PHẦN V
Chương 1: Đính ước
Bà Khokhlakova lại là người trước tiên gặp Aliosa. Bà đang cuống
lên: đã xảy ra một việc quan trọng: sau cơn thần kinh Ekaterina Ivanovna ngất
đi, tiếp đó là sự suy yếu khủng khiếp, đáng sợ, nàng nằm, mắt trợn ngược và bắt
đầu mê sảng. Bây giờ thì sốt nóng, đã cho đi mời bác sĩ Gherxenstube, cho đi mời
các bà cô. Các bà cô hiện đã ở đây. Còn Gherxenstube vẫn chưa đến.
- Mọi người đang ở trong buồng của nàng, chờ đợi. Có thể có
chuyện không hay, vậy mà nàng vẫn mê man. Nếu chỉ sốt cao thôi thì còn được!
Khi thốt lên như vậy, bà Khokhlakova có vẻ sợ hãi thực sự: “Lần
này thì nghiêm trọng, nghiêm trọng đấy!” - Cứ mỗi câu bà lại đệm thêm vào, như
thể mọi chuyện xảy ra với nàng trước đó đều không đáng kể. Anh toan kể với bà
cuộc sóng gió vừa xảy ra với mình, nhưng anh vừa mở miệng đã bị ngắt lời: bà
không có thời giờ, bà bảo anh ngồi chơi với Liza và đợi bà ở đấy.
- Anh Alecxei Fedorovich quý mến ơi, - bà thì thầm ghé sát
vào tai anh, - vừa rồi con Liza làm tôi hết sức ngạc nhiên, nhưng nó cũng làm
tôi cảm động, vì thế trái tim tôi tha thứ hết cho nó. Anh cứ tưởng tượng xem,
anh vừa đi khỏi là nó bỗng hối hận thành thực vì đã chế nhạo anh hôm qua và hôm
nay. Thế mà nó hối hận thực sự, gần như ứa nước mắt, đến nỗi tôi ngạc nhiên.
Trước đây chưa bao giờ nó thực bụng hối hận khi nó chế nhạo tôi, mà biến tất cả
thành trò đùa. Anh biết đấy, nó cứ chế nhạo tôi luôn ấy mà. Nhưng bây giờ thì
nó nghiêm chỉnh, bây giờ thì tất cả đều là nghiêm chỉnh. Nó hết sức coi trọng ý
kiến của anh. Tôi bao giờ cũng gượng nhẹ với nó, vì nó hết sức thông minh, anh
có tin không? Ban nãy nó nói anh là bạn nó từ thuở bé, “người bạn đứng đắn nhất
thuở bé”, anh hãy tưởng tượng xem, người bạn đứng đắn nhất, thế còn tôi thì
sao? Về việc này, nó có những tình cảm cực kì nghiêm chỉnh và thậm chí cả những
kỉ niệm, nhất là những câu và những lời âu yếm không thể ngờ tới được, vậy mà đột
nhiên lại buột ra. Như mới đây nó nói về cây thông chẳng hạn: ở vườn nhà chúng
tôi có một cây thông từ hồi nó còn bé lắm, có lẽ hiện giờ vẫn còn đấy, cho nên
chẳng phải là nói về thời quá khứ. Thông không như người, rất lâu chẳng hề thay
đổi gì, Alecxei Fedorovich ạ. Nó nói: “Mẹ ơi, con nhớ đến cây thông ấy như
trong giấc mơ “xoxna kak xoxna” (1), hình như nó diễn tả hơi khác, ở đây có sự lẫn
lộn gì đó “xoxna” là một tiếng dớ dẩn, nhưng chẳng qua là nó nhân chuyện ấy để
nói với tôi một điều gì rất đặc sắc mà dứt khoát tôi không đủ sức truyền đạt lại.
Vả lại tôi quên hết rồi. Thôi, tạm biệt, tôi bàng hoàng quá, hẳn là tôi phát
điên lên đây. Ôi chao, Alecxei Fedorovich - trong đời tôi đã hai lần hóa điên
và đã được chữa khỏi. Anh đến với Liza đi. Hãy khích lệ nó, việc này anh vốn
khéo lắm mà. Liza, - bà gọi to khi đến gần cửa buồng cô con gái, - mẹ đưa
Alecxei Fedorovich đến với con đây, anh ấy đã bị con xúc phạm nặng nề, nhưng
anh ấy không giận con chút nào, mẹ cam đoan với con đấy, trái lại anh ấy lấy
làm lạ rằng con lại có thể nghĩ như thế!.
Chú thích:
Chú thích:
(1) Chơi chữ: xoxna là cây thông, xoxna: trong giấc mơ.
- Merci maman (2); mời vào, anh Alecxei Fedorovich.
Aliosa vào. Liza nhìn anh hơi có vẻ ngượng ngùng và bỗng
nhiên mặt đỏ đến tận mang tai. Rõ ràng cô có điều gì hổ thẹn, cô liến thoắng
nói chuyện đâu đâu, dường như lúc này cô chỉ quan tâm đến cái chuyện đâu đâu ấy.
Chú thích:
Chú thích:
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: cảm ơn mẹ.
- Anh Alecxei Fedorovich, ban nãy mẹ vừa kể với em tất cả câu
chuyện về hai trăm rúp ấy và về việc anh được giao nhiệm vụ đến gặp ông sĩ quan
tội nghiệp nọ… mẹ cũng đã kể tất cả câu chuyện khủng khiếp về việc ông ta bị
xúc phạm như thế nào, và anh ạ, tuy mẹ kể rất lộn xộn… cứ toàn nhảy cóc… nhưng
em nghe mà phát khóc. Thế nào, anh, anh đưa số tiền ấy rồi chứ, và con người khốn
khổ ấy bây giờ thế nào?…
- Dở một nỗi là tôi không đưa được tiền, đây là cả một câu
chuyện. - Aliosa đáp. Aliosa ngồi vào bàn và bắt đầu kể chuyện, ngay từ những lời
đầu tiên anh đã hết ngượng ngập và lôi cuốn được Liza. Trong lúc nói, tình cảm
mãnh liệt và cảm tưởng phi thường về việc vừa xảy ra vẫn còn ảnh hưởng đến anh,
anh kể hấp dẫn và cặn kẽ. Ngay cả trước kia, hồi ở Moskva, khi Liza còn thơ bé,
anh vẫn thích đến với cô và kể cho cô nghe những chuyện vừa xảy ra với anh, hoặc
những điều anh đọc được hoặc nhớ lại kỷ niệm thời thơ ấu. Có khi thậm chí cả
hai cùng nhau mơ ước và cùng nhau sáng tác cả từng thiên truyện, phần lớn là truyện
vui và ngộ nghĩnh.
Bây giờ cả hai dường như trở lại cái thời ở Moskva, hai năm
trước Liza hết sức cảm động về câu chuyện anh kể. Với tình cảm nồng nhiệt.
Aliosa vẽ ra trước mắt cô hình ảnh của “Aliosenka”, anh kể hết sức tỉ mỉ cảnh
con người bất hạnh kia đạp lên tiền, nghe kể xong, Liza đập hai tay vào nhau và
kêu lên với tình cảm bồng bột:
- Thế là anh không đưa được tiền cho ông ấy, thế là anh để
cho ông ấy chạy đi! Trời ơi, lẽ ra ít nhất anh cũng nên đuổi theo giữ ông ta lại
chứ…
- Không, Liza ạ, tôi không chạy theo là hơn. - Aliosa nói, rời
ghế đứng dậy và đi lại trong phòng với vẻ lo ngại.
- Sao lại hơn, hơn là thế nào kia chứ? Bây giờ họ sẽ chết đói
thôi!
- Họ không chết đâu, bởi vì hai trăm rúp ấy rồi vẫn sẽ vào
tay họ. Đằng nào thì ngày mai ông ấy cũng sẽ lấy số tiền đó. Ngày mai chắc chắn
ông ấy sẽ lấy. - Aliosa vừa nói vừa trầm ngâm bước đi. - Này Liza ạ, - anh nói
tiếp, đột nhiên dừng lại trước mặt cô, - ở đây tôi đã phạm một sai lầm, nhưng vậy
mà lại hóa hay. Này nhé, ông ấy là người nhát gan và nhu nhược. Ông ấy bị giày
vò khổ sở và quá tốt bụng. Cho đến giờ tôi vẫn nghĩ ngợi: cớ gì ông ấy bỗng nổi
giận và chà đạp lên mấy tờ giấy bạc, tôi cam đoan với cô rằng cho đến phút chót
ông ấy cũng không biết mình giày đạp lên tiền. Tôi cho rằng ông ấy bực tức vì
nhiều lẽ… với lại ở địa vị ông ấy không thể khác thế được. Thứ nhất, ông ấy đã
quá mừng rỡ trước mặt tôi khi nhìn thấy tiền, và không giấu giếm điều đó. Nếu
như ông ấy không quá mừng rỡ, không bộc lộ điều đó mà làm bộ làm tịch như những
người khác vờ làm cao khi nhận tiền, như vậy thì còn có thể dằn lòng cầm tiền vậy,
đằng này ông ấy lại mừng rỡ quả thực mình, thế thì đáng bực thật đấy chứ? À
Liza ạ, ông ấy là người thật thà và tốt bụng, đây chính là điều tai hại trong
những trường hợp như thế này! Suốt thời gian ông ấy nói, tiếng ông ấy rất yếu,
tự dưng yếu hẳn đi, ông ấy nói liến láu, luôn luôn xen lẫn tiếng cười khúc
khích, hay thậm chí còn khóc… đúng, ông ấy khóc, ông hoan hỉ quá… và ông nói về
hai người con gái của mình… về chỗ làm mà người ta hứa dành cho ông ở một thành
phố khác… Vừa thổ lộ tâm mình xong, ông đột nhiên xấu hổ vì đã dốc hết nỗi lòng
với tôi. Bây giờ thì ông ấy căm ghét tôi. Ông ấy thuộc loại người nghèo rất hay
hổ thẹn. Cái chính là ông tự giận mình đã quá mau chóng coi tôi là bạn và mau
chóng nhượng bộ tôi; lúc đầu ông ấy xông vào tôi làm tôi phát hoảng, rồi vừa
trông thấy tiền lại đột nhiên ôm chầm lấy tôi. Ông ôm chầm lấy tôi, hai tay về
vuốt suốt. Chính trong tư thế như vậy, ông hẳn phải cảm thấy tất cả sự qụy lụy,
đúng lúc ấy tôi đã phạm một sai lầm rất nghiêm trọng: bỗng nhiên tôi nói với
ông ấy rằng nếu ông không có tiền để rời sang thành phố khác thì người ta sẽ
cho tiền ông, thậm chí tôi sẽ lấy tiền riêng của tôi cho ông, cần bao nhiêu có
bấy nhiêu. Chính điều đó làm ông ấy sửng sốt: vì lẽ gì tôi hăm hở giúp ông ấy?
Liza ạ, một người bị xúc phạm bao giờ cũng hết sức đau lòng khi tất cả mọi người
đều tự xem mình là ân nhân của người đó… điều này là trưởng lão nói với tôi.
Tôi không biết diễn tả thế nào, nhưng chính mắt tôi thường vẫn nhìn thấy. Và tự
tôi cũng cảm thấy đúng là như thế. Điều quan trọng nhất là tuy cho đến giây lát
cuối cùng, ông ấy không biết mình chà đạp lên giấy bạc, nhưng dù sao ông đã
linh cảm lấy điều đó, nhất định thế. Ông ấy hoan hỉ đến như thế là vì đã linh cảm
thấy trước. Bởi vậy mặc dù mọi việc hỏng cả, nhưng hóa ra lại hay hơn. Thậm chí
tôi cho là hay nhất, không thể nào hay hơn được…
- Tại sao, tại sao lại không thể nào hay hơn được? - Liza kêu
lên, hết sức ngạc nhiên nhìn Aliosa.
- Bởi vì rằng, Liza ạ, nếu như ông ấy không giày xéo lên tiền,
mà cầm ngay thì về đến nhà, chỉ một giờ sau là ông ấy sẽ khóc và có lẽ sáng sớm
hôm sau sẽ đến gặp tôi và ném mấy tờ giấy bạc trả lại tôi và xéo đạp lên như vừa
rồi: Còn bây giờ thì ông ấy bỏ đi mà rất đỗi tự hào và đắc chí, tuy ông biết rằng
thế là “tự giết mình”. Như vậy, bây giờ không có gì dễ hơn là bắt ông ấy nhận
hai trăm rúp ấy, mai là chậm nhất, bởi vì ông ấy đã tỏ ra biết giữ danh dự, đã
ném tiền đi, giày đạp lên… Khi đạp lên tiền, ông ấy không thể không biết rằng
ngày mai tôi sẽ lại đem số tiền ấy đến cho ông. Mà ông cần số tiền ấy lắm lắm.
Mặc dù bây giờ ông ấy kiêu hãnh, nhưng ngay hôm nay thôi, ông cũng sẽ nghĩ về
việc mình đã bỏ mất một sự cứu giúp như thế nào. Ban đêm ông ấy sẽ càng nghĩ ngợi
nhiều hơn, sẽ nằm mơ thấy tiền, sáng mai có lẽ ông ấy sẵn sàng chạy đến gặp tôi
xin lỗi. Thế mà đúng lúc đó tôi chợt xuất hiện: “Ông quả là con người có lòng tự
hào, ông đã chứng tỏ điều đó, bây giờ xin ông nhận cho và thứ lỗi cho chúng
tôi” Bấy giờ ông ấy sẽ nhận.
Aliosa say sưa nói câu “bấy giờ ông ấy sẽ nhận!” Liza vỗ tay.
- Chà, đúng vậy, ôi chà, đột nhiên em bỗng hiểu ra! Chà,
Aliosa, làm sao anh biết tất cả những điều ấy? Anh còn trẻ như thế mà biết rõ
lòng người… Em thì có lẽ chẳng bao giờ nghĩ ra được như thế.
- Bây giờ cần nhất là phải làm cho ông ấy tin rằng ông ngang
hàng với tất cả chúng ta, mặc dù ông nhận tiền của chúng ta, - Aliosa nói tiếp,
vẫn với giọng say sưa, - chẳng những là ngang hàng, mà còn cao hơn…
- “Còn cao hơn”, hay lắm, Alecxei Fedorovich, nhưng anh nói
đi nói đi!
- Vậy là tôi diễn tả không đúng lắm… về việc ta ở thế cao
hơn… nhưng chẳng sao, bởi vì…
- Ờ chẳng sao, chẳng sao, cố nhiên là chẳng sao. Xin lỗi, anh
Aliosa yêu quý… Anh ạ, cho đến nay em hầu như không kính trọng anh… nghĩa là có
kính trọng không như người ngang hàng, còn bây giờ em sẽ kính trọng anh là bậc
trên… Anh yêu quý, đừng giận em “pha trò hóm hỉnh”. - Cô nói tiếp luôn, giọng
chứa chan tình cảm. - Em kì cục và bé bỏng, nhưng anh, anh… Này anh Alecxei
Fedorovich ạ, phải chăng trong toàn bộ lập luận ấy của chúng ta, tức là của
anh… không, của chúng ta thì đúng hơn… có sự miệt thị con người bất hạnh ấy…
thì chúng ta vừa mổ xẻ tâm hồn ông ấy đấy thôi, mà dường như tự cho mình là cao
hơn, phải không nào? Chúng ta cả quyết rằng ông ấy sẽ nhận tiền, phải không?
- Không, Liza ạ, không hề khinh miệt. - Aliosa trả lời dứt
khoát, dường như anh đã có chuẩn bị sẵn cho câu hỏi ấy. - Chính tôi đã nghĩ đến
điều đó khi đến đây. Hãy suy xét xem, khinh cái quái gì khi bản thân chúng ta
cũng như ông ấy, khi mọi người cũng đều như ông ấy cả. Bởi vì chúng ta cũng chỉ
thế thôi, không hơn. Mà cho dù có hơn đi nữa thì ở cảnh ngộ của ông ấy, ta cũng
thế thôi. Tôi không biết cô thế nào. Liza ạ, nhưng trong thâm tâm, tôi cho rằng
tôi có một tâm hồn nhỏ mọn về nhiều mặt. Còn tâm hồn ông ấy không nhỏ mọn, trái
lại rất tinh tế… không, Liza ạ, không hề có chút khinh thị nào đối với ông ấy cả!
Cô Liza ạ, trưởng lão của tôi có lần đã nói: phải chăm sóc người ta như chăm
sóc con trẻ, với một số người thì phải chăm nom như thể họ là người bệnh đang nằm
viện…
- Ôi chao, Alecxei Fedorovich, anh thân thương, vậy thì ta
hãy chăm nom mọi người như chăm người bệnh!
- Ta hãy làm như thế, Liza ạ, tôi sẵn sàng, khốn nhưng tôi
cũng chưa hoàn toàn sẵn sàng; đôi khi tôi lại thiếu kiên nhẫn, có khi tôi chẳng
nhận thấy gì hết. Còn cô thì khác.
- Ồ, em không tin! Anh Alecxei Fedorovich, em hạnh phúc biết
bao!
- Rất đáng mừng khi có nói như vậy, Liza ạ.
- Alecxei Fedorovich, anh tốt tuyệt vời, nhưng đôi khi anh cứ
như một thầy đồ gàn… Ờ mà không, anh không gàn chút nào. Anh hãy ra kia, nhẹ
nhàng mở cửa xem mẹ em có rình nghe ở đấy không - Liza bỗng thì thầm, giọng hối
hả, nóng nảy.
Aliosa ra hé mở cửa và cho biết không có ai rình nghe cả.
- Anh đến đây, Alecxei Fedorovich, - Liza nói tiếp, mặt càng
đỏ lựng. - Anh đưa tay đây, thế. Anh ạ, em phải thú nhận với anh một điều quan
trọng: lá thư hôm qua em viết cho anh không phải là để đùa bỡn đâu, nghiêm chỉnh
đấy…
Và cô đưa một tay che mặt. Rõ ràng là cô rất hổ thẹn khi thú
nhận điều đó. Đột nhiên cô chộp lấy tay anh và hăm hở hôn ba lần.
- Kìa Liza, thật tuyệt quá. - Aliosa vui sướng kêu lên. - Tôi
cũng tin chắc rằng cô viết nghiêm chỉnh.
- Anh ấy tin chắc, khó mà tưởng tượng nổi! - Cô đẩy tay anh
ra, nhưng vẫn không buông, mặt đỏ bừng và khúc khích cười vui sướng. - Tôi hôn
tay anh ấy, vậy mà anh ấy nói: “Tuyệt quá!”
- Nhưng cô trách oan, - Aliosa cũng hết sức bối rối. - Tôi
luôn luôn mong muốn cô thích tôi, nhưng không biết làm thế nào. - Anh nói lúng
búng và cũng đỏ mặt.
- Aliosa thân mến, anh lạnh lùng và táo tợn. Ấy đấy. Anh ấy hạ
cố chọn tôi làm vợ và thế là anh ấy yên tâm! Anh ấy đã tin chắc rằng tôi viết
nghiêm chỉnh, lạ chưa! Táo tợn thật, thế đấy!
- Vậy là dở hay sao, một khi tôi tin chắc như thế? - Aliosa bỗng
bật cười.
- Ồ, Aliosa, trái lại, rất tốt là đằng khác. - Liza nhìn anh
với vẻ trìu mến và hạnh phúc. Aliosa vẫn để tay mình trong tay Liza. Bỗng anh
cúi xuống và hôn ngay vào môi cô.
- Lại còn thế nữa ư? Anh làm sao vậy? - Liza kêu lên. Aliosa
hoàn toàn bối rối.
- Thứ lỗi cho tôi… nếu có gì không phải… Tôi làm như vậy có lẽ
là dớ dẩn quá… Cô bảo tôi lạnh lùng, vì thế tôi tự dưng hôn cô. Nhưng tôi thấy
như vậy là dớ dẩn…
Liza bật cười và đưa hai tay bưng mặt.
- Mặc bộ áo này mà làm như vậy! - Cô buột miệng nói trong tiếng
cười và đột nhiên trở nên hết sức nghiêm chính, gần như nghiêm khắc. - Anh
Aliosa ạ, chúng ta khoan hãy hôn nhau vì cả hai ta đều chưa biết làm việc đó,
chúng ta còn phải chờ đợi lâu. - Cô bỗng kết luận. - Tốt hơn hết là anh hãy cho
biết vì sao anh chọn một con bé ngốc nghếch ốm yếu như em, anh là người thông
minh, hay suy nghĩ và tinh ý như thế kia mà? Ôi chao, Aliosa, em hạnh phúc vô
cùng, vì em hoàn toàn không xứng với anh!
- Xứng quá đi chứ, Liza ạ. Nay mai tôi sẽ rời bỏ hắn tu viện.
Đã hoàn tục thì phải lấy vợ, tôi biết như vậy. Đấng ấy đã căn dặn tôi như vậy.
Tôi còn lấy ai hơn em được… mà ngoài em ra thì còn ai ưng lấy tôi? Tôi đã nghĩ
kỹ rồi. Thứ nhất, em biết tôi từ thời thơ ấu, hai nữa em rất có nhiều khả năng
mà tôi không có. Tính tình em vui vẻ hơn tôi, cái chính là em hồn nhiên hơn
tôi, còn tôi đã đụng chạm nhiều, dính nhớp nhiều… ôi, em không biết chứ, tôi là
con nhà Karamazov kia mà! Em hay cười và bông đùa thì có sao đâu, kể cả trêu cợt
tôi nữa. Trái lại, em cứ cười đùa đi tôi lấy thế làm vui mừng… Nhưng em cười
vui như trẻ thơ, mà bên trong thì em nghĩ ngợi như người tự giày vò mình.
- Tự giày vò mình? Thế là thế nào?
- Phải, Liza ạ, vừa nãy em hỏi: chúng tôi có khinh rẻ con người
khốn khổ ấy không khi chúng ta mổ xẻ tâm hồn ông ta, đấy là một câu hỏi tự giày
vò… ờ, tôi không biết diễn tả cách nào, những người nào nảy ra những câu hỏi
như thế thì người ấy có khả năng đau khổ. Cứ ngồi miết trong ghế, hẳn là em phải
nghĩ ngợi nhiều.
- Anh Aliosa, đưa tay đây cho em, sao anh lại rút tay ra. -
Liza thốt lên giọng nghẹn ngào, yếu hẳn đi vì chứa chan hạnh phúc. - Này anh
Aliosa ạ, anh sẽ mặc thế nào sau khi ra khỏi tu viện, mặc bộ đồ thế nào? Anh đừng
cười, đừng giận nhé, đấy là điều vô cùng quan trọng đối với em.
- Liza ạ, về áo quần thì tôi vẫn chưa nghĩ tới, nhưng tôi sẽ
mặc theo ý muốn.
- Em muốn anh mặc vét tông bằng nhung màu xanh sẫm, gilê bằng
vải pi kê (3) trắng và mũ mềm màu trắng có lông tơ… Này anh, vừa rồi thế là
anh tin rằng em không yêu anh khi em chối bỏ lá thư hôm qua chứ gì?.
Chú thích:
Chú thích:
(3) Loại vải hai lớp may trần.
- Không, không tin.
- Ôi, thật là một con người hết chịu nổi, vô phương cứu chữa!
- Em ạ, tôi biết… hình như em yêu tôi, nhưng tôi làm ra vẻ
tin rằng em không yêu tôi, để… tiện cho em hơn…
- Thế thì càng tệ! Vừa tệ hơn mà lại hay hơn. Anh Aliosa ạ,
em yêu anh lắm lắm. Ban nãy khi anh đến, em định bụng: mình sẽ hỏi anh ấy lá
thư hôm qua, nếu anh ấy thản nhiên lấy ra trả lại (điều này bao giờ cũng có thể
chờ đợi ở anh ấy) thì tức là anh ấy hoàn toàn không yêu mình, không cảm thấy
gì, như vậy anh ấy chỉ là một chú bé ngốc nghếch, không xứng đáng, đời mình thế
là bỏ đi. Nhưng anh để lá thư ở phòng tu, thế là em yên lòng: có phải vì cảm thấy
trước rằng em sẽ đòi lá thư nên anh để ở nhà để khỏi phải trả không? Phải thế
không? Đúng vậy chứ?
- Ôi chao Liza, hoàn toàn không phải thế, lá thư tôi mang
trong người, hiện giờ cũng như ban nãy, ở trong túi này này, đây! - Aliosa vừa
cười vừa lấy lá thư ra và giơ cho cô bé xem ở khoảng xa. - Nhưng tôi không đưa
cho em đâu, cầm cho xem thôi.
- Vậy ư? Nghĩa là ban nãy anh nói dối, thầy tu mà nói dối ư?
- Ừ thì nói dối, - Aliosa cũng cười. - nói dối để khỏi phải
trả lại bức thư. Nó rất quý đối với tôi. - Anh bỗng nói thêm, lòng dạt dào tình
cảm và lại đỏ mặt. Tôi sẽ giữ suốt đời và không trao cho ai hết.
Liza nhìn anh, mê thích.
- Anh Aliosa, - cô lại thỏ thẻ, - anh ra cửa xem mẹ em có
rình nghe ở đấy không.
- Được Liza ạ, tôi sẽ xem, nhưng có lẽ không xem thì hơn, phải
không? Sao lại nghi ngờ mẹ em làm một việc thấp hèn như vậy?
- Thấp hèn thế nào? Thấp hèn quái gì? Mẹ rình nghe chuyện con
gái của mẹ, thế không phải là thấp hèn. - Liza đỏ mặt tía tai. - Anh Alecxei
Fedorovich, anh hãy tin rằng khi chính em sẽ làm mẹ và có một đứa con gái như
em bây giờ thì nhất định em cũng sẽ lén nghe chuyện của nó.
- Thật thế ư, Liza? Vậy thì không tốt.
- Ôi lạy chúa tôi, thấp hèn quái gì? Nếu như lén nghe một cuộc
nói chuyện giao tế thông thường thì hèn hạ thật, nhưng đây là con gái mình đóng
cửa ở trong buồng và một chàng trẻ tuổi… Này, anh Aliosa ạ, anh nên biết rằng
bao giờ chúng ta thành hôn thì em cũng sẽ rình mò anh đấy, và anh cũng nên biết
rằng thư từ của anh, em sẽ bóc ra đọc bằng hết đấy… Anh được báo trước rồi đấy
nhé…
- Ờ cố nhiên, nếu là như vậy… - Aliosa nói lúng búng. - Nhưng
như vậy là không tốt.
- A, khinh nhau chưa! Anh Aliosa yêu quý, ta đừng cãi cọ nhau
ngay từ lần đầu, nhưng em cứ nói thật hết với anh thì hơn: nghe trộm tất nhiên
là rất xấu, và tất nhiên là em sai trái, anh nói phải, nhưng em vẫn cứ sẽ rình
nghe.
- Thì cứ việc. Nhưng em sẽ không bắt chộp được tôi điều gì
đâu Aliosa cất tiếng cười.
- Anh Aliosa, thế anh sẽ phục tùng em chứ? Điều đó cũng phải
quyết định trước.
- Rất sẵn lòng, Liza ạ, nhất định là như thế, trừ trường hợp
quan trọng nhất. Trong trường hợp quan trọng nhất, dù em không đồng ý với tôi,
tôi vẫn cứ làm theo bổn phận.
- Thế là phải. Anh nên biết rằng về phần em thì trái lại, chẳng
những em sẵn sàng tuân theo anh trong trường hợp quan trọng nhất, mà em sẽ nhường
nhịn anh trong mọi việc, bây giờ em xin thề với anh: nhường nhịn anh tất cả mọi
điều và suốt đời. - Liza kêu lên bằng giọng cuồng nhiệt, - và em coi đó là hạnh
phúc, hạnh phúc! Em thề với anh là sẽ không bao giờ nghe trộm anh, không một lần
nào và anh có lí, chứ không phải là em. Mặc dù em rất muốn nghe trộm, em biết
thế, nhưng em sẽ không nghe, vì anh cho là hèn hạ. Anh Alecxei Fedorovich ơi, tại
sao mấy ngày qua anh buồn như thế, cả hôm qua và hôm nay; em biết anh có những
việc phải lo toan, những chuyện đau lòng, nhưng em còn thấy anh có một nỗi buồn
đặc biệt gì đó, có lẽ chuyện riêng kia, Phải không?
- Đúng Liza ạ, có một chuyện buồn phải giữ kín. - Aliosa nói.
- Tôi thấy là em yêu tôi, vì em đã đoán được điều đó.
- Nỗi buồn gì? Về việc gì? Có thể nói ra được không? - Liza
nói với giọng van vỉ rụt rè.
- Sau này tôi sẽ nói. Liza ạ… sau này… - Aliosa bối rối. -
Bây giờ nói ra em sẽ không hiểu được. Mà có lẽ chính tôi cũng không biết nói thế
nào.
- Em còn biết là anh khổ tâm vì mấy người anh và ông bố, phải
không?
- Ừ, vì hai người anh, - Aliosa nói, như ngẫm nghĩ.
- Em không ưa anh Ivan Fedorovich của anh, anh Aliosa ạ. -
Liza đột nhiên đưa ra nhận xét.
Aliosa hơi ngạc nhiên về nhận xét ấy, nhưng không hỏi lại.
- Các anh tôi tự giết mình, - anh nói tiếp, - ba tôi cũng thế.
Và đồng thời giết cả những người khác. Đây là “sức mạnh bắt nguồn từ đất sức mạnh
của dòng họ Karamazov”, như Cha Paixi mới nói hôm nào, sức mạnh bắt nguồn từ đất,
cuồng bạo và thô thiển… Thậm chí thánh linh Đức Chúa Trời có chế ngự được sức mạnh
ấy không, tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết bản thân tôi cũng là một
Karamazov… Tôi là thầy tu ư, thầy tu ư? Tôi là thầy tu ư, Liza? Vừa nãy em bảo
rằng tôi là thầy tu phải không?
- Vâng, em có nói.
- Vậy mà có lẽ tôi không tin có Chúa Trời.
- Anh mà lại không tin, anh làm sao vậy?
Liza khẽ nói một cách thận trọng. Nhưng Aliosa không đáp.
Trong những lời quá bất ngờ ấy của anh có một cái gì quá bí ẩn và quá chủ quan.
Có lẽ ngay cả anh cũng không hiểu rõ, nhưng chắc chắn nó làm anh khổ tâm.
- Còn điều này nữa, bây giờ một người bạn của tôi sắp mất,
người đáng kính nhất trên đời sắp từ giã cõi trần. Giá như em biết, Liza ạ, giá
như em biết giữa tôi và con người đó có sự gắn bó tinh thần như thế nào! Vậy mà
bây giờ tôi sẽ chỉ còn lại một mình… Tôi sẽ đến với em, Liza ạ… Từ nay chúng ta
sẽ ở bên nhau.
- Vâng, ở bên nhau, ở bên nhau! Từ nay ta sẽ ở bên nhau suốt
đời. Anh ơi, hôn em đi, em cho phép đấy.
- Bây giờ thì anh về đi, Chúa Kito ở cùng anh!. Hãy mau mau về
với Người, trong lúc Người còn sống. Em thấy rằng em giữ anh ở đây thật là tàn
nhẫn. Hôm nay em sẽ cầu nguyện cả cho Người và cho anh. Anh Aliosa, chúng ta sẽ
hạnh phúc! Chúng ta sẽ hạnh phúc, phải không?
- Tôi cho rằng sẽ như thế, Liza ạ.
Rời khỏi chỗ Liza, Aliosa không có ý định đến gặp bà
Khokhlakova, anh toan ra về mà không từ biệt bà. Nhưng anh vừa mở cửa và ra cầu
thang thì bà Khokhlakova đột ngột xuất hiện trước mắt anh.
- Alecxei Fedorovich, thật là khủng khiếp. Đấy là trò trẻ con
và chỉ là tầm bậy. Tôi hi vọng rằng anh không mơ tưởng… Ngu xuẩn, ngu xuẩn và
ngu xuẩn! - Bà sừng sộ với anh.
- Chỉ xin bà đừng nói điều đó với cô ấy, - Aliosa đáp lại, -
không thì cô ấy sẽ xúc động, mà bây giờ như thế có hại cho cô ấy.
- Tôi nghe được lời nói phải lẽ của một người trẻ tuổi biết lẽ
phải. Theo tôi hiểu, có phải anh thuận theo ý nó chỉ vì thương nó tật bệnh,
không muốn trái ý nó làm nó tức giận chứ gì?
- Ồ, không, hoàn toàn không, tôi nói chuyện với cô ấy hoàn
toàn nghiêm chỉnh, - Aliosa tuyên bố dứt khoát.
- Không thể nghiêm chỉnh được, nhẽ nào như thế, và thứ nhất
bây giờ tôi sẽ không để cho anh đến đây lần nào nữa, hai là tôi sẽ đi nơi khác
và đưa nó đi, anh nên biết như vậy.
- Cần gì phải thế, - Aliosa nói, - chuyện ấy cũng còn lâu kia
mà, có lẽ phải còn chờ một năm rưỡi nữa ấy chứ.
- À, Alecxei Fedorovich, cố nhiên đúng là như thế, và trong một
năm rưỡi ấy anh với nó sẽ cãi nhau một ngàn lần và sẽ đoạn tuyệt với nhau. Bây
giờ tôi như Famuxov trong cảnh cuối của vở kịch (4), anh là Trasky, nó là Xofia,
và anh hãy tưởng tượng xem, tôi chạy ra cầu thang này cốt để gặp anh, mà ở nhà
này mọi điều ác hại đều xảy ra ở cầu thang. Tôi đã nghe thấy hết, tôi phải gắng
lắm mới đứng nổi. Thì ra vì thế mà có những điều khủng khiếp suốt đêm qua và tất
cả những cơn thần kinh vừa rồi! Tình yêu cho con gái, còn cái chết cho bà mẹ.
Hãy nằm vào quan tài. Bây giờ đến điểm thứ hai và là điểm quan trọng nhất: lá
thư nó viết cho anh, thư gì vậy, đưa tôi xem ngay, nào!.
Chú thích:
Chú thích:
(4) Vở kịch “Khổ vì cái trí tuệ” của Gruboedov.
- Không, không nên. Bà cho biết sức khỏe Ekaterina Ivanovna
ra sao, tôi rất cần biết.
