha ha! - Mitia kêu lên, hau háu nghe và chuyển nhanh cái nhìn tò mò của mình sang từng người đang nói, chỉ có trời biết chàng mong chờ nghe được điều gì ở mỗi người.
- Không, ông ạ. - Maximov quay về phía chàng, - tôi nói là các cô gái Ba Lan… đến là xinh… các cô nhảy điệu mazurca với cánh kị binh chúng tôi… khi một cô nàng đã nhảy mazurca với một kị binh là cô nàng tót ngay lên đùi anh chàng… như một con mèo cái… trắng xinh… cha mẹ có thấy cũng làm ngơ… làm ngơ… còn chàng kị binh thì sáng hôm sau đến cầu hôn… thế đấy… cầu hôn, hi hi! - Maximov cười hi hí, dứt lời.
- Ông này lật là kẻ đáng khinh! - Pan cao lớn ngồi trên ghế bỗng cằn nhằn và vắt chân nọ lên chân kia. Mitia chỉ để ý đến chiếc ủng cực to, bẩn thỉu, đế cũng to và bẩn. Nói chung cả hai pan áo quần đều khá lem nhem.
- Hừ! Cớ gì anh ta mạt sát người khác nhỉ? - Grusenka bỗng nổi giận.
- Panie Agrippina, ở Ba Lan ông ta chỉ mới gặp những phụ nữ hèn hạ, chứ chưa thấy những phụ nữ quý phái. - Pan hút tẩu nói với Grusenka.
- Tôi có thể cả quyết như vậy! - Pan cao lớn ngồi ghế nói xẵng giọng một cách khinh miệt.
- Lại thế nữa! Để cho ông ấy nói! Người ta nói thì can gì mà ngăn cản người ta? Có họ thậm là vui vẻ. - Grusenka cấm cản.
- Tôi có ngăn cản đâu, Panie - Pan mang tóc giả nói với giọng đầy ý nghĩa, nhìn Grusenka hồi lâu, im lặng với vẻ quan trọng, rồi lại bắt đầu hút ống tẩu.
- Ồ không, không, điều bạn vừa nói là đúng sự thật. - Kanganov lại nổi nóng, có trời biết duyên do tại sao. - Ông ấy chưa từng sang Ba Lan, làm sao ông ấy nói về Ba Lan được. Ông không hề lấy vợ ở Ba Lan, phải không?
- Không, tôi lấy vợ ở tỉnh Smolensk. Có điều là cô ta, người vợ sau này của tôi, trước đó đã được một kị binh Nga đưa đến đấy cùng bà mẹ và bà dì, cùng một bà họ hàng khác nữa với đứa con trai lớn, họ được đưa từ Ba Lan tới, từ chính Ba Lan… và anh ta nhường cho tôi. Đấy là một trung úy của chúng ta, chàng trẻ tuổi rất tốt. Thoạt đầu anh ta muốn lấy cô nàng, nhưng rồi bỏ ý định ấy vì hóa ra cô nàng thọt…
- Vậy ra ông lấy người vợ thọt à? - Kanganov kêu lên.
- Thọt! Hồi ấy cả hai cũng đã lừa gạt tôi một chút và giấu tôi.
- Tôi thấy cô nàng nhảy ton ton lên… cứ nhảy ton ton lên, tôi lại ngờ rằng cô nàng nhảy nhót vì vui…
- Vui vì được lấy ông chăng? - Kanganov la lên bằng giọng lanh lảnh như trẻ con.
- Vâng, vì vui mừng. Nhưng thật ra vì một cớ khác. Rồi sau, khi chúng tôi kết hôn, ngay sau khi làm phép cưới, tối hôm ấy cô nàng thú nhận và xin lỗi một cách hết sức tình cảm, rằng thời thanh xuân, có lần nàng nhảy qua vũng nước và bị gãy chân, hi hi!
Kanganov cười sằng sặc như trẻ con và gần như lăn ra đi văng. Grusenka cũng cười phá lên. Mitia hạnh phúc tột đỉnh.
- Ông ạ, lần này thì ông ta nói thực, lần này thì ông ta không nói dối! - Kanganov kêu lên, nói với Mitia. - Mà ông biết không, ông ta lấy vợ hai lần, đấy là ông ta nói về người vợ thứ nhất, còn người vợ thứ hai dù đã bỏ trốn và hiện giờ vẫn còn sống, ông biết không?
- Thật ư? - Mitia quay nhanh về phía Maximov, vẻ mặt rất đỗi ngạc nhiên.
- Đúng thế, bà ta bỏ nhà trốn đi, tôi đã vấp phải một chuyện rầy rà như thế. - Maximov xác nhận một cách nhũn nhặn. - Nhưng điều quan trọng nhất là trước hết bà ta đã sang tên cho mình toàn bộ sản nghiệp của tôi. Bà ta bảo: anh là người có học, anh sẽ tự kiếm được miếng ăn. Bà ta đã đặt tôi vào tình cảnh như thế đấy. Có lần một giám mục rất đáng kính đã bảo tôi: một bà vợ của anh thì thọt, còn bà vợ kia lại lẹ chân quá, hi hi!
- Này, các vị ơi! - Kanganov sôi lên, - khi ông ta nói dối, mà ông ta thường hay nói dối, thì chỉ là vì ông ta muốn làm cho mọi người vui thú, đấy không phải là điều hèn hạ, không phải là điều hèn hạ, phải không? Các vị ạ, đôi khi tôi yêu mến ông ta. Ông ta rất hèn hạ, nhưng ông ta hèn hạ một cách tự nhiên, phải không? Các vị nghĩ sao? Có người cư xử hèn hạ vì một lẽ gì đó để kiếm lợi, còn ông ta thì tự nhiên thế thôi… Chẳng hạn, các vị tưởng tượng xem, ông ta cứ một mực cho rằng hôm qua ông ta đã tranh cãi suốt dọc đường, rằng trong “Những linh hồn chết” Gogol đã viết về ông ta. Các vị nhớ chứ, ở đấy có địa chủ Maximov bị Nozdriov đánh bằng roi và Nozdriov phải ra tòa: “về tội trong lúc say rượu đã dùng roi xúc phạm đến nhân thân địa chủ Maximov”, các vị nhớ chứ? Thế đấy các vị tưởng tượng xem, ông ta cứ muốn cho rằng đấy chính là ông ta, chính ông ta đã bị quất bằng roi! Có thể nào như thế được? Tritrikov đi tu hành muộn lắm là khoảng đầu những năm hai mươi, như vậy tính năm ra thì không thể có chuyện ấy. Ông ta không thể bị đánh đòn. Không thể được, phải không?
Khó mà tưởng tượng được vì sao Kanganov nổi nóng như vậy, nhưng anh ta nổi nóng thực tâm. Mitia hoàn toàn đứng về phía anh ta.
- Ờ, nếu như ông ta quả có bị đánh thì sao? - Chàng cười rộ la lên.
- Không hẳn là bị đánh, mà là nói thế thôi. - Maximov bỗng chen vào.
- Nói thế thôi là làm sao? Có bị đánh hay không?
- Mấy giờ rồi, panie? - Vẻ chán ngán, pan hút tẩu nói với pan ngồi ghế. Người kia nhún vai đáp lại cả hai đều không có đồng hồ.
- Có gì lại không nói kia chứ? Hãy để cho người khác nói. Các anh buồn chán thì người khác phải im mồm à? - Grusenka lại sồn sồn lên, rõ ràng nàng cố ý gây sự. Mitia dường như lần đầu tiên thoáng nảy ra một ý trong óc. Lần này pan Ba Lan trả lời, cáu kỉnh ra mặt:
- Tôi không chống đối, lỏi có nói gì đâu.
- Thế thì tốt, ông cứ kể tiếp đi, - Grusenka nói to với Maximov. - Sao các người đểu im lặng cả thế.
- Nhưng cũng chẳng có gì mà kể nữa, toàn là chuyện dớ dẩn thôi mà. - Maximov đỡ lời, khoái chí ra mặt và hơi làm điệu chút ít. - Với lại trong truyện của Gogol, tất cả đều mang hình thức ngụ ý, bởi vì tất cả họ tên người đều có ngụ ý: Nozdriov thực ra không phải là Nozdnov mà là Noxov, còn Kuvsinllikov thì hoàn toàn không có gì na ná tên thật, vì tên hắn là Skvomev kia. Còn Fenardi thì đúng là Fenardi, song không phải là người Ý, mà là người Nga. Đó là Petrov, còn mamzen (3) Fenardi thì thật xinh đẹp, đôi chân trong bộ quần nịt cũng đẹp, chiếc váy ngắn lóng lánh, cô nàng xoay mình làm duyên, nhưng không phải bốn tiếng đồng hồ, mà chỉ bốn phút… làm cho mọi người mê tít…
Chú thích:
(3) Mademoiselle (tiếng Pháp), nghĩa là “cô gái”.
- Nhưng vì sao ông bị đánh, vì sao ông bị đánh đòn? - Kanganov gào lên.
- Vì Piron, - Maximov đáp.
- Vì Piron nào? - Mitia kêu lên.
- Piron, nhà văn Pháp nổi tiếng. Lần ấy bọn tôi uống rượu vang cùng một nhóm đông trong quán rượu, giữa kì hội chợ. Họ mới tôi, vào đầu tôi đọc câu thơ trào phúng: “Anh đấy ư. Boalo, trang phục gì mà kì cục vậy?” Còn Boalo trả lời rằng ông ta đi dự hội hóa trang, nghĩa là đi nhà tắm, hi hi, họ cho rằng tôi nói xỏ họ. Thế là tôi liền đọc ngay một bài trào phúng khác, cay độc, mà tất cả những ai có học đều biết rất rõ:
“Anh là Xafo,
Tôi là Faon
Chuyện ấy khỏi phải bàn
Nhưng buồn cho tôi một nỗi
Anh chẳng biết đường ra biển khơi.”
Họ càng bực tức hơn và mắng tôi tàn tệ, và thật là khốn cho tôi, để cứu vãn tình thế, tôi liền kể một chuyện tiếu lâm cho những người có học, về việc Piron không được nhận vào Viện Hàn lâm khoa học Pháp, và để trả miếng, ông đã cho khắc trên bia mộ của mình:
“Nơi đây an nghỉ Piron
Chẳng ra thằng, chẳng ra ông
Cái hàm viện sĩ cũng không.”
Thế là họ dùng roi quật tôi.
- Nhưng vì sao, vì sao kia chứ?
- Vì học thức của tôi. Thiếu gì cớ để người ta có thể đánh một con người. - Maximov kết luận một cách hiền lành và hàm ý dạy đời.
- Thôi đủ rồi đấy, toàn là những chuyện bậy bạ, vậy mà tôi tưởng là sẽ có chuyện gì vui. - Grusenka bỗng cắt ngang. Mitia hoảng sợ và tức khắc thôi cười. Pan cao lớn đứng lên và với vẻ mặt kiêu kì của một người chán ngán vì lọt vào một nhóm người không hợp với mình, bắt đầu đi lại từ góc phòng này sang góc bên kia, hai tay chắp sau lưng.
- Nom anh ta đi đứng mới dài chưa kìa! - Grusenka khinh miệt nhìn y. Mitia lo lắng, hơn nữa chàng nhận thấy pan trên đi văng nhìn chàng với vẻ cáu kỉnh.
- Mời ngài - Mitia lớn tiếng nói, - ta uống với nhau đi! - Chàng mời cả gã Ba Lan kia nữa. - ta chạm cốc đi, các ngài, - chàng đẩy ngay ba cái cốc lại và rót sâm banh.
- Vì nước Ba Lan, panovie, tôi uống vì nước Ba Lan của các ngài, vì đất nước Ba Lan! - Mitia reo lên.
- Tôi rất vui lòng, các quý ngài, ta cùng uống, - pan trên đi văng thốt lên với vẻ quan trọng và thiện ý và cầm lấy cốc của mình.
- Còn ngài kia nữa, ông ấy tên gì nhỉ, Iaxnevelmojnyi, xin mời nâng cốc! - Mitia tíu tít.
- Ngài Vrublevsky. - Pan trên đi văng nhắc.
Pan Vrublevsky ngất ngưởng tới gần bàn, đứng đón lấy cốc rượu của mình.
- Vì nước Ba Lan, mời các ngài! - Mitia nâng cốc, reo lên.
Cả ba cùng uống, Mitia vơ lấy cái chai và lại rót ba cốc nữa.
- Bây giờ thì chúc mừng nước Nga, các ngài, chúng ta kết nghĩa anh em.
- Rót rượu cả cho chúng tôi nữa chứ, - Grusenka nói, - tôi muốn uống mừng nước Nga.
- Cả tôi nữa, - Kanganov nói.
- Tôi cũng muốn… uống mừng nước Nga thân yêu, bà già Nga phúc hậu. - Maximov cười hi hi.
- Tất cả đều uống, tất cả. - Mitia reo lên. - Ông chủ quán, cho một chai nữa!
Người ta đưa lên ba chai còn lại trong số Mitia đem tới.
Mitia rót rượu.
- Chúc mừng nước Nga! - Chàng lại tuyên bố. Tất cả đều uống, trừ hai gã Ba Lan, Grusenka làm một hơi cạn cốc. Hai gã Ba Lan không đụng đến cốc của mình.
- Sao lại thế, thưa ngài, - Mitia kêu lên. - Sao các ông lại thế?
Pan Vrublevsky cầm cốc, nâng lên và nói oang oang như lệnh vỡ:
- Chúc mừng nước Nga trong ranh giới từ năm 1772 về trước!
- Hay lắm! - Gã Ba Lan kia tán thành và cả hai cùng cạn cốc.
- Các người là đồ ngốc! - Mitia buột thốt lên.
- Thưa ngài! - Cả hai gã Ba Lan cùng quát lên, vẻ hăm dọa, nhìn chòng chọc vào Mitia, hung hăng như hai con gà trống. Sôi sục nhất là pan Vrublevsky.
- Lại không được yêu xứ sớ của mình hay sao? - Y la lên.
- Im đi! Đừng cãi nhau! Không được để xảy ra chuyện cãi cọ!
Grusenka quát lên bằng giọng ra lệnh và đặt mạnh chân cốc xuống bàn. Mặt nàng đỏ rực lên, mắt lóe sáng. Cốc rượu vừa uống đã có tác dụng. Mitia khiếp sợ.
- Xin lỗi ngài! Đấy là lỗi tại tôi, tôi sẽ không thế nữa. Pan Vrublevsky, tôi sẽ không thế nữa!…
- Ít ra anh cũng im mồm đi chứ, ngồi xuống, ngốc ơi là ngốc! - Grusenka hằn học mắng chàng.
Mọi người đều ngồi xuống, tất cả đều im lặng, nhìn nhau.
- Thưa các vị duyên do là tại tôi cả! - Mitia lại lên tiếng, vẫn chưa hiểu gì câu la lối của Grusenka. - Mà tại sao chúng ta lại cứ ngồi không thế nhỉ? Ta bày trò giải trí gì… cho vui đi, lại vui vẻ chứ hả?
- Ôi, chao, quả là buồn tẻ khiếp đi được. - Kanganov nói lí nhí, giọng uể oải.
- Ta chơi bài faraon như ban nảy đi… - Maximov bỗng cười hi hi.
- Chơi bài à? Tuyệt lắm! - Mitia tiếp lời. - Miễn là các ngài…
- Puzơno, paniel (Khuya rồi, đưa ông!) - pan ngồi đi văng đáp, vẻ miễn cưỡng.
- Đúng thế. - Pan Vrublevsky hùa theo.
Puzơno? Puzơno nghĩa là gì? - Grusenka hỏi.
- Nghĩa là khuya rồi, panie ạ, khuya rồi, khuya khoắt rồi. - Pan ngồi đi văng giải thích.
- Lúc thì khuya rồi, lúc thì không nên! - Grusenka bực tức, gần như rú lên. - Họ buồn chán thì người khác cũng phải buồn chán. Mitia ạ, trước khi anh đến đây, tất cả bọn họ đều cũng im lặng như thế này và bực tức với tôi…
- Nữ thần của tôi ơi! - Pan ngồi đi văng kêu lên. - Tôi thấy em hờ hứng, vì thế mà tôi buồn. Tôi sẵn lòng. - Câu sau cùng gã nói với Mitia.
- Bắt đầu đi, panie! - Mitia đỡ lời, rút tiền trong túi ra và lấy trong đó hai tờ một trăm đặt lên bàn.
- Tôi muốn ăn của ông thật nhiều pan ạ. Lấy bài đi và ông cầm cái.
- Dùng bộ quân bài của chủ quán, panie ạ. - Pan nhỏ bé nói nhất quyết, vẻ nghiêm trang.
- Đấy là cạch hay nhất - Pan Vrublevsky hùa theo.
- Dùng bài của chủ nhà ư? Được, tôi hiểu, thì dùng bài của chủ nhà, ông đưa ra ý ấy hay đấy, panovie! Đem bài ra đây - Mitia ra lệnh cho chủ quán.
Phần 8 
Chương 7 - P2
Chủ quán mang đến một cỗ bài chưa bóc và trình với Mitia rằng bọn gái ca xướng đã tụ tập ở đây, những người Do Thái chơi đàn ximbalum chắc cũng sắp đến, còn xe chở thực phẩm vẫn chưa tới. Mitia đứng phắt dậy và chạy sang phòng bên để cắt đặt mọi việc. Nhưng chỉ có ba cô gái, lại chưa thấy có Marra.
Chính chàng cũng chưa biết nên thu xếp thế nào và mình chạy ra đó để làm gì: chàng chỉ bảo lấy các thứ kẹo trong hòm ra chia cho các cô. “Đem vodka cho Andrei, vodka cho Andrei!” Chàng vội vã ra lệnh. - “Ta đã làm cho Andrei phật ý!” Đột nhiên chàng đẩy vào vai Maximov đã chạy ra theo chàng.
- Cho tôi năm rúp, - ông ta thì thầm với Mitia. - Tôi cũng muốn thử chơi cầu may một chuyến, hi hi!
- Hay lắm, tuyệt! Cầm lấy mười rúp này! - Chàng lại rút cả tập giấy bạc trong túi ra và tìm tờ mười rúp. - Thua thì lại đến tôi cho thêm…
- Vâng. - Maximov sung sướng thì thầm và chạy vào phòng.
Mitia lập tức trở lại và xin lỗi đã để mọi người phải chờ đợi. Các pan đã ngồi xuống và đã bóc bộ bài. Họ coi bộ niềm nở hơn nhiều gần như dịu dàng. Pan ngồi đi văng châm một tẩu thuốc mới và chuẩn bị xáo bài. Mặt gã thậm chí hơi trịnh trọng.
- Ai về chỗ nấy, xin các ngài! - Pan Vrublenh tuyên bố.
- Không, tôi không chơi nữa, - Kanganov lên tiếng, - ban nãy tôi đã thua họ năm chục rúp rồi.
- Pan ban nãy không may, lần này có thể pan lại gặp may. Pan ngồi đi văng quay về phía anh ta, nói.
- Nhà cái có bao nhiêu? Đặt bao nhiêu? - Mitia bốc lên.
- Thưa ngài, có thể một trăm, có thể hai trăm, tùy ông.
- Một triệu! - Mitia phá lên cười.
- Pan đại úy, có lẽ ông có nghe nói về pan Podvyxotsky chứ?
- Podvyxotsky nào?
- Ở Vacsava, ai đặt bao nhiêu nhà cái cũng chơi. Pan Podvyxotsky đến, nhìn thấy một nghìn zloty, ông ta đặt: bao cả ván (4). Nhà cái thưa: “Panie Podvyxotsky, ông đánh tiền mặt hay na honor? (5)” “Na honor, panie.” - Podvyxotsky nói. “Cũng tốt, panie.” Nhà cái trao bài, Podvyxotsky được một nghìn zloty. “Chờ đã, panie,” - nhà cái nói, rút ngăn kéo đưa ra một triệu, - “ông cầm lấy, panie, Đây là của ông! Nhà cái có một triệu.” “Tôi không hề biết điều đó,” pan Podvyxotsky nói. “Panie Podvyxotsky,” - nhà cái nói, - “ông chơi bằng danh dự, chúng tôi cũng chơi bằng danh dự.” Podvyxotsky lấy một triệu.