- Vẫn mê sảng, chưa tỉnh; các bà cô của cô ấy hiện ở đây, chỉ
kêu than và lên mặt với tôi, còn bác sĩ Gherxenstube đã đến và ông ta sợ hãi đến
nỗi tôi không biết tính sao với ông ta, làm cách nào cứu ông ta, thậm chí tôi
muốn cho đi mới bác sĩ khác. Ông ta đã được đưa đi bằng xe của tôi. Đã thế lại
thêm cả anh, với lá thư này. Của đáng tội, chuyện ấy cũng còn một năm rưỡi nữa
mới đến. Vì tất cả những gì vĩ đại và thiêng liêng, vì trưởng lão sắp qua đời của
anh, hãy đưa tôi lá thư ấy. Alecxei Fedorovich, tôi là người mẹ mà. Nếu anh muốn
thì cứ cầm thư trong tay cho tôi đọc thôi cũng được.
- Không, tôi sẽ không cho bà xem, bà Ekaterina Oxipovna ạ,
cho dù cô ấy cho phép đi nữa. Mai tôi sẽ đến, và nếu bà muốn, tôi sẽ nói với bà
nhiều điều, còn bây giờ thì xin từ biệt!.
Phần 5
Chương 2: Xmerdiakov với cây đàn ghi ta
Quả là anh không có thời gian. Ngay từ lúc chia tay với Liza,
một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc anh: phải bày ra một kế gì hết sức ranh mãnh để
chộp được anh Dmitri ngay bây giờ, rõ ràng là anh ấy lẩn tránh anh. Không còn sớm
sủa gì nữa, đã hơn hai giờ chiều rồi. Aliosa nóng lòng muốn trở lại tu viện với
“đấng vĩ đại” sắp qua đời của mình, nhưng nhu cầu gặp Dmitri lấn át tất cả:
trong óc Aliosa, cứ mỗi giờ qua anh càng tin chắc rằng một đại họa khủng khiếp
không sao tránh khỏi sắp xảy ra. Đại họa gì và lúc này anh muốn nói gì với anh
Dmitri, có lẽ không nói rõ được. “Cho dù ân nhân của ta qua đời mà không có ta ở
đấy cũng không sao, nhưng ta không đến nỗi suốt đời tự trách mình rằng đáng lẽ
ta có thể cứu được anh ấy mà không cứu; ta đã bỏ qua, vội vã về nhà. Ta làm như
thế là tuân theo lời dạy bảo vĩ đại của thầy…”
Kế hoạch của anh là rình chộp Dmitri một cách bất thình lình:
trèo qua hàng rào vào vườn như hôm qua và ẩn trong cái chòi hóng mát ấy. “Nếu
như anh ấy không có ở đấy,” - Aliosa nghĩ - “thì ta không nói gì với Foma cũng
như với những người trong nhà, ta sẽ náu mình trong chòi và đợi, cho dù là đến
chiều. Nếu như anh ấy vẫn rình Grusenka thì rất có thể là anh ấy sẽ vào chòi…”
Tuy nhiên, Aliosa không suy tính quá nhiều về kế hoạch, mà anh quyết định thực
hiện, cho dù hôm nay anh không về được tu viện…
Mọi việc diễn ra không có trở ngại gì: anh trèo qua hàng rào
gần như ở chỗ hôm qua, và kín đáo lẻn vào chòi. Anh không muốn để ai nhận thấy:
cả bà chủ nhà, cả Foma (nếu anh ta hiện ở đây) có thể hùa với anh Dmitri và
theo lệnh anh ấy, vì vậy sẽ không cho Aliosa vào, hay kịp thời báo trước cho
Dmitri biết có người đang tìm anh và hỏi dò về anh. Trong chòi không có ai.
Aliosa ngồi vào chỗ hôm qua của mình và chờ đợi. Anh nhìn một lượt cái chòi
hóng mát, không hiểu sao anh thấy nó cũ nát hơn hôm qua nhiều, lần này anh cảm
thấy nó thảm hại quá. Tuy nhiên, hôm nay trời cũng sáng sủa như hôm qua. Trên mặt
chiếc bàn màu lục có in một vệt tròn, hẳn là dấu vết của li rượu cognac sánh ra
ngoài. Những ý nghĩ vẩn vơ len vào óc Aliosa, bao giờ mà chẳng thế, khi người
ta phải chờ đợi đến phát chán: chẳng hạn tại sao khi đến đây anh lại ngồi đúng
vào chỗ anh đã ngồi, chứ không phải chỗ nào khác? Cuối cùng anh rất buồn, buồn
và lo vì không biết rõ gì hết. Nhưng anh ngồi chưa được mười lăm phút thì đột
nhiên, ở đâu đây rất gần có tiếng đàn ghi ta. Có ai ngồi đây hay chỉ vừa đến ngồi
ở đấy, cách anh khoảng hai chục bước là cùng, đâu đó trong đám bụi cây. Aliosa
chợt nhớ lại rằng hôm qua, lúc ở trong chòi đi ra, anh thoáng thấy ở trước mặt,
phía bên trái, gần bờ rào một chiếc ghế băng cũ kĩ, màu lục giữa đám bụi cây. Vậy
ra bây giờ có người đến ngồi đấy. Ai vậy?
Bỗng một giọng nam cao ngọt ngào cất tiếng hát, có tiếng đàn
ghi ta đệm theo.
“Với nàng hai chữ sắt son
Nguyện đời phù hộ cho con với nàng
Với con hai chữ đá vàng
Nguyện trời phù hộ cho nàng với con
Nguyện trời phù hộ cho nàng với con
Nguyện trời phù hộ cho nàng với con.”
Tiếng hát ngừng lại. Một giọng nam cao của kẻ tôi đòi và lối
hát uốn éo kiểu tôi đòi. Một giọng khác, giọng nữ, bỗng thốt lên âu yếm và dường
như rụt rè, nhưng rất điệu: “Sao lâu lắm anh không đến chơi, anh Pavel Fedorovich?
Anh khinh chúng tôi thế?”
- Đâu có, - tiếng đàn ông trả lời, tuy lễ độ, nhưng trước hết
là với giọng đường bệ đanh thép, kiên gan. Rõ ràng người đàn ông ở thế hơn, còn
người phụ nữ thì cầu cạnh.
- Người đàn ông hình như là Xmerdiakov. - Aliosa nghĩ, - ít
ra nghe tiếng nói thì biết, còn người phụ nữ chắc là con gái bà chủ nhà này,
cái cô ở Moskva về, có bộ áo đuôi dài và vẫn đến xin súp Agafia Ignatievna…”
- Tôi thích thơ lắm, nếu như vần điệu hay, - tiếng phụ nữ
nói. - Sao anh không hát tiếp đi?
Người kia đáp lại:
- “Với tôi vương miện huy hoàng
Là đây xuân sắc của nàng bên tôi
Nguyện đời che chở lứa đôi
Rủ ban phước hạnh cho tôi với nàng
Rủ ban phước hạnh cho tôi với nàng.”
- Lần trước nghe hay hơn, - tiếng phụ nữ nói. - Anh hát về
vương miện: “Là đây xuân sắc người tình bên tôi.” Nghe âu yếm hơn, chắc là hôm
nay anh quên mất.
- Thơ với thẩn là cái trò vớ vẩn. - Xmerdiakov xẵng giọng.
- Ồ không, tôi rất thích thơ.
- Thơ thẩn đích thị là trò dớ dẩn. Cô thử nghĩ xem: trên đời
có ai nói có vần được không? Nếu như tất cả chúng ta đều có vần điệu, cho dù là
theo lệnh cấp trên đi nữa, thì liệu có thể nói được gì nhiêu nào? Thơ không thiết
thực, Maria Kondratievna ạ.
- Sao mà anh thông minh thế, sao chuyện gì anh chàng hiểu hết
vậy? - Tiếng người phụ nữ càng có chiều tình tứ hơn.
- Tôi còn có thể thành đạt hơn nữa, còn có thể biết nhiều hơn
nữa nếu như số tôi không đen đủi từ tấm bé. Không thế thì tôi đã thích đấu súng
và giết chết cái thằng đã bảo tôi là kẻ hèn mạt vì tôi là đứa con không bố của
Xmerdiasaia, ở Moskva người ta đã đập vào mặt tôi như thế, ấy là do Grigori
Vaxilievich mà người ta kháo nhau như thế về tôi. Grigori Vaxilievich trách tôi
căm ghét việc tôi sinh ra đời, bác ấy bảo: “Mày làm mẹ mày đau xé ruột.” Ừ thì
cứ cho là thế đi, nhưng tôi cho rằng thà cứ giết tôi đi trong bụng mẹ để tôi đừng
có mặt trên đời còn hơn. Ở chợ người ta nói đã đành, mà ngay cả mẹ cô cũng hết
sức thiếu tế nhị kể với tôi rằng mẹ tôi tóc rối bù bê bết từng mảnh trên đầu,
cao chỉ hai arsin “có dư”. “Có dư” là cái quái gì, sao không thể nói một cách
bình thường là “già hai arsin một chút”, như mọi người vẫn nói? Nghe mà muốn ứa
nước mắt, nước mắt mugich ấy mà, nếu có thể nói như vậy, muốn thống thiết nói
ra những tình cảm mugich. Liệu gã mugich Nga có thể có tình căm thù ghét người
có học không? Gã mugich vô học, vì vậy chẳng thể có tình cảm gì cả. Ngay từ tấm
bé, cứ nghe thấy tiếng “có dư”, là tôi muốn lao đầu vào tường. Tôi căm thù cả
nước Nga, Maria Kondratievna ạ.
- Nếu anh là học sinh sĩ quan hay một người lính khinh kị trẻ
tuổi thì chắc anh sẽ không nói thế, mà sẽ tuốt gươm ra bảo vệ cả nước Nga.
- Nhưng tôi không muốn làm khinh kị, Maria Kondratievna ạ,
trái lại tôi muốn giải ngũ hết lính tráng.
- Thế thì kẻ thù đến, ai sẽ bảo vệ chúng ta?
- Chẳng cần bảo vệ gì hết. Năm mười hai đã xảy ra cuộc xâm
lăng lớn vào Nga của hoàng đế Pháp Napoléon đệ nhất, cha của vua Pháp hiện nay,
và giá như hồi ấy người Pháp chinh phục được chúng ta thì thật là hay: một dân
tộc thông minh sẽ chinh phục được một dân tộc rất đần độn và sát nhập nó với
mình. Như vậy thì sẽ có một nền trật tự hoàn toàn khác.
- Thế thì ra họ hơn người của chúng ta à? Tôi thì tôi không đổi
một chàng trai sang trọng của chúng ta lấy ba chàng trai người Anh đâu. - Maria
Kondratievna thốt lên với giọng trìu mến, hắn là lúc này, nói những lời ấy, mắt
cô nàng thẫn thờ.
- Anh cứ hệt như người ngoại quốc ấy, như một người ngoại quốc
cao quý nhất, tôi nuốt thẹn mà nói với anh điều đó.
- Nếu cô muốn biết thì xin nói rằng về sự trụy lạc thì cả bọn
họ và người của chúng ta đều giống nhau. Toàn bọn lừa bịp cả, những người nước
ngoài dù đi ủng bóng loáng, còn tên hèn mạt của ta thì sống trong bần cùng, bốc
mùi hôi hám và không thấy như vậy có gì là xấu. Dân Nga thì phải cho ăn đòn,
hôm qua Fedor Pavlovich nói đúng, tuy lão là thằng điên cùng với con cái lão.
- Nhưng Ivan Fedorovich thì anh kính trọng lắm, chính anh đã
nói thế kia mà.
- Khốn nỗi họ coi tôi là một thằng hầu hôi hám. Họ cho rằng
tôi có thể nổi loạn; họ nhầm. Nếu tôi có một số tiền kha khá, tôi đã biến khỏi
đây từ lâu rồi. Dmitri Fedorovich coi hơn bất cứ thằng hầu nào cả về phẩm hạnh,
cả về trí thệ cũng như sự bần cùng và gã chẳng biết làm gì cả, vậy mà lại được
mọi người trọng vọng. Ừ thì tôi chỉ là một kẻ nấu bếp, nhưng nếu gặp may tôi có
thể mở một tiệm cà phê kiêm tiệm ăn ở Peerovka tại Moskva. Bởi vì tôi làm món
ăn đặt riêng, ở Moskva trừ người ngoại quốc, không đầu bếp nào có thể nấu món
ăn đặt riêng, Dmitri Fedorovich là một thằng khố rách áo ôm, vậy mà nếu gã
thách con một vị bá tước quyền quý đấu súng, người đó sẽ nhận lời, nhưng gã có
gì hơn tôi nào? Gã đần độn hơn tôi nhiều thì có. Gã đã phung phí cơ man nào là
tiền mà chẳng được việc gì cả.
- Đấu súng chắc là hay lắm. - Maria Kondratievna bỗng nói.
- Hay cái quái gì?
- Thật là ghê rợn và đúng cảm, đặc biệt nếu hai sĩ quan trẻ
tuổi cầm súng ngắn chĩa vào nhau vì một cô gái trẻ nào đó. Một cánh tượng hấp dẫn.
A, giá như người ta cho các cô gái vào xem, tôi muốn xem quá đi thôi.
- Hấp dẫn khi ta chĩa súng vào kẻ khác, còn nếu kẻ khác chĩa
súng thắng vào mặt ta thì ớn lắm. Cô sẽ bỏ chạy. Maria Kondratievna ạ.
- Chẳng lẽ anh cũng sẽ bỏ chạy ư?
Nhưng Xmerdiakov không buồn trả lời. Im lặng một lúc rồi tiếng
đàn lại nổi lên và cái giọng kim lại véo von hát nốt khúc cuối:
- “Ta quyết chí ra đi tìm cuộc sống,
Ồi đô thành xao xuyến mộng phù hoa!
Há để đời tàn tạ mỗi ngày qua?”
Liền đó một sự bất ngờ xảy ra: Aliosa bỗng hắt hơi. Ở chỗ chiếc
ghế băng lập tức im bặt. Aliosa đứng lên và đi về phía họ.
Đích thị là Xmerdiakov, diện thật bảnh, tóc chải sắp bóng mượt
và gần như quăn, giày bóng loáng: Chiếc ghi ta đặt trên ghế băng. Người phụ nữ
là Maria Kondratievna, con gái chủ nhà; cô ta mặc chiếc áo dài màu xanh nhạt,
đuôi áo dài hai arsin; cô gái còn khá trẻ và coi cũng được, nhưng mặt tròn quá
và nhiều tàn nhang đến đáng sợ.
- Anh Dmitri tôi sắp về rồi chứ? - Aliosa hỏi, cố giữ giọng
thật bình tĩnh.
Xmerdiakov chậm chạp rời ghế đứng lên, Maria Kondratievna
cũng đứng lên.
- Tôi làm sao biết được cậu Dmitri đi về lúc nào, tôi là người
canh giữ cậu ấy chắc? - Xmerdiakov khẽ đáp rành từng tiếng với vẻ khinh miệt.
- Tôi chỉ hỏi anh có biết không. - Aliosa giải thích.
- Tôi chẳng biết cậu ấy ở đâu và cũng không muốn biết.
- Vậy mà anh tôi nói với tôi rằng anh vẫn báo cho anh ấy biết
mọi chuyện xảy ra ở trong nhà và hứa rằng khi nào Agrafena Alecxandrovna lại
đây thì sẽ báo cho anh ấy.
Xmerdiakov chậm rãi ngước mắt nhìn Aliosa một cách điềm
nhiên.
- Nhưng vừa rồi cậu làm thế nào vào được đây, cổng cài then
kĩ lưỡng rồi kia mà? - Gã vừa hỏi vừa nhìn Aliosa chằm chằm.
- Từ ngoài ngõ tôi vượt rào vào thẳng trong chòi. Mong cô thứ
lỗi, anh nói với Maria Kondratievna, - tôi cần tìm anh ấy thật gấp.
- Ôi cha, chúng tôi đâu dám phiền trách cậu, - Maria Kondratievna
thích thú vì lời xin lỗi của Aliosa, nói dài giọng, - bởi vì chính cậu Dmitri
Fedorovich cũng vẫn vào bằng cách ấy, chúng tôi chưa ai biết thì cậu đã ở trong
chòi này rồi.
- Bây giờ tôi đang lùng tìm anh ấy, tôi rất muốn gặp anh ấy
hay muốn cô cho biết anh ấy hiện ở đâu. Cô hãy tin tôi, có một việc cực kì quan
trọng đối với anh ấy.
- Cậu ấy thường không nói với chúng tôi cậu ấy đi đâu. -
Maria Kondratievna ấp úng.
- Nhà này với tôi là chỗ quen biết nên tôi mới đến đây, -
Xmerdiakov lại lên tiếng, - thế mà ngay ở đây cậu ấy cũng cứ dồn ép tôi, luôn
luôn vặn hỏi về ông nhà: ở nhà ra sao, ai đến ai đi, tôi có thể báo cho cậu ấy
điều gì khác nữa không. Hai lần thậm chí cậu ấy dọa giết tôi.
- Giết là thế nào? - Aliosa ngạc nhiên.
Với cậu ấy thì chuyện đó có đáng gì, tính nết cậu ấy như thế
kia mà, hôm qua chính cậu cũng thấy đấy. Cậu ấy bảo nếu tôi để cho cô Agrafena
Alecxandrovna vào và ngủ đêm ở đây thì tôi là kẻ mất mạng trước tiên. Tôi sợ cậu
ấy lắm, chứ nếu không thì hẳn là tôi phải đi trình nhà chức trách. Có mà trời
biết cậu ấy có thể gây ra chuyện gì.
- Mới rồi cậu ấy bảo anh Xmerdiakov: “Tao sẽ cho mày vào cối
giã nát ra,” - Maria Kondratievna nói thêm.
Nếu anh ấy nói là cho vào cối giã thì có lẽ chỉ là dọa chơi
thế thôi Aliosa đáp. - Nếu tôi gặp được anh ấy bây giờ, tôi sẽ khuyên anh ấy
cho…
- Tôi chỉ có thể cho cậu biết điều này thôi. - Xmerdiakov dường
như chợt quyết định sau một lúc suy nghĩ. - Đôi khi tôi đến đây vì là chỗ hàng
xóm xưa nay mà, sao lại không lui tới kia chứ. Mặt khác, sáng sớm hôm nay, Ivan
Fedorovich sai tôi đến nhà cậu Dmitri ở phố Ozero, nhắn miệng bảo cậu ấy thế
nào cũng đến tiệm ở quảng trường cùng ăn bữa trưa. Tôi đến, nhưng cậu Dmitri
Fedorovich không có nhà, lúc ấy là tám giờ. “Ban nãy cậu ấy có về đây, nhưng đi
rồi,” - người cho thuê nhà báo tôi đúng như vậy. Hình như họ dặn nhau như thế.
Bây giờ có lẽ cậu ấy đang ngồi ở tiệm với cậu Ivan Fedorovich bởi vì cậu Ivan
không về nhà ăn trưa, ông Fedor Pavlovich đã ăn một mình cách đây một giờ và
bây giờ đã đi nằm. Nhưng tôi khẩn khoản xin cậu đừng nói gì với cậu ấy về tôi
và về việc tôi tiết lộ với cậu, vì cậu ấy sẽ giết tôi chỉ vì một chuyện không
đâu.
- Anh Ivan hẹn anh Mitia đến tiệm ăn hôm nay à? - Aliosa nói
nhanh, hỏi lại.
- Vâng, đúng thế.
- Ở tiệm “Thủ đô” trên quảng trường phải không?
- Chính đó.
- Rất có thể! - Aliosa kêu lên, hết sức xúc động. - Cảm ơn
anh, Xmerdiakov, tin này rất quan trọng, tôi sẽ đến đấy ngay.
- Cậu đừng lộ ra là tôi nói nhé. - Xmerdiakov nói với theo.
- Ồ không, tôi vô tình tạt vào tiệm thôi, cứ yên tâm.
- Cậu đi đâu thế, để tôi mở cửa rào cho cậu. - Maria
Kondratievna nói to.
- Không, lối này gần hơn, tôi lại vượt qua rào thôi.
Tin ấy làm Aliosa bàng hoàng. Anh đâm bổ đến tiệm ăn. Mặc áo
thầy tu vào tiệm thì bất tiện, nhưng hỏi thăm ở cầu thang và nhờ gọi họ ra thì
được. Nhưng anh vừa đến tiệm thì một cánh cửa sổ bỗng mở ra và chính anh Ivan từ
cửa sổ gọi anh:
- Aliosa, chú lên đây với tôi ngay bây giờ được chứ? Tôi cảm
ơn chú lắm đấy.
- Được chứ ạ, nhưng em không biết mặc như thế này mà vào thì
có tiện không.
- Tôi ngồi phòng riêng mà, chú cứ lên thềm, tôi chạy xuống
đón đây…
Lát sau Alecxei đã ngồi bên anh. Ivan ăn một mình ở đây.
Phần 5
Chương 3: Anh em làm quen với nhau
Tuy nhiên Ivan không ngồi phòng riêng. Đấy chỉ là một chỗ bên
cửa sổ, ngăn ra bằng nhưng tấm bình phong, những người bên ngoài vẫn không thể
nhìn thấy người ngồi sau bình phong.
Đây là phòng đầu, qua đó mới vào các phòng khác, có quầy hàng
ở dãy tường bên. Chốc chốc lại có những người hầu bàn chạy đi chạy lại. Khách ở
đây chỉ có một ông già, một quân nhân xuất ngũ, ngồi uống trà trong góc phòng.
Nhưng trong các phòng còn lại thì vẫn là cảnh nhộn nhịp huyên náo thường có
trong quán ăn tiếng thét gọi, tiếng mở chai bia, tiếng bia dội vào nhau, tiếng
đại phong cầm ồm ồm. Aliosa biết rằng Ivan hầu như không bao giờ đến quán này
và nói chung anh không thích đến quán ăn. Như vậy, anh ấy có mặt ở đây, -
Aliosa nghĩ, - chỉ để hẹn gặp anh Dmitri. Thế mà ở đây không có Dmitri.
- Tôi sẽ gọi cháo cá hoặc món gì cho chú, chú không thể chỉ sống
bằng nước trà được. - Ivan nói như thế, hết sức hài lòng vì đã dụ được Aliosa
lên. Bản thân chàng đã ăn xong và đang uống trà.
- Vâng, cho cháo cá, cháo cá xong rồi uống trà, tôi cũng đói
ngấu rồi. - Aliosa vui vẻ nói.
- Thế còn mứt anh đào? Ở đây có mứt anh đào. Chú có nhớ thuở
bé ở nhà Polenov chú thích mứt anh đào chứ?
- Vậy ra anh vẫn nhớ chuyện ấy à? Thế thì cả mứt nữa, bây giờ
tôi cũng vẫn thích.
Ivan lắc chuông gọi hầu bàn và bảo đưa cháo cá, trà và mứt.
- Tôi vẫn nhớ, Aliosa ạ, tôi vẫn nhớ hồi ấy chú mười một tuổi,
còn tôi mười lăm. Mười lăm và mười một, chênh nhau tới mức mà ở độ tuổi ấy anh
em không bao giờ chơi với nhau. Thậm chí tôi không biết tôi có yêu chú không.
Khi tôi ra Moskva, mấy năm đầu thậm chí tôi không nhớ đến chú. Rồi khi chú đến
Moskva, hình như chúng ta có gặp nhau một lần ở đâu đó. Bây giờ tôi ở đây đã hơn
ba tháng mà anh em ta chưa hề nói chuyện với nhau. Ngày mai tôi ra đi và trong
lúc ngồi ở đây tôi nghĩ: làm thế nào gặp được chú ấy để chia tay, vừa hay chú
đi ngang qua.
- Anh muốn gặp tôi lắm à?
- Muốn lắm, tôi muốn hiểu rõ chú và để cho chú hiểu rõ tôi.
Hiểu nhau rồi thì chia tay. Theo tôi, tốt nhất là hiểu rõ về nhau trước khi
chia tay. Tôi thấy suốt ba tháng ấy chú nhìn tôi như thế nào, trong mắt chú
luôn luôn có một vẻ chờ đợi gì đó, đấy chính là điều tôi không chịu đựng nổi,
vì thế tôi không làm thân với chú. Nhưng cuối cùng tôi đã biết quý trọng chú: một
con người vững vàng. Chú nên biết rằng bây giờ tôi cười cợt nhưng tôi nói
nghiêm chỉnh đấy. Chú là người vững vàng, phải không? Tôi yêu những con người vững
vàng như vậy, bất kể chỗ đứng của họ như thế nào, cho dù họ còn trẻ măng như
chú. Cuối cùng tôi thấy cái nhìn chờ đợi của chú không đáng ghét nữa. Tôi lại rốt
cuộc tôi yêu cái nhìn chờ đợi của chú… Hình như chú cũng yêu tôi vì lẽ gì đó,
phải không Aliosa?
- Tôi yêu anh, anh Ivan ạ. Anh Dmitri bảo: Ivan là nấm mồ.
Còn tôi thì tôi nói: Ivan là câu đố bí ẩn. Ngay bây giờ anh cũng vẫn là câu đố
bí ẩn, nhưng tôi đã hiểu được chút gì đó về anh, mà mới từ sáng nay thôi!
- Điều gì vậy? - Ivan bật cười.
- Anh không giận chứ? - Cả Aliosa cũng bật cười.
- Sao nào?
- Tôi khám phá ra rằng anh vẫn trẻ trung như tất cả các chàng
trai khác ở tuổi hăm ba, cũng tươi trẻ ngây thơ và dễ thương như thế, hơn nữa lại
thực sự là non dại! Sao, điều đó không làm anh bực bội lắm chứ?
- Trái lại, tôi sửng sốt vì sự trùng hợp! - Ivan reo lên một
cách vui vẻ và hăm hở. - Chẳng biết chú có tin không, sau cuộc gặp gỡ giữa
chúng ta sáng nay ở chỗ cô ấy, tôi chỉ nghĩ về bản thân, về việc tôi hai mươi
ba tuổi đầu rồi mà vẫn còn non nớt, vậy mà bây giờ đột nhiên chú đoán trúng và
mở đầu chính từ đó. Lúc nãy ngồi đây tôi tự nhủ: cho dù tôi không tin ở cuộc sống
nữa, cho dù tôi mất lòng tin vào người phụ nữ mà tôi yêu quý cho dù tôi không
tin vào trật tự của thiên nhiên nữa, thậm chí tin chắc rằng tất cả chỉ là một mớ
hỗn loạn đáng nguyền rủa, thậm chí là quỷ quái, cho dù tôi kinh hoàng về tất cả
nỗi khủng khiếp do sự thất vọng của con người đem lại thì tôi vẫn cứ muốn sống
và áp môi vào chén rượu trần ai, không rời khỏi nó cho đến khi uống cạn mới
thôi! Tuy nhiên đến ba mươi tuổi chắc là tôi sẽ vứt bỏ nó dù chưa uống hết và sẽ
ra đi… cũng chẳng biết là đi đâu. Nhưng cho đến năm ba mươi tuổi, tôi biết chắc
là tuổi trẻ của tôi sẽ không hết - mọi nỗi thất vọng, mọi sự chán đời. Tôi tự hỏi
nhiều lần: trên đời này có sự tuyệt vọng nào đè nén được niềm ham sống cuồng loạn
và có lẽ là bất nhã đó trong tôi được không? Và tôi cả quyết là không có cái gì
cả, tức là cho đến năm ba mươi tuổi, còn sau đó thì chính tôi không thiết nữa,
tôi cho là như thế. Lòng ham sống đó, một số nhà luân lí nhãi ranh ốm lao cho
là ti tiện, đặc biệt là những nhà thơ. Nó phần nào là đặc điểm của dòng họ
Karamazov, đấy là sự thật, ham sống bất kể hoàn cảnh nào, ở chú nhất định cũng
có cái đó, nhưng sao lại là ti tiện kia chứ? Trên hành tinh chúng ta vẫn còn rất
nhiều lực hướng tâm, Aliosa ạ. Tôi muốn sống, và tôi vẫn đang sống, tuy như vậy
là bất chấp logic. Tuy tôi không tin vào trật tự thiên nhiên, nhưng tôi yêu quý
những lộc non mùa xuân đang phơi mở, còn dính nhựa, tôi yêu quý bầu trời xanh,
tôi yêu quý con người mà đôi khi, tôi yêu quý kì công của con người, mặc dù có
lẽ đã từ lâu tôi không tin vào kì công, nhưng theo thói quen cũ, tôi vẫn kính
trọng trong lòng. Kìa, họ đã mang cháo cá cho chú, chú ăn ngon miệng nhé. Cháo
cá tuyệt lắm, họ nấu rất khéo. Tôi muốn sang châu Âu, Aliosa ạ, từ đây ra đi,
tôi biết rằng đến đấy tôi sẽ chỉ thấy một nghĩa trang, nhưng là một nghĩa trang
thân thiết nhất, thế đấy! Những người quá cố thân thiết yên nghỉ ở đấy, mỗi phiến
đã trên mỗ họ đều nói lên cuộc đời sôi nổi đã qua, nói lên niềm tin say mê vào
kì công, vào chân lí, vào cuộc đấu tranh và khoa học của họ, tôi biết trước là
tôi sẽ sụp xuống đất hôn những phiến đã ấy và khóc trên mồ của họ, mặc dù tôi
thực lòng tin rằng đã từ lâu đấy chỉ là một nghĩa trang, không có gì hơn. Tôi sẽ
khóc không phải vì thất vọng, mà chỉ vì nước mắt nhỏ ra sẽ làm tôi cảm thấy hạnh
phúc. Tôi sẽ say sưa vì sự cảm kích của mình. Tôi yêu những lộc non mùa xuân
đang phơi mở, còn dính nhựa, tôi yêu bầu trời xanh, thế đấy! Trí tuệ, logic
không dính dáng gì đến yêu bằng tâm can, bằng cõi lòng. Tôi nói lảm nhảm như vậy
chú có hiểu được gì không, Aliosa? - Ivan bỗng cất tiếng cười.
- Hiểu quá đi chứ, anh Ivan: anh muốn yêu bằng tâm can, bằng
cõi lòng, anh nói rất hay, tôi vô cùng vui mừng vì anh muốn sống như thế. -
Aliosa kêu lên. - Tôi cho rằng người ta phải yêu cuộc sống hơn hết mọi thứ trên
đời.
- Yêu cuộc sống hơn ý nghĩa của cuộc sống chứ?
- Hẳn là thế, yêu trước khi suy lý; như anh nói, nhất định là
trước khi suy lí, chỉ khi ấy tôi mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, đã từ lâu
tôi cảm thấy như thế. Anh đã làm được một nửa công việc, anh đã có một cái vốn:
anh ham sống. Bây giờ cần cố gắng lo nốt nửa kia công việc, như vậy là anh được
cứu rỗi.
- A chú tìm cách cứu tôi nhưng có lẽ tôi chưa chết đâu mà! Nửa
thứ hai của chú thế nào?
- Làm sống lại những người đã chết của anh, mà có lẽ họ chưa
hề chết bao giờ cả. Cho tôi chén trà. Tôi rất mừng là chúng ta nói chuyện với
nhau, anh Ivan ạ.
- Tôi thấy chú đang có điều gì hào hứng. Tôi rất thích những
professions de foi (1) của những người… tập tu như chú. Chú là người vững
vàng, Alecxei ạ. Có thật là chú ra khỏi tu viện không?
Chú thích:
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản, nghĩa là sự bộc lộ tín ngưỡng
(N.D).
- Quả có thế. Trưởng lão bảo tôi trở lại cõi tục.
- Như vậy thì ta sẽ còn gặp nhau trong cõi tục này cho đến
năm ba mươi tuổi, khi tôi bắt đầu từ bỏ chén rượu đời. Ông già nhà mình không
muốn rời bỏ chén rượu đời cho đến năm bảy mươi tuổi, thậm chí ông mơ ước đến
năm tám mươi, chính ông nói vậy, ông nói điều đó quá nghiêm chỉnh, tuy ông là một
tay hề, ông đứng vững trên thói ham mê nhục dục của mình như đứng trên tảng đá…
tuy rằng ngoài ba mươi tuổi, thực ra có lẽ không còn chỗ nào đứng chân được nữa,
ngoài cái đó ra… Nhưng cố bám đến bảy mươi tuổi thì thật ti tiện, nên đến ba
mươi thôi thì hơn: như vậy còn giữ được “cái mẽ cao quý” dù là tự lừa mình. Hôm
nay chú không gặp Dmitri à?
- Không, nhưng tôi có gặp Xmerdiakov. - Và Aliosa kẻ vội vàng
nhưng tỉ mỉ với Ivan về cuộc gặp gỡ Xmerdiakov, Ivan đột nhiên có vẻ rất lo ngại
khi nghe anh kể, thậm chí còn hỏi lại một số điều.
- Nhưng nó nài nỉ tôi đừng nói với anh Dmitri rằng nó đã cho
tôi biết về anh ấy. - Aliosa nói thêm.
Ivan cau mày nghĩ ngợi.
- Anh cau có là vì thằng Xmerdiakov ư? - Aliosa hỏi.
- Phải, vì nó. Quỷ tha ma bắt nó đi, quả là tôi muốn gặp
Dmitri thật, nhưng bây giờ thì không cần nữa… - Ivan nói một cách miễn cưỡng.
- Anh sắp ra đi thực ư?
- Ừ!
- Thế chuyện anh Dmitri với ba rồi ra sao? Kết cục sẽ thế
nào? - Aliosa lo lắng thốt lên.
- Chú vẫn cứ luẩn quẩn với chuyện ấy! Mà tôi cần gì đến đấy?
- Tôi là người canh giữ anh Dmitri chắc? - Ivan cáu kỉnh độp lại, nhưng đột
nhiên lại mỉm cười chua chát. - Câu trả lời của Caine (2) với Thượng đế về
người em bị giết, phải không? Có lẽ lúc này chú nghĩ đến điều ấy phải không?
Nhưng quái quỷ thật, quả thật tôi không thể ở lại để canh giữ hai người ư? Tôi
đã làm xong việc của tôi và tôi đi. Chắc chú nghĩ rằng tôi ghen với anh Dmitri
và ba tháng qua tôi cố tìm cách phỗng người đẹp Ekaterina Ivanovna của anh ấy. Ồ,
quỷ ạ, tôi có việc của tôi. Tôi đã xong việc thì tôi đi. Vừa rồi tôi đã giải
quyết xong việc của tôi, chú chứng kiến đấy.
Chú thích:
Chú thích:
(2) Caine và Abel đều là con của Eva với Adam. Caine giết em
là Abel vì ghen tị. Chúa Trời hỏi Caine về Abel, Caine đáp: “Tôi là người coi
giữ em tôi sao?” (N.D).
- Chuyện vừa rồi ở nhà Ekaterina Ivanovna ấy à?
- Ừ, ở chỗ cô ấy, tôi đã tức thời tự giải thoát. Thế thì đã
sao kia chứ? Tôi bận tâm gì đến Dmitri kia chứ. Dmitri không dính dáng gì đến
đây. Tôi có việc riêng của tôi với Ekaterina Ivanovna. Tự chú biết đấy, anh
Dmitri xử sự như thể anh ấy đồng mưu với tôi. Thực ra tôi tuyệt nhiên không cầu
xin gì anh ấy cả, chính anh ấy trịnh trọng nhường lại nàng cho tôi và cầu chúc
cho chúng tôi. Thật là tức cười. Không, Aliosa, không, giá như chú biết bây giờ
tôi cảm thấy nhẹ nhõm như thế nào! Tôi ngồi ăn ở đây, và chú có tin không, tôi
muốn gọi sâm banh để uống mừng giờ tự do đầu tiên cửa tôi. Hừ, ngót nửa năm, vậy
mà bỗng nhiên trong chốc lát, trong chốc lát rũ bỏ được hết. Thậm chí mới hôm
qua thôi tôi đâu có ngờ rằng nếu muốn thì có thể chấm dứt chuyện đó dễ như bỡn!
- Anh nói về tình yêu của mình như thế ư, anh Ivan?
- Tình yêu, nếu chú muốn gọi như thế thì cũng được, tôi đã mê
một tiểu thư, một cô sinh viên đại học. Tôi đau khổ vì cô ấy, cô ấy hành hạ
tôi. Tôi nát óc vì cô ấy… thế rồi bỗng nhiên tất cả tan biến. Lúc ở đấy tôi nói
một cách hào hứng, thế mà khi ra khỏi nhà tôi phá lên cười, chú nên tin tôi.
Không, tôi nói hoàn toàn thật đấy.
- Bây giờ anh nói chuyện ấy cũng rất mực vui vẻ. - Aliosa nhận
xét, đồng thời chăm chú nhìn khuôn mặt quả thật là đã trở nên vui vẻ của anh.
- Tôi làm sao biết được rằng tôi hoàn toàn không yêu nàng kia
chứ? Hề hề. Vậy mà té ra là không yêu. Nhưng trước đây tôi thích nàng lắm đấy.
Thậm chí lúc tôi thuyết lí hùng hồn tôi vẫn thích nàng lắm. Và chú biết không,
bây giờ tôi cũng vẫn thích ghê lắm, ấy thế mà tôi bỏ nàng ra đi dễ dàng như vậy.
Chú tưởng tôi nói phách phải không?
- Không. Nhưng có lẽ đấy không phải là tình yêu.
- Aliosa, - Ivan bật cười, - đừng có lí sự về tình yêu! Không
đẹp cho chú đâu. Lúc ấy chú đột nhiên nói tuột ra, chà - chà! Tôi còn quên
không hôn chú về việc ấy… Nàng làm tôi khổ tâm biết bao! Tôi ngồi đấy mà đúng
là tan lòng nát ruột. Ôi chao, nàng biết tôi yêu nàng! Nàng yêu tôi chứ không
phải là yêu Dmitri, - Ivan vui vẻ nhấn mạnh. - Dmitri chỉ là nỗi đau vò xé của
nàng. Tất cả những gì tôi nói với nàng lúc ấy hoàn toàn là thật. Nhưng điều
quan trọng nhất là có lẽ phải mười lăm hay hai mươi năm nữa nàng mới hiểu ra rằng
nàng không hề yêu Dmitri, mà chỉ yêu tôi thôi, người mà nàng vẫn làm cho khổ sở.
Mà có lẽ chẳng bao giờ nàng hiểu ra, mặc dù có bài học hôm nay. Như vậy càng tốt:
tôi đã lìa bỏ nàng ra đi mãi mãi. A mà bây giờ nàng thế nào? Có chuyện gì sau
khi tôi ra về?
Aliosa kể với anh về việc Ekaterina Ivanovna lên cơn thần
kinh và hình như bây giờ vẫn còn bất tỉnh và mê sảng.
- Liệu bà Khokhlakova có nói dối không?
- Hình như không.
- Cần hỏi thăm xem. Tuy nhiên, chưa bao giờ có ai chết vì lên
cơn thần kinh. Vả lại cũng tốt thôi. Chúa ban cho phụ nữ món ấy vì yêu họ. Tôi
sẽ không đến đấy đâu. Lại đâm đầu đến làm gì.
- Nhưng lúc ấy anh đã nói với nàng là nàng chưa bao giờ yêu
anh.
- Tôi cố ý nói thế đấy. Aliosa ạ, tôi sẽ gọi sâm banh, đề uống
mừng tự do của tôi. Không, giá như chú biết tôi vui sướng dường nào.
- Không, anh ạ, chúng ta không nên uống thì hơn. - Aliosa
nói. - Với lại tôi hơi buồn.
- Phải, chú buồn từ lâu rồi, tôi thấy điều đó từ lâu.
- Thế anh nhất quyết sáng mai đi à?
- Sáng ư? Tôi không nói là buổi sáng… Nhưng có lẽ là sáng.
Chú có tin hay không, hôm nay tôi ăn ở đây chỉ là để khỏi phải ăn với ông già,
tôi đã sớm ghét ông già đến thế rồi đấy. Nếu chỉ có ông ấy thôi thì tôi đã bỏ
đi từ lâu rồi. Thế làm sao chú lo lắng đến thế về việc tôi sắp ra đi? Từ giờ đến
lúc tôi đi, anh em ta còn nhiều thời gian vô kể. Nó là vĩnh cửu, thiên thu bất
tận!
- Ngày mai anh đi rồi thì vĩnh cửu cái quái gì?
- Nhưng với anh em ta thì có can gì đâu chứ? - Ivan bật cười.
Ta vẫn còn kịp bàn chuyện của chúng ta, chuyện riêng của chúng ta, chúng ta đến
đây để làm gì nhỉ? Sao chú lại có vẻ ngạc nhiên vậy? Chú trả lời đi: chúng ta gặp
nhau ở đây để làm gì? Để nói về tình yêu với Ekaterina Ivanovna, về ông già và
Dmitri à? Về nước ngoài à? Về tinh cảnh nguy ngập của nước Nga à? Về hoàng đế
Napoleon à? Phải thế không, có phải vì thế không?
- Không, không phải vì thế.
Thế thì chính chú hiểu là để làm gì. Với người khác thì chẳng
nói, chứ chúng ta là những kẻ còn non dại, chúng ta trước hết phải giải quyết
những vấn đề muôn thuở, đó là mối bận tâm của chúng ta. Cả nước Nga trẻ tuổi
bây giờ chỉ bàn về nhưng vấn đề vĩnh cửu. Chính bây giờ, khi tất cả những người
già bỗng dưng đều chú tâm vào những vấn đề thực tế. Vì lẽ gì suốt ba tháng ấy
chú cứ nhìn tôi chờ đợi? Để hỏi tôi “tín ngưỡng của anh là gì” hay “anh hoàn
toàn không tín ngưỡng”? - Cái nhìn của chú suốt ba tháng trời chung quy lại là
như vậy, phải không, Alecxei Fedorovich?
- Có lẽ thế - Aliosa mỉm cười. - Nhưng lúc này anh không cười
nhạo tôi đấy chứ?
- Tôi mà cười ấy ư? Tôi không muốn làm rầu lòng người em đã
suốt ba tháng trời nhìn tôi trong tâm trạng chờ đợi như thế, Aliosa, hãy nhìn
thẳng vào tôi, chính tôi cũng đích thực là chú bé con như chú, chỉ khác cái là
tôi không phải là người tập tu. Cho đến giờ những chú bé Nga làm gì? Nghĩa là
nói một số người trong bọn họ? Chẳng hạn hãy xét cái quán ăn hôi hám này, họ
kéo nhau đến đây, chúi vào một góc. Trước đó họ không hề biết nhau, rồi sau đó,
khi rời khỏi nơi này, bốn chục năm nữa họ cũng sẽ không biết nhau, thế thì họ
luận bàn cái gì khi chộp được một phút ngắn ngủi ở quán ăn? Họ bàn về những vấn
đề vũ trụ: có Chúa Trời không, có linh hồn bất diệt không? Những người không
tin có Chúa Trời thì nói về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa vô chính phủ, về việc
cải tạo toàn nhân loại theo một thể chế mới, như vậy thì sẽ vẫn là trò quỷ mà
thôi, vẫn là những vấn đề ấy, nhưng nhìn từ đầu đằng kia. Thời buổi này ở ta có
biết bao nhiêu chú thiếu niên Nga xuất sắc nhất chỉ làm mỗi cái việc là luận
bàn về những vấn đề vĩnh cửu thôi. Phải thế không?
- Đúng, đối với người Nga chân chính thì vấn đề đầu tiên và
trước hết cố nhiên là những vấn đề: có Chúa Trời không và có linh hồn bất diệt
không, hay như anh nói, những vấn đề nhìn từ đầu đằng kia, mà thế là phải thôi.
- Aliosa nói và vẫn với nụ cười hiền lành và dò xét ấy, nhìn Ivan chằm chằm.
- Này, Aliosa ạ, làm người Nga đôi khi không phải là khôn lắm
đâu, nhưng không thể tưởng tượng nổi cái gì ngốc nghếch hơn việc mà lúc này những
gã thiếu niên Nga đang bận tâm. Nhưng có một gã thiếu niên Nga mà tôi rất yêu mến.
- Anh dẫn chuyện đến là khéo. - Aliosa bỗng bật cười.
- Này, nói đi, cần bắt đầu từ đâu, ra lệnh đi, từ Chúa Trời
ư? Có Chúa Trời hay không chứ gì?
- Tùy anh, muốn bắt đầu từ đâu cũng được, cho dù là “từ đầu đằng
kia”. Hôm qua ở nhà ba, anh tuyên bố rằng không có Chúa Trời kia mà. - Aliosa
nhìn anh với vẻ dò xét.
- Hôm qua trong bữa ăn ở nhà ông già, tôi cố ý nói vậy để
trêu chọc chú mà thôi, và tôi thấy mắt chú nảy lửa. Nhưng bây giờ tôi hoàn toàn
sẵn lòng nói chuyện với chú và nói rất nghiêm chỉnh. Tôi muốn thỏa thuận với
chú, Aliosa, vì tôi không có bạn, tôi muốn thử tìm bạn. Này, chú tưởng tượng
xem, có lẽ tôi thừa nhận là có Chúa Trời, - Ivan bật cười, - đấy là điều bất ngờ
đối với chú, phải không?
- Vâng, tất nhiên, miễn là lúc này không phải anh đùa.
- “Đùa”. Hôm qua ở chỗ trưởng lão người ta bảo là tôi đùa.
Này, chú em đáng yêu ạ, thế kỷ mười tám có một ông già trần tục nói rằng nếu
như không có Chúa Trời thì phải bịa đặt ra Chúa Trời, s iln existaitpas Dieu il
faudra it l inventer. Quả thật là con người bịa đặt ra Chúa Trời. Và điều lạ
lùng, điều kì dị không phải là thực sự có Chúa Trời, điều kỳ dị ấy là ý nghĩ ấy
- ý nghĩ cần phải có Chúa Trời - lại có thể len vào đầu một con vật hoang dã và
hung dữ như con người, một ý nghĩ rất đỗi thiêng liêng, rất mực cảm động, khôn
ngoan đến điều và làm vinh dự cho con người vô cùng. Về phần tôi thì đã từ lâu
tôi quyết định không nghĩ đến chuyện con người sáng tạo ra Chúa Trời hay Chúa
Trời sáng tạo ra con người. Dĩ nhiên tôi sẽ không điểm lại tất cả các tiên đề
hiện nay của các chú thiếu niên Nga về vấn đề này, tất cả các tiên đề đó đều là
suy ra từ những giả thuyết châu Âu; bởi vì cái mà ở đấy là giả thuyết thì lập tức
trở thành tiên đề đối với chú thiếu niên Nga, mà chẳng phải chỉ với các chú thiếu
niên thôi đâu, mà cả với các giáo sư của họ nữa, bởi vì điều rất thường có ở ta
hiện nay là các giáo sư Nga cũng là những chú thiếu niên Nga. Vì thế tôi bỏ qua
tất cả các giả thuyết. Bây giờ nhiệm vụ của tôi với chú là gì? Nhiệm vụ của tôi
phải làm thế nào giải thích thật mau lẹ với chú về bản chất của tôi: tôi là người
thế nào, tôi tin vào cái gì và hi vọng gì, thế chứ gì? Vì vậy tôi tuyên bố rằng
tôi chấp nhận Chúa Trời một cách trực tiếp và giản dị. Tuy nhiên, cần lưu ý một
điều: nếu như có Chúa Trời và quả thực là Chúa Trời sáng tạo ra trái đất thì
chúng ta hoàn toàn biết rằng Ngài tạo ra nó theo hình học Euclit, còn trí tuệ
con người thì chỉ có khái niệm về ba chiều không gian. Thế nhưng trước kia và
ngay cả bây giờ nữa vẫn có những nhà hình học và những nhà triết học, thậm chí
cả những người lỗi lạc nhất trong bọn họ, hoài nghi về việc cả vũ trụ, hay rộng
hơn nữa, mọi tồn tại được tạo nên chỉ theo hình học Euclit, thậm chí họ dám mơ
ước rằng hai đường thẳng song song, mà theo Euclit thì không thể gặp nhau ở vô
cực. Chú ạ, tôi đã quyết định rằng nếu như ngay cả điều đó tôi cũng không hiểu
nổi thì sao tôi hiểu được về Chúa Trời. Tôi khiêm nhường thú nhận rằng tôi
không có chút khả năng nào giải quyết được những vấn đề như thế, trí tuệ tôi là
trí tuệ Euclit phàm trần, vì thế làm thế nào mà giải quyết vấn đề không phải của
thế gian này. Mà tôi cũng khuyên chú đừng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy, bạn tôi ạ,
nhất là vấn đề có hay không có Chúa Trời. Đấy là những vấn đề vượt hẳn ra ngoài
khả năng của cái trí tuệ chỉ có khái niệm về ba chiều. Vậy là tôi chấp nhận có
Chúa Trời, chẳng những là sẵn lòng chấp nhận, mà còn chấp nhận cả sự anh minh
và mục đích của Ngài mà chúng ta hoàn toàn không biết được, tôi tin vào trật tự,
vào ý nghĩa của cuộc sống, tôi tin vào sự hài hòa vĩnh cửu mà một ngày ba chúng
ta sẽ hòa nhập cả lại mà tạo nên, tôi tin vào Lời, tất cả vũ trụ hướng về Lời.
Lời “ở nơi Chúa Trời” và Lời chính là Chúa Trời, vân vân và vân vân, cứ thế đến
vô cùng. Người ta đã nói bao nhiêu lời về chuyện này. Dường như tôi đang ở trên
con đường đúng, phải không? Chú hãy tưởng tượng rằng rốt cuộc thì tôi không chấp
nhận thế giới này của Chúa Trời, tuy tôi biết là có. Chúa Trời, nhưng tôi không
dung nạp. Tôi chối bỏ không phải là Chúa Trời, chú nên hiểu điều đó, mà là thế
giới do Chúa Trời tạo ra, tôi không chấp nhận thế giới của Chúa và không thể
thuận tình chấp nhận được. Tôi xin nói rõ: Như một hài nhi, tôi tin chắc rằng
những đau khổ rồi sẽ lành vết và qua đi, toàn bộ tính hài kịch đáng giận của những
mâu thuẫn trong quan hệ giữa người với người sẽ tan biến như một ảo ảnh thảm hại
như nguyên tử là sự bịa đặt bỉ ổi của trí óc Euclit yếu đuối và nhỏ mọn, và cuối
cùng, đến phần chót của tấn trò đời, khi sự hài hòa vĩnh cửu ngự trị khắp nơi
thì sẽ xuất hiện một cái gì quý giá đủ cho mọi trái tim, làm dịu hết mọi phẫn nộ,
chuộc lại được mọi tội ác người đời và tất cả máu đã đổ ra, đủ để chẳng những
có thể tha thứ mà còn biện bạch cho tất cả những gì đã xảy ra với người đời,
cho dù là tất cả những cái đó sẽ thành sự thực, sẽ đến, nhưng tôi không chấp nhận
và không muốn chấp nhận! Cho dù nhưng đường song song sẽ gặp nhau và chính mắt
tôi nhìn thấy; tôi nhìn thấy và tôi sẽ nói rằng chúng đã gặp nhau, nhưng tôi vẫn
sẽ không chấp nhận! Đấy là bản chất của tôi, Aliosa ạ, đấy là luận đề của tôi.
Tôi nói với chú hoàn toàn nghiêm chỉnh đấy. Tôi chủ tâm bắt đầu cuộc nói chuyện
này giữa tôi và chú sao cho thật ngớ ngẩn, nhưng rồi dắt dẫn nó đến sự xưng tội
của tôi, bởi vì chú cũng chỉ cần có thế thôi. Chú đừng bàn về Chúa, mà chỉ cần
biết ông anh yêu mến của chú lấy gì làm lẽ sống. Thì tôi đã nói ra rồi đấy.
Ivan kết luận bài độc thoại tràng giang đại hải của mình, đột
nhiên trong lòng chàng dậy lên một tình cảm đặc biệt, bất ngờ.
- Nhưng tại sao anh lại mở đầu “sao cho thật ngớ ngẩn”? -
Aliosa hỏi, trầm ngâm nhìn anh.
- Đúng, thứ nhất là để tạo nên màu sắc đặc Nga: người Nga bàn
luận về những đề tài ấy bao giờ cũng hết sức ngớ ngẩn. Hai nữa là càng ngớ ngẩn
càng gần với thực tế. Càng ngớ ngẩn càng sáng rõ. Ngớ ngẩn thì ngắn gọn và chân
chất, còn tinh khôn thì quanh co và lẩn trốn. Tinh khôn thì ti tiện, ngớ ngẩn
thì ngay thẳng thật thà. Tôi đã đi đến chỗ bộc lộ sự thất vọng của tôi, và tôi
trình bày sự thất vọng đó càng ngớ ngẩn càng có lợi cho tôi.
- Anh sẽ giải thích cho tôi biết vì sao anh “không chấp nhận
thế giới này” chứ? - Aliosa nói.
- Ừ, cố nhiên, tôi sẽ giải thích, không có gì là bí mật, thì
tôi cũng cốt thế mà thôi. Chú em tôi ơi, tôi không có ý làm hỏng chú và đẩy chú
ra khỏi chỗ đứng vững chắc của chú, mà có lẽ tôi muốn dùng chú làm phương thuốc
chữa bệnh cho mình. - Ivan bỗng mỉm cười, hoàn toàn như một đứa bé nhỏ tuổi hiền
lành.
Chưa bao giờ Aliosa thấy anh có nụ cười như thế.
Phần 5
Chương 4 - P1: Nổi loạn
Chương 4 - P1: Nổi loạn
- Tôi phải thú nhận với chú một điều, - Ivan nói, - tôi chưa
bao giờ hiểu được làm sao có thể yêu được đồng loại. Theo tôi, chính đồng loại
mới là những kẻ ta không thể nào yêu được, họa chăng là những người ở xa thì
may ra. Tôi đã có đọc ở đâu đó về “Gioan nhân từ” (một vị thánh) (1): một người
qua đường đói rét xin thánh sưởi ấm cho, ông ta lên nằm cùng giường với người ấy
ôm lấy ấy hà hơi vào miệng y, mà miệng y thì mưng mủ và hôi thối vì một bệnh khủng
khiếp gì không rõ. Tôi tin chắc thánh phải gắng tự dối mình để làm được như thế,
do thấm nhuần bổn phận phải yêu người, do tự hành thân để giải tội. Muốn yêu được
một con người thì phải giấu mặt đi, hễ phô mặt ra là tình yêu biến mất.
Chú thích:
Chú thích:
(1) Câu chuyện Ivan kể ở đây lấy trong “Truyền thuyết về
thánh Juyliêng nhân từ của G. Flobe (N.D).
- Trưởng lão Zoxima đã nhiều lần nói đến điều ấy, - Aliosa
lưu ý - Cha cũng nói rằng đối với nhiều người ít kinh nghiệm về tình yêu, nhiều
khi bộ mặt con người là trở ngại ngăn cản người ta yêu nhau. Thế nhưng trong
nhân loại vẫn có nhiều tình yêu, kể cả tình yêu gần như tình yêu của Chúa Kito,
điều đó thì tôi biết qua kinh nghiệm bản thân, anh Ivan ạ.
- Còn tôi thì hiện thời tôi chưa biết điều đó và không thể
nào hiểu được, và rất nhiều người cũng như tôi. Vấn đề là: đấy là do tính xấu của
người đời, hay bản lĩnh con người vốn như thế. Tôi cho rộng lòng yêu người của
Chúa Kito là một thứ phép lạ không thể có trên cõi thế. Thì Ngài là Chúa Trời
mà. Nhưng chúng ta không phải là Chúa Trời. Chẳng hạn, giả sử tôi đau khổ sâu sắc,
những người khác không bao giờ có thể biết được tôi đau khổ dường nào, vì đấy
là người khác, chứ không phải là tôi, vả lại ít có người chịu thừa nhận kẻ khác
là con người đau khổ (dường như đấy là một phẩm tước). Tại sao vậy, chú nghĩ thế
nào? Ấy là bởi tôi có mùi hôi hám chẳng hạn, hay tại mặt tôi nom đần độn, hay tại
tôi đã có lần giẫm phải chân người đó.
Với lại, đau khổ có nhiều loại: nỗi đau khổ loại này thì ân nhân của tôi còn chấp nhận được, nhưng loại đau khổ cao hơn một chút, đau khổ về tư tưởng chẳng hạn thì không được, hạn hữu lắm ngài mới cho phép, bởi vì giả dụ ngài nhìn tôi và bỗng thấy mặt tôi không phải là bộ mặt mà trí tưởng tượng của ngài hình dung ra cho một người đau khổ về một tư tưởng như thế. Vậy là lập tức ngài tước bỏ những ân huệ ban cho tôi, mà hoàn toàn không phải là độc ác. Người hành khất, đặc biệt là những người hành khất cao quý, không bao giờ nên xuất đầu lộ diện, mà phải xin bố thí qua báo chí. Về lí thuyết thì vẫn có thể yêu đồng loại, dù là yêu từ xa, nhưng ở gần thì hầu như không bao giờ. Nếu mọi cái như trên sân khấu trong vũ ba lê, nhưng kẻ hành khất xuất hiện trong những bộ quần áo rách bằng tơ lụa và những tấm đăng ten tơi tả, xin bố thí bằng động tác vũ duyên dáng thì có thể thích thú ngắm nhìn họ. Nhìn mà thích thú, chứ vẫn không yêu. Những chuyện ấy nói thế đủ rồi. Tôi chỉ cần đặt chú vào điểm nhìn của tôi. Tôi muốn nói về nỗi đau khổ của nhân loại nói chung, nhưng tốt hơn hết là ta đừng lôi ở nỗi đau khổ của trẻ em mà thôi, điều đó sẽ làm cho quy mô lí lẽ của tôi giảm bớt đi mười lần, nhưng chỉ nói về trẻ em thôi thì hơn. Như vậy thì bất lợi cho tôi hơn, tất nhiên. Nhưng thứ nhất, trẻ em thì ở gần vẫn có thể yêu chúng được, cho dù chúng bẩn thỉu, cho dù mặt mũi chúng xấu xí (nhưng tôi cho rằng trẻ em không bao giờ xấu xí). Hai nữa, tôi không nói đến người lớn còn vì lẽ họ đáng kinh tởm, không đáng được yêu, họ đang phải chịu sự trừng phạt: họ đã ăn quả cấm và nhận biết được thiện ác, họ đã trở nên “giống như Chúa Trời”. Bây giờ họ vẫn tiếp tục ăn quả cấm. Nhưng trẻ em chưa ăn gì cả và chưa phạm tội gì hết. Chú có yêu tôi không, Aliosa? Tôi biết chú yêu trẻ, chú sẽ hiểu được vì sao lúc này lôi chỉ muốn nói đến trẻ em. Trẻ em trên trái đất cũng đau khổ nhiều không, cố nhiên đấy là để chuộc tội cho cha, chúng bị trừng phạt vì cha chúng đã ăn quả cấm, - nhưng đấy là lập luận của thế giới khác trái tim người trên cõi đất này không hiểu được. Người vô tội nhất là lại vô tội như trẻ thơ, không thể phải đau khổ thay cho kẻ khác! Tôi làm chú ngạc nhiên, Aliosa, nhưng tôi cũng yêu trẻ lắm. Và xin lưu ý cho một điều: những kẻ tàn ác, đam mê, ham nhục dục, nhưng kẻ dòng họ Karamazov, đôi khi cũng rất yêu trẻ. Trẻ em, chí ít là trẻ dưới bảy tuổi, khác xa người lớn: đấy tuồng như là một thực thể khác, một bản chất khác. Tôi biết một tên cướp bị giam trong tù: trong thời gian còn hoành hành, ban đêm khi lọt vào nhà người ta để cướp bóc, nhiều khi hắn giết cả từng gia đình, tiện tay cắt cổ luôn mấy đứa trẻ. Nhưng khi ở tù hắn yêu trẻ lạ lùng. Qua cửa sổ phòng giam, hắn chỉ nhìn bọn trẻ chơi trong sân nhà tù. Hắn đã làm cho một thằng bé nhỏ tuổi quen đến gần cửa sổ chỗ hắn. Thằng bé rất thân với hắn… Chú có biết tôi nói những chuyện ấy để làm gì không, Aliosa? Tôi hơi đau đầu và tôi buồn.
Với lại, đau khổ có nhiều loại: nỗi đau khổ loại này thì ân nhân của tôi còn chấp nhận được, nhưng loại đau khổ cao hơn một chút, đau khổ về tư tưởng chẳng hạn thì không được, hạn hữu lắm ngài mới cho phép, bởi vì giả dụ ngài nhìn tôi và bỗng thấy mặt tôi không phải là bộ mặt mà trí tưởng tượng của ngài hình dung ra cho một người đau khổ về một tư tưởng như thế. Vậy là lập tức ngài tước bỏ những ân huệ ban cho tôi, mà hoàn toàn không phải là độc ác. Người hành khất, đặc biệt là những người hành khất cao quý, không bao giờ nên xuất đầu lộ diện, mà phải xin bố thí qua báo chí. Về lí thuyết thì vẫn có thể yêu đồng loại, dù là yêu từ xa, nhưng ở gần thì hầu như không bao giờ. Nếu mọi cái như trên sân khấu trong vũ ba lê, nhưng kẻ hành khất xuất hiện trong những bộ quần áo rách bằng tơ lụa và những tấm đăng ten tơi tả, xin bố thí bằng động tác vũ duyên dáng thì có thể thích thú ngắm nhìn họ. Nhìn mà thích thú, chứ vẫn không yêu. Những chuyện ấy nói thế đủ rồi. Tôi chỉ cần đặt chú vào điểm nhìn của tôi. Tôi muốn nói về nỗi đau khổ của nhân loại nói chung, nhưng tốt hơn hết là ta đừng lôi ở nỗi đau khổ của trẻ em mà thôi, điều đó sẽ làm cho quy mô lí lẽ của tôi giảm bớt đi mười lần, nhưng chỉ nói về trẻ em thôi thì hơn. Như vậy thì bất lợi cho tôi hơn, tất nhiên. Nhưng thứ nhất, trẻ em thì ở gần vẫn có thể yêu chúng được, cho dù chúng bẩn thỉu, cho dù mặt mũi chúng xấu xí (nhưng tôi cho rằng trẻ em không bao giờ xấu xí). Hai nữa, tôi không nói đến người lớn còn vì lẽ họ đáng kinh tởm, không đáng được yêu, họ đang phải chịu sự trừng phạt: họ đã ăn quả cấm và nhận biết được thiện ác, họ đã trở nên “giống như Chúa Trời”. Bây giờ họ vẫn tiếp tục ăn quả cấm. Nhưng trẻ em chưa ăn gì cả và chưa phạm tội gì hết. Chú có yêu tôi không, Aliosa? Tôi biết chú yêu trẻ, chú sẽ hiểu được vì sao lúc này lôi chỉ muốn nói đến trẻ em. Trẻ em trên trái đất cũng đau khổ nhiều không, cố nhiên đấy là để chuộc tội cho cha, chúng bị trừng phạt vì cha chúng đã ăn quả cấm, - nhưng đấy là lập luận của thế giới khác trái tim người trên cõi đất này không hiểu được. Người vô tội nhất là lại vô tội như trẻ thơ, không thể phải đau khổ thay cho kẻ khác! Tôi làm chú ngạc nhiên, Aliosa, nhưng tôi cũng yêu trẻ lắm. Và xin lưu ý cho một điều: những kẻ tàn ác, đam mê, ham nhục dục, nhưng kẻ dòng họ Karamazov, đôi khi cũng rất yêu trẻ. Trẻ em, chí ít là trẻ dưới bảy tuổi, khác xa người lớn: đấy tuồng như là một thực thể khác, một bản chất khác. Tôi biết một tên cướp bị giam trong tù: trong thời gian còn hoành hành, ban đêm khi lọt vào nhà người ta để cướp bóc, nhiều khi hắn giết cả từng gia đình, tiện tay cắt cổ luôn mấy đứa trẻ. Nhưng khi ở tù hắn yêu trẻ lạ lùng. Qua cửa sổ phòng giam, hắn chỉ nhìn bọn trẻ chơi trong sân nhà tù. Hắn đã làm cho một thằng bé nhỏ tuổi quen đến gần cửa sổ chỗ hắn. Thằng bé rất thân với hắn… Chú có biết tôi nói những chuyện ấy để làm gì không, Aliosa? Tôi hơi đau đầu và tôi buồn.
- Anh nom có vẻ kì lạ, - Aliosa nhận xét với vẻ lo lắng, - tuồng
như anh loạn trí thế nào ấy.
- A mà mới đây một người Bungari ở Moskva có kể với tôi câu
chuyện. - Ivan Fedorovich nói tiếp, như thể không nghe cậu em nói. - Người Thổ
và người Trerkex giở trò tàn ác ở khắp nơi trên đất Bungati, vì sợ cuộc nổi dậy
toàn thể của người Xlavơ. Chúng đốt nhà, cắt cổ, hãm hiếp đàn bà và trẻ em,
đóng đinh tai những người bị bắt vào hàng rào, để như thế đến sáng, rồi đem
treo cổ, và đủ mọi hành động khác không thể nào tưởng tượng nối. Thực ra, đôi
khi người ta nói về sự tàn bạo “thú vật” của con người, nhưng như vậy thật là
oan ức cho thú vật: thú vật không bao giờ tàn bạo được như người, con người tàn
bạo một cách tài tình có nghệ thuật. Hổ chỉ cắn xé, và chỉ biết làm như thế
thôi. Nó không bao giờ nghĩ ra được cái trò dùng đinh đóng tai người ta vào
hàng rào suốt đêm, cho dù nó có thể làm được việc đó đi nữa. Xin nói thêm là bọn
Thổ Nhĩ Kỳ ấy hành hạ cả trẻ con với một khoái lạc bạo dâm, kể từ việc dùng dao
găm rạch bụng mẹ lôi cái thai ra: cho đến việc tung đứa hài nhi lên rồi dùng lưỡi
lê xọc lấy ngay trước mắt bà mẹ. Thích thú nhất là làm ngay trước mặt các bà mẹ.
Tuy nhiên, có một cảnh làm tôi hết sức quan tâm. Chú hãy tưởng tượng xem: một đứa
hài nhi trên tay bà mẹ đang sợ run lên, mấy tên Thổ Nhĩ Kỳ quây xung quanh.
Chúng định bày ra một trò vui: chúng vuốt ve đứa bé, cười để làm cho nó cười,
chúng thành công, đứa bé cười sằng sắc. Lúc ấy một tên Thổ Nhĩ Kỳ chĩa nòng
súng lục vào sát mặt đứa bé, cách chưa đến một gang tay. Đứa bé cười to vui sướng,
đưa đôi tay bé xíu ra với lấy cây súng, thế là nhà nghệ sĩ đột nhiên bóp cò, bắn
vỡ đầu đứa bé con… Có nghệ thuật đấy chứ, phải không? Vậy mà người ta bảo là
người Thổ thích của ngọt đấy.
- Anh ơi, anh nói tất cả những chuyện ấy để làm gì nhỉ?
- Tôi cho rằng nếu không có quỷ thì tức là quỷ do người tạo ra,
những người tạo ra quỷ theo hình ảnh của mình và giống như mình.
- Nếu vậy thì cả Chúa Trời cũng thế.