Chú thích:
(4) Đặt tiền bằng tổng số vốn của nhà cái.
(5) Bằng danh dự.
- Việc đó không thật. - Kanganov nói.
- Ngài Kanganov, giữa những người tử tế không ai nói năng như vậy!
- Một con bạc Ba Lan mà lại có thể trả ngay một triệu tiền thua bạc dễ dàng như thế! - Mitia kêu lên, nhưng lập tức nghĩ ra. - Xin lỗi ngài, tôi lại có lỗi, người đó sẽ chịu trả, sẽ trả một triệu, na honor, na polsky danh dự! Ông thấy tôi nói tiếng Ba Lan thế nào chứ, ha ha! Đây tôi đặt mười rúp vào con bồi.
- Còn tôi đặt một rúp vào con đầm, đầm cơ, cô nàng xinh đẹp, một panoska, hi hi! - Maximov lại cười hi hi, đẩy con đầm của mình ra phía trước và như thể muốn che khuất nó khỏi tầm mắt mọi người, ông ta dịch sát lại gần bàn và vội vàng làm dấu chữ thập dưới gầm bàn. Mitia được. Maximov cũng trúng.
- Tôi đặt gấp đôi! - Mitia la lên.
- Tôi lại đặt một rúp, tôi chơi cò con thôi, tôi là con người nhỏ bé, chơi cò con thôi. - Maximov làu bàu một cách khoái trá, hết sức vui sướng và được một rúp.
- Thua rồi! - Mitia kêu lên. - Tôi đặt gấp đôi nữa. Lại thua nữa.
- Thôi dừng lại đi. - Kanganov bỗng nói.
- Tôi đặt gấp đôi, gấp đôi. - Mitia quyết chơi lớn, nhưng vẫn thua. Còn Maximov đặt một rúp thì lại ăn.
- Tôi đặt gấp đôi. - Mitia điên tiết gào lên.
- Ông thua hai trăm, thưa ngài. Ông đặt thêm hai trăm nữa chứ? - Pan trên đi văng hỏi.
- Sao, thua hai trăm rồi à? Thế thì thêm hai trăm nữa! Lại gấp đôi nữa! - Mitia rút tiền trong túi ra, toan đặt hai trăm lên con đầm thì Kanganov bỗng đặt tay che con bài.
- Đủ rồi! - Anh ta la lên, giọng lanh lảnh.
- Sao lại thế? - Mitia nhìn chằm chằm vào anh ta.
- Đủ rồi, tôi không muốn! Anh sẽ không chơi nữa.
- Tại sao?
- Thế thôi. Phế cái trò này đi và đi nơi khác, thế đấy. Tôi không cho chơi nữa.
Mitia ngạc nhiên nhìn anh ta.
- Thôi đi Mitia, có lẽ anh ta nói đúng đấy: anh thua đã nhiều lắm rồi. - Grusenka nói, giọng nghe kỳ lạ. Cả hai pan đột nhiên đứng dậy, vẻ hết sức bực tức.
- Ngài đùa đấy à? - Pan nhỏ con thốt lên, nghiêm nghị nhìn Kanganov.
- Sao ngài dám như thế! - Pan Vrublesky cũng quát Kanganov.
- Không được hét lên, không được hét! - Grusenka quát. - Chà chà, những con gà trống tây!
Mitia lần lượt nhìn từng người trong bọn họ; nhưng vẻ mặt Grusenka bỗng có cái gì khiến chàng sửng sốt, liền đó một ý nghĩ mới mẻ nảy ra trong óc chàng, một ý nghĩ mới mẻ kì lạ!
- Pan Agrippina! - Pan nhỏ con lên tiếng, mặt đỏ gay và hăm hở, đúng lúc ấy Mitia đột nhiên tới gần vỗ vai gã.
- Iaxnevelmojnyi, tôi có đôi lời muốn nói.
- Ông cần gì?
- Sang buồng bên kia, qua bên đó, tôi có đôi lời muốn nói với anh, những lời tốt đẹp nhất, anh sẽ hài lòng.
Pan nhỏ con ngạc nhiên nhìn Mitia với vẻ e dè. Tuy vậy gã đồng ý ngay, song với điều kiện nhất thiết là pan Vrublevsky phải đi cùng với gã.
- Vệ sĩ hả? Ừ thì để anh ta cùng sang, được thôi! Thậm chí nhất định phải có anh ta! - Mitia kêu lên. - Cất bước, thưa ông!
- Các anh đi đâu đấy? - Grusenka hỏi, giọng lo ngại.
- Chúng tôi trở lại ngay thôi mà. - Mitia trả lời. Mặt chàng bỗng ngời lên vẻ can đảm, hào hứng bất ngờ, hoàn toàn không phải là vẻ mặt khi chàng bước vào căn phòng này một giờ trước đây Chàng đưa các pan sang căn phòng nhỏ bên phải, không phải căn phòng lớn mà các cô ca xướng đã tụ tập và đã bày bàn, mà là buồng ngủ ở đó có đặt rương hòm lớn nhỏ và hai chiếc giường lớn, lên mỗi giường xếp một chồng gối vải hoa. Trong góc buồng, trên chiếc bàn con bằng gỗ ván mỏng, một ngọn nến cháy sáng. Pan nhỏ con và Mitia ngồi đối diện nhau bên bàn, còn pan Vrublevsky cao to thì đứng bên cạnh họ, hai tay chắp sau lưng. Hai gã Ba Lan coi bộ nghiêm khắc, nhưng tò mò ra mặt.
- Tôi có thể phục vụ gì cho ông đây? - Pan nhỏ con nói thủ thỉ.
- Thế này, ông ạ, tôi sẽ không nhiều lời: đây là tiền của anh, - chàng rút xấp giấy bạc trong túi ra. - Anh muốn có ba ngàn thì hãy cầm lấy và đi đâu thì đi.
Ông này tròn mắt đầy vẻ tò mò, nhìn xoáy vào mặt Mitia.
- Ba nghìn, thưa ngài. - Gã đưa mắt trao đổi với Vrublevsky.
- Ba nghìn, thưa ngài, ba nghìn! Anh nghe đây, tôi thấy anh là người biết suy nghĩ. Hãy cầm lấy ba nghìn và phót đi đâu thì đi, đem theo cả Vrublevsky nữa, anh nghe thấy chứ? Nhưng phải đi ngay bây giờ, tức khắc, mà đi biệt, anh hiểu chứ, đi mãi mãi, ra qua cửa này. Anh còn thứ gì ở đấy: bành tô, áo lông à?
- Tôi sẽ đem ra cho anh. Người ta sẽ đóng ngay cho anh cỗ xe tam mã, thế là do Vitxenia, ngài ưng chứ?
Mitia vững tâm chờ câu trả lời. Chàng không hồ nghi gì cả.
Trên mặt gã Ba Lan thoáng lộ vẻ hết sức kiên quyết.
- Thế tiền đâu, thưa ngài?
- Tiền thì thế này, năm trăm rúp đưa anh ngay để đặt cọc còn hai ngàn năm trăm rúp thì ngày mai, ở thành phố, thề danh dự, sẽ có, dù phải moi dưới lòng đất lên tôi cũng xoay đủ cho anh! - Mitia nói lớn.
Hai gã Ba Lan lại nhìn nhau. Mặt gã hút tẩu trở nên cau có.
- Bảy trăm, bảy trăm chứ không phải năm trăm, trao ngay, liền tay! - Mitia tăng thêm tiền đặt cược, cảm thấy có cái gì chẳng lành. - Sao thế, ngài không tin à? Tôi không thể trao ngay cho anh ba ngàn. Tôi sẽ trao, ngày mai anh đến nhà nàng. Bây giờ tôi không có sẵn ba ngàn ở đây, tiền tôi để ở nhà, trong thành phố kia. - Mitia ấp úng, đâm hoảng, cứ mỗi lời lại thêm mất tinh thần, - thề có trời, tiền giấu ở nhà…
Phút chốc, ý thức tự hào khác thường lộ rõ trên mặt pan nhỏ con:
- Anh còn muốn xin gì tôi nữa không? - Gã hỏi với giọng mỉa mai.
- Nhục nhã! Ôi chao, nhục nhã! - và gã nhổ bọt, pan Vrublevsky cũng nhổ bọt.
- Ngài nhổ bọt đấy à, - Mitia thốt lên, tuyệt vọng, chàng hiểu rằng thế là hỏng hết, - là vì anh tưởng sẽ bòn được ở Grusenka nhiều hơn. Cả hai đều là những con gà thiến, thế đấy!
- Tôi bị lăng nhục hết cấp rồi đó! - Gã Ba Lan nhỏ con bỗng đỏ mặt lên như tôm luộc và cực kì phẫn nộ, như không muốn nghe gì nữa, lao ra khỏi buồng. Vrublevsky ngật ngưỡng theo ra.
Mitia cũng ra, ngượng ngùng và chưng hửng. Chàng sợ Grusenka, chàng linh cảm thấy rằng bây giờ gã Ba Lan sẽ la lối lên. Đúng như thế. Pan vào phòng và đến trước Grusenka, điệu bộ như trên sân khấu.
- Panie Agrippina! Tôi bị lăng nhục hết cấp rồi đó! - Gã kêu lên, nhưng Grusenka bỗng mất hết bình tĩnh, như bị đụng vào chỗ đau đớn nhất.
- Nói bằng tiếng Nga, nói bằng tiếng Nga đi, không chen một tiếng Ba Lan nào! - Nàng quát gã. - Trước đây anh vẫn nói tiếng Nga, chẳng lẽ mới năm năm anh đã quên rồi sao! - Nàng tức giận, mặt đỏ gay lên.
- Panie Agrippina…
- Tôi là Agrippina, tôi là Grusenka, nói bằng tiếng Nga, không thì tôi không nghe anh nữa đâu.
Nghẹn thở vì danh dự tổn thương, bằng thứ tiếng Nga trọ trẹ, gã nói nhanh, đầy vẻ khoa trương.
- Panie Agrafena, tôi đến đây để quên đi quá khứ, và tha thứ cho nó, để quên đi tất cả những gì đã có trước hôm nay…
- Tha thứ là thế nào? Anh đến đây để tha thứ cho tôi ư? - Grusenka ngắt lời và chồm lên.