- Chú xoay trở ngôn từ khéo lạ, như Polomux đã nói trong
“Hamlet”. - Ivan bật cười. - Chú nắm ngay lấy lời tôi để vặn tôi, thôi được,
tôi lấy làm mừng Chúa Trời của chú rõ thật là tệ hại khi tạo ra con người theo
hình ảnh của mình và giống như mình. Ban nãy chú hỏi tôi về những chuyện ấy để
làm gì. Chú ạ, tôi là người thích sưu tầm các sự kiện và chẳng biết chú có tin
hay không, tôi ghi chép và thu thập những chuyện đăng trên báo và nghe kể nguồn
gốc từ đâu, đấy là một loại chuyện phiếm, và tôi đã lập được một bộ sưu tập dày
dặn. Bọn Thổ Nhĩ Kỳ cố nhiên là có mặt trong bộ sưu tập đó, nhưng đấy toàn là
người nước ngoài. Tôi có cả những chuyện trong nước thậm chí còn hơn cả chuyện
về người Thổ Nhĩ Kỳ. Chú ạ, ở ta việc đánh đập, dùng roi vọt xảy ra nhiều hơn,
đấy là bản chất dân tộc: ở ta không thể có chuyện đóng đinh tai người, dù sao
chúng ta cũng là người châu Âu, nhưng dùng roi vọt là tài nghệ riêng không thể
tước bỏ được của chúng ta. Ở nước ngoài bây giờ hình như không có chuyện đánh
người, phong tục đã thuần hóa hay luật pháp khiến người ta không dám dùng roi
đánh người, nhưng họ đã bù đắp lại bằng một thói quen khác cũng có tính chất
dân tộc như thói quen của chúng ta, và có tính dân tộc đậm nét đến nỗi cách đó
dường như không thể dùng ở nước ta, mặc dù hình như nó có du nhập vào nước ta,
đặc biệt là thời kì có phong trào tôn giáo trong giới thượng lưu của ta. Tôi có
một cuốn sách mỏng rất lí thú, dịch từ tiếng Pháp, viết về chuyện ở Giơnevơ, mới
gần đây thôi chỉ mới năm năm trước, người ta xử tử một tên hung đồ và giết người
tên là Risa, hắn mới có hai mươi tư tuổi, đã ăn năn và cải theo đạo Kito ngay
trước khi lên đoạn đầu đài. Gã Risa ấy là đứa con hoang không rõ của ai, mới
lên sáu hắn đã bị người ta đem cho những người chăn cừu Thụy Sĩ ở trên núi. Những
người này nuôi hắn để có người làm. Ở với họ, hắn lớn lên như một con thú hoang
dã, họ chẳng dạy dỗ gì hắn cả, mới lên bảy hắn đã phải đi chăn cừu, chịu mưa
gió rét mướt, gần đây không có quần áo và không được nuôi ăn. Khi làm như vậy,
cố nhiên không người nào trong bọn họ đắn đo và ân hận, trái lại họ cho rằng đấy
hoàn toàn là quyền của họ, bởi vì người ta đã đem Risa cho họ như cho một đồ vật,
thậm chí họ thấy không cần phải cho nó ăn. Chính Risa kể lại rằng trong những
năm ấy, như đứa con lưu lạc trong Phúc âm, hắn thèm ăn vô cùng, dù là ăn món
cám hỗn hợp nuôi vỗ heo cho chóng béo để đem bán, nhưng ngay cả thứ đó người ta
cũng không cho hắn và khi hắn lấy trộm ăn thì lại bị đánh đập tàn nhẫn. Hắn sống
như thế suốt thời thơ ấu và thời thanh niên, cho đến khi lớn lên, cứng gân mạnh
cốt, hắn bắt đầu đi ăn cắp. Kẻ mọi rợ ấy đi làm công nhật để kiếm tiền ở
Giơnevơ, kiếm được bao nhiêu uống rượu hết, sống như con quái vật và cuối cùng
hắn giết một ông già để cướp của. Hắn bị bắt, bị đưa ra tòa và lãnh án tử hình.
Ở đây người ta không có tính đa cảm. Ở trong tù, lập tức hắn bị mấy ông mục sư,
mấy ông ủy viên các hội Kito giáo, mấy bà từ thiện… bâu lấy. Các ông các bà dạy
cho hắn biết đọc biết viết, giảng Phúc âm, khuyên nhủ, thuyết phục, nhiếc móc,
nài ép hắn, cuối cùng hắn long trọng thú nhận là mình phạm tội ác. Hắn tự tay
viết cho tòa án rằng hắn là con quái vật, nhưng rút cục hắn đã xứng đáng được
Chúa Trời soi sáng và ban ân cho hắn. Cả Giơnevơ xúc động, thành Giơnevơ từ thiện
và ngoan đạo. Tất cả những người cao quý có giáo dục đổ đến nhà tù gặp hắn. Người
ta ôm hôn Risa: “Cậu là anh em của chúng tôi, Chúa đã xuống ơn cho cậu!” Risa
chỉ khóc vì cảm kích: “Vâng Chúa đã xuống ơn cho tôi! Trước kia, suốt thời thơ ấu
và thanh niên, được miếng cám lợn là tôi vui sướng, còn bây giờ Chúa đã xuống
ơn cả cho tôi, tôi chết trong Chúa” “Phải, phải, Risa, hãy chết trong Chúa, cậu
đã làm đổ máu thì cậu phải chết trong Chúa. Cậu không hề biết Chúa thì không phải
là có tội khi cậu thèm cám heo và bị đánh đập vì ăn cắp cám heo. Cậu làm thế là
rất không tốt, vì không có phép đâu ăn cắp, nhưng cậu đã làm đổ máu thì cậu phải
chết.” Thế rồi ngày cuối cùng đã đến, Risa suy nhược, khóc lóc và chỉ luôn miệng
nhắc đi nhắc lại: “Hôm nay là ngày tốt đẹp nhất đời tôi, tôi về với Chúa!” “Phải,”
- các mục sư, các pháp quan và các bà từ thiện la lên, - “hôm nay là ngày hạnh
phúc nhất đời anh, vì anh về với Chúa!” Cả bọn đi theo chiếc xe bêu nhục chở
Risa ra chỗ chém đầu, người ngồi xe riêng, kẻ đi bộ. Họ đến pháp trường. “Hãy
chết đi, người anh em,” - người ta gào lên với Risa, - “hãy chết trong Chúa, vì
Chúa đã xuống ơn cho cậu!” Rồi anh chàng Risa, nhận không biết bao nhiêu cái
hôn của những người anh em, bị kéo lên đoạn đầu đài, bị đặt lên thớt chém, và
vì tình anh em, người ta chặt đầu hắn, bởi Chúa đã xuống ơn cho hắn. Câu chuyện
thật đặc sắc. Tập sách mỏng ấy được dịch sang tiếng Nga bởi những người từ thiện
theo đạo Lute trong giới thượng lưu và được đem phát không coi như phụ trương của
một số báo và ấn phẩm khác, cốt là để giáo dục dân Nga. Câu chuyện Risa bổ ích
vì nó có tính dân tộc. Ở ta mặc dù thật là lố bịch nếu chặt đầu người anh em chỉ
vì người đó đã trở thành anh em của ta và Chúa đã xuống chỉ cho người đó, nhưng
tôi nhắc lại, chúng ta có, thói tục của chúng ta, gần như không thua kém. Ở ta,
hành hạ bằng cách đánh đập là một truyền thống lịch sử, đem lại khoái lạc trực
tiếp và mau lẹ nhất. Nekraxov có bài thơ kể câu chuyện gã mugich dùng roi quất
vào mắt con ngựa, “vào cắp mắt hiền lành”. Ai mà chưa từng thấy cảnh đó, đấy là
đặc tính Nga. Nhà thơ miêu tả một con ngựa đuối sức, phải kéo chiếc xe chất quá
nặng, xe sa lầy và con vật không thể kéo lên được. Gã mugich đánh nó, đánh một
cách điên cuồng, đánh mà không hiểu mình làm gì, trong cơn hăng say gã quất túi
bụi nhưng đòn cực đau: “Dù mày không còn sức cũng cứ phải kéo đi, chết cũng cứ
phải kéo đi!” Con ngựa lồng lộn, gã lại dùng roi quất con vật không phương tự vệ,
quất vào “cắp mắt hiền lành” đang ứa lệ. Con vật cuống cuồng lồng lên, kéo được
chiếc xe ra và cất bước, toàn thân run rẩy, ngạt thở, loạng choạng, thỉnh thoảng
lại nhảy cẫng lên, nom thiếu tự nhiên và nhục nhã. Nekraxov vẽ ra một cảnh thật
khủng khiếp. Nhưng đấy mới chỉ là con ngựa, nhưng ngựa là trời cho ta để quất
roi. Chính bọn Tarta đã giải thích cho chúng ta như thế và tặng chúng ta chiếc
roi để làm kỉ niệm. Nhưng cũng có thể dùng roi đánh cả người nữa chứ. Có một
ngài trí thức hắn hoi cùng với bà vợ dùng roi đánh con gái mình, con bé mới có
bảy tuổi, chuyện ấy tôi đã ghi lại tỉ mỉ. Ông bố vui sướng vì thanh roi có mắt
mấu, “đánh sẽ đau hơn”, ông ta nói, và ông ta bắt đầu “nện” con gái mình. Tôi
biết chắc hẳn là có những người càng đánh càng hăng, cứ mỗi roi càng bốc lên đến
mức cảm thấy một khoái lạc nhục dục, đúng là một khoái lạc nhục dục, cứ mỗi rồi
sau lại khoái hơn rồi trước, tăng đến không ngừng Họ đánh một phút, rồi năm
phút, rồi mười phút, càng về sau càng mạnh tay hơn, gấp hơn, ác liệt hơn. Đứa
trẻ kêu gào, cuối cũng không gào được nữa, nghẹn thở: “Ba ơi, ba, ba thân yêu
ba yêu quý!” Vụ đó thành chuyện tai tiếng om sòm và ra đến tòa. Người ta thuê
trạng sư. Dân Nga từ lâu đã gọi trạng sư của chúng ta là “ablakat” (2) -
lương tâm thuê mướn. Trạng sư lớn tiếng cãi cho khách hàng của mình. “Đây là việc
mọn, việc gia đình bình thường, bố đánh con gái nhỏ thôi, vậy mà lại đưa ra
tòa, đáng xấu hổ cho thời đại chúng ta!” Các bồi thẩm cho như vậy là có lý, rút
vào phòng nghị án, rồi quyết định tha bổng. Công chúng reo hò vui sướng vì kẻ
hành hạ được tha bổng. Ôi chao, tôi không có mặt ở đấy, không thì tôi sẽ gào
lên để nghĩ thưởng cho kẻ hung ác ấy một khoản tiền… Những cảnh tượng kì thú!
Nhưng về trẻ em thì tôi có những chuyện còn hay hơn, tôi thu thập được rất nhiều
chuyện về trẻ em Nga, nhiều lắm, Aliosa ạ. Một con bạc lên năm bị bố mẹ thù
ghét, bố mẹ nó là những công chức đáng kính, có học và có giáo dục. Chú ạ, một
lần nữa tôi nói dứt khoát rằng nhiều người có cái tính thế này: thích hành hạ
trẻ em, nhưng chỉ trẻ em thôi. Đối với tất cả các loại người khác, những kẻ tàn
bạo ấy lại tỏ ra tử tế và hiền lành, như những người châu Âu có học và nhân đạo,
nhưng rất thích hành hạ trẻ em, hiểu theo nghĩa đó thì thậm chí là họ yêu trẻ.
Chú thích:
Chú thích:
(2) Advokat nghĩa là trạng sư, dân chứng gọi chệch đi là
“ablakat” (N.D).
Phần 5
Chương 4 - P2
Chương 4 - P2
Trẻ con không có gì bảo vệ, chính điều đó cám dỗ kẻ hành hạ,
sự cả tin thiên thần của đứa trẻ không biết lẩn trốn đi đâu và cậy nhờ ai bênh
vực, đấy chính là nguyên nhân làm sôi sục bầu máu nhơ nhuốc của kẻ hung bạo.
Đương nhiên trong mỗi người đều có một con thú náu mình: cơn tức giận, khoái cảm
nhục dục hừng hực do tiếng kêu gào của nạn nhân bị hành hạ gợi lên, thú tính được
thả lỏng, các thứ bệnh do trác táng, bệnh thống phong, bệnh gan v.v… Con bé năm
tuổi ấy bị ông bố và bà mẹ có học kia hành hạ đủ mọi cách. Họ vô cớ đánh đập, đấm
đá nó, làm cho khắp mình mấy nó thâm tím. Cuối cùng họ giở đến một ngón cực kì
tinh vi: một hôm tiết trời giá băng, họ nhốt nó suốt đêm ở nhà xí, và lấy cớ
ban đêm nó không xin tha (làm như đứa bé năm tuổi đắm mình trong giấc ngủ trắng
trong có thể biết xin tha tội, cái tuổi ấy đâu có khôn đến thế), viện cớ ấy họ
trát phân vào mặt nó, bắt nó ăn phân, mà người bắt nó ăn phân là bà mẹ, người mẹ!
Và người mẹ ấy vẫn ngủ được, dù là nghe thấy tiếng kêu khóc của đứa con tội
nghiệp bị nhốt ở một chỗ uế tạp. Chú có hiểu được điều đó không? Một đứa trẻ
con, thậm chí chưa hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra với nó, ở một chỗ uế tạp,
trong bóng tối rét mướt, vung hai nắm tay nhỏ xíu đấm vào bộ ngực nhỏ bé đứt
hơi của mình và đổ những giọt nước mắt thảm thiết, hiền dịu cầu xin “Chúa Trời”
che chở cho nó - chú có hiểu điều phi lí ấy không, hỡi người bạn và chú em của
tôi, nhà tu hành thánh thiện và khiêm nhường của tôi, tại sao nó cần thiết đến
thế không? Người ta bảo rằng không có nó thì con người không thể tồn tại trên
cõi trần, bởi vì sẽ không phân biệt được thiện ác: Phân biệt thiện ác làm cái
quái gì khi phải trả giá đắt như thế. Thế thì cả thế giới nhận thức không đáng
giá bằng những giọt nước mắt ấy của đứa trẻ cầu xin “Chúa Trời”. Tôi không nói
về những đau khổ của người lớn, họ đã ăn quả cấm, thế thì mặc xác họ, quỷ tha
ma bắt họ đi, nhưng còn trẻ con, trẻ con! Tôi làm khó chú, Aliosa ạ, hình như
chú bứt rứt trong lòng. Tôi sẽ không nói nữa, nếu chú muốn.
- Không sao, tôi cũng muốn đau khổ. - Aliosa nói lí nhí.
- Một cảnh tượng nữa, chỉ một cảnh tượng nữa thôi, đây là vì
tò mò, một cảnh tượng rất đặc trưng, mà tôi vừa đọc trong “Lưu trữ” và “Cổ đại”
thì phải (3), tôi không nhớ rõ đã đọc ở đâu. Đấy là vào thời kỳ nông nô đen tối
nhất, hồi đầu thế kỷ, người giải phóng nhân dân muôn năm (4)! Đây là chuyện một
viên tướng hồi đầu thế kỷ, một viên tướng có thế lực rất lớn đồng thời là một địa
chủ hết sức giàu, nhưng thuộc loại người (thực ra loại này, hồi ấy cũng đã ít lắm
rồi) mà khi hồi hưu thì hầu như tin chắc rằng công trạng của họ khiến họ có quyền
sinh sát đối với con dân của họ. Có những người như thế đấy. Viên tướng sống
trong trang ấp có hai nghìn nông nô, ông ta cao ngạo, coi những người láng giềng
hèn mọn như những kẻ ăn nhờ mình và những tên hề của mình. Ông ta có một đàn
chó săn mấy trăm con và ngót một trăm kẻ trông coi chó, tất cả đều mặc đồng phục,
đều cưỡi ngựa. Một thằng bé con nhà nông nô, còn nhỏ lắm, mới lên tám, một hôm
nó nghịch ném đá què chân con chó được ông tướng yêu quý. “Tại sao con chó quý
của ta khập khiễng?” Người ta trình với ông rằng chính thống bé ấy ném đã què
chân chó. “A, thì ra là mày,” - viên tướng nhìn thằng bé từ đầu đến chân, - “bắt
lấy nó!” Người ta bắt nó ngay trước mặt mẹ nó, nó bị giam suốt đêm, sáng tinh
mơ viên tướng mặc lễ phục đầy đủ, lên ngựa sửa soạn đi săn, xung quanh ông là bọn
thực khách, chó, những kẻ trông coi chó, tất cả đều cưỡi ngựa. Gia nhân tụ tập
xung quanh để chứng kiến làm bài học, người mẹ của đứa bé phạm tội đứng phía
trước tất cả bọn họ. Thằng bé bị giải từ nhà giam ra. Một ngày thu u ám, lạnh lẽo,
đầy sương mù, đi săn thì rất tuyệt. Viên tướng ra lệnh lột hết quần áo đứa trẻ,
thằng bé bị lột trần truồng, nó run lên, sợ đến phát điên, không dám kêu một tiếng.
“Xua nó chạy đi!” Viên tướng ra lệnh. “Chạy đi, chạy đi!” Những kẻ trông coi
chó thét lên, thằng bé chạy… “Thả chó!” - viên tướng quát và cho cả đàn chó săn
đuổi theo đứa bé.
Chú thích:
Chú thích:
(3) Đây là hai tạp chí lớn “Lưu trữ Nga” (1863- 1917) và “Cổ
đại Nga” (1870- 1918) (N.D).
(4) Nga hoàng Alexandr đã giải phóng nông nô năm 1861 (N.D).
Người ta suýt chó đuổi theo ngay trước mắt bà mẹ, bầy chó xé
tan xác thằng bé!… Viên tướng dường như bị đặt dưới sự giám hộ. Chứ… còn biết bắt
ông ta đền tội thế nào nữa? Xử bắn ư? Để thỏa mãn tình cảm đạo đức, phải xử bắn
ư? Nói đi, Aliosa!
- Bắn! - Aliosa khẽ thốt lên, môi tái nhợt méo xệch đi trong
một nụ cười, ngước mắt nhìn anh.
- Hoan hô! - Ivan reo lên, phấn khởi không rõ vì sao, - Chú
mà nói thế thì nghĩa là… Nhà khổ tu giỏi lắm! Vậy là vẫn có một con quỷ con ở
trong tim chú, Aliosa Karamazov!
- Tôi lỡ nói ra một điều phi lí, nhưng mà…
- Vấn đề chính là ở tiếng nhưng mà… - Ivan reo lên. - Này,
anh chàng tập tu ơi, chú nên biết rằng cõi thế gian này rất cần những cái phi
lí. Thế giới tồn tại dựa trên những cái phi lí, không có những cái đó thì trên
đời sẽ chẳng có chuyện gì nữa hết. Chúng ta biết cái mà chúng ta biết.
- Anh biết cái gì?
- Tôi chẳng hiểu gì cả, - Ivan nói tiếp dường như trong cơn
mê sảng, - ngay cả bây giờ tôi cũng chẳng muốn hiểu gì cả. Tôi chỉ bám chắc vào
sự kiện. Đã từ lâu tôi quyết định là không nên hiểu. Khi tôi muốn hiểu điều gì
thì lập tức tôi phải làm cho sự kiện đổi khác đi, mà tôi quyết tâm bám chắc lấy
sự kiện…
- Anh thử tôi làm gì? - Aliosa thốt lên bằng giọng run run
chua xót. - Rút cục thì anh có nói cho tôi biết không?
- Cố nhiên tôi sẽ nói, tôi kể lể như vậy là cốt để nói ra.
Tôi quý chú, tôi không muốn và sẽ không chịu nhường chú cho Cha Zoxima của chú
đâu.
Ivan im lặng một lát, mặt chàng bỗng có vẻ rất buồn.
- Nghe đây nhé: tôi chỉ nói về trẻ con là để cho rõ ràng hơn.
Tôi sẽ không nói một lần nào về những loại nước mắt khác của con người vẫn thấm
đẫm cả trái đất này từ vỏ đến ruột, tôi chủ tâm thu hẹp đề tài lại. Tôi là con
bọ rệp và tôi cam lòng chịu nhục mà thú nhận rằng tôi không hiểu ra gì về việc
tại sao mọi sự lại được an bài như thế. Như vảy là chính người đời có lỗi: họ
đã được ở thiên đàng, họ lại muốn tự do và đã ăn cắp lửa thượng giới, tuy họ biết
rằng họ sẽ bất hạnh, vậy thì chẳng việc gì phải thương họ. Ôi, theo cái trí tuệ
Euclit phàm trần thảm hại của tôi, tôi chỉ biết rằng trên đời có sự đau khổ,
không ai có lỗi, tất cả đều chuyển biến từ cái này thành cái kia một cách trực
tiếp và đơn giản, mọi cái đều qua đi và cân bằng với nhau, nhưng đấy chỉ là điều
hồ đồ theo quan điểm Euclit, tôi biết thế, nhưng tôi không thể cam chịu sống
theo kiểu đó! Chẳng phải lỗi tại ai, tôi biết như thế, nhưng tôi vẫn thấy cần
có sự trừng phạt, nếu không thì tôi sẽ tự hủy diệt mình. Không phải là trừng phạt
ở đâu đó và vào thời gian nào đó trong tương lai vô tận, mà ngay ở đây, trên
trái đất này, để chính mắt tôi nhìn thấy. Tôi đã tin, và tôi muốn chính mắt
nhìn thấy, nếu đến lúc ấy tôi đã chết thì người ta sẽ làm tôi sống lại, bởi vì
nếu mọi việc sẽ xảy ra không có tôi thì hận cho tôi quá. Tôi đã từng đau khổ, vậy
thì không phải để đem bản thân mình, những hành vi tàn ác và những đau khổ của
tôi làm phân bón cho sự hài hòa tương lai mà ai đó sẽ được hưởng. Tôi muốn tận
mắt nhìn thấy con nai nằm cạnh con sư tử và kẻ bị giết sẽ trở dậy ôm hôn kẻ giết
mình. Tôi muốn có mặt ở đây khi mọi người đột nhiên nhận ra tại sao mọi sự lại
như thế. Mọi tôn giáo trên thế gian đều dựa trên niềm mong muốn ấy, còn tôi thì
tôi có đức tin. Nhưng còn trẻ em, khi ấy tôi sẽ làm gì chúng? Đấy là câu hỏi mà
tôi không giải quyết được. Lần thứ một trăm tôi nhắc lại: câu hỏi thì vô vàn
nhưng tôi chỉ bàn tới trẻ em, vì như thể điều tôi cần nói mới rõ ràng tới mức
không thể bác bỏ được. Chú nghe đây nhé: nếu mọi người đều phải đau khổ để mua
lấy sự hài hòa vĩnh cửu thì trẻ em cần gì đến đây, chú nói tôi nghe thử? Thật
không tài gì hiểu được vì lẽ gì trẻ em cũng phải đau khổ vì lẽ gì các em cũng
phải đau khổ để em lại sự hài hoà? Vì lẽ gì trẻ em cũng phải biến thành vật liệu
và làm phân bón cho sự hài hòa mai sau mà ai đó sẽ được hưởng? Tôi hiểu sự liên
đới giữa người ta với nhau trong tội lỗi, tôi cũng hiểu quan hệ liên đới trong
sự đền tội, nhưng trẻ em không bị liên đới trong mọi hành động tàn ác của cha
chúng thì đương nhiên đấy là sự thật không phải ở thế gian này và tôi không thể
hiểu nổi. Một người ưa bông đùa có thể sẽ nói rằng trẻ con rồi sẽ lớn lên và có
dịp phạm tội, nhưng nó có lớn lên được đâu, thằng bé đánh chó bị chó xé xác ấy.
Ôi Aliosa, tôi không báng bổ đâu! Tôi hiểu, vũ trụ phải rung chuyển như thế nào
khi mọi cái trên trời và dưới đất hòa vào nhau trong một tiếng reo ngợi ca và tất
cả mọi sinh vật đang sống và đã từng sống đều thốt lên: “Chúa có lí, Chúa đã mặc
khải cho chúng con những con đường của Chúa!” Khi người mẹ sẽ ôm hôn kẻ tàn ác
đã cho chó xé xác con mình, cả ba cùng chan hòa nước mắt hô lên: “Lạy Chúa,
Chúa có lí!” thì cố nhiên lúc ấy nhận thức sẽ chói lọi ánh hào quang và mọi sự
đều sáng tỏ. Nhưng đấy chính là chỗ vướng mắc, tôi không thể chấp nhận giải
pháp đó. Này Aliosa ạ, rất có thể là nếu đến lúc ấy tôi còn sống hay sẽ sống lại
để chứng kiến thì có lẽ tôi cũng sẽ reo lên cùng với mọi người khi thấy bà mẹ
ôm kẻ hành tội con mình: “Chúa có lí, lạy Chúa!”, nhưng lúc ấy tôi vẫn không muốn
kêu lên như vậy. Lúc này còn thời gian, tôi gấp rút dựng thành lũy tự vệ vì tôi
hoàn toàn không chấp nhận sự hài hòa cao cả nhất. Họ không đáng giá một giọt nước
mắt của đứa trẻ bị hành hạ, đứa trẻ bị nhốt trong cái xó hôi thối, vung nắm tay
nhỏ bé đấm ngực và nhỏ nhưng giọt nước mắt không được đền bù của mình câu khẩn
“Chúa Trời yêu dấu!” Không đáng, vì nước mắt của nó không được đền bù. Những giọt
nước mắt ấy phải được đèn bù, nếu không thì không thể có sự hài hòa. Nhưng làm
thế nào đền bù được? Mà có thể đền bù được ư? Được đền bù là vì những kẻ ác sẽ
bị trừng phạt ư? Nhưng họ sẽ bị trừng phạt, những kẻ hành hạ người khác sẽ phải
xuống địa ngục thì có làm gì, địa ngục sửa chữa được gì, khi trẻ em đã bị hành
hạ rồi? Mà nếu có địa ngục thì còn hài hòa gì nữa: tôi muốn tha thứ và ôm hôn,
tôi không muốn có nhiều đau khổ hơn nữa. Nếu những đau khổ của trẻ em là thêm
vào cho đủ số đau khổ cần có để mua lấy chân lí thì tôi xin nói trước rằng toàn
bộ chân lí đó không đáng giá như vậy. Cuối cùng, tôi không muốn người mẹ ôm hôn
kẻ tàn ác đã cho chó xé xác con bà! Bà không được tha thứ cho hắn! Nếu muốn bà
hãy tha thứ cho hắn đã làm khổ bà, hãy tha thứ cho kẻ tàn ác đã gây nên cho bà
nỗi đau khổ vô biên của người mẹ, nhưng bà không có quyền tha thứ cho kẻ tàn ác
về nỗi đau khổ của đứa con bà đã bị chó xé xác, bà không có quyền tha thứ, cho
dù chính đứa bé có tha thứ cho hắn đi nữa! Mà nếu vậy, nếu họ không có quyền
tha thứ thì lấy đâu ra sự hài hoà? Trên cả thế gian này có người nào có thể và
có quyền tha thứ không? Tôi không muốn sự hài hòa, vì tình yêu nhân loại mà tôi
không muốn. Tôi muốn vẫn cứ để cho đau khổ không được trả thù còn hơn. Chẳng
thà đau khổ của tôi không được trả thù, sự phẫn nộ của tôi không được giải tỏa
còn hơn, cho dù tôi không có lí đi nữa. Vả lại người ta định giá sự hài hòa quá
cao, giá vào cửa quá đắt so với túi tiền của chúng ta. Vì thế tôi vội trả lại
vé vào cửa. Nếu như tôi là người chính trực thì tôi phải trả lại càng sớm càng
tốt. Tôi đang làm đúng như thế. Tôi không chấp nhận Chúa Trời, Aliosa ạ, tôi chỉ
hết sức kính cẩn trả lại Ngài tấm vé.
- Đấy là nổi loạn. - Aliosa gầm mặt xuống, nói khẽ.
- Nổi loạn ư? Tôi không muốn tiếng đó thốt ra từ miệng chú, -
Ivan nói bằng giọng thiết tha. - Có thể sống bằng nổi loạn được không mà tôi
thì tôi muốn sống. Hãy nói thẳng với tôi đi, tôi kêu gọi chú đấy, trả lời đi:
chú hãy tưởng tượng là chính chú sẽ dựng nên tòa nhà vận mệnh của nhân loại nhằm
mục đích cuối cùng là đem lại hạnh phúc cho mọi người, rốt cuộc sẽ đem lại sự
bình yên cho họ, nhưng muốn vậy điều cần thiết không sao tránh khỏi là phải
hành hạ chỉ một sinh vật nhỏ xíu thôi, chính đứa bé đã tự đấm ngực ấy, và lấy
những giọt nước mắt không được đền bù của nó làm nền móng để dựng nên tòa nhà ấy
thì chú có bằng lòng làm kiến trúc sư với điều kiện đó không, nói đi và chớ nói
dối!
- Không, tôi sẽ không chịu làm - Aliosa khẽ nói.
- Chú có thể nghĩ rằng những người mà chú xây nhà cho họ sẽ bằng
lòng đón lấy cái hạnh phúc dành cho họ và xây trên máu đổ ra oan ức của đứa bé
bị hành hạ không, mà dù có đón nhận đi nữa thì họ có suốt đời hạnh phúc được
không?
- Không, tôi không thể nghĩ như vậy. Anh ạ, - Aliosa bỗng
nói, mắt ngời sáng, - ban nãy anh vừa nói: trên thế gian này có người nào có thể
và có quyền tha thứ tất thảy, tha thứ cho tất cả mọi người và về mọi chuyện, bởi
vì chính người đó đã hiến dâng máu trong trắng của mình để cứu chuộc mọi tội lỗi
cho tất cả mọi người. Anh quên mất người đó, người đó là nền móng cho tòa nhà,
và người ta sẽ reo lên với chính người đó: “Lạy Chúa Trời, Ngài có lí, vì Ngài
đã mặc khải cho chúng con những con đường của Ngài.”
- A, đấy là “người duy nhất không hề vướng với tội lỗi” và
máu của người ấy! Không, tôi không quên người ấy và trái lại, tôi vẫn lấy làm lạ
rằng mãi chú vẫn chưa nêu người đó ra, bởi vì trong các cuộc tranh cãi, đồng đạo
của chú thường nêu người đó ra trước hết. Này, Aliosa, chú đừng cười, hồi trước
tôi có viết một bản trường ca, chừng một năm trước. Nếu chú có thể dành cho tôi
mười phút nữa, tôi sẽ kể cho chú nghe, được chứ?
- Anh viết bài trường ca ư?
- Ồ không, không phải là viết. - Ivan bật cười. - Trong, đời
chưa bao giờ tôi làm tới hai câu thơ. Nhưng bản trường ca này thì tôi đã nghĩ
ra và ghi nhớ. Tôi nghĩ ra trong cơn sốt nóng. Chú sẽ là độc giả đầu tiên của
tôi, nghĩa là người nghe thì đúng hơn. Ừ mà làm sao tác giả lại để mất người
nghe duy nhất nhỉ. - Ivan nhếch mép cười. - Kể chứ?
- Tôi rất muốn nghe. - Aliosa nói.
Bản trường ca của tôi nhan đề là “Viên Đại pháp quan tôn
giáo”, nó phi lí, nhưng tôi muốn kể chú nghe.
Phần 5
Chương 5 - P1: Viên đại pháp quan tôn giáo
- Ở đây không thể không có lời nói đầu, lời nói đầu cho tác
phẩm văn học ấy mà, hừm. - Ivan bật cười. - Tôi thì có biết sáng tác quái gì
đâu! Này nhé, chuyện của tôi xảy ra vào thế kỉ mười sáu. Hồi ấy trong các tác
phẩm thơ có cái thông lệ là đưa các lực lượng thượng giới xuống trần thế. Tôi
không nói về Dante. Các tu sĩ giới luật học ở Pháp và các thầy tu ở các tu viện
thường tổ chức những cuộc trình diễn đưa lên sân khấu cả Madona, các thiên thần,
các thánh, Chúa Kito và cả Đức Chúa cha. Tất cả những trò đó đều ngây ngô.
Trong “Notre Dam de Paris” (1) của Victor Hugo, để mừng ngày sinh của thái
tử Pháp, dưới triều Louis XI, trong phòng khánh tiết của tòa thị chính, người
ta đã cho dân chúng xem một cuộc trình diễn không mất tiền, có ý nghĩa răn dạy,
nhan đề là “Le bon jugement de la trèm sainte ét graorieuse Vierge Marie” (2). Ở
Moskva của chúng ta, trước thời Petr đại đế, đôi khi cũng có những buổi diễn kịch
gần như thế, đề tài rút từ Cựu ước. Nhưng, ngoài những buổi diễn kịch, trên
toàn thế giới hồi ấy có nhiều truyện và thơ mà nhân vật hành động, tùy theo sự
cần thiết, là các thánh, các thiên thần và mọi thiên binh thiên tướng. Trong
các tu viện của chúng ta, người ta cũng dịch, chép lại và thậm chí sáng tác những
bản trường ca như thế mà là từ thời kỳ Tarta thống trị kia. Chẳng hạn, có một bản
trường ca của tu viện (dĩ nhiên dịch từ tiếng Hy Lạp): “Hành trình của Đức Mẹ
qua con đường đau khổ”, với những cảnh tượng và sự can đảm không kém gì tác phẩm
của Dante. Đức Mẹ xuống thăm địa ngục, tổng thiên thần Misel đưa Đức Bà đi xem
những khổ hình. Đức Mẹ nhìn thấy những kẻ tội lỗi và những khổ hình mà họ phải
chịu đựng. Ngoài những cái khác, ở đây có một loại người phạm tội rất đáng chú
ý, ở trong một cái hồ rực lửa: trong số họ có những kẻ chìm nghỉm đến nỗi không
thể nổi lên được nữa, đấy là những “kẻ bị Chúa bỏ quên” - một cách diễn đạt cực
kì sâu sắc và mạnh mẽ. Đức Mẹ kinh ngạc, khóc lóc quỳ gối trước ngai vàng của
Chúa Trời, xin ân xá cho tất cả những kẻ tội lỗi mà Mẹ đã nhìn thấy dưới địa ngục,
và Chúa Trời hết sức lí thú. Mẹ van vỉ, không chịu đi khi Chúa Trời trỏ cho Mẹ
tay chân con trai Mẹ bị đóng đinh và hỏi: ta sẽ tha thứ cho những kẻ hành hạ Kito
ư? - Thì Mẹ truyền cho tất cả các thánh, tất cả các vị tuẫn đạo, tất cả các
thiên thần và tổng thiên thần quỳ xuống cùng với Mẹ và cầu xin ân xá cho tất cả
những kẻ tội lỗi, không trừ một ai. Cuối cùng Đức Mẹ nài xin Chúa Trời hàng năm
ngừng hành tội từ ngày thứ sáu Thánh (3) đến ngày lễ Ba Ngôi, thế là những
kẻ tội lỗi dưới địa ngục liền tạ ơn Chúa Trời và kêu lên:
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: “Nhà thờ Đức Bà Paris”.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: “Tòa phán xét nhân từ của Đức
Mẹ đống trinh Mari rất thánh và rất khoan dung.” (N.D).
(3) Ngày thứ sáu trước lễ Phục sinh (N.D).
Bản trường ca hạng bét của tôi đại loại cũng như thế, nếu nó
ra đời vào thời ấy. Trong bản trường ca của tôi, Chúa xuất hiện trên sân khấu,
Chúa chẳng nói năng gì, chỉ xuất hiện và chỉ đi qua đấy. Mười lăm thế kỉ đã
trôi qua kể từ khi Chúa hứa sẽ trở lại nước của mình, mười lăm thế kỉ từ khi vị
tiên tri của Ngài viết: “Chẳng bao lâu ta sẽ trở lại.” “Về ngày giờ thì cả đến
Đức chúa con cũng không biết, chỉ có Cha ta ở trên trời mới biết mà thôi.”
Chính Ngài đã phán truyền như thế trên trái đất này. Nhưng nhân loại vẫn chờ
mong Chúa với niềm tin thiết tha như trước. Ôi, thậm chí niềm tin còn lớn lao hơn
trước, bởi vì đã mười lăm thế kỉ trôi qua kể từ khi không còn có sự đảm bảo nào
của Trời cho con người nữa:
“Hãy tin vào trái tim mình
Trời xa xôi lắm. Uy linh chớ màng.”