- Đúng thế! Tôi không nhát gan, tôi rộng lượng. Nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy những người tình của em. Ở căn buồng kia, panie, Mitia đã đưa tôi ba nghìn rúp để tôi rời khỏi đây. Tôi đã nhổ vào mặt anh ta.
- Sao? Anh ấy đưa tiền cho anh để mua tôi à? - Grusenka gào lên như điên. - Có thật thế không, Mitia? Sao anh dám làm như thế? Tôi là đứa bán mình à?
- Các ngài! - Mitia la lên, - nàng trong sạch và chói ngời, tôi chưa bao giờ là người tình của nàng! - Anh nói lại…
- Sao anh dám bênh vực cho tôi trước anh ta, - Grusenka gào lên, - tôi trong sạch không phải vì có đức hạnh, cũng không phải vì sợ Kuzma, mà vì tôi kiêu hãnh với anh ta, cốt là để tôi có quyền bảo anh ta là thằng đểu cáng khi gặp anh ta. Chẳng lẽ anh ta không nhận tiền của anh sao?
- Có chứ, có! - Mitia kêu lên, - nhưng gã muốn lấy luôn đủ cả ba ngàn kia, mà tôi chỉ đưa trước có bảy trăm.
- Thế thì hiểu rồi: anh ta nghe phong thanh tôi có nhiều tiền, vì thế mới về để cưới tôi.
- Panie Agrippina, - gã Ba Lan quát lên, - tôi là một trang nghĩa hiệp, một người quý tộc, chứ không phải là kẻ khốn nạn! Tôi đến để cưới em làm vợ, nhưng tôi thấy một pan mới, không phải như trước, mà một kẻ ngang ngược và vô liêm sỉ.
- Anh hãy cút về cái nơi anh ở trước khi đến đây đi! Tôi sẽ bảo người ta tống cổ anh ra ngay bây giờ và người ta sẽ tống cổ anh ra! - Grusenka điên tiết la lên. - Tôi là một con ngu, vì đã năm năm tôi tự giày vò mình! Nhưng không phải vì anh ta mà tôi tự giày vò mình, tôi tự giày vò vì căm tức! Mà con người này hoàn toàn không phải là anh ta! Anh ta hồi ấy có như thế đâu? Đây là một ông bố của anh ta! Anh đặt làm bộ tóc giả ấy ở đâu vậy? Người ấy là con chim ưng, còn đây là con vịt đực. Người ấy cười và hát cho tôi nghe… Vậy mà tôi đã khóc hết nước mắt trong năm năm ấy, tôi là con ngốc đáng nguyền rủa, tôi là con đàn bà hèn hạ, trơ trẽn.
Nàng vật mình xuống chiếc ghế bành và hai tay bưng mặt.
Lúc ấy, ở phòng bên trái vang lên nàng đồng ca của các cô gái Mokroe rốt cuộc đã đến đông đủ - một vũ khúc hùng tráng.
- Thật là khả ố, - Pan Vrublevsky gào lên.
- Súc sinh hả? Thế vừa rồi anh chơi bài như thế nào? Tôi đưa cho anh cỗ bài, anh ém giấu cỗ bài của tôi đi! Anh lấy cỗ bài có đánh dấu ra chơi! Về tội chơi bài gian như thể tôi có thể cho anh đi Sibir, anh biết đấy, cái trò đó cũng chẳng khác gì làm bạc giả… - ông ta tới gần đi văng, thọc ngón tay vào khe giữa lưng đi văng và chiếc gối, tôi ra cỗ bài còn nguyên gói.
- Đây là cỗ bài của tôi, chưa bóc giấy bao ngoài! - Ông ta giơ lên cho mọi người xem. - Tôi nhìn thấy anh ta nhét cỗ bài của tôi vào khe và tráo cỗ bài của anh ta thay vào. Anh là thằng bịp bợm, chứ không phải là một pan!
- Tôi nhìn thấy pan đó hai lần tráo bài như thế nào - Kanganov lớn tiếng nói.
- Ôi, xấu hổ biết bao, xấu hổ biết bao! - Grusenka kêu lên, đập hai tay vào nhau và thực sự đỏ mặt lên vì xấu hổ. - Trời ơi, con người lại đổ đốn thế ư!
- Tôi cũng đã ngờ như thế. - Mitia thốt lên. Nhưng chàng chưa kịp nói nốt thì Vrublevsky bẽ mặt và nổi khùng, quay về phía Grusenka, giơ nắm đấm đe nàng và quát lên:
- Con đĩ!
Hắn vừa mở miệng là Mitia nhảy xổ tới, hay tay ôm lấy hắn, nhấc bổng lên và trong nháy mắt đã đem hắn sang căn buồng bên phải mà ban nãy chàng vừa dẫn cả hai gã vào.
- Tôi đã đặt hắn xuống sàn nhà! - Chàng cho biết ngay khi vừa trở lại, thở hổn hển vì xúc động, - hắn vùng vẫy ra trò, chắc hắn sẽ không ra khỏi đấy đâu! - Chàng đóng một cánh cửa, để mở cánh kia, kêu lên với pan nhỏ con:
- Iaxnevelmojnyi, ông nên sang bên ấy chăng? Tôi mời ông đấy!
- Thưa ông Dmitri Fedorovich, - Trifon Borisovich kêu lên, - ông đòi lại tiền của ông đi, số tiền ông thua bạc cho chúng nó ấy mà. Như thế có khác gì chúng nó ăn cắp của ông.
- Tôi không muốn lấy lại năm mươi rúp của tôi. - Kanganov bỗng lên tiếng.
- Còn hai trăm của tôi, tôi cũng chẳng thiết! - Mitia kêu lên, - Chẳng thèm lấy lại làm gì, cho hắn được an ủi một chút.
- Hoan hô Mitia! Anh cừ lắm, Mitia! - Grusenka kêu lên, tiếng kêu của nàng thể hiện sự căm giận ghê gớm. Pan nhỏ con giận đỏ mặt tía tai, nhưng vẫn không mất vẻ đường bệ, toan đi ra cửa, nhưng dừng lại và nói với Grusenka.
- Panie, nếu muốn đi với tôi thì ta cùng đi, không thì vĩnh biệt!
Và thở hổn hển vì tức giận và tự ái, gã đi ra cửa, dáng bộ trịnh trọng. Gã là người kiên nghị: sau tất cả những gì đã xảy ra, gã vẫn chưa mất hi vọng là panie sẽ đi theo gã: gã tự đánh giá mình rất cao. Mitia sập cửa lại khi gã vừa ra khỏi.
- Khóa cửa nhốt chúng lại. - Kanganov nói.
Nhưng có tiếng khóa cửa từ phía bên kia, họ tự khóa cửa lại.
- Hay lắm! - Grusenka lại la lên với giọng căm giận, không chút thương xót. - Tuyệt! Đáng kiếp chúng!
Phần 8 
Chương 8 - P1: Cơn mê sảng
Thế là bắt đầu cuộc ăn chơi cuồng loạn, bữa tiệc long trời lở đất. Grusenka là người trước tiên gào lên đòi rượu vang: “Tôi muốn uống, uống thật say như lần trước, anh nhớ không, Mitia, anh có nhớ hồi ấy ở đây chúng ta làm quen với nhau như thế nào chứ!” Mitia như cơn mê sảng và linh cảm thấy “hạnh phúc của mình”. Tuy nhiên Grusenka không ngừng xua đuổi chàng đi chỗ khác: “Anh đi đi, vui chơi đi, bảo họ nhảy nhót đi, vui chơi đi,
“chơi cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời”, như hồi nọ ấy, như hồi nọ ấy!” Nàng tiếp tục la lên. Nàng bị kích động ghê gớm.
Mitia lại bổ đi cắt đặt mọi việc. Bọn con hát tụ tập ở phòng bên. Căn phòng họ vẫn ngồi cho đến lúc này là căn phòng chật chội, ngăn đôi bằng tấm rèm vải hoa, sau tấm rèm cũng là một chiếc giường đồ sộ có nệm lông chim xốp và một chồng gối cao ngất cũng bọc vải hoa. Trong cả bốn cân phòng “sạch sẽ” của nhà này, phòng nào cũng có giường. Grusenka ngồi ngay ở cửa, Mitia đã đem đến đấy cho nàng một chiếc ghế bành: nàng ngồi ở chỗ như “lần ấy”, ngày mà lần đầu tiên họ ăn chơi tung trời ở đây, và từ chỗ này, nàng nhìn người ta hát nữa. Bọn con hát tụ tập ở đây vẫn là những ả lần trước; những người Do Thái mang violon và đàn xita cũng đã đến, cuối cùng cỗ xe chở rượu và thực phẩm mà họ nóng lòng mong đợi đã tới nơi. Mitia tíu tít. Cả những người ngoài - đàn ông và đàn bà - cũng vào phòng xem người ta vui chơi, họ đã đi ngủ, nhưng thức giấc và linh cảm thấy sẽ được thết đãi chưa từng thấy như tháng trước. Mitia chào hỏi và ôm hôn những người quen, nhớ lại những khuôn mặt, mở chai rượu và rót cho bất kì ai. Chỉ có bọn con gái rất hám sâm banh, đàn ông thích rhum và cognac hơn, đặc biệt là rượu pân nóng. Mitia bảo pha sôcôla cho bọn con gái và đặt ba ấm xamôva đun nước sôi suốt đêm để pha trà và có sẵn rượu pân cho bất cứ ai đến chơi; thích thì cứ việc dùng: xin mời. Tóm lại, bắt đầu một sự lộn xộn và lố lăng. Nhưng Mitia như cá gặp nước, và càng lố lăng thì Mitia càng náo nức. Lúc ấy nếu một người nông dân nào xin tiền thì hẳn chàng sẽ rút cả tập giấy bạc ra và phân phát lung tung ngay, không thèm đếm. Vì thế, có lẽ để giữ cho Mitia, chủ quán Trifon Borisovich luôn luôn quanh quẩn bên chàng, đêm hôm ấy hình như ông ta định không ngủ, ông ta uống ít (chỉ làm một cốc nhỏ rượu pân) và chăm chú bảo vệ lợi ích của Mitia theo cách riêng của ông ta. Những lúc cần thiết, ông ta dịu dàng và xun xoe can ngăn chàng, không để chàng vung “xì gà và rượu vang” cho bọn nông dân như “hồi ấy” và cầu trời, nhất là đừng cho họ tiền, ông ta rất bực tức vì bọn con gái uống rượu mùi và ăn kẹo: “Chúng toàn là lũ chấy rận thôi mà, ông Dmitri Fedorovich ạ,” - ông ta nói, - “tôi thì cứ đá cho mỗi đứa một cái mà chúng còn phải coi đó là vinh dự kia, bọn chúng là như thế đấy!” Mitia một lần nữa lại nhớ đến Andrei và bảo mang rượu pân ra cho anh ta. “Ban nãy ta đã làm anh ta mếch lòng,” - chàng lặp lại bằng giọng yếu ớt và cảm kích. Kanganov không muốn uống, và thoạt đầu anh ta rất không ưa bài hợp ca của bọn ca hát, nhưng sau khi uống thêm hai cốc sâm banh nữa, anh ta vui nhộn hẳn lên, đi qua các phòng, cười và gặp ai cũng khen, cái gì cũng khen, cả bài, cả nhạc. Maximov sung sướng và chếnh choáng, trỏ Kanganov mà bảo Mitia: “Anh chàng dễ thương quá, một chú bé tuyệt diệu!” Mitia hân hoan chạy tới hôn Kanganov và Maximov. Ôi, chàng linh cảm thấy biết bao điều; nàng vẫn chưa nói gì đặc biệt với chàng, thậm chí rõ ràng có ý chưa nói vội, chỉ thỉnh thoảng nhìn chàng bằng cặp mắt âu yếm, nhưng cháy bùng. Cuối cùng nàng bỗng nắm chặt tay chàng kéo mạnh về phía mình. Lúc ấy nàng vẫn ngồi trên ghế bành cạnh cửa.