Chỉ còn biết tin vào tiếng nói của con tim! Của đáng tội, hồi
ấy cũng diễn ra nhiều phép lạ. Có những vị thánh đã làm phép lạ chữa bệnh.
Thánh Mẫu từ trên trời xuống thăm một số người công chính, cứ theo sự tích của
họ. Nhưng quỷ không ngủ gật, và nhân loại bắt đầu nghi ngờ tính chân thực của
những phép lạ ấy. Có lần một tà thuyết mới, khủng khiếp đã xuất hiện ở miền Bắc
nước Đức. Một ngôi sao cực lớn “giống như cây đèn” (tức là giáo hội) “rơi xuống
nguồn nước, làm nước trở nên đắng ngòm”, tà giáo ấy bắt đầu báng bổ phủ nhận
phép lạ. Nhưng những người còn vững đức tin càng sốt mến đạo hơn. Nước mắt nhân
loại vẫn vọng trông Chúa, hi vọng vào Chúa, khao khát được đau khổ và chết thay
cho Chúa… Đã bao nhiêu thế kỷ nhân loại tràn đầy lòng tin, sốt mến cầu khẩn: “Cầu
xin Chúa đến với chúng con”, đã bao thế kỷ nhân loại kêu xin Chúa đến nỗi trong
sự đau khổ vô lượng của mình, Chúa đã muốn đến với những người cầu khẩn. Từ hồi
còn ở cõi trần, Chúa đã hạ cố đến thăm một số bậc công chính, một số vị tuần đạo,
một số vị ẩn tu, thành thiện, như đã ghi trong “sự tích” của các vị. Ở ta,
Tiuttrev tin tưởng sâu sắc lời mình nói là xác thực, đã tuyên bố:
“Ôi Chúa trời,
Đội lốt kẻ lầm than
Cố sức vần cây thập giá,
Quên đau đớn - lượng nhân từ biển cả
Người đi khắp nhân gian ban tội phước lành.”
Sự việc xảy ra đúng như thế, tôi sẽ kể với chú. Chúa muốn hiển
hiện dù chỉ là thoáng chốc trước dân chúng - đám dân chúng quằn quại, đau khổ,
hôi hám và tội lỗi, nhưng yêu Chúa với tấm lòng trẻ thơ. Chuyện tôi kể diễn ra ở
thành Xevin Tây Ban Nha, vào thời pháp đình tôn giáo ghê rợn nhất, khi mà để
làm sáng danh Chúa Trời, hàng ngày những giàn lửa thiêu rực cháy trong nước:
“Quân tà đạo không còn thoát được.
Giàn lửa thiêu ngùn ngụt căm hờn.”
Cố nhiên đấy không phải là sự Chúa đến như đã hứa, vào kì tận
thế, trong tất cả ánh vinh quang thiên đình, và đột ngột “như tia chớp lóe sáng
từ Đông sang Tây”. Không, Chúa muốn đến thăm các con mình, dù chỉ chốc lát,
chính ở nơi những giàn lửa thiêu kẻ dị giáo đang nổ lép bép. Vốn lòng lành vô
cùng, một lần nữa Chúa đi qua giữa dân chúng, hình dạng Chúa vẫn như mười lăm
thế kỉ trước khi Ngài sống giữa mọi người trong ba năm ròng. Ngài giáng lâm đến
“các phố phường rực lửa” của đô thành phía Nam ấy. Ở đó chỉ mới hôm trước,
trong “giàn lửa huy hoàng”, trước mặt đức vua, triều thần, các hiệp sĩ, các
giáo chủ và các mệnh phụ kiều diễm nhất trong triều, trước đông đảo dân chúng
thành Xevin, theo lệnh của giáo chủ Đại Pháp quan, người ta đã thiêu luôn một
lúc ngót trăm kẻ di giáo ad majirem gloriam Der (4). Chúa xuất hiện một cách lặng
lẽ, không để ai nhận thấy, nhưng kì lạ thay, mọi người đều nhận ra Chúa. Đấy có
thể là một trong những đoạn hay nhất của bản trường ca, nói về việc tại sao người
ta nhận ra Chúa. Một sức mạnh không thể cưỡng lại được khiến dân chúng ùa đến với
Chúa, vây quanh Chúa mỗi lúc một đông thêm, đi theo Chúa. Chúa im lặng đi qua
giữa họ, miệng mỉm cười hiền từ, thương cảm vô hạn. Mặt trời ánh yêu rực sáng
trong tim Chúa, tia ánh sáng, Giáo hóa và Sức mạnh từ nơi mắt Chúa tỏa chiếu khắp
đám đông, khiến lòng người rung động vì yêu Chúa, Chúa dang tay ra với họ, ban
phước cho họ, và chỉ cần chạm vào Chúa, thậm chí vào áo quần Chúa, là đã lành
được tật bệnh. Trong đám đông, một ông già mù từ bé kêu xin: “Lạy Chúa, xin
Chúa làm lành mắt cho con, để con được nhìn thấy Chúa”, thế là dường như màng vảy
bong ra khỏi mắt, và ông già mù nhìn thấy Chúa. Dân chúng khóc và hôn mặt đất
nơi Chúa bước chân lên. Trẻ em tung hoa trước mặt Chúa, hát và reo hò: Hoxama!” (5)…
“Đấy là Ngài, chính là Ngài,” - một người nhắc đi nhắc lại, - “hẳn phải là
Ngài, chỉ có thể là Ngài.” Chúa dừng lại trên sân nhà thờ Xevin giữa lúc người
ta khóc lóc khiêng vào đó một cỗ quan tài trẻ em màu trắng mở nắp: nằm trong
quan tài là một bé gái bảy tuổi, con gái duy nhất của một người quyền quý ở tha
phương. Xác đứa bé phủ đầy hoa. “Ngài sẽ làm con bà sống lại,” đám đông reo lên
với bà mẹ đang khóc lóc. Một linh mục của nhà thờ đang đi về phía cỗ quan tài
cau mày nhìn, dáng vẻ băn khoăn. Nhưng bà mẹ của đứa bé đã khóc gào lên. Bà sụp
xuống chân Chúa: “Nếu Ngài là Chúa thì xin hãy làm cho con tôi sống lại!” - bà
ta dang hai tay cầu Chúa, kêu lên. Đám đưa tang dừng lại, đặt cỗ quan tài dưới
chân Chúa. Chúa nhìn đầy vẻ thương xót, và một lần nữa Chúa khẽ thốt lên:
“Ta-lia kumi! Bé em hãy trở dậy.” Cô bé ngồi dậy trong quan tài, mỉm cười, mắt
mở to ngạc nhiên nhìn xung quanh. Hai tay em cầm bó hoa hồng mà em vẫn ôm ở
trong quan tài. Dân chúng nhốn nháo, la hò, nức nở, đúng lúc ấy giáo chủ Đại Pháp
quan đột nhiên đi qua quảng trường trước nhà thờ. Đấy là một ông già ngót chín
mươi tuổi, thân hình cao, lưng thẳng, mặt khô quắt, mắt hõm sâu nhưng vẫn sáng
quắc. Ồ, ông không mặc bộ đạo phục giáo chủ lộng lẫy mà hôm qua ông còn mặc khi
ra trước dân chúng trong cuộc hỏa thiêu những kẻ thù của đạo La Mã, không, lúc ấy
ông chỉ mặc chiếc áo thụng cũ thô kệch của mình. Theo sau ông, cách một khoảng
khá xa, là những người giúp việc mặt mày cau có những nô lệ và đội “thánh
binh”. Ông dừng lại trước đám đông và quan sát từ xa. Ông nhìn thấy hết. Ông
nhìn thấy cỗ quan tài được đặt dưới chân Ngài, rồi con bé sống lại, và mặt ông
sa sầm. Ông cau đôi lông mày sâu róm trắng bạc, ánh mắt ông lóe lên hung tợn.
Ông trỏ ngón tay ra lệnh cho bọn vệ binh bắt Ngài. Uy quyền của ông rất lớn,
dân chúng đã quen thần phục, ngoan ngoãn và run sợ tuân lệnh ông, đám đông lập
tức dãn ra trước bọn vệ binh, và bọn này, trong bầu không khí im ắng như trong
nhà mồ, túm lấy Ngài giải đi. Tức khắc, nghìn người như một, đám đông nhất loạt
dập đầu sát đất trước vị Đại Pháp quan, ông ta lẳng lặng ban phước cho dân
chúng và đi ngang qua chỗ họ. Vệ binh giải phạm nhân vào một ngục thất chật hẹp,
tối tăm, có vòm cuốn trong tòa nhà cổ của Pháp đình thánh tín và nhốt ở đó. Một
ngày qua đi, rồi đêm đến, một đêm nóng bức ngột ngạt của Xevin. Không khí nồng
“hương nguyệt quế và hương chanh”. Trong bóng tối sâu thăm thẳm, cửa sắt nhà ngục
bỗng mở ra, và đích thân lão Đại Pháp quan cầm cây đèn chậm rãi đi vào. Ông ta
đến một mình, cửa tức thời đóng lại sau lưng ông ta. Ông ta dừng lại một lúc
lâu, chừng một vài phút, nhìn chằm chằm vào mặt Ngài. Cuối cùng ông ta nhẹ
nhàng đến gần, đặt cây đèn xuống bàn, nói với Ngài: “Ông đấy ư? Ông ư?” - Nhưng
không đợi trả lời, ông ta nói thêm luôn, - “Đừng trả lời, cứ im lặng. Với lại,
ông có thể nói gì được kia chứ? Tôi thừa biết ông sẽ nói gì. Ông không có quyền
thêm một lời nào vào những gì ông đã nói trước kia. Tại sao ông xuống đây làm
phiền chúng tôi? Ông đến là phiền cho chúng tôi, điều đó thì chính ông cũng biết.
Nhưng ông có biết ngày mai sẽ thế nào không? Tôi không biết ông là ai và không
muốn biết có phải ông thật không hay chỉ là cái vẻ bên ngoài giống như ông,
nhưng ngày mai tôi sẽ kết án ông và thiêu ông trên giàn lửa như một kẻ tà giáo
độc ác nhất, và dân chúng hôm nay hôn chân ông thì ngày mai tôi chỉ vẫy tay một
cái là họ đổ xô đến hất thêm than vào giàn lửa thiêu ông, ông có biết thế
không? Ờ, có lẽ ông biết.” - Ông ta trầm ngâm nói thêm, mắt không lúc nào rời
khỏi người bị bắt giam.
Chú thích:
Chú thích:
(4) Tiếng Latinh: để làm sáng danh Chúa Trời hơn nữa (N.D).
(5) Tiếng xưng hô của người Do Thái khi hành lễ, rước
xách…(N.D).
- Anh Ivan, tôi chẳng hiểu thế là thế nào? - Aliosa mỉm cười,
từ nãy đến giờ anh vẫn lẳng lặng nghe. - Đấy phải chăng là trí tưởng tượng
ngông cuồng vô hạn độ hay là một sai lầm của ông già, một quipro quo (6) kỳ quái?.
Chú thích:
Chú thích:
(6) Tiếng Latin: “cái này thay cái kia”, sự rối loạn, sự hiểu
lầm.
- Thì cứ cho là thế đi, - Ivan bật cười, - nếu như chủ nghĩa
hiện thực thời nay đã làm hỏng chú đến mức chú không thể chịu đựng nổi bất cứ sự
quái dị nào, mà chú muốn cho là quipro quo thì cũng cứ được đi. Đấy là sự thật,
- chàng lại phá lên cười, - ông già đã chín mươi tuổi, và tư tưởng của ông ta
như thế thì ông ta có thể đã hóa điên từ lâu. Có thể là ngoại hình của người bị
giam đã làm ông già sửng sốt. Cuối cùng, đấy có thể chỉ là cơn mê sảng, là hình
ảnh tưởng tượng của ông già chín mươi tuổi trước khi chết, thêm nữa lại bị kích
động vì cảnh hỏa thiêu một trăm kẻ dị giáo ngày hôm qua. Nhưng chú và tôi thì cần
quái gì, cho dù đấy là quipro quo hay trí tưởng tượng ngông cuồng vô hạn độ? Vấn
đề ở đây chỉ là ông già cần tự bộc lộ, nói ra những điều ông ta vẫn giữ kín suốt
chín mươi năm trời.
- Thế người bị giam cùng im lặng ư? Chỉ nhìn ông già và không
nói gì ư?
- Đành phải thế thôi chứ làm thế nào. - Ivan lại bật cười. -
Chính ông già bảo với Chúa rằng Chúa không có quyền thêm gì vào những điều đã
nói trước kia. Nếu chú muốn biết thì đấy chính là đặc điểm cơ bản nhất của đạo
Thiên Chúa La Mã, ít ra đấy là ý kiến của tôi: “Chúa đã trao lại tất cả cho
Giáo hoàng, như vậy bây giờ tất cả là của giáo hoàng, và đừng làm phiền chúng
tôi, ít ra là trong lúc này.” Họ không chỉ nói, mà còn viết ra theo tinh thần
đó, ít nhất là các tu sĩ dòng Tên. Chính tôi đã đọc ở các nhà thần học của họ.
Ông có quyền tiết lộ với chúng tôi, dù chỉ một bí mật của cái thế giới mà ông vừa
từ đấy đến không? - Lão già của tôi hỏi Chúa và chính lão trả lời thay. -
Không, ông không có quyền, để không thêm gì vào những điều ông đã nói trước
kia, để không tước đoạt mất của mọi người cái tự do mà ông đã ra sức bảo vệ hồi
ông còn ở trên trái đất. Tất cả những gì ông tiết lộ thêm sẽ xâm phạm đến tự do
tín ngưỡng của mọi người, bởi vì nó sẽ có vẻ như phép lạ, mà tự do tín ngưỡng
là điều ông quý hơn hết cách đây một nghìn năm trăm năm. Chẳng phải hồi ấy ông
thường nói “Ta muốn làm cho các ngươi thành người tự do” đó sao? Nhưng bây giờ
ông thấy những con người “tự do” ấy đấy,” - ông già bỗng nói thêm, với nụ cười
trầm mặc. “Phải, chúng tôi đã phải trả một giá đắt cho việc làm của mình, - ông
ta nói tiếp, nghiêm khắc nhìn Chúa, - nhưng rốt cuộc chúng tôi đã làm xong công
việc ấy nhân danh ông. Mười làm thế kỉ chúng tôi khổ sở với cái tự do ấy, nhưng
bây giờ thì xong rồi, xong hẳn rồi. Ông không tin là xong hẳn rồi ư? Ông nhìn
tôi hiền từ, thậm chí không buồn tức giận tôi ư? Nhưng ông nên biết rằng bây giờ,
chính hiện nay, những con người ấy tin chắc hơn bao giờ hết rằng họ hoàn toàn tự
do, nhưng chính họ đã đem tự do của họ dâng chúng tôi và đặt nó dưới chân chúng
tôi. Nhưng đấy là kết quả mà chúng tôi đã đạt được, còn ông có mong muốn thứ tự
do như thế không?”
- Tôi lại không hiểu! - Aliosa ngắt lời. - Ông ta mỉa mai,
ông ta chế nhạo ư?
- Hoàn toàn không. Ông ta khoe mình và người của mình có công
lao rốt cuộc đã đè nén được tự do và họ làm như thế là để con người có được hạnh
phúc. Chỉ đến bây giờ (cố nhiên ông ta nói về thời pháp đình tôn giáo) lần đầu
tiên mới có thể nghĩ đến hạnh phúc của loài người. Con người sinh ra vốn là kẻ
nổi loạn, mà kẻ nổi loạn có thể có hạnh phúc được không? “Ông đã được báo trước,”
- ông ta lại nói với Chúa, - “ông không thiếu những tời báo trước và chỉ bảo,
nhưng ông không nghe, ông gạt bỏ con đường duy nhất có thể đem lại hạnh phúc
cho con người, nhưng may thay, khi ra đi ông đã trao lại sự nghiệp cho chúng
tôi. Ông đã hứa, ông đã có lời chính thức trao cho chúng tôi quyền trói và cởi
trói vì thế cố nhiên bây giờ ông đừng có nghĩ đến chuyện lấy lại của chúng tôi
cái quyền ấy. Vậy cớ gì ông xuống đây làm phiền chúng tôi?”
- Câu này nghĩa là gì? “Không thiếu những lời báo trước và chỉ
bảo.” - Aliosa hỏi.
Phần 5
Chương 5 - P2
Chương 5 - P2
Đấy là điểm chủ chốt ông già cần nói. Quỷ ác độc và tinh
ranh, quỷ của sự tự hủy diệt và hư vô, - ông già nói tiếp, - quỷ vĩ đại đã nói
với ông trong sa mạc, theo các sách còn truyền lại cho chúng tôi thì tuồng như
quỷ đã “cám dỗ” ông. Có phải thế không? Liệu có thể nói được điều gì chân thực
hơn những điều quỷ nêu ra trong ba câu hỏi mà ông đã bác bỏ và các sách gọi là
“ba sự cám dỗ” không? Thế nhưng trên đời này, nếu có phép lạ nào đích thực và
vang dội thì chính là vào ngày hôm ấy, ngày xảy ra ba sự cám dỗ đó. Chính việc
đặt ra ba câu hỏi ấy đã là phép lạ. Nếu như có thể tưởng tượng, dù chỉ là đề thử
và ví dụ, rằng ba câu hỏi của quỷ ác độc sẽ biến mất trong các sách và cần phải
khôi phục lại, một lần nữa phải vắt óc sáng tác ra để lại đưa vào sách, vì vậy
phải hội họp tất cả các nhà thông thái trên trái đất này lại - các nhà cầm quyền,
các đại chủ giáo, các nhà bác học, các nhà triết học, các nhà thờ - và đặt ra
cho họ một nhiệm vụ: hãy nghĩ ra, soạn ra ba câu hỏi không chỉ phù hợp với quy
mô của sự biến, mà chỉ bằng mấy lời, chỉ ba câu thôi, diễn đạt đủ toàn bộ lịch
sử sau này của thế giới và nhân loại, thì ông có cho rằng tất cả sự anh minh của
trái đất chung đúc lại có thể nghĩ ra điều gì mạnh mẽ và sâu sắc như ba câu hỏi
ma quỷ đầy uy lực và tinh khôn quả thật đã đề ra với ông không? Chỉ xét ba câu
hỏi ấy, chỉ xem việc chúng xuất hiện ra như một phép lạ là đủ hiểu rằng đấy
không phải lả trí tuệ thông thường của con người, mà trí tuệ vĩnh hằng và tuyệt
đối, lần vì ba câu hỏi ấy dường như đúc kết và tiên tri toàn bộ lịch sử nhân loại
sau này, đấy là ba hình ảnh hội tụ mâu thuẫn lịch sử không thể giải quyết được
của bản chất con người trên toàn trái đất. Lúc bấy giờ chưa thể thấy rõ được điều
đó bởi vì không thể biết được tương lai, nhưng bây giờ, sau mười lăm thế kỉ,
chúng ta thấy trong ba câu hỏi ấy mọi điều đã được đoán nhận và tiên tri, và tất
cả đều đã hành sự thực, đến độ không thể thêm bớt gì vào đấy được nữa. Ông, hãy
quyết định xem ai đúng: ông hay kẻ đã hỏi ông hồi ấy? Ông hãy nhớ lại câu hỏi
thứ nhất; tuy không đúng từng lời, nhưng ý nghĩa của câu hỏi ấy là: “Chúa muốn
tay không bước vào đời hứa hẹn với người đời thứ tự do mà người đời chất phác
và bẩm tính càn rỡ không thể hiểu nổi, đâm ra khiếp sợ nó, bởi vì đối với con
người và xã hội loài người, không bao giờ có cái gì khó chịu đựng hơn tự do.
Chúa thấy những hòn đá trong sa mạc nóng bỏng, trơ trụi kia chứ? Hãy biến đã
thành bánh mì đi, khi ấy loài người sẽ chạy theo Chúa như một đàn cừu, biết ơn
và ngoan ngoãn, tuy luôn luôn run sợ Chúa sẽ rút tay về thì sẽ không còn bánh
mì do Chúa hóa phép ra nữa.” Nhưng ông không muốn tước bỏ tự do của ông, nên đã
khước từ đề nghị đó, vì ông lập luận rằng sự vâng lời mua chuộc được bằng bánh
mì thì còn gì là tự do nữa? Ông bác lại rằng con người không phải, chỉ sống bằng
bánh mì, nhưng ông có biết đâu rằng chính vì bánh mì trần thế ấy mà thần linh của
trái đất sẽ nổi lên chống lại ông, sẽ giao tranh với ông và thắng ông, và tất cả
sẽ chạy theo vị thần ấy mà kêu lên: “Kẻ nào giống như con thú này, nó đã đem lửa
trời xuống cho chúng ta.” Ông có biết hay không rằng nhiều thế kỉ qua đi, rồi
nhân loại qua miệng các nhà hiền triết và bác học của mình, sẽ tuyên bố rằng
không có tội ác, vì vậy cũng không có tội lỗi, mà chỉ có những người đói mà
thôi. “Hãy cho người ta ăn no, khi ấy hãy đòi hỏi người ta phải có đạo đức!” -
Đấy là khẩu hiệu người ta sẽ viết trên lá cờ giương lên để chống lại ông và là
lá cờ sẽ làm cho đền thờ ông sập đổ. Ở chỗ đền thờ ông sẽ dựng nên một tòa nhà
mới, lại một tháp Baben khủng khiếp nữa, và tuy tháp này cũng bị bỏ dở như tháp
thứ nhất, nhưng lẽ ra Chúa có thể tránh được cái tháp mới này và rút bớt cho
loài người một ngàn năm đau khổ, bởi vì sau một ngàn năm khổ sở với cái tháp ấy,
họ sẽ đến với chúng tôi! Họ sẽ đi tìm chúng tôi ở dưới mặt đất, trong các hầm mộ
nơi chúng tôi ẩn trốn bởi vì chúng tôi sẽ bị truy bức và hành hạ, họ tìm thấy
và kêu lên: “Hãy cho chúng tôi ăn, vì những người đã hứa cho chúng tôi, lửa trời
lại chẳng cho gì cả.” Khi ấy chúng tôi sẽ xây nốt tháp cho họ, bởi vì cho họ ăn
tức là xây xong tháp, và chỉ có chúng tôi sẽ cho họ ăn nhân danh Chúa, chúng
tôi nói dối là nhân danh Chúa. Ồ, không có chúng tôi thì họ không tự nuôi thân
được! Không có khoa học nào có thể cho họ bánh mì chừng nào họ còn tự do, nhưng
cuối cùng họ sẽ mang tự do của họ đặt dưới chân chúng tôi và nói với chúng tôi:
“Chẳng thà biến chúng tôi thành nô lệ, nhưng cho chúng tôi ăn còn hơn.” Cuối
cùng chính họ sẽ hiểu rằng tự do và bánh mì trần thế thỏa thuê cho mỗi người là
điều không thể có được, bởi vì không bao giờ họ có thể phân phối với nhau cho ổn
thỏa được! Họ cũng sẽ thấy rõ ràng không bao giờ họ có thể tự do, bởi vì họ yếu
đuối, đốn mạt, hèn mọn và là những kẻ nổi loạn. Ông hứa cho họ bánh mì trời
nhưng tôi nhắc lại lần nữa, trong con mắt của loài người yếu đuối, vĩnh viễn đốn
mạt và vĩnh viễn vô ơn, bánh mì trời sao bằng bánh mì trần thế? Và nếu như có mấy
ngàn, mấy chục ngàn người theo Chúa vì bánh mì trời thì sự thể sẽ ra sao với
hàng triệu và hàng chục ngàn triệu người không đủ can đảm coi rẻ bánh mì trần
thế để trông mong bánh mì trời? Hay Chúa chỉ quý trọng mấy chục ngàn người vĩ đại
và hùng mạnh, còn hàng triệu người khác nhiều như cát biển, yếu đuối nhưng yêu
Chúa, thì chỉ đáng là vật liệu cho những người vĩ đại và hùng mạnh? Không,
chúng tôi quý cả những người yếu. Họ đốn mạt và là những kẻ nổi loạn, nhưng rốt
cuộc họ sẽ trở nên ngoan ngoãn. Họ sẽ ngạc nhiên về chúng tôi và sẽ coi chúng
tôi là những ông trời vì một khi đã lên cầm đầu họ, chúng tôi ưng chịu gánh lấy
gánh nặng tự do và cai trị họ - rốt cuộc họ sẽ khiếp sợ tự do đến mức ấy đấy!
Nhưng chúng tôi sẽ bảo họ rằng chúng tôi vâng mệnh Chúa và cai trị nhân danh
Chúa. Chúng tôi lại đánh lừa họ, bởi vì chúng tôi sẽ không cho Chúa đến gần
chúng tôi. Chính sự lừa dối ấy là nỗi đau khổ của chúng tôi, bởi vì chúng tôi sẽ
phải nói dối. Đấy là ý nghĩa câu hỏi thứ nhất trong sa mạc, đấy là điều Chúa đã
bác bỏ nhân danh tự do mà Chúa coi là cao hơn tất thảy. Thế nhưng câu hỏi đó chứa
đựng một bí nhiệm vĩ đại của thế giới này. Nếu ưng thuận hóa phép ra “bánh mì”,
Chúa sẽ giải tỏa được nỗi ưu tư muôn đời của con người - từng con người: riêng
biệt cũng như toàn thể nhân loại - đó là: “Phải cúi đầu hàng phục ai?” Đối với
con người đã được tự do, không có mối bận tâm nào triền miên hơn, đau khổ hơn
là mau mau tìm lấy một nhân vật để sùng phục. Nhưng người ta chỉ muốn sùng phục
một uy quyền hiển nhiên, không phải bàn cái gì nữa, một uy quyền mà tất cả mọi
người đều nhất tề sùng phục. Bởi vì mối bận tâm của những con người thảm hại ấy
không phải là tìm một đối tượng mà tôi hay người khác sùng phục, mà tìm một đối
tượng được tất cả mọi người tin tưởng và sùng phục, nhất định là tất thảy mọi
người kia. Chính nhu cầu về tính cộng đồng trong sự sùng phục ấy là mối khổ tâm
chính yếu nhất của mối cá nhân riêng biệt cũng như của toàn thể loài người từ
thuở khai thiên lập địa đến nay. Để thực hiện sự cộng đồng sùng phục ấy, họ tàn
sát nhau bằng đao kiếm. Họ sáng tạo, ra các đấng Chúa Trời và kêu gọi lẫn nhau:
“Hãy vứt bỏ Chúa Trời của các người đi và đến cúi đầu tôn thờ Chúa Trời của
chúng tôi, không thì cả các người và Chúa Trời của các người đều phải chết!” Và
sẽ như vậy cho đến ngày tận thế, ngay cả khi các Chúa Trời sẽ biến mất trên thế
gian thì người ta cũng vẫn quỳ gối trước các thần tượng. Chúa biết, Chúa không
thể không biết điều bí nhiệm cơ bản của bản chất loài người, nhưng Chúa đã gạt
bỏ ngọn cờ duy nhất có uy lực tuyệt đối mà người ta đã mới Chúa nắm lấy và nó sẽ
làm cho tất cả mọi người phải sùng phục. Chúa không chút hồ nghi - ngọn cờ bánh
mì trần thế, vậy mà Chúa đã gạt bỏ, nhân danh tự do và bánh mì trời. Hãy nhìn lại
xem sau đó Chúa đã làm gì. Vẫn lại nhân danh tự do! Tôi nói với Chúa rằng con
người không có mối lo âu nào khắc khoải hơn là tìm cho được một người để mau
mau trao lại cái tự do mà tạo hóa phú cho kẻ bất hạnh từ lúc mới ra đời. Nhưng
chỉ có người nào làm cho lương tâm mọi người yên ổn thì mới chiếm hữu được tự
do của họ. Có bánh mì là nắm được Ngọn cờ thành công chắc chắn: cho bánh mì của
Chúa và đi theo kẻ dụ dỗ được lương tâm mình. Về điểm này Chúa có lí, bởi vì bí
nhiệm của sự hiện hữu của con người không phải chỉ là sống, mà là sống để làm
gì. Không có quan niệm vững chắc về việc sống để làm gì, con người không muốn sống,
chẳng thà tự hủy diệt mình còn hơn là lưu lại trên cõi trần, mặc dù xung quanh
thừa thãi bánh mì. Đúng là như thế, những chuyện gì đã xảy ra: đáng lẽ chiếm lấy
tự do của con người thì Chúa lại cứ mở rộng tự do thêm mãi! Hay Chúa quên rằng
con người quý trọng sự yên ổn và thậm chí cả cái chết hơn là tự do lựa chọn
trong sự nhận thức thiện ác? Đối với con người không có gì hấp dẫn hơn tự do
cho lương tâm (7) nhưng cũng không có gì khổ ái hơn. Thế mà thay cho những
nguyên tắc nền tảng vững chắc để làm cho lương tâm con người mãi mãi yên ổn,
Chúa lại chọn tất cả những gì là phi thường, bí ẩn và vu vơ, tất cả những cái
không vừa sức con người, vì vậy Chúa hành động như thể hoàn toàn không yêu họ,
thế mà Chúa đã hiến cả sinh mạng của mình cho họ đấy! Đáng lẽ chiếm lấy tự do của
con người, Chúa lại cứ tăng thêm mãi lên và làm cho thế giới tinh thần của họ
chồng chất thêm những dằn vặt vì tự do. Chúa muốn con người yêu tự do, để họ tự
do đi theo Chúa, bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của Chúa. Thay cho luật pháp cứng
rắn thời cổ, con người từ nay với trái tim tự do của mình, phải tự quyết định
cái gì là thiện, cái gì là ác, mà chỉ lấy hình ảnh của Chúa trước mắt để định
hướng cho mình. Nhưng chẳng lẽ Chúa không nghĩ rằng con người rốt cuộc sẽ chối
bỏ và thậm chí bài bác cả hình ảnh của Chúa và sự thật của Chúa, nếu như họ bị
đè ép dưới một sức nặng khủng khiếp là sự tự do lựa chọn? Cuối cùng họ sẽ la
lên rằng sự thật không phải ở nơi Chúa, vì không thể nào đẩy họ vào tình cảnh bối
rối và dằn vặt hơn là Chúa đã làm, Chúa đã để lại cho họ biết bao nhiêu lo âu
và những nhiệm vụ không thể giải quyết nổi. Như vậy chính bản thân Chúa đã sắp
đặt cho nước Chúa sụp đổ và đừng đổ lỗi cho ai nữa. Thế nhưng người ta có đề
nghị với Chúa thế không? Có ba sức mạnh, trên đời chỉ có ba sức mạnh có thể thu
phục được lương tâm những kẻ nổi loạn yếu ớt để đem lại hạnh phúc cho họ: ba sức
mạnh ấy là: phép lạ, bí nhiệm và quyền uy.
Chú thích:
Chú thích:
(7) Xvoboda xovietsky còn có nghĩa là tự do tín ngưỡng, nhưng
ở đây tác giả không nói cái ý hẹp đó (N.D).
Chúa đã bác bỏ cái thứ nhất, thứ hai, thứ ba và chính Chúa đã
tự nêu gương. Khi quỷ ghê gớm và cực tinh ranh đưa Chúa lên nóc đền thờ và bảo
với Chúa: “Nếu Chúa muốn biết Chúa có phải là con Chúa Trời không thì hãy lao
mình xuống, vì có lời chép rằng các thiên thần sẽ đỡ lấy Chúa và nâng Chúa trên
tay. Chúa sẽ không rơi xuống và không bị thương, khi ấy Chúa sẽ biết Chúa có phải
là con Chúa Trời hay không và sẽ chứng tỏ được đức tin của Chúa vào Chúa cha.”
Nhưng Chúa đã không nghe lời xúi bảo ấy và không gieo mình xuống. Ồ, cố nhiên
Chúa xử sự như thế thật là tự hào và cao cả tuyệt vời, xưng đáng là Chúa Trời,
nhưng con người ta, giống người yếu ớt nổi loạn có phải là những ông trời đâu?
Ôi, khi Chúa hiểu rằng chỉ cần bước một bước, chỉ cần có một cử chỉ toan gieo
mình xuống là lập tức Chúa đã thử Đức Chúa cha và mất lòng tin vào Chúa cha,
Chúa sẽ tan xương nát đùi vì vập vào trái đất mà Chúa đã đến để cứu vớt nó, và
quỷ tinh ranh đã cám dỗ Chúa sẽ vui mừng. Nhưng, tôi nhắc lại, có nhiều người
như Chúa không? Chẳng lẽ có giây lát nào Chúa quả thật đã cho rằng người đời đủ
sức kham nổi sự cám dỗ như thế chăng? Bản chất con người phải chăng là gạt bỏ
phép lạ và trong những lúc ghê gớm của cuộc đời, lúc phải giải đáp những câu hỏi
cơ bản, đau khổ, ghê gớm nhất của tâm hồn thì vẫn chỉ theo quyết định tự do của
con tim? Ôi, Chúa biết rằng công ích của Chúa sẽ được ghi lại trong sử sách, sẽ
lưu truyền muôn thuở và sẽ dội đến cả những nơi cùng trời cuối đất, và Chúa hi
vọng rằng theo gương Chúa, con người sẽ vẫn tin ở Chúa Trời mà không cần đến
phép lạ. Nhưng Chúa không biết rằng hễ con người chối bỏ phép lạ thì cũng chối
bỏ luôn cả Chúa Trời, bởi vì con người tìm kiếm phép lạ hơn là tìm kiếm Chúa Trời.