- Lúc mới vào sao anh lại như thế, hả? Lúc ấy, nom anh ghê gớm quá!… Em sợ khiếp lên. Anh mà lại muốn nhường em cho hắn à? Anh muốn nhường thật ư?
- Anh không muốn phá vỡ hạnh phúc của em! - Mitia ngây ngất nói lắp bắp. Nhưng nàng cũng chẳng cần anh trả lời.
- Thôi, anh đi đi… vui chơi đi. Nàng lại xua đuổi anh, - và đừng khóc, em sẽ lại gọi anh.
Chàng chạy đi, nàng lại bắt đầu nghe hát và xem người ta nhảy, mắt vẫn dõi theo Mitia, bất kể chàng ở đâu, nhưng mười lăm phút sau nàng lại gọi, chàng lại chạy tới.
- Bây giờ anh hãy ngồi cạnh em, anh kể cho em nghe anh làm thế nào biết được em đến đây; ai là người đầu tiên nói cho anh biết?
Mitia bắt đầu kể lại hết, kể lộn xộn, rời rạc, nồng nhiệt, nhưng kì lạ, khi kể chàng thường đột nhiên cau mày và ngừng lại.
- Sao anh lại cau có? - Nàng hỏi.
- Không sao… anh để lại ở đấy một người ốm. Giá như người đó bình phục, nếu anh biết người ấy đang bình phục thì anh sẵn lòng hi sinh mười năm sống!
- Thôi mặc người đó, nếu như y ốm đau. Có phải anh muốn ngày mai sẽ dùng súng tự sát phải không, ngốc ơi là ngốc, sao vậy? Em yêu những người rồ dại như anh, - nàng nói thỏ thẻ, lưỡi đã líu lại. - Vì em anh sẽ làm tất cả mọi việc chứ? Sao? Chàng ngốc của em ơi, ngày mai anh muốn tự sát thật ư! Không, khoan đã ngày mai có thể em sẽ nói với anh một lời. Anh muốn em nói ngay hôm nay chứ gì? Không, hôm nay em không muốn… Thôi đi đi, bây giờ thì đi đi, vui chơi đi.
Nhưng, có một lần nàng gọi anh đến, xem ra có vẻ băn khoăn lo lắng.
- Vì sao anh buồn? Em thấy là anh buồn… Không, em thấy chứ. - Nàng nói, nhìn chằm chằm vào mắt chàng bằng cái nhìn sắc sảo. - Tuy anh ôm hôn mấy tay nông dân và gào thét, nhưng em nhìn thấy một điều gì. Không, anh vui chơi đi, em vui, vậy thì anh cứ vui chơi đi… Ở đây em yêu mến một người, anh có đoán được ai không?… Đấy, nhìn kìa: chú bé của em đã ngủ gục, say rồi, anh ta là người chân tình.
Nàng nói về Kanganov: anh ta quả thực đã say, ngủ ngồi ngay trên đi văng. Anh ta ngủ thiếp không phải chỉ vì đã ngấm hơi men, không hiểu vì sao anh ta bỗng cảm thấy rất buồn, hay như anh ta nói, anh ta “chán ngán”. Tiếng hát của các cô ả rốt cuộc làm anh ngấy hết sức, càng nốc rượu vào thì lời ca tiếng hát của họ càng dần dần trở nên tục tĩu, phóng đãng. Cả điệu vũ của họ cũng thế: hai cô ả hóa trang thành gấu, còn Xtepanieda, một cô ả linh lợi, tay cầm gậy, điều khiển họ “làm trò” cho khách xem.
“Vui lên, Maria,” - cô ả quát lên, - “không thì ăn gậy!” Hai con gấu nằm vật xuống sàn, coi rất thô bỉ, khiến cho đám đàn ông đàn bà đủ hạng tụ tập ở đây cười ầm lên. “Mặc cho họ vui, mặc cho họ vui,” - Grusenka nói với giọng bề trên, vẻ mặt hết sức vui sướng. - “Có được một ngày như thế này thì sao không vui lên nhỉ?” Kanganov thì coi bộ như bị thứ gì nhơ bẩn vấy vào người.
“Nhơ nhuốc quá tất cả những thứ tiện dân ấy,” - anh ta nói, bỏ đi nơi khác, - “đấy là những trò chơi xuân của họ, khi họ thức suốt đêm hè chờ mặt trời mọc!” Nhưng anh ta đặc biệt ghét một bài hát “mới” có đoạn điệp khúc khoái hoạt theo điệu vũ về một gã quý tộc đi thử các cô gái:
“Ông quý tộc lựa lời ướm thử
Xem các nàng có thích ông không?
Nhưng các cô gái thấy rằng không thể yêu ông quý tộc:
Lấy ông quý tộc chỉ tổ ăn đòn
Mà em chẳng có yêu ông quý tộc
Rồi một chàng Zigan đi qua, và cũng ướm thử:
Gá Zigan liều lời ướm thử
Xem các nàng có khoái gã không?
Nhưng không thể yêu gã Zigan được:
Gã Zigan rồi sẽ ăn cắp
Còn tôi đây khốn khổ trăm bề
Rất nhiều người đi qua đều ướm hỏi, kể cả một anh lính:
Anh lính cũng lựa lời ướm hỏi
Xem các nàng có thích anh không.
Nhưng anh lính cũng bị khinh đứt:
Anh lính còng lưng đeo ba lô
Để cho em lẽo đẽo theo sau…”
Tiếp đó là câu hết sức tục tĩu, hát lên công khai, khiến công chúng khoái trá cuồng nhiệt. “Cuối cùng đến lái buôn:
Gã lái buôn lựa lời ướm hỏi
Xem các nàng có thích anh không?
Thì ra các nàng rất thích lái buôn, bởi vì rằng:
Lái buôn một vốn mười lời
Em sẽ sống như bà hoảng trong cung điện.”
Kanganov nổi khùng:
- Bài hát cũ rích rồi, - anh ta nói to, - mà ai làm ra bài ấy! Chỉ còn thiếu tay chủ đường sắt hay một tên Do Thái đi qua và ướm hỏi các nàng nữa thôi: chắc hẳn họ sẽ vơ được tất cả các ả. - Gần như tức tối, anh ta lập tức tuyên bố là anh ta chán ngấy, anh ta ngồi xuống đi văng và ngủ liền. Khuôn mặt tuấn tú của anh ta hơi nhợt nhạt và ngả lên gối đi văng.
- Xem kìa, anh ta xinh trai đấy chứ, - Grusenka nói, kéo Mitia tới chỗ Kanganov, - ban nãy em đã chải tóc cho anh ta, tóc anh ta mềm như lanh và dày…
Nàng cúi xuống gần anh ta, âu yếm hôn lên trán anh ta.
Kanganov thoáng mở mắt, nhìn nàng, nhỏm dậy và hỏi, vẻ hết sức lo lắng:
- Maximov đâu?
- A, ra đó là người mà anh ta cần, - Grusenka bật cười, - hãy ngồi với tôi một lát đã, Mitia, anh chạy đi gọi Maximov cho anh ta đi.
Thì ra Maximov không rời khỏi mấy cô gái, chỉ thỉnh thoảng chạy đi lấy cho mình cốc rượu mùi, ông ta đã uống hai cốc sôcôla. Mặt ông ta đỏ lựng, mũi tía lên, mắt ươn ướt, khoái trá.
Ông ta chạy tới và tuyên bố rằng bây giờ ông ta muốn nhảy điệu “chiếc thùng tắm ngồi” theo “một điệu nhạc.”
- Hồi tôi còn nhỏ tuổi, người ta đã dạy cho tôi tất cả những điệu vũ thượng lưu cao quý ấy…
- Anh đi đi, đi với ông ấy đi, Mitia, em sẽ ngồi đây xem ông ấy nhảy thế nào.
- Còn tôi, tôi cũng đi xem, - Kanganov kêu lên, khước từ đề nghị của Grusenka một cách hết sức ngây thơ. Mọi người đều đi xem. Maximov quả thực nhảy điệu vũ của mình, nhưng ngoài Mitia, chẳng có ai thực sự mê thích. Điệu này chỉ có động tác nhảy tâng tâng lên, chân ngoẹo sang bên, đế giày hếch lên phía trên, mỗi lần nhảy Maximov lại vỗ tay vào để giày. Kanganov chẳng thích chút nào, còn Mitia thậm chí hôn kẻ nhảy điệu vũ.