Bởi vì con người không thể không cần đến phép lạ, nên họ sẽ tạo ra cho mình những
phép lạ mới, bây giờ là phép lạ của chính họ, và họ cúi đầu sùng bái phép lạ của
thầy pháp chữa bệnh, phép phù thủy của bà đồng, mặc dù họ đã một trăm lần là kẻ
nổi loạn, kẻ tà giáo và vô thần. Chúa không bứt khỏi cây thập giá mà bước xuống
khi người ta la gào, chế nhạo và trêu chọc Chúa: “Hãy rời khỏi cây thập giá bước
xuống đi thì chúng ta sẽ tin mi là Chúa.” Chúa không bước xuống vì Chúa lại vẫn
không muốn dùng phép lạ nô dịch con người. Chúa tha thiết mong muốn tín ngưỡng
tự do chứ không phải là tin vì phép lạ. Chúa khao khát tình yêu của con người tự
do, chứ không phải là sự hân hoan của kẻ nô lệ trước một uy lực đã làm nó khiếp
đảm mãi mãi. Nhưng như thể Chúa đánh giá con người quá cao, bởi vì dĩ nhiên họ
là nô lệ, mặc dù bẩm sinh họ là kẻ nổi loạn. Chúa hãy nhìn cho khắp mà phán
xét, đã mười lăm thế kỉ trôi qua, Chúa hãy nhìn họ xem, có người nào đã được
Chúa dìu dắt lên bằng Chúa chưa? Tôi thề rằng con người yếu đuối hơn và hèn kém
hơn Chúa tưởng. Liệu họ có thể làm được như Chúa không? Tôn trọng họ dường ấy,
Chúa dường như không còn thông cảm với họ nữa, vì Chúa đòi hỏi ở họ quá nhiều vậy
mà Chúa yêu họ hơn cả bản thân mình kia đấy. Nếu Chúa bớt tôn trọng họ đi thì sẽ
đòi hỏi họ ít hơn. Họ yếu đuối và đê hèn. Hiện nay ở khắp mọi nơi họ nổi lên chống
lại quyền lực của chúng tôi và kiêu hãnh về việc họ nổi loạn, nhưng đáng kể gì
chuyện ấy? Đấy là sự kiêu hãnh của đứa con nít và đứa học trò. Đấy là lũ trẻ nhỏ
làm loạn trong lớp và đuổi thầy giáo đi. Nhưng sự hoan hỉ của bọn trẻ ranh rồi
sẽ hết, chúng sẽ phải trả một giá đắt. Chúng sẽ phá sập các đền thờ và tưới máu
trên mặt đất. Nhưng rốt cuộc nhưng đứa trẻ đần độn đoán ra rằng tuy chúng là kẻ
nổi loạn, nhưng chúng yếu đuối, không kham nổi cuộc nổi loạn của chính mình.
Chúng sẽ nhỏ những giọt nước mắt ngu độn mà nhận ra rằng Chúa sinh chúng ra làm
kẻ nổi loạn chắc chắn là muốn chế nhạo chúng. Chúng sẽ nói lên điều đó trong nỗi
tuyệt vọng, và điều chúng nói ra sẽ là sự báng bổ khiến cho chúng càng bất hạnh
hơn, bởi vì bản chất con người không chịu đựng nổi sự báng bổ và cuối cùng bao
giờ cũng sẽ trả thù về sự báng bổ ấy. Vậy, lo lắng, bối rối và bất hạnh là thân
phận hiện nay của con người sau khi Chúa đã chịu bấy nhiêu thương khó vì tự do
của họ! Đấng tiên tri vĩ đại của Chúa, do thiên cảm và với ngụ ý xa xôi, có nói
rằng Ngài đã nhìn thấy tất cả những người có mặt trong lần phục sinh thứ nhất
và mới chỉ có cả thảy mười hai ngàn người. Nhưng nếu như có ngần ấy thì họ dường
như không phải là người nữa, mà là những Chúa Trời! Họ đã chịu mọi sự khó vì đạo
của Chúa, đã hàng chục năm chịu đói rét trong sa mạc, ăn châu chấu và rễ cây,
và cố nhiên Chúa có thể hãnh diện trỏ vào họ - những đứa con của tự do, của
tình yêu, của lòng hi sinh tự nguyện và cao cả nhân danh Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng
họ chỉ có mấy ngàn người, mà là những đấng Chúa Trời, còn những người khác thì
sao? Những người yếu đuối còn lại có lỗi gì khi họ không chịu đựng nổi cái mà
người hùng chịu được? Tâm hồn yếu đuối có tội gì khi nó không đảm đương nổi món
quà tặng ghê gớm như thế? Phải chăng Chúa đến chỉ với những người được lựa chọn
và vì những người được lựa chọn? Nếu vậy thì đây là điều bí nhiệm và chúng tôi
không hiểu nổi. Nhưng nếu là điều bí nhiệm thì chúng tôi có quyền rao giảng về
nó và dạy cho họ biết rằng quyền tự do quyết định của con tim không phải là điều
quan trọng và không phải là tình yêu, mà là sự bí nhiệm mà họ phải tuân theo một
cách mù quáng, cho dù trái với lương tâm của họ.
Chúng tôi đã làm như thế. Chúng tôi đã sửa chữa sự nghiệp của
Chúa và đặt nó trên nền tảng phép lạ, bí nhiệm và quyền uy. Và người đời vui sướng
vì lại được chăn dắt như đàn cừu và rốt cuộc đã cất bỏ được khỏi con tim món
quà rất đỗi đáng sợ đã đem đến cho họ biết bao đau khổ. Chúng tôi làm như thế
có phải lẽ không, Chúa nói đi. Lẽ nào chúng tôi không yêu nhân loại khi chúng
tôi khiêm nhường nhận ra chỗ yếu kém của họ, trìu mến giảm nhẹ gánh nặng cho họ
và cho phép bản chất yếu đuối của họ phạm tội, miễn là được chúng tôi cho phép?
Vậy bây giờ Chúa đến gây phiền toái cho chúng tôi làm gì? Sao Chúa lẳng lặng nhìn
tôi một cách thấm thía bằng cặp mắt hiền từ như vậy? Cứ nổi giận đi, tôi không
mong muốn tình yêu của Chúa, vì chính tôi không yêu Chúa. Cần gì tôi phải giấu
giếm Chúa? Hay tôi không biết tôi đang nói với ai? Nhưng gì tôi muốn nói với
Chúa, Chúa biết hết rồi, tôi đọc thấy trong mắt Chúa. Tôi phải giấu Chúa điều
bí nhiệm của chúng tôi chăng? Có lẽ Chúa muốn nghe điều đó từ miệng tôi nói ra
chăng, vậy thì hãy nghe đây: chúng tôi không theo Chúa, mà theo hắn, đó là điều
bí nhiệm của chúng tôi! Đã từ lâu chúng tôi không theo Chúa, mà theo hắn, đã
tám thế kỷ nay.
Đúng tám thế kỷ trước, chúng tôi đã nhận lấy của hắn cái mà
Chúa đã phẫn nộ gạt bỏ, món quà cuối cùng mà hắn đã dâng Chúa khi trỏ cho Chúa
tất cả các vương quốc trần gian: chúng tôi đã nhận của hắn La Mã và thanh gươm
của Xezar và tuyên bố chỉ có chúng tôi mới là những hoàng đế dưới trần gian, chỉ
có chúng tôi mới là hoàng đế, mặc dù cho đến nay chúng tôi vẫn chưa hoàn thành
trọn vẹn sự nghiệp của chúng tôi. Nhưng lỗi tại ai?
- Ôi, sự nghiệp ấy cho đến nay chỉ mới khởi sự, nhưng nó đã
khởi sự. Còn lâu mới xong xuôi, và trần gian còn đau khổ nhiều, nhưng chúng tôi
sẽ đạt được mục đích, chúng tôi sẽ là những Cezar, bấy giờ chúng tôi sẽ nghĩ đến
hạnh phúc toàn thế giới của nhân loại. Thế nhưng hồi ấy lẽ ra Chúa vẫn có thể
nhận lấy thanh kiếm của Cezar. Tại sao Chúa khước từ món quà cuối cùng ấy? Nếu
Chúa chấp nhận lời khuyên thứ ba của Quỷ pháp lực cao cường thì Chúa đã thực hiện
được tất cả những gì con người vẫn đi tìm ở trần gian: một đấng để sùng phục, để
trao phó lương tâm của mình và nhờ đó mà rốt cuộc tất cả mọi người hợp nhất lại
thành một tổ kiến hòa thuận không gì phủ nhận được, bởi vì nhu cầu liên kết
toàn thế giới là nỗi dằn vặt thứ ba và cuối cùng của loài người. Bởi vì nhân loại,
xét trong tổng thể, bao giờ cũng có khuynh hướng tự tổ chức trên nền tảng toàn
thế giới. Đã có nhiều dân tộc vĩ đại viết nên pho sử vĩ đại, nhưng họ càng lên
cao thì càng bất hạnh, bởi vì họ có ý thức mạnh mẽ hơn các dân tộc khác về nhu
cầu liên kết toàn thế giới. Những nhà chinh phục vĩ đại như Timur và Thành Cát
Tư Hãn đã vút qua trên trái đất như cơn lốc khao khát chinh phục cả vũ trụ,
nhưng ngay cả những kẻ ấy, dù là không có ý thức, cũng biểu thị chính cái nhu cầu
vĩ đại của nhân loại và thống nhất mọi dân tộc trên toàn thế giới. Nếu Chúa nhận
lấy thế giới và bộ áo đỏ của Cezar thì Chúa đã tạo lập được một vương quốc toàn
thế giới và sự yên ổn trên toàn thế giới. Bởi vì ai sẽ làm chủ được người đời nếu
không phải là người làm chủ được lương tâm họ và nắm lấy bánh mì của họ trong
tay mình?
Phần 5
Chương 5 - P3
Chương 5 - P3
Chúng tôi đã nhận lấy thanh gươm của Cezar và như thế chúng
tôi đã từ bỏ Chúa để đi theo hắn. Ôi, trí tuệ tự do, khoa học và thói ăn thịt
người của họ còn hoành hành nhiều thế kỉ nữa, bởi vì sau khi đã bắt đầu dựng
tháp Baben không có chúng tôi, rốt cuộc họ sẽ trở lại thói ăn thịt người. Nhưng
khi ấy con thú sẽ bò đến liếm chân chúng tôi, nước mắt lẫn máu túa xuống chân
chúng tôi. Chúng tôi sẽ cưỡi lên nó, nâng cao cái chén có khắc chữ “Bí nhiệm!”
Nhưng chỉ khi ấy bình yên và hạnh phúc mới ngự trị trên cõi đời. Chúa tự hào về
những người được Chúa lựa chọn, nhưng Chúa chỉ có những người được lựa chọn,
còn chúng tôi lại đem sự bình yên cho tất cả mọi người. Lại còn thế này nữa:
trong số những người được Chúa lựa chọn, trong số những người mạnh mẽ có thể được
lựa chọn, rốt cuộc rất nhiều người mệt mỏi vì chờ đợi Chúa, họ đã và sẽ đem sức
mạnh tinh thần và nhiệt tâm sang lĩnh vực hoạt động khác và sau hết, họ sẽ dựng
lên ngọn cờ tự do của mình chống lại Chúa. Nhưng chính Chúa đã dựng lên ngọn cờ
ấy. Đi với chúng tôi, tất cả mọi người sẽ hạnh phúc, khắp nơi nơi sẽ không còn
nổi loạn nữa, người ta không tiêu diệt lẫn nhau nữa, những cái đó chỉ có trong
tự do của Chúa. Ồ, chúng tôi sẽ thuyết phục được họ rằng chỉ tự do khi rời bỏ tự
do của mình vì chúng tôi và phục tùng chúng tôi. Thế nào, chúng tôi có lí hay
là nói dối? Chính họ sẽ thấy rằng chúng tôi có lí, vì họ sẽ nhớ lại rằng tự do
của Chúa đã đưa họ đến kiếp nô lệ khủng khiếp và sự hoang mang như thế nào. Tự
do, trí tuệ tự do và khoa học sẽ đẩy họ vào những mê lộ và đặt họ trước những
phép lạ và những bí nhiệm không thể giải đáp được khiến cho một số trong bọn họ,
những kẻ bất khuất và hung dữ, sẽ tiêu diệt chính bản thân mình, những kẻ khác
bất khuất nhưng suy yếu thì sẽ tiêu diệt lẫn nhau, còn loại thứ ba yếu đuối và
bất hạnh sẽ bò đến dưới chân chúng tôi mà kêu van: “Vâng, các ngài có lý - chỉ
có các ngài nắm được bí nhiệm của Chúa, chúng con trở lại với các ngài, xin các
ngài cứu vớt chúng con khỏi chính bản thân chúng con.” Khi nhận bánh mì từ tay
chúng tôi, cố nhiên họ biết rõ ràng đấy là bánh mì của họ, do tay họ làm ra,
chúng tôi lấy của họ để phân phối cho họ, chẳng có phép lạ nào cả, họ sẽ thấy
chúng tôi không biến đá thành bánh mì, nhưng họ sẽ vui sướng khi nhận bánh mì từ
tay chúng tôi hơn cả vui sướng vì có bánh mì! Bởi vì họ sẽ nhớ rằng trước kia,
không có chúng tôi, chính bánh mì do họ làm ra lại chỉ biến thành đá trong tay
họ, còn khi họ trở lại với chúng tôi thì trong tay họ đã lại biến thành bánh
mì. Họ sẽ hiểu rất rõ giá trị của việc vĩnh viễn phục tùng! Chừng nào người đời
chưa hiểu điều đó thì họ vẫn còn bất hạnh. Ai góp phần nhiều nhất tạo nên sự
thiếu hiểu biết ấy, Chúa nói đi? Ai đã xé lẻ đàn cừu và lùa nó tản tác vào những
nẻo đường chưa từng biết? Những đàn cừu sẽ tụ họp lại và lại ngoan ngoãn vâng lời,
lần này thì vĩnh viễn. Khi ấy chúng tôi sẽ đem lại cho họ hạnh phúc êm đềm và
khiêm nhường, hạnh phúc của những sinh vật yếu đuối mà tạo hóa sinh ra vốn đã
như vậy: ồ, cuối cùng chúng tôi sẽ thuyết phục được họ đừng kiêu ngạo, bởi vì
Chúa đã tâng bốc họ quá, như vậy là dạy cho họ kiêu ngạo. Chúng tôi sẽ chứng tỏ
cho họ lấy rằng họ yếu đuối họ chỉ là những đứa trẻ đáng thương, những hạnh
phúc của trẻ thơ ngọt ngào hơn bất cứ thứ hạnh phúc nào. Họ sẽ trở nên nhút
nhát, sẽ ngước mắt nhìn chúng tôi và nép vào chúng tôi như gà con nép dưới cánh
gà mẹ. Họ sẽ ngạc nhiên về chúng tôi; khiếp sợ chúng tôi, tự hào vì chúng tôi
hùng mạnh và thông minh đến độ dẹp yên cả một bầy súc vật cuồng loạn hàng bao
nhiêu triệu như thế. Họ sẽ bủn nhủn run sợ trước cơn giận của chúng tôi, trí tuệ
họ đâm ra nhút nhát, mắt họ sẽ đẫm lệ như đàn bà trẻ con, nhưng chỉ cần chúng
tôi vẫy tay một cái là cũng dễ dàng như thế, họ trở nên vui vẻ tươi cười, vui
sướng hớn hở và hát bài ca hạnh phúc của trẻ con. Phải, chúng tôi sẽ bắt họ làm
việc, nhưng những lúc rảnh rang, chúng tôi sẽ làm cho cuộc sống của họ như một
trò chơi trẻ con, hát hỏng, đồng ca, nhảy những điệu vũ hồn nhiên. Ồ, chúng tôi
cũng cho phép họ phạm tội nữa, họ yếu đuối và bất lực, và họ sẽ yêu mến chúng
tôi như con trẻ yêu cha mẹ, vì chúng tôi cho phép họ phạm tội. Chúng tôi sẽ nói
với họ rằng mọi tội lỗi đều chuộc được, miễn là nó được chúng tôi cho phép.
Chúng tôi cho phép họ phạm tội vì chúng tôi yêu họ, và chúng ta sẽ gánh chịu sự
đừng phạt thay cho họ. Chúng tôi sẽ gánh chịu và họ sẽ tôn sùng chúng tôi như
những ân nhân đã gánh lấy tội lỗi cho họ trước Chúa Trời. Họ sẽ không có điều
gì giữ bí mật với chúng tôi. Chúng tôi sẽ cho phép hay cấm họ sống với vợ và
người tình, có con hay không có con, - tất cả tùy theo sự vâng lời họ, - và họ
sẽ vui vẻ và sung sướng tuân phục chúng tôi. Những bí mật khiến cho lương tâm họ
bị giày vò ghê gớm nhất, họ sẽ thổ lộ hết với chúng tôi, và chúng tôi sẽ giải
quyết cho họ, họ sẽ vui sướng tin theo quyết định của chúng tôi, bởi vì nó sẽ
giải thoát họ khỏi nỗi lo âu vô cùng lớn lao và những dằn vặt ghê gớm hiện nay
khi mỗi cá nhân tự do quyết định vận mệnh của mình. Và tất cả sẽ hạnh phúc,
hàng triệu người, trừ một trăm ngàn người quản lí họ. Chỉ vì chỉ có chúng tôi nắm
giữ điều bí nhiệm, chỉ có chúng tôi sẽ bất hạnh. Sẽ có hàng trăm triệu người
thơ ngây sung sướng và một trăm ngàn người đau khổ phải chịu sự trừng phạt vì
biết thiện ác. Họ sẽ chết êm ả, nhân danh Chúa họ sẽ tắt nghỉ êm ả, và ở thế giới
bên kia họ sẽ chỉ tìm thấy cái chết. Nhưng chúng tôi nắm giữ điều bí mật và vì
hạnh phúc của họ, chúng tôi sẽ cám dỗ họ bằng phần thưởng vĩnh cửu trên trời.
Chỉ vì nếu có cái gì ở thế giới bên kia thì tất nhiên không phải là dành cho những
người như họ.
Người ta nói và tiên tri rằng Chúa sẽ đến và sẽ lại chiếm phần
thắng. Chúa sẽ đến cùng với những người được lựa chọn, với những người kiêu
hãnh và uy quyền nhưng chúng tôi sẽ nói rằng, những người ấy chỉ cứu chính bản
thân họ thôi, còn chúng tôi cứu vớt tất cả mọi người. Người ta nói rằng người
đàn bà tà dâm, ngồi trên mình con thú, hai tay cầm cái chén “Bí nhiệm” sẽ bị
bêu nhục, những kẻ yếu đuối sẽ lại nổi loạn, sẽ xé tan tấm áo đỏ tía của ả và
phơi lõa lồ tấm thân “ghê tởm” của ả ra (8). Nhưng khi ấy tôi sẽ đứng lên và trỏ
cho Chúa thấy hàng nghìn triệu người thơ ngây, hạnh phúc không biết thế nào là
tội lỗi. Còn chúng tôi, những người đã vì hạnh phúc của họ và gánh lấy tội lỗi
của họ. Chúng tôi sẽ đến đứng trước mặt Chúa và nói: “Hãy phán xử chúng tôi, nếu
Chúa có thể và dám làm việc đó.” Nên biết rằng tôi không sợ Chúa đâu. Nên biết
rằng tôi đã từng ở trong sa mạc, tôi đã từng sống bằng châu chấu và rễ cây, tôi
đã từng cảm tạ cái tự do mà Chúa đã xuống ơn cho loài người: tôi sẵn sàng xung
vào số người được Chúa lựa chọn, những người đấy uy quyền và mạnh mẽ, vì nóng
lòng muốn “bổ sung cho đủ số”. Nhưng tôi đã tỉnh ngộ và không muốn phục vụ một
công việc điên rồ. Tôi đã quay trở lại và nhập với những người đã sửa chữa sự
nghiệp của Chúa. Tôi lìa bỏ những người kiêu hãnh và trở lại với những người
khiêm nhường vì hạnh phúc, của những người khiêm nhường ấy. Điều tôi nói với
Chúa bây giờ sẽ thành sự thật, vương quốc của chúng tôi sẽ được dựng nên. Tôi
nhắc lại, ngày mai Chúa sẽ thấy chúng tôi chỉ vẫy tay một cái là đàn cừu ngoan
ngoan ấy sẽ đâm bổ đến hất thêm than hồng vào đống lửa thiêu Chúa, tôi sẽ thiêu
Chúa vì Chúa đã đến gây phiền rầy cho chúng tôi. Bởi vì nếu có người nào đáng
lên giàn hỏa thiêu hơn ai hết thì đó là Chúa. Ngày mai tôi sẽ thiêu Chúa. Dixi (9).
Chú thích:
Chú thích:
(8) Đây là theo sách “Khái huyền” của Jăng, XVII. 1-18. Người
đàn bà tà dâm ngồi trên mình con thú bảy đầu mười sừng, ả mặc tấm áo đó tía,
tay cầm cái chén chứa đầy sự dâm đãng ghê tởm của mình. Ả sẽ bị lột hết xiêm áo
và bị con thú ăn thịt (N.D).
(9) Tôi nói thế đấy. (Tiếng Latin, thường dùng để kết thúc một
lập luận gì đó) (N.D).
Ivan dừng lại. Chàng bừng bừng trong lúc nói, chàng nói một
cách hăng say. Khi dứt lời, chàng bỗng mỉm cười.
Aliosa vẫn lặng im nghe anh nói, gần về cuối trong lòng xúc động
vô cùng, nhiều lần toan ngắt lời anh, nhưng rõ ràng tự ghìm mình, giờ đây bỗng
lên tiếng, như thế bật khỏi chỗ.
- Nhưng… đấy là chuyện phi lý! - Anh đỏ mặt kêu lên. - Bản
trường ca của anh ngợi khen Chúa Kito, chứ không phải là báng bổ… như anh muốn.
Ai sẽ tin những điều anh nói về tự do? Có nên hiểu tự do như thế không? Quan niệm
của đạo chính thống có thế đâu, đấy là La Mã, mà không phải là toàn bộ La Mã, sự
thật không phải thế, đấy là những gì tồi tệ nhất của đạo Thiên Chúa, của các
pháp quan tôn giáo, các tu sĩ dòng Tên… Và cũng không thể có nhân vật nào quái
dị như viên pháp quan tôn giáo của anh. Tội lỗi của người khác mà ông ta nhận lấy
vào mình là tội lỗi gì? Ai là người nắm giữ bí nhiệm và vì hạnh phúc của mọi người
mà nhận lấy sự trừng phạt của trời? Đã ai từng thấy những người như thế? Chúng
tôi biết những tu sĩ dòng Tên, người ta vẫn nói nhiều điều xấu về họ, nhưng họ
có phải là những người như anh nói không? Họ hoàn toàn không như thế… Họ chỉ là
quân đội La Mã, để mưu đồ sự trị vì toàn thế giới sau này, đứng đầu là một vị
hoàng đế - tức là giáo hoàng La Mã… đấy là lý tưởng của họ, nhưng không có những
bí nhiệm và nỗi buồn cao cả nào hết… Chỉ đơn giản là ham muốn quyền hành, những
phúc lợi trần tục bẩn thỉu, sự nô dịch… tựa như chế độ nông nô sau này mà họ sẽ
là địa chủ… chỉ có thế thôi. Có lẽ họ không tin Chúa Trời. Vị pháp quan tôn
giáo đau khổ của anh chỉ là do ai tưởng tượng ngông cuồng của anh sản sinh ra…
- Hãy khoan, khoan, - Ivan cười, - chú nổi nóng quá đấy. Chú
bảo là trí tưởng tượng ngông cuồng cũng được thôi! Cố nhiên là tưởng tượng
ngông cuồng. Nhưng xin hỏi: chẳng lẽ quả thật chú cho rằng toàn bộ phong trào
Thiên Chúa giáo những thế kỷ gần đây đích thị chỉ là sự ham muốn quyền hành để
mưu cầu toàn những lợi ích bẩn thỉu thôi ư? Có phải Cha Paixi dạy chú thế
không?
- Không, không. Cha Paixi có lần đã nói điều gì đại loại như
anh nói… nhưng cố nhiên không hẳn thế, hoàn toàn không phải thế! - Aliosa chợt
nghĩ ra.
- Vậy mà điều chú vừa nói ra thật là quý giá, mặc dù chú bảo
là “hoàn toàn không phải thế”. Thì tôi hỏi chú tại sao các tu sĩ dòng Tên của
chú và các pháp quan tôn giáo lại cụm với nhau để mưu cầu toàn những lợi ích vật
chất nhơ nhuốc? Tại sao trong bọn họ không có lấy một người đau khổ, mang trong
lòng nỗi đau xót vĩ đại và yêu nhân loại? Chú thấy đấy: giả sử trong số tất cả
những người chỉ thèm muốn những lợi ích vật chất bẩn thỉu, có lấy một người như
vị pháp quan già của tôi, bản thân ông ta đã sống bằng rễ cây trong sa mạc và
phát rồ phát dại, cố vượt thắng xác thịt của mình thành người tự do và toàn thiện,
tuy nhiên suốt đời ông vẫn yêu nhân loại, đột nhiên ông tỉnh ngộ và thấy rằng lạc
thú tinh thần đạt tới ý chí hoàn thiện chẳng lớn lao gì lắm khi thấy rõ ràng
hàng triệu con dân còn lại của Chúa vẫn chỉ là vật bày đặt ra để giễu cợt,
không bao giờ họ kham nổi tự do của mình, và từ những kẻ nổi loạn đáng thương
không bao giờ nảy sinh ra những người khổng lồ để xây dựng xong tháp, nhà duy
tâm vĩ đại mơ ước hài hòa không phải để cho những con ngỗng như thế. Hiểu được
tất cả những điều đó, ông đã quay trở lại và nhập vào… với những người thông
minh. Chẳng lẽ điều ấy không thể xảy ra được ư?
- Nhập với ai, với những người thông minh nào? - Aliosa kêu
lên, gần như hăng máu. - Họ chẳng có trí tuệ gì, chẳng có những điều bí nhiệm
và bí mật nào cả… Chỉ có đầu óc vô thần, tất cả bí mật của họ chỉ là thế. Viên
pháp quan của anh không tin Chúa Trời, tất cả bí mật của ông ta chỉ có thế
thôi!
- Cho dù là thế đi nữa! Rốt cuộc chú đã đoán ra. Quả là thế,
quả thật tất cả bí mật chỉ là thế, nhưng chẳng lẽ đấy không phải là đau khổ, ít
ra là với một người như ông ấy, người đã hủy hoại cả đời mình trong sa mạc vì sự
đạo và không bỏ được tình yêu nhân loại? Lúc tuổi già xế bóng, ông ta thấy rõ
ràng chỉ có những lời khuyên của quỷ ghê gớm và sự vĩ đại mới có thể thu xếp cuộc
sống tạm ổn cho những kẻ nổi loạn yếu ớt; “những sinh vật làm thử, tạo tác dở
dang, chỉ để giễu cợt”. Thế là, khi hiểu rõ như vậy, ông ta thấy cần đi theo
con đường ma quỷ tinh khôn, quỷ ghê gớm gieo rắc chết chóc và tàn phá đã vạch
cho, muốn vậy phải chấp nhận sự dối trá và lừa lọc, chủ tâm đưa người ta đến chết
chóc và tàn phá, và phải lừa dối họ suốt dọc đường, để họ không nhận thấy họ được
dẫn đi đâu, để ít ra trên đường đi những kẻ mù quáng thảm hại ấy tự cho là mình
hạnh phúc. Và chú hãy lưu ý sự lừa dối nhân danh đấng đã đề ra cái lí tưởng mà
suốt đời ông già say mê tin tưởng! Thế không phải là bất hạnh sao? Và nếu như
có lấy một người như thế đứng đầu cả đạo quân “khao khát quyền hành cốt để
giành lấy những lợi ích bẩn thỉu” thì chẳng phải là cũng đủ để sinh ra bi kịch
rồi không? Hơn thế nữa: chỉ cần một người như thế đứng đầu là rốt cuộc sẽ tìm
được tư tưởng chỉ đạo thực sự cho toàn bộ sự nghiệp của La Mã với tất cả các đạo
quân và các tu sĩ dòng Tên của họ, một tư tưởng tối cao chỉ đạo sự nghiệp ấy.
Tôi nói thẳng với chú nhé: tôi tin chắc rằng không bao giờ thiếu vắng con người
độc đáo ấy trong số những người đứng đầu phong trào. Biết đâu lại có thể có cả
một số người độc đáo như thế trong các giáo hoàng La Mã. Mà biết đâu đấy, có thể
ông già đáng nguyền rủa đó, kẻ yêu nhân loại bền bỉ dường ấy theo cách riêng của
mình, ngay cả bây giờ vẫn tồn tại dưới hình thức một tập đoàn đông đảo những
ông già độc đáo như thế, và không phải do ngẫu nhiên, mà tồn tại theo sự thỏa
thuận, như một hội kín đã được tổ chức từ lâu để giữ bí mật đối với những người
bất hạnh và yếu đuối, nhằm đem lại hạnh phúc cho họ.
Điều đó nhất định là có, chắc là phải có. Tôi có cảm giác là
các hội viên hội Tam điểm cũng có một cái gì đại loại như điều bí nhiệm đó, làm
cơ sở cho họ, vì vậy những người theo đạo Thiên Chúa căm thù các hội viên Tam
điểm đến thế, coi họ là những kẻ cạnh tranh, phá vỡ sự thống nhất tư tưởng,
trong khi cần phải có một đàn cừu thống nhất và một người chăn duy nhất… Tuy
nhiên, khi bảo vệ tư tưởng của mình, tôi có vẻ là một nhà sáng tác không chịu nổi
sự phê phán của chú. Chuyện này nói thế đủ rồi!
- Có lẽ anh chính là hội viên hội Tam điểm! - Aliosa buột thốt
lên. - Anh không tin có Chúa Trời. - Aliosa nói thêm, lần này có vẻ cực kì đau
xót. Thêm nữa, anh có cảm giác rằng Ivan nhìn anh ra ý giễu cợt. - Bản trường
ca của anh kết thúc thế nào? - Anh bỗng hỏi, mắt nhìn xuống đất. - Hay nó đã kết
thúc rồi?
- Tôi muốn kết thúc nó như sau: viên pháp quan tôn giáo im tiếng
một lát, chờ xem kẻ bị giam trả lời ra sao. Sự im lặng của Chúa thật nặng nề đối
với ông ta. Ông ta thấy người này vẫn lẳng lặng nghe ông ta với vẻ hết sức thấm
thía, và xem ra không muốn bắt bẻ gì hết. Ông già muốn Chúa nói với ông ta điều
gì, dù là cay đắng, đáng sợ. Nhưng Chúa bỗng lẳng lặng đến gần ông già và dịu
dàng hôn lên cặp môi tái nhợt của ông lão chín mươi. Đấy là tất cả câu trả lời.
Ông già rùng mình. Khóe môi ông rung động. Ông ta mở cửa, nói với Chúa: “Chúa
đi đi và đừng đến nữa… đừng bao giờ đến nữa… đừng bao giờ, đừng bao giờ.” Ông
ta thả cho Chúa đi vào “những phố phường tăm tối của đô thành”. Người bị giam
ra đi.
- Thế còn ông già?
- Cái hôn nung đốt trái tim ông ta, nhưng ông già vẫn giữ
nguyên ý mình.
- Và anh cũng cùng một ý với ông ấy, cả anh nữa chứ? - Aliosa
đau buồn kêu lên.
Ivan bật cười:
- Nhưng đấy là chuyện nhảm nhí thôi mà. Aliosa ạ, đấy chỉ là
bản trường ca ngờ nghệch của một chàng sinh viên ngờ nghệch chưa từng làm thơ
bao giờ. Tại sao chú lại bận tâm đến thế? Hay chú nghĩ rằng tôi sẽ đi thẳng đến
với các tu sĩ dòng Tên để nhập với những người sửa chữa sự nghiệp của Chúa? Trời
ơi, tôi thiết gì kia chứ! Tôi đã nói với chú rồi mà: tôi chỉ muốn sống đến ba
mươi tuổi thôi, rồi sau đó thì đập tan chén rượu đời!
- Thế còn những lộc non vừa hé nở, còn mồ mả của những, người
thân thương, còn người phụ nữ anh yêu! Anh sẽ sống thế nào, anh sẽ thương yêu họ
như thế nào? - Aliosa chua xót thốt lên. - Có thể mang cái địa ngục như thế
trong tim óc được ư? Không, chính anh đang tới nhập bọn với họ… nếu không thì
anh sẽ tự vẫn chứ không chịu đựng nổi!
- Có một sức mạnh chịu đựng hết thảy! - Ivan nói với một nụ
cười lạnh lùng như thế!
- Sức mạnh nào?
Sức mạnh của dòng họ Karamazov… sức mạnh sinh ra từ sự ti tiện
của dòng họ Karamazov.
- Tức là ngụp mình trong phóng đãng, đè nghẹt tâm hồn trong sự
đồi bại, phải không?
- Có thể lắm… có lẽ tôi sẽ tránh được cho đến năm ba mươi tuổi
rồi sau…
- Làm thế nào mà tránh được? Dừng cách gì mà tránh? Ý nghĩ của
anh như thế thì không sao tránh được.
- Vẫn lại theo kiểu Karamazov thôi.
- Tức là “mọi việc đều được phép” chứ gì? Mọi việc đều được
phép làm, phải thế không?
Ivan cau mày và mặt bỗng tái đi một cách lạ lùng.
- A, chú lại nắm lấy điều tôi nói hôm qua đã khiến cho Miuxov
rất bực… Còn anh Dmitri thì bật lên một cách thơ ngây và nhắc lại chứ gì? -
Ivan cười gằn. - Phải, có lẽ là “mọi việc đều được phép làm”, một khi đã nói ra
mồm. Tôi không chối. Vả lại cách diễn đạt của Mitia không đến nỗi dở đâu.
Aliosa lẳng lặng nhìn Ivan.
- Này, chú ạ, trước khi ra đi, tôi nghĩ rằng trên đời này ít
ra tôi cũng còn có chú, - Ivan bỗng thốt lên với một tình cảm bất ngờ, - còn
bây giờ tôi thấy rằng tôi không có chỗ trong tim chú, nhà khổ tu của tôi ạ. Tôi
sẽ không từ bỏ công thức “mọi việc đều được phép làm” đâu, thế thì chú từ tôi
chứ hả?
Aliosa đứng lên, đến gần và chẳng nói chẳng rằng, dịu dàng
hôn vào môi anh.
- Trò ăn cắp văn! - Ivan la lên, đột nhiên trở nên hoan hỉ
không rõ vì sao. - Đấy là chú thuổng trong bản trường ca của tôi! Nhưng cảm ơn
chú. Đứng lên, Aliosa, ta đi đi, đến lúc cả hai ta đều phải đi rồi.
Hai anh em đi ra, nhưng họ dừng lại ở bậc thêm quán ăn.