- Cảm ơn, ông mệt rồi, có lẽ ông muốn món gì ở đây, kẹo nhé? Hay xì gà?
- Một điếu thuốc lá.
- Ông muốn uống chăng?
- Tôi thích rượu mùi… Ở đây có kẹo sôcôla không? Trên bàn có vô số thứ kia, hãy chọn thứ gì ông thích, ông anh thân mến của tôi ạ.
- Ồ không, tôi thích món gì có vang… loại cho người già ấy mà… Hi hi!
- Không, ông anh ạ, không có những thứ đặc biệt như thế.
- Này ông ơi, - lão già bỗng ghé sát tận tai Mitia, - con bé Manuska kia kìa, hi hi, làm thế nào cho tôi bắt quen với nó, nhờ lòng tốt của ông…
- Lại còn muốn món đó kia nữa! Không, ông anh ạ, ông nói nhảm rồi đấy.
- Tôi chẳng làm hại ai cả. - Maximov lầm bầm, giọng ảo não.
- Thôi được, được. Ông anh ạ, ở đây người ta chỉ hát múa thôi, nhưng thôi, đồ quỷ! Đợi đấy… Hãy chén đi đã, ăn, uống, vui chơi đi. Có cần tiền không?
- Sau này có khi cần. - Maximov mỉm cười.
- Tốt, tốt…
Đầu Mitia bừng bừng như lửa đốt. Chàng ra phòng ngoài, lên hàng bao lơn bằng gỗ bao quanh nhà ở bên trong, phía sân, một phần của toàn bộ kiến trúc. Không khí tươi mát làm chàng phấn chấn lên. Chàng đứng một mình trong bóng tối, và bỗng hai tay ôm đầu. Những ý nghĩ tản mát của chàng bỗng liên kết lại, mọi cảm giác hòa làm một, và tất cả tạo nên ánh sáng. Thứ ánh sáng đáng sợ, khủng khiếp! “Nếu tự tay tọng viên đạn vào đầu thì không làm lúc này còn lúc nào nữa?” - Ý nghĩ thoáng qua trong óc chàng. - “Đi lấy khẩu súng lục và chấm dứt đời mình ngay trong cái xó tăm tối bẩn thỉu này.” Chàng lưỡng lự một phút. Lúc trước, khi phóng xe như bay đến đây, chàng bỏ lại sau lưng mình sự nhục nhã, chàng đã đánh cắp tiền của người khác, và máu đã đổ ra, máu… Nhưng lúc ấy chàng nhẹ nhõm hơn, ôi, nhẹ nhõm hơn! Bởi vì khi ấy thế là hết cả rồi: chàng đã mất nàng, đã chịu để cho kẻ khác phỗng mất nàng, đối với chàng, nàng đã chết, đã biến mất, ôi, khi ấy đối với chàng bản án nhẹ nhàng hơn, ít ra chàng cũng cho rằng không tránh khỏi, cần thiết bởi thế chàng còn lưu lại cõi đời này làm gì nữa? Nhưng bây giờ! Bây giờ đâu có như lúc ấy! Bây giờ ít ra cũng đã loại hẳn được một bóng ma, một con ngáo ộp: người “trước kia” của nàng, kẻ không thể gạt bỏ được, kẻ có vai trò định mệnh ấy đã biến mất, không để lại dấu vết gì. Con ma đáng sợ ấy đột nhiên đã biến thành một cái gì nhỏ mọn, hết sức buồn cười; chàng đã tự tay đem nó vào buồng ngủ và nhốt nó ở đấy. Nó không bao giờ trở lại được nữa. Nàng xấu hổ, bây giờ nhìn mắt nàng, chàng thấy rõ nàng yêu ai. Chính bây giờ mới đáng sống… vậy mà không thể được, không thể được, ôi, ác nghiệt thay! “Lạy Chúa, xin Chúa làm cho kẻ bị đánh gục dưới chân tường sống lại! Xin Chúa tránh cho con cái chán đời ghê sợ ấy. Lạy Chúa, Ngài vẫn làm phép lạ cho những kẻ tội lỗi như con đấy thôi! Ô, nếu như lão già còn sống thì sao nhỉ? Ôi, lúc ấy ta sẽ xóa sạch mọi vết nhục, ta sẽ trả lại số tiền đã đánh cắp, cho dù phải moi dưới lòng đất lên… Sẽ không còn dấu vết ô nhục nào, chỉ riêng trong tim ta là nó còn mãi mãi thôi! Nhưng mà không, không, ôi những mơ ước đớn hèn không thể nào thực hiện được! Ôi, thật là ác nghiệt!”
Nhưng, dù sao, dường như vẫn có một tia hi vọng lóe lên với chàng trong bóng tối. Chàng lao bổ vào phòng, đến với nàng, lại đến với nàng, bà hoàng của chàng suốt đời! “Một giờ, một phút tình yêu của nàng lại chẳng đáng giá tất cả cuộc đời còn lại sao, dầu là tình yêu trong nỗi đau khổ quằn quại nhục nhã?!” Câu hỏi dữ dội ấy vò xé trái tim chàng. “Đến với nàng, với riêng nàng thôi, nhìn thấy nàng, nghe nàng nói và không nghĩ ngợi gì cả, quên hết mọi sự trên đời, cho dù chỉ đêm nay thôi, giờ này thôi, một khoảnh khắc thôi!” Ở cửa phòng ngoài trên bao lơn, chàng chạm trán với chủ quán Trifon Borisovich. Chàng cảm thấy ông ta có vẻ ảo não, lo ngại, hình như ông ta tìm chàng.
Kìa, ông Trifon Borisovich, ông tìm tôi phải không?
- Không, không phải tìm ông. - Chủ quán đột nhiên có vẻ sững sờ, - tôi tìm ông làm gì? Nhưng nãy rồi… Ông ở đâu?
- Sao nom ông rầu ra thế. Bực tức gì chăng? Chờ một chút. Ông sắp được đi ngủ rồi… Mấy giờ rồi!
- Gần ba giờ! Có khi hơn ba giờ rồi cũng nên.
- Chúng tôi sắp xong rồi, sắp xong rồi.
- Dạ, không sao. Muốn bao lâu cũng được…
“Hắn làm sao thế nhỉ?” - Mitia thoáng nghĩ và chạy vào phòng, nơi các cô gái đang vũ. Nhưng không có nàng ở đấy. Trong phòng xanh cũng không có nàng; chỉ có một mình Kanganov ngủ gật trên đi văng. Mitia nhìn ra sau rèm: nàng ở đấy. Nàng ngồi trong góc phòng, trên chiếc rương, cúi gập mình, hai tay và đầu đặt trên chiếc giường cạnh đấy, khóc một cách chua xót, cố hết sức cầm lòng và nén tiếng khóc để người ta khỏi nghe thấy. Thấy Mitia, nàng vẫy chàng lại và khi chàng chạy tới nàng nắm chặt lấy tay chàng.
- Anh Mitia, anh Mitia, trước đây em yêu anh ta! - Nàng thì thầm với chàng, - yêu hết lòng, suốt năm năm trời, suốt thời gian ấy! Em yêu anh ta hay chỉ yêu nỗi uất hận của mình? Không, yêu anh ta! Ôi chao, yêu anh ta. Em nói rằng em chỉ yêu nỗi uất hận của mình chứ không yêu anh ta là nói dối đấy! Anh Mitia ạ, hồi ấy em mới mười bảy tuổi, mà anh ta đối với em rất mực dịu dàng, vui tính, còn hát cho em nghe nữa… Hay hồi ấy em trẻ dại ngu ngốc nên mới nhìn nhận anh ta như thế… Còn bây giờ, trời ơi, đây không còn là con người ấy nữa, hoàn toàn không phải. Nhìn mặt, em không nhận ra anh ta. Khi ngồi xe của Timofei đến đây, suốt dọc đường em cứ nghĩ mãi: “Mình sẽ gặp anh ta như thế nào, sẽ nói gì, mình và anh ta sẽ nhìn nhau như thế nào?…” Tâm hồn em chết lặng đi, vậy mà anh ta như hắt cả chậu nước bẩn vào em. Anh ta nói như thầy giáo: câu nào cũng rất đỗi thông thái, quan trọng, anh ta đón gặp em với thái độ khệnh khạng đến nỗi em đâm ra luống cuống. Không chen vào được lời nào nữa. Mới đầu em tưởng anh ta ngượng với gã Ba Lan cao kều nọ. Em ngồi nhìn họ và nghĩ: tại sao bây giờ mình không còn biết nói gì, với anh ta nhỉ? Anh ạ, ấy là vợ anh ta đã làm hỏng anh ta, vì người đàn bà ấy mà anh ta bỏ em… Chính ả đã làm cho anh ta khác tính khác nết đi. Anh Mitia, xấu hổ biết bao! Ôi, em xấu hổ, anh Mitia ạ, xấu hổ, ôi, em xấu hổ suốt đời! Đáng nguyền rủa thay năm năm ấy, thật đáng nguyền rủa! - Và nàng lại nước mắt lã chã, nhưng không buông tay Mitia ra, vẫn nắm chặt tay anh.
- Anh Mitia thân yêu, khoan đã, đừng đi, em có một lời muốn nói với anh, - nàng thì thầm và bỗng ngước mặt lên với chàng. - Này anh, anh hãy nói cho em biết em yêu ai? Ở đây em yêu một người. Người nào? Anh nói cho em biết đi. - Khuôn mặc húp lên vì khóc của nàng ngời lên một nụ cười, cặp mắt long lanh trong bóng tối lờ mờ. - Lúc ấy người đó vào đây như một con chim ưng, khiến tim em rơi rụng. “Ngốc ơi là ngốc, người cô yêu đấy chứ ai,” - trái tim em lập tức thì thầm bảo em. Anh vào là tất cả được rọi sáng. “Nhưng anh ấy sợ cái gì kia chứ?” - em nghĩ. Mà đúng là anh sợ, sợ lắm, không nói được nữa kia. Không phải anh ấy sợ bọn họ, em nghĩ, anh ấy có biết sợ ai kia chứ? Đấy là anh ấy sợ mình, em nghĩ, chỉ sợ có em thôi. Thì con Fenia đã kể với chàng ngốc của em rằng em đã hét qua cửa sổ với Aliosa rằng em đã yêu Mitenka trong một giờ ngắn ngủi và bây giờ em đi yêu… một người khác, Mitia, Mitia, em thật ngốc nghếch, làm sao em có thể nghĩ rằng sau khi đã yêu anh mà em còn yêu một người khác! Anh tha thứ cho em chứ, Mitia? Anh có tha thứ cho em không? Anh yêu em chứ? Có yêu không?
Phần 8
Chương 8 - P.2
Nàng bật dậy và hai tay giữ lấy vai chàng. Mitia hân hoan đến nghẹn lời, nhìn vào mắt nàng, mặt nàng, nhìn nụ cười của nàng, và bỗng ôm ghì lấy nàng, hôn lấy hôn để.
- Anh tha thứ cho em đã làm khổ anh chứ? Vì uất giận mà em hành hạ tất cả. Vì uất hận mà em cố tình làm cho ông già nhà anh phát điên… Anh có nhớ một lần anh uống rượu ở nhà em và đập vỡ cái cốc không? Em nhớ mãi lần ấy và hôm nay em cũng đập vỡ chiếc cốc, em uống vì “trái tim hèn hạ của mình”. Mitia, con chim ưng của em, sao anh không hôn em đi? Anh hôn một cái rồi lùi ra, nhìn và nghe… Nghe em làm gì! Hôn em đi, hôn thắm thiết vào, thế! Yêu thì phải yêu như thế! Bây giờ em sẽ là nô lệ của anh, nô lệ suốt đời! Làm nô lệ thật là vui thú!… Hôn đi! Đánh em đi, hành hạ em đi, muốn làm gì em thì làm… Ôi, đúng là cần phải hành hạ em. Dừng lại! Khoan đã, để sau, em không muốn như thế… - Nàng bỗng đẩy chàng ra. - Anh đi đi, Mitia, bây giờ em sẽ đi uống rượu, em muốn say, trong cơn say em sẽ nhảy múa, em muốn thế, em muốn thế!
Nàng vùng ra khỏi tay chàng sau tấm rèm. Mitia theo ra, như người say. “Bây giờ dù có xảy ra chuyện gì cũng mặc, mặc kệ, ta sẵn lòng đánh đổi cả thế giới lấy một phút này,” - chàng thoáng nghĩ. Grusenka quả thật đã làm một hơi cạn cốc sâm banh và rất say. Nàng ngồi xuống chiếc ghế bành, vẫn ở chỗ trước kia, miệng mỉm cười ngây ngất. Hai má nàng đỏ lựng, môi hừng hực, đôi mắt long lanh mờ đi, cái nhìn say đắm của nàng đầy sức cuốn hút. Ngay cả Kanganov cũng cảm thấy có cái gì nhói buốt trong tim, anh ta đến gần nàng.
- Anh có biết ban nãy tôi hôn anh, lúc anh đang ngủ không? - Nàng ấp úng nói với anh ta. - Bây giờ tôi say, thế đấy… Anh không say ư? Còn anh Mitia không uống gì ư? Sao anh không uống, anh Mitia, em uống, vậy mà anh không uống…
- Anh say! Chàng uống cũng say… say em, còn bây giờ anh muốn say vì rượu.
Chàng uống thêm cốc nữa và, điều này chính chàng cảm thấy là lạ lùng, chỉ một cốc cuối cùng ấy làm cho chàng say, chàng say đột ngột, còn trước đó chàng vẫn tỉnh, chàng nhớ mà. Từ lúc đó tất cả quay cuồng xung quanh chàng, như trong cơn mê sảng. Chàng đi lại, cười, nói chuyện với tất cả mọi người, dường như không biết mình làm gì. Chỉ có một cảm giác bất động và cháy bỏng chốc chốc lại tác động đến chàng “như hòn than bỏng trong tâm hồn” - sau này chàng nhớ lại.
Chàng tới gần nàng, ngồi xuống cạnh nàng, nhìn nàng, nghe nàng… Nàng trở nên lắm lời ghê gớm, gọi tất cả mọi người đến với mình, đột nhiên gọi một cô ca xướng lại, ôm hôn cô ta rồi để cô ta đi, hay có khi nàng làm dấu thánh cho một cô. Chỉ chút nữa là nàng có thể khóc. “Ông già bé nhỏ” làm nàng rất vui, nàng gọi Maximov như vậy. Chốc chốc ông ta lại chạy tới hôn ngôn say nàng, “hôn từng ngón một và cuối cùng ông ta nhảy một điệu theo một bài hát cổ mà chính ông ta hát lên. Đặc biệt ông ta hăm hở nhảy theo điệp khúc:
“Lợn ủn ỉn, ủn ỉn
Bê be be, be be
Vịt càng cạc, càng cạc
Ngỗng kíu kíu, kíu kíu
Gà mái tây tung tăng dạo chơi
Tiu ru ru, ru ru, ả quạc mồm la lối
Ai ai, quạc mồm la lối!”
- Cho ông ta cái gì đi, anh Mitia! - Grusenka nói, - tặng ông ta thứ gì, ông ta nghèo. Ôi, những người nghèo, những người khốn khổ!… Anh Mitia ạ, em sẽ vào nhà tu. Không, nói cho đúng ra, đến một lúc nào đó em sẽ đi tu. Hôm nay Aliosa đã nói với em những lời mà em nhớ suốt đời… Phải… Hôm nay chúng ta cứ nhảy múa đi đã. Ngày mai ta sẽ đi tu, còn hôm nay ta cứ nhảy múa. Tôi muốn nghịch ngợm, các bạn ơi, thì có sao đâu, Chúa sẽ tha thứ. Nếu tôi là Chúa Trời, tôi sẽ tha thứ cho hết thảy mọi người: “Hỡi những người tội lỗi dễ thương của tôi ơi, từ hôm nay ta sẽ tha thứ cho tất cả.” Còn tôi sẽ đi cầu xin tha thứ: “Các người ơi, hãy tha thứ cho ả ngu ngốc này, thế đấy.” Tôi là con thú, vậy đấy. Nhưng tôi muốn cầu nguyện! Tôi đã chìa ra một nhánh hành. Một kẻ ác độc như tôi mà cũng muốn cầu nguyện! Anh Mitia, để cho họ nhảy múa, đừng ngăn cản. Mọi người trên thế gian này đều tốt, không trừ một ai! Sống trên đời thật tốt đẹp. Chúng ta xấu xa, nhưng sống trên đời thật tốt đẹp. Chúng ta vừa xấu vừa tốt vừa xấu vừa tốt Không, các bạn nói đi, tôi sẽ hỏi các bạn, tất cả hãy đến đây cho tôi hỏi; các bạn nói cho tôi biết điều này: tại sao tôi tốt như thế? - Grusenka nói rủ rỉ, mỗi lúc một say hơn và cuối cùng nàng tuyên bố thẳng rằng bây giờ chính nàng muốn nhảy múa. Nàng rời ghế đứng lên và loạng choạng.
- Anh Mitia, đừng cho em uống rượu nữa, em có đòi cũng đừng cho. Rượu không đem lại sự yên ổn. Tất cả quay cuồng, cả bếp lò, tất cả quay cuồng. Em muốn nhảy. Cứ để mọi người nhìn xem em nhảy như thế nào… em nhảy giỏi và đẹp lắm…
Đấy là ý định thực sự: nàng rút chiếc khăn tay trắng vải nõn ra, cầm góc chiếc khăn để vung vẩy khi múa. Mitia lăng xăng, các cô gái im lặng, chuẩn bị đồng thanh hát vang bài vũ khúc khi có cái vẫy tay đầu tiên. Được biết chính Grusenka muốn nhảy, Maximov khoái trá kêu ré lên, đến trước mặt nàng vừa hát vừa nhảy cẫng lên:
“Đôi chân thon nhỏ, đôi lườn núng nính
Cái đuôi bé xíu cong vút cong.”
Nhưng Grusenka vẫy khăn tay xua lão đi:
- Suỵt! Anh Mitia, tại sao họ không đến? Bảo tất cả mọi người đến… xem. Gọi cả những người bị nhốt nữa… Vì sao anh nhốt họ? Hãy bảo họ rằng em sẽ múa, họ ra mà xem em múa.
Mitia, với dáng đi của người say rượu, đến chỗ cánh cửa khác, đến cửa gọi các pan.
- Này các anh… Podvyxotsky! Ra đi, cô ấy muốn nhảy múa, cô ấy gọi các anh.
- Đồ đểu! - Một trong hai gã thét lên đáp lại.
- Mày còn là thằng đểu hơn kia! Mày là thứ người rơm bé mọn.
- Thế đấy! Anh đừng có nhạo báng nước Ba Lan. - Kanganov nói bằng giọng dạy đời, anh ta cũng đã quá say.
- Im đi, chú bé! Tôi bảo nó là thằng đểu thì không phải bảo cả nước Ba Lan là đểu giả. Một thằng đểu chưa làm nên nước Ba Lan. Im đi chú bé kháu khỉnh, ăn kẹo đi.
- Chà, họ kì quá! Cứ như thể họ không phải là người. Vì sao họ không muốn dàn hoà? - Grusenka nói và bước ra nhảy múa.
Ban đồng ca hát vang lừng: “A, ngôi nhà của tôi, ngôi nhà của tôi.” Grusenka ngửa đầu ra sau, môi hé mở, mỉm cười, vẫy khăn tay, và bỗng nhiên lặng người đi tại chỗ, đứng giữa phòng, vẻ ngơ ngác.
- Tôi yếu sức… - Nàng nói, giọng suy kiệt. - Xin lỗi, tôi yếu sức tôi không thể… Tôi có lỗi…
Nàng cúi chào ban đồng ca, rồi lần lượt cúi chào bốn phía:
- Tôi có lỗi… Xin thứ lỗi cho tôi…
- Tiểu thư hơi say, tiểu thư xinh đẹp hơi say. - Tiếng nói lao xao.
- Nàng quá chén. - Maximov cười hì hì, giải thích với các cô gái.
- Anh Mitia, đưa em đi… mang em đi, anh Mitia. - Grusenka thốt lên, không còn chút sức lực nào nữa.