- Thế này này, Aliosa ạ, - Ivan thốt lên bằng giọng cương quyết,
nếu như tôi còn có thể nghĩ tới những lộc non mới hé nở và yêu chúng thì chỉ là
vì nhớ đến chú. Chỉ cần biết: ở đâu đó vẫn có chú là tôi vẫn còn muốn sống. Như
vậy chú đã cho là đủ chưa? Nếu muốn, chú hãy coi đó là lời tỏ tình của tôi. Còn
bây giờ chú đi sang phải, tôi đi sang trái, và thế là đủ rồi, chú nghe thấy chứ,
đủ rồi. Nghĩa là, nếu ngày mai tôi chưa đi (nhưng chắc là tôi sẽ đi) và chúng
ta sẽ còn gặp lại nhau nữa, thì chú đừng nói với tôi một lời nào về tất cả những
chuyện ấy nữa. Tôi khẩn khoản cầu xin chú đấy. Cả về anh Dmitri nữa, tôi đặc biệt
cầu van chú đấy, đừng bao giờ nói với tôi về anh ấy nữa, - chàng bỗng nói thêm
một cách cáu kỉnh, - hết chuyện rồi, thành tro bụi cả rồi, phải thế không? Còn
về phía tôi, tôi cũng hứa với chú một điều: đến năm ba mươi tuổi, khi tôi muốn
“đập tan chén rượu đời” thì mặc dù lúc ấy tôi đang ở đâu, tôi cũng sẽ tìm về
nói chuyện với chú… cho dù tôi đang ở Mỹ, chú nên biết như vậy. Về chỉ để gặp
chú. Lúc ấy tôi sẽ rất muốn nhìn thấy chú, xem chú ra sao. Này, lời hứa khá
long trọng đấy. Chúng ta chia tay nhau lần này có lẽ đến bảy năm, mười năm.
Thôi bây giờ chú về với Pater Xeraficus (10) của chú đi, ông già sắp lìa đời,
ông già mất mà không có chú thì chú lại giận tôi đã cầm giữ chú. Tạm biệt, hôn
tôi lần nữa đi, thế, thôi đi đi!.
Chú thích:
Chú thích:
(10) Ám chỉ thánh Francoise Axxiz (1182-1226), nhà truyền
giáo Ý, sáng lập dòng tu Thánh Frăngxoa. Có cái tên Paler Xerarlcus là do tích
Frăngxoa thiên cảm thấy Chúa Kito đến thăm ông, hiện hình thành thiên thần sáu
cánh (xenficus) (N.D).
Ivan bỗng quay đi, rồi đi đường mình, không hề ngoái lại.
Hôm qua anh Dmitri bỏ mặc Aliosa đấy mà đi cũng na ná như thế
này, nhưng hôm qua hoàn cảnh khác hẳn. Nhận xét lạ lùng ấy thoáng qua như mũi
tên trong trí óc Aliosa lúc ấy đang buồn rầu và đau xót. Anh đứng nhìn theo
Ivan một lát. Chẳng rõ vì sao anh bỗng nhận thấy anh Ivan đi hơi lắc lư và nhìn
từ phía sau thì vai bên phải hơi thấp hơn vai bên trái. Trước kia chưa bao giờ
Aliosa để ý thấy điều đó. Đột nhiên anh cũng quay đi và gần như chạy về tu viện.
Đã tối hắn, và anh gần như ghê sợ; có cái gì mới lạ cứ lớn mãi lên trong anh mà
anh không thể đưa ra câu trả lời.
Gió lại nổi lên như hôm qua và những cây thông cổ thụ rì rào ảo
não xung quanh anh khi anh đi vào khoảng rừng nhỏ của tu xá.
Anh gần như chạy. “Pater Xeraficus,” anh Ivan lấy cái tên ấy ở
đâu ra nhỉ, ở đâu ra - một ý nghĩ thoáng qua trong óc Aliosa. - “Ivan, anh Ivan
tội nghiệp, bao giờ em sẽ lại nhìn thấy anh… Tu xá đây rồi, trời ơi, phải, phải,
đấy là ngài, đấy là Pater Xeraficus. Ngài sẽ cứu ta… khỏi tay anh ấy, và mãi
mãi!”
Sau này, mấy lần trong đời, Aliosa hết sức băn khoăn nhớ lại
rằng sau khi chia tay với Ivan, không hiểu sao anh có thể quên bẵng anh Dmitri
mà sáng nay, mới mấy giờ trước, anh đã quyết phải tìm cho bằng được, cho dù đêm
nay không kịp về tu viện.
Phần 5
Chương 6: Vẫn còn rất mơ hồ
Sau khi chia tay với Aliosa, Ivan Fedorovich về nhà bố, điều
lạ lùng là chàng bỗng cảm thấy một nỗi phiền muộn không thể chịu nổi, và cái
chính là càng tới gần nhà thì nỗi phiền muộn đó càng tăng thêm theo mỗi bước
chân. Điều lạ lùng không phải là chàng phiền muộn, mà là Ivan Fedorovich không
thể xác định được mình phiền muộn cái nỗi gì. Trước kia chàng cũng đã nhiều lần
phiền muộn, và không lấy gì làm lạ rằng nó đến vào lúc này, khi chàng đã đoạn
tuyệt với tất cả những gì đã lôi cuốn chàng đến đây, sửa soạn để ngày mai thực
hiện một bước ngoặt đột ngột và bước lên con đường mới, hoàn toàn lạ lẫm, và lại
hoàn toàn cô đơn như trước kia, hy vọng nhiều nhưng không biết mình hi vọng gì,
trông đợi quá nhiều ở cuộc sống, nhưng không thể biết rõ mình trông đợi hoặc
mong muốn gì. Vậy mà lúc này, tuy tâm hồn chàng thực sự khắc khoải chờ mong cái
mới mẻ chưa từng biết, đấy vẫn chưa phải là điều đang giày vò chàng.
- Phải chăng ta ghê tởm nhà cha? - chàng nghĩ thầm - Hình như
ta đã chán ghét đến mức độ ấy rồi đấy, mặc dù hôm nay lần cuối cùng ta bước vào
ngưỡng cửa nhơ nháp này, vậy mà vẫn ghê tởm…” Nhưng không, không phải thế. Phải
chăng là tại cuộc chia tay với Aliosa và cuộc nói chuyện ban nãy với chú ấy:
“Suốt bao nhiêu năm ta im lặng không buồn nói với ai, vậy mà bỗng nhiên lại
tuôn ra bao nhiêu điều vô lý.” Quả thật đấy có thể là sự bực bội trẻ trung của
người trẻ tuổi chưa có kinh nghiệm, do tính háo danh của tuổi trẻ, bực vì không
diễn đạt được ý nghĩ của mình, nhất là lại với Aliosa, trong thâm tâm chắc chắn
chàng đặt nhiều hi vọng lớn ở chú ấy. Cố nhiên là thế, sự bực bội đó thậm chí
nhất định phải có, nhưng không hẳn vì thế, vẫn không hẳn vì thế. “Buồn phiền đến
lộn mửa, vậy mà không thể nói rõ ta muốn gì: Có lẽ chẳng nên nghĩ ngợi nữa…”
Ivan Fedorovich đã thử “không nghĩ nữa”, nhưng không ăn thua
gì. Điều chàng bực tức nhất là nỗi phiền muộn ấy tuồng như ngẫu nhiên, có duyên
cớ bên ngoài; chàng cảm thấy thế. Có một sinh vật gì hay một đồ vật gì án ngữ
lù lù ở đâu đó, đôi khi trong lúc làm việc hay chuyện trò sôi nổi, dường như có
cái gì án ngữ trước mắt hồi lâu mà ta không nhận thấy, thế nhưng rõ ràng ta cáu
kỉnh, gần như khổ tâm, cuối cùng ta đoán ra là cần gạt bỏ cái vật vô dụng, thường
là một vật gì rất vớ vẩn và bị bỏ quên không đúng chỗ, một chiếc khăn rơi trên
sàn, một cuốn sách không cất vào tủ v.v… Cuối cùng, trong tâm trạng hết sức nặng
nề và cáu kỉnh, Ivan Fedorovich đến nhà bố, và bỗng nhiên, cánh cửa rào chừng
mười lăm bước, khi nhìn ra cổng, chàng tức khắc đoán ra điều gì đã làm chàng khổ
tâm và lo lắng đến như thế. Thằng hầu Xmerdiakov ngồi hóng mát trên chiếc ghế bằng
cạnh cổng, và thoạt nhìn hắn, Ivan Fedorovich đã hiểu ngay rằng tên hầu
Xmerdiakov vẫn ngồi chồm hỗm trong tâm tư chàng và kẻ mà tâm hồn chàng không chịu
đựng nổi chính là thằng này. Mọi việc dường như bỗng được rọi sáng và trở nên
rõ ràng. Ban nãy, ngay từ lúc Aliosa kể về việc chú ấy gặp Xmerdiakov, một cái
gì u ám và kinh tởm bỗng xuyên vào tim chàng và lập tức khiến chàng tức giận.
Sau đó, trong lúc trò chuyện, chàng tạm quên Xmerdiakov, nhưng hắn vẫn ẩn trong
tâm hồn chàng, nhưng Ivan Fedorovich vừa chia tay với Aliosa và đi một mình về
nhà thì cảm giác đó đột nhiên lại nhanh chóng bộc lộ ra. “Chẳng lẽ cái thằng vô
lại đốn mạt này có thể làm ta lo ngại đến thế ư?” Chàng chợt nghĩ, trong lòng tức
điên lên.
Số là gần đây Ivan Fedorovich thực sự rất ghét thằng cha này,
nhất là mấy ngày gần đây. Thậm chí tự chàng nhận thấy mình gần như căm thù hắn,
mà sự căm thù ấy ngày càng tăng thêm. Có lẽ sự căm thù trở nên trầm trọng chính
là vì thoạt đầu, khi Ivan Fedorovich mới đến, sự thể khác hẳn. Hồi ấy chàng có
thiện cảm đặc biệt với hắn, thậm chí còn cho rằng hắn là con người rất độc đáo.
Chính chàng đã làm cho hắn quen chuyện trò với chàng, tuy nhiên bao giờ chàng
cũng ngạc nhiên thấy đầu óc hắn hơi ngây ngô hay nói cho đúng hơn, hơi lo lắng
và chàng không hiểu cái gì có thể làm cho gã “hay chiêm nghiệm” ấy thường xuyên
lo lắng, ám ảnh hắn. Chàng và hắn bàn với nhau về các vấn đề triết lí thậm chí
về việc tại sao ngày đầu sáng thế đã có ánh sáng, mà mãi sang ngày thứ tư mới
có mặt trời, trăng và sao, nên hiểu điều đó như thế nào. Nhưng chẳng bao lâu
sau Ivan Fedorovich tin chắc rằng mặt trời, trăng, sao không phải là điều quan
trọng, mặt trời, sao tuy là điều rất đáng tò mò, nhưng đối với Xmerdiakov chỉ
là chuyện tầm phào, hắn cần cái gì khác hẳn kia.
Dù sao đi nữa, tính tự ái của hắn đã bắt đầu lộ ra, tính tự
ái vô hạn, mà lại bị xúc phạm. Ivan Fedorovich rất không ưa cái thói đó. Sự ghê
tởm của chàng bắt nguồn từ đấy. Rồi sau xảy ra chuyện lộn xộn trong nhà.
Grusenka xuất hiện, rồi chuyện giữa bố với anh Dmitri, thế là cứ lo bấn lên,
chàng và hắn cùng nói với nhau về chuyện ấy, nhưng mặc dù lúc nói chuyện ấy
Xmerdiakov hết sức xúc động, nhưng vẫn không thể nào hiểu được bản thân hắn muốn
gì trong tình thế ấy. Thậm chí có thể ngạc nhiên về việc một số mong muốn mà hắn
vô tình bộc lộ ra bao giờ cũng mập mờ, không hợp lí và hỗn độn. Chuyện gì
Xmerdiakov cũng hỏi cặn kẽ, đưa ra nhưng câu hỏi quanh co, rõ ràng là bày đặt,
nhưng để làm gì thì hắn không nói rõ, và thường thường, giữa lúc đang gặng hỏi
sôi nổi nhất, hắn bỗng im bặt và chuyển sang chuyện khác. Nhưng cái chính làm
Ivan Fedorovich rất bực tức và khiến chàng ghê tởm như vậy là thái độ suồng sã
đặc biệt đáng ghét của Xmerdiakov đối với chàng, và càng về sau càng quá hơn.
Không phải hắn dám vô lễ, trái lại bao giờ hắn cũng cực kỳ kính cẩn, nhưng sự
thực là: vì lý do gì có trời biết, rõ ràng là rốt cuộc Xmerdiakov đã cho rằng hắn
dường như có liên đới với Ivan Fedorovich về một việc gì đó, hắn nói với giọng
tuồng như giữa hai người đã có sự thỏa thuận bí mật gì đó, một cái gì mà trước
đây cả hai bên đã nói với nhau, chỉ có hai người biết, còn những người trần mắt
thịt khác xung quanh họ thì thậm chí không sao hiểu nổi. Tuy nhiên, một thời
gian dài Ivan Fedorovich không hiểu nguyên nhân sự ghê tởm ngày càng tăng của
mình và mãi tới thời gian gần đây chàng mới đoán được duyên do. Lòng đầy khinh
miệt và tức giận, chàng toan lẳng lặng đi ra cửa rào, không thèm ngó đến
Xmerdiakov, nhưng Xmerdiakov đứng đậy khỏi ghế, và chỉ riêng cử chỉ ấy đã khiến
Ivan Fedorovich đoán ra rằng hắn có chuyện muốn nói riêng với chàng. Ivan
Fedorovich nhìn hắn và dừng lại, việc chàng dừng lại chứ không đi qua như đã định
một phút trước khiến chàng tức điên lên. Giận dữ và ghê tởm, chàng nhìn khuôn mặt
hoạn quan gầy võ của Xmerdiakov với hai mớ tóc mai chải mượt và chỏm tóc nhỏ dựng
ngược. Mắt trái hắn nheo nheo, nhấp nháy và mỉm cười như muốn nói: “Sao anh
không đi thẳng tuột đi, anh thấy đấy cả hai chúng ta đều là những người thông
minh. Chúng ta có chuyện để nói với nhau.” Ivan Fedorovich run lên: “Cút đi, thằng
khốn, tao đâu phải cùng phường cùng hội với mày, thằng ngu!” - câu nói suýt buột
ra từ miệng chàng, nhưng chàng hết sức ngạc nhiên thấy mình lại nói ra khác hẳn.
- Ông nhà ngủ hay thức? - Chàng hỏi khẽ, vẻ nhún nhường, điều
đó thật bất ngờ đối với chàng, và bỗng nhiên, cũng hoàn toàn bất ngờ, chàng ngồi
xuống chiếc ghế băng. Trong giây lát chàng gần như khiếp sợ, sau này chàng nhớ
lại Xmerdiakov đứng đối diện với chàng, tay chắp sau lưng, hắn nhìn với vẻ vững
tâm, gần như nghiêm nghị.
- Cụ còn nghỉ. - Hắn nói thong thả. (Ra ý: “Chính anh gợi
chuyện trước, chứ không phải tôi.”) - Thưa cậu, cậu làm tôi ngạc nhiên. - Hắn
nói thêm sau một lúc im lặng, mắt nhìn xuống với dáng điệu hơi kiểu cách, đưa
chân phải ra phía trước, ngọ ngoậy mũi giày đánh xi bóng loáng.
- Ta có gì khiến ngươi ngạc nhiên? - Ivan Fedorovich nghiêm
nghị hỏi bằng giọng nhát gừng, cố nén lòng và bỗng kinh tởm hiểu ra rằng mình cảm
thấy hết sức tò mò và chưa thỏa mãn được sự tò mò đó thì nhất quyết sẽ không đi
khỏi đây.
- Thưa cậu, tại sao cậu không đi Tresniasnia? - Xmerdiakov bỗng
ngước mắt lên và mỉm cười suồng sã. “Tôi cười gì thì chính anh phải hiểu, nếu
anh là người thông minh,” - con mắt trái nheo nheo như muốn nói.
- Ta đi Tresniasnia làm gì kia chứ? - Ivan Fedorovich ngạc
nhiên, Xmerdiakov lại im lặng.
- Thì chính cụ nhà nài nỉ cậu đi mà. - Cuối cùng hắn đủng đỉnh
trả lời, như thể tự đánh giá câu trả lời của mình: tôi đưa ra một lí do tầm
phào, chỉ cốt để nói cho qua chuyện…
- Ê, đồ quỷ nói rõ hơn nữa đi, ngươi cần gì? - Cuối cùng Ivan
Fedorovich giận dữ quát lên, đành chịu nhịn mà chuyển sang thái độ thô lỗ.
Xmerdiakov rút chân phải về ngang chân trái, vươn thẳng người,
nhưng vẫn nhìn với thái độ điềm tĩnh và vẫn với nụ cười như thế.
- Không có gì quan trọng… nhân câu chuyện thì nói thế thôi…
Lại im lặng. Họ im lặng gần một phút. Ivan Fedorovich biết rằng
ngay bây giờ chàng phải đứng lên và nổi giận, còn Xmerdiakov đứng trước chàng
và dường như chờ đợi: “Để rồi xem anh có nổi giận hay không?” Ít ra cũng là
Ivan Fedorovich có cảm tưởng như thế. Cuối cùng chàng nghiêng người toan đứng dậy.
Xmerdiakov dường như chộp lấy thời cơ.
- Tình cảnh của tôi thật là khủng khiếp, cậu Ivan Fedorovich ạ,
thậm chí tôi không biết làm cách nào giải cứu cho mình. - Hắn bỗng nói bằng giọng
kiên quyết, rành từng tiếng, lời cuối cùng của hắn kèm theo tiếng thở dài, Ivan
Fedorovich lại ngồi xuống ngay.
- Cả hai người đều quá đáng lắm, cả hai đều trẻ con hết chỗ
nói. - Xmerdiakov nói tiếp. - Tôi nói về cụ nhà và cậu Dmitri đấy. Bây giờ cụ sẽ
dậy và sẽ lại ám tôi từng phút: “Sao cô ấy không đến? Tại sao cô ấy không đến?”,
cứ thế cho đến nửa đêm, thậm chí quá nửa đêm. Còn nếu Agrafena Alecxandrovna
không đến (bởi vì có lẽ cô ấy chẳng bao giờ định đến) thì sáng hôm sau cụ sẽ lại
sừng sộ với tôi: “Sao cô ấy không đến? Vì cớ gì cô ấy không đến, bao giờ cô ấy
đến?” - cứ như thể trong việc đó tôi có lỗi gì với cụ. Mặt khác cũng lại cái tội
cái nợ như thế: cứ chập tối có khi còn sớm hơn nữa, ông anh cậu cầm súng đến
nhà bên cạnh: “Liệu hồn đấy, thằng đểu giả, thằng bếp quèn, mày mà sơ ý để cô ấy
vào và không báo cho tao biết cô ấy đến thì tao giết mày trước tiên.” Sáng hôm
sau, cũng như cụ nhà, cậu ấy sẽ lại hành tới đến khổ: “Tại sao cô ấy không đến,
chắc là chẳng bao lâu nữa cô ấy sẽ đến,” cứ như thể tình nương của cậu ấy không
đến là lỗi tại tôi. Cứ mỗi ngày mỗi giờ, cả hai cha con đều càng thêm tức giận,
đến nỗi có lúc tôi sợ quá, muốn chết quách đi cho rồi. Thưa cậu, tôi chẳng hy vọng
điều gì tốt lành ở họ.
- Thế ngươi dây vào làm gì? Tại sao ngươi lại thông tin cho cậu
Dmitri Fedorovich? - Ivan nói bằng giọng cáu kỉnh.
- Không dây vào sao được? Vả lại tôi cùng chẳng dính líu gì
vào đấy nếu cậu muốn biết đích xác. Ngay từ đầu tôi vẫn im lặng, không dám cãi,
chính cậu ấy coi tôi là đầy tớ riêng của cậu ấy. Từ đó cậu ấy cứ lặp đi lặp lại:
“Mày mà để cô ấy vào thì tao giết mày, thằng đểu ạ!” Thưa cậu, tôi cho rằng
ngày mai chắc là tôi sẽ lên một cơn động kinh kéo dài.
- Cơn động kinh kéo dài là thế nào?
- Một cơn động kinh kéo dài, rất dài. Mấy giờ liền, chưa biết
chừng một hai ngày cùng nên. Có lần tôi đã bị một trận kéo dài ba ngày, lần ấy
tôi ngã từ gác trang xuống. Cơn giật ngừng, rồi lại phát ra. Suốt ba ngày tôi
không tỉnh lại. Cụ cho đi mời ông bác sĩ vùng ta đến, ông Gherxenstube, ông ta
chườm nước đá vào đầu tôi và còn cho uống thứ thuốc gì đó nữa. Tưởng chết đi được.
- Không thể biết trước được giờ nào sẽ lên cơn động kinh kia
mà. Sao ngươi biết ngày mai sẽ lên cơn? - Ivan Fedorovich hỏi, vừa có vẻ tò mò
đặc biệt, vừa cáu kỉnh.
- Đúng là không thế biết trước được.
- Mà lại biết trước là ngã từ gác trang xuống nữa chứ.
- Ngày nào tôi cũng leo lên gác trang, ngày mai có thể tôi
ngã từ gác trang xuống. Mà không ngã trên gác xuống thì ngã xuống hầm nhà, ngày
nào tôi cũng có việc phải xuống hầm nhà.
Ivan Fedorovich nhìn hắn một lúc lâu:
- Ngươi bày trò gì đó, ta thấy thế, nhưng ta không hiểu lắm.
- Chàng nói khẽ, nhưng hơi có vẻ dọa dẫm. - Ngươi giả tảng chứ gì, ngày mai
ngươi muốn sẽ lên cơn động kinh ba ngày chứ gì? Phải không?
Xmerdiakov vẫn nhìn xuống đất và lại ngọ nguậy mũi giày chân
phải, bây giờ hắn rút chân phải về, đưa chân trái lên phía trước, ngẩng đầu lên
và nhếch mép cười mỉm, nói:
- Nếu tôi có thể giở trò như thế, tức là giả tảng như cậu
nói, thêm nữa một người có kinh nghiệm không khó gì mà không làm được việc đó,
thì tôi hoàn toàn có quyền dùng cách đó để cứu mạng mình. Bởi vì khi tôi ốm đau
nằm đấy thì dù cô Agrafena Alecxandrovna có đến với cụ nhà, cậu ấy cũng không
thể hạch một người ốm: “Sao mày không báo cho tao?” Như thế thì xấu hổ cho cậu ấy.
- A, đồ quỷ, - Ivan Fedorovich bỗng sừng sộ, mặt méo đi vì giận
dữ. - Người luôn luôn lo cho tính mạng của ngươi! Tất cả những lời hăm dọa đó của
Dmitri chỉ là lời nói hung hăng thôi, không có gì hơn. Anh ấy sẽ không giết người;
có giết thì giết người khác chứ không giết ngươi!
- Cậu ấy sẽ giết như giết con ruồi, và giết tôi trước hết. Và
còn có điều tôi sợ hơn thế nữa cơ: sợ bị coi là đồng lõa nếu cậu ấy ra tay với
cụ nhà.
- Can gì ngươi lại bị coi là đồng lõa?
- Vì tôi đã cho cậu ấy biết những tín hiệu hết sức bí mật.
- Những tín hiệu gì? Cho ai biết? Quỷ tha ma bắt nhà ngươi,
nói rõ ra đi!
- Phải thú nhận hoàn toàn thành thật, - Xmerdiakov nói dài giọng,
với vẻ bình tĩnh đạo mạo, - rằng có một bí mật giữa tôi và cụ nhà. Chính cậu
cũng biết (chỉ cần cậu biết điều đó), đã mấy ngày nay, cứ đêm đến hay thậm chí
tối đến là cụ đóng cửa cài then bên trong. Trước nay lần nào cậu cũng về sớm,
lên ngay phòng của cậu, còn hôm qua cậu không đi đâu, vì thế có lẽ cậu không biết
bây giờ đêm đến cụ đóng cửa cài then cẩn thận thế nào. Cho dù chính bác Grigori
Vaxilievich có lên thì chỉ khi nào nhận ra đích tiếng bác ấy, cụ mới mở cửa.
Nhưng Grigori Vaxilievich không lên đâu, vì bây giờ chỉ có một mình tôi hầu hạ
cụ ở nhà trên. Chính cụ cắt đặt như thế ngay từ lúc bắt đầu có tình ý với
Agrafena Alecxandrovna, còn bây giờ đêm đến, theo lệnh của cụ, tôi ngủ ở đầu hồi,
và cụ dặn phải thức cho đến nửa đêm để chực sẵn; phải đi vòng quanh sân xem cô
Agrafena Alecxandrovna có đến không, vì đã mấy ngày nay cụ chờ mong cô ấy đến,
cụ cứ như điên như dại vậy. Cụ suy tính thế này: nó sợ thằng Dmitri (ông gọi cậu
ấy là Mitka), vì thế ban đêm, khuya khuya một chút nó mới đi lối sau nhà đến với
ta; cụ bảo: mày phải canh chừng đón cô ấy cho đến nửa đêm và muộn hơn nữa. Nếu
cô ấy tới thì mày chạy đến cửa phòng hay cửa sổ trông ra vườn gõ hai tiếng
thong thả, rồi ba tiếng mau hơn. Thế là tao sẽ hiểu ngay rằng cô ấy đã tới, tao
sẽ nhẹ nhàng mở cửa phòng. Cụ còn định cho tôi một tín hiệu nữa đề phòng khi có
việc gì khẩn cấp: thoạt đầu hai tiếng mau, rồi chờ một lát, gõ tiếng nữa mạnh
hơn hẳn. Thế là cụ sẽ hiểu rằng có chuyện gì bất trắc xảy ra và tôi rất cần gặp
cụ, khi ấy cụ sẽ mở cửa cho tôi vào trình cụ. Ấy là phòng khi Agrafena
Alecxandrovna không đích thân đến được và cho người đến báo tin gì đó: ngoài ra
có thể là cậu Dmitri đến, thế thì báo cho cụ biết. Cụ sợ cậu Dmitri lắm, thế
thì nếu như cô Agrafena Alecxandrovna đã tới và cụ khóa cửa ở trong phòng với
cô ấy mà cậu Dmitri lại xuất hiện thì nhất định tôi phải trình ngay với cụ, gõ
ba tiếng, như vậy hiệu thứ nhất năm tiếng gõ nghĩa là “Agrafena đã tới”, còn hiệu
thứ hai ba tiếng nghĩa là “có việc gấp”. Chính cụ đã mấy lần làm mẫu, dạy bảo
kĩ cho tôi, lên vì trên đời này chỉ có tôi và cụ biết mật hiệu đó, nên cụ sẽ mở
cửa phòng không nghi ngại gì và không lên tiếng đáp lại (cụ rất sợ phải lên tiếng
đáp lại). Bây giờ cậu Dmitri đã biết những mật hiệu ấy.
- Vì sao mà biết? Ngươi bảo cho cậu ấy biết à? Sao người dám
cho cậu ấy biết?
- Vì sợ mà thôi. Tôi mà dám giữ kín với cậu ấy à? Cậu Dmitri
ngày nào cũng dồn tôi: “Mày đánh lừa tao, mày giấu giếm tao điều gì! Tao bé gẫy
cả hai chân mày cho mà xem!” Tôi đành phải nói cho cậu ấy biết những dấu hiệu hết
sức bí mật đó để cậu ấy thấy sự quỵ lụy của tôi và tin chắc rằng tôi không đánh
lừa cậu ấy mà tôi báo cho cậu ấy biết hết.
- Nếu ngươi cho rằng anh ấy sẽ dùng mật hiệu ấy để vào phòng
cụ nhà thì đừng cho anh ấy vào.
- Nếu tôi lên cơn động kinh nằm bẹp một chỗ thì tôi ngăn cậu ấy
thế nào được, cho dù tôi dám cả gan ngăn cậu ấy tuy vẫn biết cậu ấy rất bạt mạng
đi nữa.
- Ồ quỷ tha ma bắt người đi! Tại sao ngươi biết chắc như thế
rằng ngươi sẽ lên cơn, đồ quỷ? Ngươi giễu ta chắc?
- Tôi mà lại dám giễu cậu, với lại đang sợ đến như thế thì bụng
dạ đâu mà giễu cợt? Tôi linh cảm thấy là tôi sẽ lên cơn động kinh, tôi có linh
cảm như thế, có thể chỉ vì sợ hãi cũng sẽ lên cơn.
- Đồ quỷ! Nếu ngươi nằm bẹp thì Grigori sẽ canh gác. Hãy báo
trước cho Grigori. Lão sẽ không cho cậu ấy vào.
- Không có lệnh của cụ thì tôi không đời nào dám cho bác
Grigori Vaxilievich biết mật hiệu. Với lại bác ấy ốm từ hôm qua, bác gái tính
ngày mai sẽ chữa thuốc cho bác ấy. Vừa rồi họ đã giao hẹn với nhau như thế.
Cách chữa của họ rất lạ: Marfa Ignatievna biết làm và luôn luôn có sẵn mọi thứ
rượu thuốc rất mạnh, ngâm bằng thứ cỏ gì đấy - bác ấy có một thứ bí quyết như
thế. Một năm ba lần, bà ấy chữa cho bác Grigori Vaxilievich bằng thứ thuốc bí mật
ấy, khi bác ấy đau sụn cả lưng, dường như tê liệt mỗi năm ba lần. Bà ấy lấy chiếc
khăn tay, nhúng vào thứ rượu thuốc ấy, đánh lưng cho bác ấy khoảng nửa giờ,
đánh đến khô hết cả thuốc, làm da lưng đỏ ửng và tấy lên, chỗ thuốc còn lại thì
cho uống, đồng thời đọc bài cầu nguyện gì không rõ.
Nhưng trong trường hợp hiểm hồi này bà ấy cũng giữ lại cho
mình một chút và cũng uống. Tôi xin nói để cậu biết, vì cả hai đều không uống
rượu, nên uống xong là họ vật ra ngủ say một giấc dài. Thức dậy thì Grigori
Vaxilievich hầu như bao giờ cũng khỏe, còn Marfa Ignatievna thì bao giờ cũng
đau đầu. Như vậy, nếu ngày mai Marfa Ignatievna thực hiện ý định đó thì chắc họ
sẽ không nghe thấy gì và không thể ngăn giữ cậu Dmitri được. Họ ngủ mà.
- Vô lí quá! Mọi việc ăn khớp với nhau như có xếp đặt: ngươi
thì lên cơn động kinh, hai người kia thì ngủ mê man! - Ivan Fedorovich quát
lên. - Có phải ngươi giở trò như thế để cho khớp với nhau phải không!
- Tôi giở trò là thế nào… và giở trò làm gì, khi mọi việc chỉ
tùy thuộc vào một mình cậu Dmitri và những ý nghĩ của cậu ấy mà thôi… Cậu ấy muốn
làm gì là do cậu ấy, ờ mà không, không phải tôi chủ ý đưa cậu ấy đến để xô đẩy
cậu ấy vào với cụ.
- Nhưng anh ấy đến chỗ ba ta làm gì, mà lại đến lén lút nữa
chứ, nếu đúng như ngươi nói, Agrafena Alecxandrovna không hề đến đây. - Ivan
Fedorovich nói tiếp, mặt tái đi vì tức giận. - Chính ngươi nói như thế, vả
chăng một thời gian ta ở đây, ta tin chắc rằng đấy chỉ là ông già tưởng tượng
ra thôi, chứ ả súc sinh ấy sẽ không đến với ông già đâu. Ả không đến thì cậu
Dmitri xộc đến chỗ ông già làm gì kia chứ? Nói đi! Ta muốn biết những ý nghĩ của
ngươi.
- Chính cậu cũng biết cậu Dmitri đến làm gì, ý nghĩ của tôi
có dính dáng gì đến chuyện này? Cậu ấy đến vì tức giận, hay vì ngờ tôi ốm chẳng
hạn, cậu ấy nghi ngờ và sẽ sục vào các buồng như hôm qua ấy cô nàng có lẻn đến
mà cậu ấy không biết chăng. Cậu ấy cũng biết chắc là cụ đã để sẵn một phong bì
lớn trong có ba ngàn rúp, niêm phong ba lần dấu, buộc dải băng và tự tay cụ viết:
“Tặng thiên thần Grusenka của tôi, nếu em đến” và ba ngày sau cụ viết thêm:
“Con gà con của tôi”. Đấy mới chính là điều đáng ngờ.
- Nhảm nhí! - Ivan Fedorovich thét lên gần như cuồng nộ. - Cậu
Dmitri không đến để cướp tiền, nhất là lại giết bố. Hôm qua vì Grusenka cậu ấy
có thể giết cụ nhà lắm, lúc ấy cậu như thằng ngốc điên dại hung dữ, nhưng cậu ấy
sẽ không đi ăn cướp.
- Hiện giờ cậu ấy cần tiền, cần lắm lắm, cậu Ivan Fedorovich ạ.
Thậm chí cậu không biết cần đến chừng nào đâu. - Xmerdiakov giải thích hết sức
bình tĩnh và rành rẽ lạ thường. - Hơn nữa cậu ấy cho rằng ba ngàn rúp ấy có thể
coi là tiền của cậu ấy, cậu ấy đã giải thích với tôi như vậy: “Ba tao còn nợ
tao đúng ba ngàn rúp.” Ngoài ra, thưa cậu Ivan Fedorovich, cậu hãy suy xét xem,
điều này gần như hoàn toàn là sự thật: phải nói gần như chắc chắn rằng nếu cô
Agrafena Alecxandrovna muốn, cô ấy sẽ bắt cụ nhà cưới cô ấy làm vợ, chỉ cần cô ấy
muốn, mà có lẽ cô ấy muốn như thế. Tôi vừa nói là cô ấy sẽ không đến đâu, là bởi
có lẽ cô ấy còn muốn nhiều hơn thế nữa kia, nghĩa là muốn thành bà chủ hẳn hoi
kia. Tôi biết rằng ông thương gia Xamxonov đã nói thẳng thừng với cô ấy rằng việc
ấy không đến nỗi dớ dẩn lắm đâu, rồi ông ta cười. Còn cô ấy thì không ngốc nghếch
tí nào đâu. Cô ấy không đời nào lấy một gã kiết xác như cậu Dmitri Fedorovich ạ.
Lấy đó mà suy, cậu thử xét xem, cậu Ivan Fedorovich ạ, sau khi cụ nhà qua đời, cả
cậu Dmitri Fedorovich cũng như cậu và cậu Alecxei Fedorovich đều trắng tay,
không được lấy một rúp, vì cô Agrafena Alecxandrovna lấy cụ nhà chỉ cốt để
giành hết tài sản cho mình và sẽ bắt cụ sang tên hết cho cô ấy. Còn nếu cụ mất
bây giờ, khi chuyện ấy chưa xảy ra thì mỗi cậu sẽ được ngay bốn mươi ngàn rúp,
ngay cả cậu Dmitri mà cụ rất căm ghét, vì cụ chưa làm chúc thư mà… Điều đó cậu
Dmitri biết rất rõ…
Những đường nét trên mặt Ivan Fedorovich dường như méo đi và
rung động. Chàng bỗng đỏ mặt.