Mitia lao bổ tới, bế nàng lên và mang báu vật của mình vào sau tấm rèm.
“Bây giờ thi ta rút đi thôi.” - Kanganov nghĩ và ra khỏi căn phòng màu xanh, khép cả hai cánh cửa lại. Nhưng trong phòng lớn cuộc ăn nhậu vẫn tiếp tục và càng náo nhiệt hơn. Mitia đặt Grusenka xuống giường và hôn như gắn vào môi nàng.
- Đừng động đến em… - Nàng thỏ thẻ nói bằng giọng van vỉ, - đừng động đến em, lúc này em chưa phải là của anh… Em đã nói rằng em là của anh, nhưng anh đừng động đến em… hãy nương nhẹ… Chúng nó ở đây, chúng nó ở gần đây thì không thể được. Hắn ở đây. Ở đây thì thật tởm…
- Anh vâng lời em! Anh không hề có ý nghĩ… anh tôn sùng em!… - Mitia lắp bắp. - Phải, ở đây thì thật tởm. Ôi, thật đáng khinh! - Và vẫn không buông nàng khỏi vòng tay, chàng quỳ xuống cạnh giường.
- Em biết, anh tuy hung hăng, nhưng anh là con người cao quý, - Grusenka thốt lên một cách khó nhọc. - Phải làm sao cho lương thiện… từ nay trở đi sẽ sống lương thiện, chúng ta sẽ là những người lương thiện, chúng ta sẽ là những người tốt bụng, không phải là con thú, mà là người tốt bụng… Hãy đưa em đi nơi khác, đi thật xa, anh nghe thấy không… Em không muốn ở đây mà muốn đi xa, đi thật xa…
- Ờ phải, phải, nhất định rồi! - Mitia ôm ghì lấy nàng. - Anh sẽ đưa em đi, chúng ta sẽ bay đi biệt tích… ôi, lúc này anh sẵn sàng đổi cả cuộc đời lấy một năm thôi, miễn là biết rõ về đám máu ấy.
- Máu nào? - Grusenka băn khoăn lặp lại.
- Chẳng có gì đâu! - Mitia nghiến răng. - Grusenka, em muốn phải sống cho lương thiện, vậy mà anh là tên ăn cắp. Anh đã ăn cắp tiền của Katia… Nhục nhã, nhục nhã!
- Tiền của Katia ư? Của cô tiểu thư ấy ư? Không, anh không ăn cắp. Trả lại cho ả, lấy tiền của em mà trả… Sao anh lại hét lên! Bây giờ cái gì của em là của anh. Chúng ta cần gì tiền? Tiền thì rồi chúng ta cũng sẽ ăn chơi phung phí hết… Ta phải có thứ tiền mà ta sẽ phung phí kia. Tốt hơn hết là anh và em sẽ đi cày ruộng. Em muốn làm đất bằng chính hai bàn tay này. Cần lao động, anh nghe thấy chứ. Aliosa bảo thế. Em sẽ không phải là người tình của anh, em sẽ trung thành với anh, em sẽ là nô lệ của anh, em sẽ làm lụng để phục dịch anh. Chúng ta sẽ đến gặp cô tiểu thư kia, sẽ cúi đầu xin cô ta tha lỗi, rồi sẽ ra đi. Cô ta mà không tha thứ thì chúng ta cũng cứ đi. Anh sẽ mang tiền trả cô ta, và anh hãy yêu em… Chứ không yêu cô ta. Đừng yêu cô ta nữa. Anh mà yêu cô ta thì em sẽ bóp chết cô ta… Em sẽ dùng kim chọc lòi hai mắt cô ta ra…
- Anh yêu em, chỉ yêu một mình em thôi, dù ở Sibir anh cũng yêu…
- Đi Sibir làm gì? Mà thôi, nếu anh muốn thì Sibir cũng được đằng nào cũng thế… Chúng ta sẽ làm việc… Ở Sibir có tuyết. Em thích ngồi xe chạy trên tuyết, và nghe tiếng nhạc ngựa… Anh nghe thấy chứ, có tiếng nhạc ngựa rung lên đấy… tiếng nhạc ngựa ở đâu vậy nhỉ? Có ai đi xe tới, tiếng nhạc ngựa im rồi.
Kiệt lực, nàng nhắm mắt lại và đột nhiên dường như ngủ thiếp đi một lát. Quả thật có tiếng nhạc ngựa ở nơi nào xa xa, rồi bỗng ngưng bặt. Mitia cúi đầu xuống ngực nàng. Chàng không để ý thấy tiếng nhạc ngựa đã ngừng, cũng không để ý thấy tiếng hát cũng ngừng đột ngột và tiếng hát cùng tiếng ồn ào say rượu cũng lặng hắn, cả ngôi nhà bất thần im phăng phắc.
Grusenka mở mắt.
- Cái gì thế, em ngủ à? Đúng… tiếng nhạc ngựa… em ngủ và mơ thấy em ở trong chiếc xe trượt tuyết… nhạc ngựa vang rền, còn em thiu thiu ngủ. Em ở trên xe với người yêu, hình như em đi với anh. Đi thật xa… Em ôm hôn anh, áp sát vào anh, hình như em lạnh, còn tuyết sáng lóa… Anh ạ, khi ban đêm tuyết lấp lánh và có ánh trăng soi thì em tưởng như mình không còn ở trên mặt đất… Em thức giấc, còn tình yêu ở bên em, sung sướng làm sao!…
- Ở bên em, - Mitia nói lí nhí, hôn áo, ngực, tay nàng. Bỗng nhiên chàng cảm thấy có điều gì lạ lùng: chàng có cảm giác nàng nhìn thẳng về phía trước, nhưng không nhìn chàng, không nhìn vào mặt chàng, mà nhìn qua đầu chàng, cái nhìn chăm chú và đờ đẫn kì lạ. Mặt nàng bỗng lộ vẻ ngạc nhiên, gần như sợ hãi.
- Anh Mitia, có ai ở đằng kia nhìn chúng ta đấy? - Nàng bỗng thì thầm. Mitia quay lại và thấy quả thực có người nào vén rèm và hình như rình họ. Mà đâu như không phải một người. Chàng bật dậy và bước nhanh tới chỗ kẻ đang nhìn.
- Lại đây, xin mời lại đây gặp chúng tôi. - Tiếng người nào nói không to, nhưng cương quyết, dứt khoát, Mitia từ sau rèm bước ra, đứng không nhúc nhích. Cả căn phòng đầy người, nhưng không phải những người ban nãy, mà là những người khác. Chàng thấy lạnh sống lưng và giật mình.
Thoáng chốc chàng nhận ra ngay tất cả những người ấy. Kia là, một ông già cao, mập, mặc bành tô và đội mũ có huy hiệu - đấy là cảnh sát trưởng Mikhail Makarovich. Còn cái người ốm “ốm ho lao” y phục sang trọng, chái chuốt, “bao giờ ủng cũng bóng loáng”, kia là tay phó biện lí. “Ông ta có chiếc đồng hồ trị giá bốn trăm rúp, đã từng cho ta xem.” Còn cái người khá trẻ, bé nhỏ đeo kính, Mitia chỉ không nhớ họ ông ta, nhưng chàng biết ông ta, đã nhìn thấy ông ta: đấy là viên dự thẩm của tòa án, “tốt nghiệp trường luật”, mới về đây. Còn kia là viên cánh sát khu vực, Mavriki Mavrikievich, người này chàng biết, chỗ quen biết với chàng. Thế còn những người mang thẻ số kia, họ đến đây làm gì? Còn hai người nông dân nào nữa… Còn kia, ở cửa là Kanganov và Trifon Borisovich…
- Thưa các ông… Chuyện gì thế, các ông? - Mitia thốt lên, dường như mất tự chủ, dường như ngoài ý muốn, chàng kêu to gào toáng lên:
- Tôi h…i…ể.…u!
Người trẻ tuổi đeo kính bỗng đến ra phía trước, tới gần Mitia nói bằng giọng uy nghi, nhưng tuồng như hơi hấp tấp:
- Chúng ta có việc với ông… tóm lại, tôi yêu cầu ông đến đây, đến đây, đến đi văng này… Có việc khẩn cấp cần cho ông biết.
- Ông già! - Mitia kêu lên trong trạng thái điên loạn. - Ông già và máu ông ta!… Tôi h-i-ể-u!
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Mềm nhũn, chàng ngã ngồi xuống chiếc ghế cạnh đấy.
- Mi hiểu à? Mi đã hiểu! Thằng giết bố, con quái vật, máu ông bố già của mi đang gào thét đòi trừng phạt mi! - Lão cảnh sát trưởng đột nhiên gầm lên, tiền sát tới chỗ Mitia. Ông ta điên tiết, mặt đỏ gay và run lên.
- Không được thế! - Người trẻ tuổi nhỏ bé kêu lên. - Mikhail Makarovich, Mikhail Makarovich! Làm thế không đúng, không đúng! Xin để một mình tôi nói thôi… Tôi không thể ngờ ông lại làm như thế…
- Nhưng đấy là cơn mê loạn, thưa các ông, cơn mê loạn! - Viên cảnh sát trưởng kêu lên. - Hãy nhìn hắn xem: ban đêm say rượu với một con điếm, người còn vấy máu cha… Mê loạn! Cơn mê loạn
- Ông Mikhail Makarovich thân mến, tôi khẩn khoản xin ông kiềm chế tình cảm, - viên phó biện lí nói nhanh, nhỏ giọng, - nếu không tôi sẽ buộc lòng phải…
Nhưng viên dự thẩm nhỏ bé không để ông ta nói hết câu, ông ta nói to với Mitia bằng giọng cứng rắn, nghiêm trang:
- Ông đại úy xuất ngũ Karamazov, tôi phải tuyên bố với ông rằng ông bị buộc tội giết cha ông, cụ Fedor Pavlovich Karamazov, vừa bị giết đêm hôm nay…
Ông ta còn nói gì nữa, cả viên biện lý hình như cũng chen vào câu gì, nhưng Mitia nghe mà chẳng hiểu gì cả. Chàng ngơ ngác nhìn tất cả bọn họ…
Fyodor Dostoevsky 
Người dịch‎: ‎Phạm Mạnh Hùng; Trương Đình Cử
Theo https://gacsach.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...