- Nếu vậy, - chàng đột nhiên ngắt lời Xmerdiakov, - thì tại
sao nhà ngươi khuyên ta đi Tresniasnia? Ý nhà ngươi muốn nói gì? Ta đi, thế rồi
ở đây sẽ xảy ra chuyện gì đó. - Ivan Fedorovich khó nhọc thở lấy hơi.
- Hoàn toàn đúng. - Xmerdiakov khẽ nói một cách chín chắn,
nhưng vẫn chăm chú dò nhìn Ivan.
- Hoàn toàn đúng là thế nào? - Ivan Fedorovich hỏi lại, gắng
tự kìm nén, mắt long lên đầy hăm dọa.
- Tôi nói như thế là vì thương cậu. Ở địa vị của cậu, lâm vào
tình cảnh như thế này, tôi sẽ vứt bỏ ráo… tội gì dính vào một việc như thế. -
Xmerdiakov trả lời, công nhiên nhìn vào cắp mắt long sòng sọc của Ivan
Fedorovich. Cả hai đều im lặng.
- Nhà ngươi xem ra là một lên cực ngu và cố nhiên là… một thằng
đểu giả kinh khủng. - Ivan Fedorovich bỗng đứng phắt dậy khỏi chiếc ghế băng.
Chàng toan đi ra cửa vườn nhưng đột nhiên chàng dừng lại, quay về phía
Xmerdiakov. Đã xảy ra một điều kỳ lạ: bất thình lình, như lên cơn co rút, chàng
bặm môi, xiết chặt nắm tay, tưởng như chỉ giây lát nữa là sẽ xông vào đánh
Xmerdiakov. Giây lát ấy ít ra hắn cũng nhận thấy điều đó, hắn giật mình ngã người
về phía sau. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra với hắn. Lặng lặng, nhưng dường
như hơi băn khoăn, Ivan Fedorovich quay về phía cửa vườn.
- Mai ta đi Moskva, nếu ngươi muốn biết, sáng tinh mơ ngày mai,
thế là xong! - Vẻ hằm hằm, chàng nói to và rành rọt, sau này chàng ngạc nhiên:
lúc ấy chàng cần quái gì phải nói với Xmerdiakov điều đó.
- Vậy là hay nhất. - Dường như chỉ đợi có thế, hắn đỡ lời. -
Có điều cậu ở Moskva thì nếu xảy ra chuyện như thế, ở đây người ta có thể đánh
điện báo tin làm phiền cậu.
Ivan Fedorovich lại dừng bước và lại quay nhanh về phía
Xmerdiakov. Dường như không có chuyện gì xảy ra cả với hắn. Tất cả vẻ suồng sã
và khinh mạn của hắn đã biến đâu hết. Toàn bộ gương mặt hắn biểu lộ vẻ chăm chú
và chờ đợi, nhưng bây giờ có vẻ rụt rè và nịnh nọt: “Cậu còn nói gì nữa không,
có nói thêm gì nữa không?” - Ivan đọc thấy câu hỏi ấy trong cái nhìn chăm chú
như xoáy vào chàng.
- Thế ta ở Tresniasnia thì người ta không gọi sao… nếu có
chuyện như thế xảy ra? - Ivan Fedorovich bỗng gào lên, không rõ vì sao mình bỗng
quát to như vậy.
- Cậu đến Tresniasnia thì… vẫn bị người ta quấy rầy, -
Xmerdiakov nói lúng búng, gần như thì thầm, như thể luống cuống, nhưng vẫn hết
sức chăm chú nhìn thẳng vào mắt Ivan Fedorovich.
- Nhưng Moskva xa hơn, còn Tresniasnia thì gần, ngươi tiếc tiền
xe nên mới nài ta đi Tresniasnia, hay ngươi thương ta phải đi đường vòng quá
dài?
- Hoàn toàn đúng như vậy… - Xmerdiakov nói lúng búng giọng đã
nghẹn lại, miệng mỉm nụ cười bỉ ổi và lại lật bật chuẩn bị để lùi lại cho kịp.
Nhưng Xmerdiakov ngạc nhiên vì Ivan Fedorovich bỗng bật cười và đi nhanh ra cửa
vườn, vẫn vừa đi vừa cười.
Người nào nhìn mặt chàng lúc ấy hẳn sẽ kết luận rằng chàng cười
hoàn toàn không phải vì trong lòng rất đỗi vui vẻ. Vả chăng chính bản thân
chàng cũng không sao giải thích được lúc ấy đã có chuyện gì xảy ra với chàng.
Chàng cử động và đi như con rối giật.
Phần 5
Chương 7: Nói chuyện với người thông minh đến là thú vị
Tuy vậy chàng cũng đã nói. Vừa bước vào phòng khách, gặp
Fedor Pavlovich, chàng bỗng hoa tay nói tướng lên: “Con lên buồng con đây,
không vào với ba đâu,” rồi chàng đi luôn, thậm chí không nhìn đến bố. Rất có thể
là lúc ấy chàng rất đỗi thù ghét ông bố, nhưng sự biểu lộ tình cảm thù địch một
cách sỗ sàng như thế thật bất ngờ cả đối với Fedor Pavlovich.
Rõ ràng là ông già có điều gì muốn nói ngay với con, nên ông
cố ý ra đón gặp con ở phòng khách: nghe thấy câu nói nhã nhặn như thế ông lẳng
lặng dừng lại và vẻ giễu cợt nhìn theo con lên cầu thang cho đến khi con khuất
dạng hẳn.
- Cậu ấy làm sao thế? - Ông nói nhanh, hỏi Xmerdiakov vào
theo Ivan Fedorovich.
- Cậu ấy tức giận cái gì đó, ai mà biết được. - Hắn lúng búng
nói lảng.
- A, đồ quỷ! Mặc cho nó tức giận! Đem ấm xamôva lên, rồi mày
cũng tháo lui luôn đi, nhanh lên! Không có gì mới à?
Thế là bắt đầu những câu căn vặn mà ban nãy Xmerdiakov vừa
than phiền với Ivan Fedorovich, nghĩa là vẫn về người con gái mà ông ta đang
mong chờ, ở đây chúng ta sẽ bỏ qua những điều căn vặn ấy. Nửa giờ sau, cửa nhà
đã đóng kỹ, và ông già điên gàn đi đi lại lại một mình qua các buồng, hồi hộp
chờ mong năm tiếng gõ cửa quy ước sẽ vang lên, thỉnh thoảng lại nhìn ra những
khung cửa sổ tăm tối và chẳng thấy gì ngoài màn đêm.
Đã khuya lắm rồi mà Ivan Fedorovich vẫn chưa ngủ, vẫn nghĩ ngợi.
Đêm ấy chàng đi nằm muộn, khoảng hai giờ sáng. Nhưng chúng tôi sẽ không thuật lại
tất cả dòng suy nghĩ của chàng, vả lại chưa đến lúc thâm nhập vào tâm hồn này:
rồi sẽ đến lượt nó.
Mà cho dù có muốn thử tường thuật lại thì việc đó cũng rất rắc
rối, bởi vì đây không phải là những ý nghĩ, mà là một cái gì rất đỗi vu vơ, cái
chính là quá xao xuyến. Chính chàng cảm thấy mình đã mất hết mọi đầu mối. Chàng
bị dằn vặt bởi những mong muốn kỳ lạ và hoàn toàn bất ngờ, chẳng hạn: quá nửa
đêm, một ý muốn khẩn thiết không thể chịu đựng nổi xui khiến chàng xuống dưới
nhà, mở cửa, đến gian đầu hồi đánh cho Xmerdiakov một trận, nhưng nếu hỏi cớ gì
thì hẳn bản thân chàng dứt khoát và không đưa ra được một lý do nào đích xác,
ngoại trừ lý do là chàng căm ghét thằng hầu này; nó là một tên xấc láo nhất
trên đời đã xúc phạm nặng nề đến chàng. Mặt khác, đêm hôm ấy, nhiều lần tâm hồn
chàng cảm thấy một sự rụt rè nhục nhã không sao giải thích nổi, nó khiến cho
chàng bỗng mất hết mọi sức lực (chàng cảm thấy thế). Đầu nhức nhối và quay cuồng:
Có cái gì đáng căm hờn làm cho chàng đau lòng, dường như là định trả thù một kẻ
nào. Chàng căm ghét cả Aliosa khi nhớ đến cuộc chuyện trò mới đây với cậu em,
có những lúc chàng thù ghét cả chính bản thân mình. Chàng gần như quên bẵng mất
Ekaterina Ivanovna, sau này chàng rất đỗi ngạc nhiên về việc này, nhất là chàng
vẫn nhớ như in rằng mới sáng hôm qua chàng còn phách lối khoe trước Ekaterina
Ivanovna rằng ngày mai chàng sẽ đi Moskva, còn trong thâm tâm, ngay khi ấy
chàng đã tự nhủ: “Tào lao, mi sẽ không đi, mi sẽ không dễ dứt tình như mi đang
huênh hoang lúc này đâu.” Mãi sau này, khi nhớ tới đêm hôm ấy, Ivan Fedorovich
đặc biệt ghê tởm nhớ lại rằng chàng đột ngột đứng dậy khỏi đi văng và len lén,
dường như rất sợ người ta nhìn thấy mình, mở cửa đi ra cầu thang, lắng tai nghe
ở phía dưới, nghe ngóng bố động đậy và đi lại ở các căn buồng dưới, - nghe một
lúc lâu, đến năm phút, trong tâm trạng tò mò kỳ lạ, nín thở, tim đập thình thịch,
mà chàng làm thế để làm gì, rình nghe để làm gì, cố nhiên chính chàng cũng
không biết. “Hành động” ấy sau này suốt đời chàng gọi nó là “đê mạt” và suốt đời,
trong đáy sâu của tâm hồn, chàng coi đó là hành động hèn hạ nhất trong đời
mình. Trong những giây phút ấy, thậm chí chàng không hề cảm thấy căm ghét bố
chút nào, và không hiểu tại sao chàng chỉ hết sức tò mò, ông già đang đi lại ở
phía dưới như thế nào, đại khái lúc này ông phải làm gì, chàng đoán và nghĩ rằng
ở dưới ấy hẳn ông đang ngó ra những ô cửa sổ tối om, đột ngột dừng lại ở giữa
phòng và chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi tiếng gõ cửa, Ivan Fiodorovich đã ra cầu
thang hai lần để nghe ngóng. Khi tất cả đã im ắng và Fedor Pavlovich đi nằm,
khoáng hai giờ, Ivan Fedorovich cũng đi nằm nhất quyết muốn ngủ luôn, vì chàng
cảm thấy mệt phờ. Quả thật chàng ngủ thiếp đi ngay và ngủ say li bì, không mộng
mị gì hết, nhưng chàng thức giấc sớm, khoảng bảy giờ, khi trời đã rạng sáng. Mở
mắt ra, chàng ngạc nhiên cảm thấy mình tràn trề một sinh lực lạ thường, chàng bật
ngay dậy và nhanh chóng mặc quần áo, rồi lấy vali của mình, và lập tức vội vã xếp
hành lý. Vừa may hôm qua chị thợ giặt đã trả hết quần áo lót. Ivan Fedorovich
thậm chí mỉm cười khi nghĩ rằng mọi việc đều khớp nhau như thế, không có gì làm
chậm chuyến ra đi bất ngờ. Chuyến ra đi quả là bất ngờ. Tuy hôm qua Ivan
Fedorovich có nói (với Ekaterina Ivanovna, Aliosa, rồi với Xmerdiakov) rằng
ngày mai chàng sẽ đi, nhưng hôm qua lúc đi nằm, chàng nhớ rất rõ ràng lúc ấy
chàng không nghĩ đến chuyện ra đi, ít ra chàng hoàn toàn không có ý nghĩ rằng
buổi sáng thức dậy, việc đầu tiên là chàng đâm bổ đi xếp vali. Cuối cùng vali
và túi du lịch đã sẵn sàng. Đã gần chín giờ khi Marfa Ignatievna lên phòng
chàng, hỏi một câu mà ngày nào bà ta cũng hỏi: “Cậu dùng trà ở buồng này hay xuống
dưới nhà?” Ivan Fedorovich xuống dưới nhà, coi bộ gần như vui vẻ, tuy rằng
trong lời nói và cử chỉ của chẳng có cái gì như tán loạn và hối hả.
Chàng niềm nở chào ông bố, thậm chí đặc biệt hỏi thăm sức khỏe,
nhưng không đợi bố trả lời xong, tuyên bố luôn rằng một giờ nữa mình đi Moskva,
đi hẳn, và xin ông già cho người đi lấy ngựa. Ông già nghe tin đó không chút ngạc
nhiên, bất nhã đến mức quên cả tỏ ra buồn rầu vì con trai ra đi; đã thế bỗng
nhiên ông lại bắt đầu lo tính công chuyện, vì đúng lúc ấy ông chợt nhớ tới một
việc riêng khẩn thiết.
- Chà chà! Con kỳ thật! thế mà hôm qua con không nói… nhưng
thôi, ta sẽ dàn xếp với nhau ngay bây giờ. Con hãy giúp ba một việc cực kỳ quan
trọng, con thân yêu của ba, con hãy rẽ qua Tresniasnia. Từ ga Volovia rẽ về bên
trái, chỉ độ mười hai dặm là đến Tresniasnia ngay thôi mà.
- Thưa ba, con không thể giúp được: đường đến ga tám chục dặm,
mà xe lửa rời ga đi Moskva lúc bảy giờ tối, chỉ vừa đủ thời gian đến kịp giờ
tàu chạy.
- Ngày mai, không thì ngày kia đi cũng được chứ sao, còn hôm
nay thì hãy về Tresniasnia. Có tốn công sức gì lắm đâu mà làm cho ba yên lòng!
Nếu không có việc cần phải ở đây thì chính ba đã đi từ lâu rồi, bởi vì đây là
việc gấp và vô cùng quan trọng, nhưng lúc này thì ba không vắng mặt ở đây được…
Con ạ, ở đấy có phần rừng của ba, hai lô, ở Beghisev và Diatki, vùng hoang vu.
Nhà Maxlov, ông già và con trai, đều là thương gia, chỉ trả có tám ngàn để đốn
gỗ, mãi đến năm ngoái mới có một người muốn mua, y trả mười hai ngàn, nhưng y
không phải người ở đây, đấy là điểm đáng chú ý. Bởi vì bố con Maxlov tài sản có
tới hàng trăm ngàn, họ tự ý đặt ra luật lệ: họ định thế nào là phải theo như thế,
ở đây không có kẻ nào dám gành ghẹ với họ. Thứ năm trước, Cha Ilinssky có gửi
thư báo cho ba biết Gorskin đã tới, hắn cũng là lái buôn, ba biết hắn, điều quý
giá là hắn không phải người ở đây, mà ở Pogrebov, nghĩa là hắn không sợ Maxlov,
vì hắn không phải người ở đây. Hắn trả mười một ngàn, con nghe rõ chứ? Cha xứ
viết trong thư rằng hắn chỉ ở đây một tuần lễ. Vì vậy con nên đi thương lượng với
hắn hộ ba.
- Thì ba cứ viết thư cho Cha xứ, Cha sẽ thương lượng hộ cho.
- Cha xứ không làm được việc này, cái gay là ở đấy. Cha xứ
không tinh trong việc này. Cha là con người vàng ngọc, ba sắp gửi Cha giữ hộ
hai mươi ngàn rúp mà không lấy giấy biên nhận, nhưng Cha không tinh trong việc
này, có thể nói là rất ngờ nghệch, rất dễ bị lừa. Ấy vậy mà Cha là một học giả
đấy, con thử tưởng tượng xem. Gorskin nom bề ngoài có vẻ nhà quê, mặc áo chẽn
lưng dài vạt màu xanh, nhưng hắn là thằng hết sức đểu cáng, đấy là cái gay cho
chúng ta: hắn hay nói dối, cần lưu ý điểm này. Đã hai năm nay hắn vẫn nói rằng
vợ hắn đã chết và hắn đã lấy vợ khác, nhưng làm gì có chuyện đó, con tưởng tượng
xem: vợ hắn đâu có chết, vẫn sống sờ sờ ra đấy và cứ ba ngày lại nện cho hắn một
trận. Vì vậy bây giờ cần biết hắn trả giá mười một ngàn là nói thật hay nói dối?
- Thế thì con chẳng được việc gì đâu, con cũng không thạo.
Gượm, hãy khoan, con giải quyết được đấy, vì ba sẽ cho con biết
mọi đặc điểm của tay Gorskin này, ba giao thiệp với hắn đã lâu. Con ạ, cứ nhìn
bộ râu hắn thì biết: râu hắn màu hung, nom đến tởm, lưa thưa. Nếu bộ râu rung
rung, mà hắn nói và giận dữ thì thế là được, hắn nói thật, muốn dàn xếp cho được
việc. Còn nếu hắn vuốt râu bằng tay trái và cười cợt thì tức là hắn muốn lừa gạt,
giở trò bịp bợm. Đừng bao giờ nhìn vào mặt hắn, nhìn mặt thì không rõ được gì
đâu, chỉ như làn nước tối sẫm, thằng bịp, cứ nhìn bộ râu. Ba sẽ viết mấy chữ
đưa con chuyển cho hắn.
Gã Gorskin ấy, tên thật không phải là Gorskin đâu, mà là
Liagavyi, nhưng con đừng gọi hắn là Liagavyi, hắn giận đấy (1). Nếu thương lượng
xong với hắn và thấy ổn thì viết thư về ngay cho ba. Chỉ cần viết thế này thôi:
“Hắn không nói dối.” Cứ đòi mười một ngàn, bớt một ngàn là cùng. Con thứ nghĩ
xem: tám và mười một, chênh nhau ba ngàn. Ba ngàn ấy ba coi như của bắt được có
dễ tìm được người mua đâu, mà ba cần tiền ghê lắm. Con cho biết là việc nghiêm
chỉnh thì ba sẽ đích thân đi ngay và giải quyết cho xong, sẽ có cách thu xếp được
thời gian. Còn bây giờ ba đến đấy làm gì, ngộ Cha xứ bịa ra thì sao? Thế nào,
con có đi không?.
Chú thích:
Chú thích:
(1) Ligavyi là một giống chó tai cúp, mõm to (N.D).
- Ồ, con không có thời gian, ba miễn cho.
- Ôi chao, làm ơn giúp ba, ba sẽ ghi nhớ. Các anh thật nhẫn
tâm, thế đấy! Một hai ngày với con là gì? Con đi đâu bây giờ, đến Vơnizơ hả?
Trong hai ngày Vơnizơ của con không đổ sụp đâu. Ba muốn bảo Alecxei đi, nhưng
những việc ấy Alecxei hiểu quái gì? Ba nhờ con chỉ vì con là người thông minh
ba thấy chứ. Con không buôn gỗ, nhưng con có con mắt tinh đời. Chỉ cần nhìn rõ:
hắn nói có thật không. Ba bảo là cứ nhìn bộ râu: râu rung rung tức là thật.
- Ba cứ muốn đẩy con về cái vùng Tresniasnia chết tiệt ấy à?
- Ivan Fedorovich gắt lên, nhếch mép cười hằn học.
Fedor Pavlovich không thấy rõ sự hằn học không muốn thấy, ông
bám lấy nụ cười:
- Vậy là con đi chứ hả, đi chứ? Ba sẽ viết ngay mấy chữ cho
con cầm đi.
- Con không biết con có đi hay không, con không biết, dọc đường
con sẽ quyết định.
- Sao lại dọc đường, quyết ngay đi. Con thân yêu, quyết ngay
đi! Hễ thỏa thuận được, con viết cho ba vài dòng, đưa cho Cha xứ, Cha sẽ gửi
ngay giấy của con cho ba. Xong việc rồi ba không giữ con đâu, con cứ đi Vơnizơ.
Cha xứ sẽ cho xe của Cha đưa con trở lại Volovia…
Ông già hoan hỉ thật sự, viết vội lá thư ngắn, cho đi gọi xe
ngựa, lấy đồ nhắm, cognac. Hễ ông già vui sướng, bao giờ ông cũng cởi mở tâm
tình, lần này ông dường như dè dặt. Chẳng hạn ông không có lấy một lời về Dmitri
Fedorovich. Cuộc chia ly hoàn toàn không làm ông cảm động, vì thế dường như ông
không có gì để nói. Ivan Fedorovich nhận thấy rất rõ điều đó: “Ông già chán ngấy
ta rồi,” - chàng nghĩ thầm. Chỉ khi tiễn con ra đến bậc tam cấp, ông già dường
như mới hỏi rối rít, định hôn.
Nhưng Ivan Fedorovich vội chia tay ra bắt, rõ ràng để tránh
cái hôn. Ông già hiểu ngay và tức khắc dừng lại:
- Thôi. Chúa phù hộ con. Chúa phù hộ con! - ông đứng trên tam
cấp nhắc lại. - Con sẽ còn về thăm ba nữa chứ? Cứ về nhé, ba sẽ rất vui sướng.
Thôi, Chúa Kito ở cùng con.
Ivan Fedorovich lên xe ngựa.
- Chào con, Ivan, đừng xỉ vả ba nhiều quá nhé! - Ông bố gào
lên lần cuối cùng…
Tất cả gia nhân đều ra tiễn: Xmerdiakov, Marfa và Grigori.
Ivan Fedorovich cho mỗi người mười rúp. Khi chàng đã ngồi vào xe, Xmerdiakov
đâm bổ tới sửa lại tấm thảm.
- Ngươi thấy đấy… ta đi Tresniasnia… - Ivan Fedorovich bỗng
buột thốt ra, cũng lại tự dưng buột miệng như hôm qua, mà lại kèm theo tiếng cười
nóng nảy. Sau này chàng còn nhớ mãi.
- Như vậy là người ta nói đúng: nói chuyện với người thông
minh quả là thú vị. - Xmerdiakov trả lời chắc nịch, nhìn Ivan Fedorovich một
cách thấm thía.
Xe chuyển bánh và phóng đi. Tâm hồn người đi rối bời, nhưng
chàng hau háu nhìn xung quanh - đồng ruộng, đồi, cây cối đàn ngỗng bay cao trên
bầu trời sáng sủa. Bỗng nhiên chàng cảm thấy hết sức thư thái. Chàng thử bắt
chuyện với người đánh xe và trong câu trả lời của gà mugich có cái gì khiến
chàng hết sức quan tâm, nhưng lát sau chàng nhận ra rằng tất cả đều ra ngoài
tai và thực anh chàng chẳng hiểu người đánh xe nói gì.
Chàng im lặng, thế này cũng tốt rồi: không khí trong lành,
tươi mát, hơi lạnh, bầu trời sáng sủa. Hình ảnh Aliosa và Ekaterina Ivanovna
thoáng qua trong tâm trí. Nhưng chàng mỉm cười nhẹ nhàng và nhẹ nhàng thổi vào
nhưng hình bóng đáng yêu, làm những hình ảnh ấy tan biến: “Rồi sẽ đến lượt họ,”
- chàng nghĩ.
Họ nhanh chóng đến trạm, thay ngựa và phóng về Volovia. “Tại
sao lại nói chuyện với người thông minh quả là thú vị, ý hắn muốn nói gì?” -
Chàng bỗng nghẹn thở. - “Mà sao ta lại bảo cho hắn biết ta đi Tresniasnia?”
Đến ga Volovia, Ivan xuống xe, những người đánh xe vây quanh
chàng. Họ ngã giá đi Tresniasnia, mười hai dặm đường qua các làng, xe ngựa tư.
Chàng bảo đóng ngựa. Chàng toan vào nhà trạm, chàng nhìn xung
quanh, tìm người phụ nữ trưởng trạm, rồi bỗng nhiên chàng trở ra bậc tam cấp.
- Không đi Tresniasnia nữa. Này các chú, bây giờ tôi phải lên
xe lửa, có muộn mất không?
- Xin lĩnh ý ông. Thắng xe chứ ạ?
- Làm ngay đi. Trong các anh có ai ngày mai về thành phố
không?
- Có chứ ạ. Mitri đây này.
- Mitri, anh giúp tôi một việc được chứ? Anh đến ba tôi, cụ
Fedor Pavlovich Karamazov ấy mà, nói với ba tôi rằng tôi không đi Tresniasnia
đâu. Được chứ?
- Xin vâng, tôi sẽ đến. Tôi biết cụ Fedor Pavlovich đã lâu lắm
rồi.
- Đây gửi anh tiền trà thuốc, vì ba tôi có lẽ sẽ không cho
anh tiền đâu…
- Đúng là cụ sẽ không cho, - cả Mitri cũng bật cười. - Cảm ơn
ông, nhất định chúng tôi sẽ đến…
Bảy giờ tối Ivan lên xe lửa về Moskva. “Vứt hết mọi chuyện
trước đây, đoạn tuyệt vĩnh viễn với thế giới trước đây, sao cho không bao giờ
còn nhận được tin tức hay hồi âm của nó nữa: đi vào thế giới mới, đến những chốn
mới, không ngoái nhìn lại!”
Nhưng thay cho niềm hân hoan, bóng tối bỗng phủ lên tâm hồn
chàng, còn trong tim nhức nhối một nỗi đau xót mà cả đời chưa bao giờ chàng cảm
thấy như thế. Chàng nghĩ ngợi suốt đêm: xe lửa phóng như bay, mãi đến rạng sáng
khi xe vào Moskva, chàng dường như mới chợt tỉnh.
- Ta là thằng đê tiện! - Chàng tự nhủ.
Sau khi tiễn con đi. Fedor Pavlovich rất hài lòng. Suốt hai
giờ liền ông ta cảm thấy mình gần như hạnh phúc và ông uống cognac. Nhưng đột
nhiên trong nhà xảy ra một việc hết sức đáng bực và khó chịu cho tất cả mọi người,
khiến cho Fedor Pavlovich vô cùng bối rối: Xmerdiakov xuống hầm nhà chẳng hiểu
có việc gì và té nhào từ bậc trên cùng. Còn may là lúc ấy Marfa Ignatievna ở
sân và nghe thấy kịp thời. Mụ không nhìn thấy hắn ngã, nhưng nghe thấy tiếng
kêu, tiếng kêu đặc biệt kỳ lạ, nhưng mụ đã biết từ lâu, - tiếng kêu của kẻ động
kinh ngã trong lúc lên cơn. Hắn lên cơn lúc bước xuống bậc thang và bất tỉnh
lăn nhào xuống, hay trái lại vì ngã và chấn động mà bệnh động kinh vốn có lại
phát ra thì không thể hiểu rõ được, nhưng họ tìm thấy hắn nằm dưới đáy hầm nhà,
co quắp, giật dội, quằn quại, miệng sùi bọt. Thoạt đầu người ta tưởng chắc chắn
hắn phải gãy tay hay gãy chân, và bị dập xương, nhưng “nhờ trời phù hộ”, nói
theo lời Marfa Ignatievna, không sao cả, có điều phải khó khăn mới khiêng được
hắn lên, chính Fedor Pavlovich có mặt suốt từ đầu đến cuối khi họ làm việc đó,
ông cũng giúp một tay, rõ ràng ông sợ hãi và dường như bối rối. Tuy nhiên người
bệnh vẫn không tỉnh lại: cơn động kinh có lúc tạm ngừng, nhưng rồi lại tái
phát, và mọi người đều cho rằng sẽ lại y như năm ngoái khi hắn vô ý ngã từ gác
trang xuống. Người ta nhớ lại rằng lần ấy hắn đã được chườm đầu bằng nước đá.
Trong hầm nhà, vẫn còn tìm thấy nước đá, Marfa Ignatievna lấy ra chườm cho hắn,
gần tối Fedor Pavlovich cho đi mời bác sĩ Gherxenstube, ông ta đến ngay. Sau
khi thăm bệnh cẩn thận (đây là một bác sĩ cẩn thận và chu đáo nhất tỉnh, một
ông già nhỏ bé hết sức đáng kính), ông kết luận rằng đây là một cơn bất thường
và “có thể nguy hiểm”, hiện thời ông chưa hiểu hết, nhưng sáng mai, nếu những
thuốc ông cho bây giờ không hiệu nghiệm, ông sẽ cho dùng các thứ khác.
Người bệnh được đưa vào gian đầu hồi, trong căn phòng cạnh
phòng Grigori và Marfa Ignatievna. Tiếp đó, suốt ngày Fedor Pavlovich phải chịu
hết rủi ro này đến rủi ro khác: Marfa Ignatievna nấu ăn bữa chiều, so với món
xúp do Xmerdiakov nấu thì xúp của mụ “chẳng khác gì nước rửa bát”, còn thịt gà
thì xác đến nỗi không tài nào nuốt nổi. Đáp lại những lời trách móc cay đắng
nhưng đích đáng của chủ, mụ cãi rằng mụ đã già lắm rồi và mụ không được học nấu
bếp. Đến tối lại xảy chuyện đáng lo khác: Fedor Pavlovich được hay rằng Grigori
ốm đã ba ngày nay, bây giờ gần như liệt giường, đau sụn lưng. Ông già dùng bữa
trà thật sớm, rồi đóng kín cửa ở trong nhà một mình. Ông ở trong trạng thái chờ
đợi xao xuyến và khiếp sợ. Số là đúng tối hôm nay ông chờ Grusenka gần như chắc
chắn sẽ tới. Ít ra ngay từ sáng, Xmerdiakov gần như cam đoan với ông rằng “cô ấy
hứa nhất định sẽ tới”. Tim ông già máu dê đập rộn, ông đi đi lại lại qua các
văn phòng trống vắng, lắng tai nghe. Cần nghe cho tinh: có thể Dmitri
Fedorovich rình cô ả ở quanh đâu đây, nếu cô ả gõ cửa sổ (đã ba ngày nay
Xmerdiakov cam đoan với ông rằng hắn đã dặn cô ta gõ cửa ở đâu và vào lối nào),
khi ấy phải mở cửa thật mau, không để ả phải nán lại ở phòng ngoài một giây
nào, kẻo cô ả sợ hãi chạy mất thì hỏng. Fedor Pavlovich lăng xăng bận rộn,
nhưng chưa bao giờ trái tim ông tắm trong niềm hi vọng ngọt ngào như vậy, gần
như có thể nói chắc là lần này nhất định cô nàng sẽ đến!…
Phần 6
PHẦN VI
Chương 1: Trưởng lão Zoxima và các vị khách của cha
Khi Aliosa lòng đầy lo lắng và đau đớn bước vào trai phòng của
trưởng lão, thì anh đứng lại gần như ngạc nhiên: không phải là một người ốm đau
sắp từ trần, cơ thể đã mê man (anh lo sợ sẽ gặp Cha trong tình trạng như thế),
mà anh thấy Cha ngồi trong ghế bành, tuy đã suy kiệt, nhưng vẻ mặt tỉnh táo vui
vẻ, khách đến thăm quây quần xung quanh và Cha khoan khoái khe khẽ chuyện trò với
họ. Vậy mà Cha mới rời khỏi giường có mười lăm phút trước khi Aliosa tới; khách
đã tụ tập trong phòng từ trước chờ Cha tỉnh dậy. Cha Paixi cả quyết với họ rằng
“chắc chắn thầy sẽ trở dậy để một lần nữa chuyện trò với những người mà thầy
yêu mến, chính thầy đã hứa như thế sáng nay”. Cha Paixi tin chắc vào lời hứa ấy
cũng như tin từng lời của vị trưởng lão sắp từ trần, đến nỗi nếu như Cha thấy
thầy đã bất tỉnh hay thậm chí tắt thở, nhưng thầy đã hứa sẽ trở dậy để vĩnh biệt
Cha thì có lẽ Cha sẽ không tin rằng thầy đã chết. Cha vẫn chờ đợi thầy mở mắt
và thực hiện điều đã hứa. Buổi sáng, khi đi nằm nghỉ, trưởng lão Zoxima đã báo
Cha: “Tôi sẽ không chết trước khi được nói chuyện với các vị lần nữa, những người
tôi yêu dấu, được nhìn thấy những khuôn mặt đáng yêu của các vị, được một lần nữa
thổ lộ tâm tình với các vị.” Những người họp mặt trong cuộc chuyện trò có lẽ là
lần cuối cùng này của trưởng lão là những người bạn lâu năm trung thành nhất của
Cha. Họ có bốn người: Cha Ioxif và Cha Paixi, Cha Mikhail - cha bề trên của tu
xá, một người chưa già lắm, chẳng lấy gì làm thông thái, chức phận tầm thường
nhưng tinh thần kiên định, có đức tin sắt đá và thuần phác, bề ngoài nom khắc
nghiệt nhưng trong lòng chan chứa tình cảm tha thiết, tuy có lẽ ông che giấu
tình cảm thiết tha của mình đến độ hổ thẹn vì nó. Người thứ tư đã già lắm rồi,
một thầy tu khá giản dị, thuộc tầng lớp nông dân nghèo, thầy dòng Afim, gần như
không biết chữ, trầm lặng và hiền lành, ít khi nói năng với ai, khiêm nhường nhất
trong những người khiêm nhường, có vẻ như một người suốt đời sợ hãi một điều gì
vĩ đại và ghê rợn mà trí óc mình không tài gì hiểu nổi. Trưởng lão Zoxima rất
yêu con người dường như luôn luôn run sợ này và suốt đời Cha tôn trọng ông lạ
thường, tuy trong đời chẳng có ai mà Cha ít trò chuyện như ông này, mặc dù hồi
xưa nhiều năm rằng Cha đã cùng ông ta phiêu bạt khắp nước Nga thiêng liêng. Thuở
ấy đã lâu lắm rồi, cách đây đã bốn chục năm, khi Cha Zoxima mới bước vào con đường
khổ tu của bậc tông đồ tại một tu viện nghèo chẳng có tiếng tăm gì ở Kostroma
và ít lâu sau đó Cha theo thầy tu Afim bôn ba đây đó để quyên tiền cho tu viện
nghèo của họ.
Mọi người, cả chủ lẫn khách, đều ở trong căn phòng thứ hai của
trưởng lão, căn phòng có kê chiếc giường của Cha và như đã nói trước đây, phòng
rất chật, thành thử cả bốn người (trừ chàng tập tu Porfin vẫn đứng) ngồi chen
chúc quanh ghế bành của trưởng lão, trên những chiếc ghế dựa mang ở phòng kia
vào. Đã sẩm tối, phòng được chiếu sáng bằng đèn nền thấp trước những bức tượng
thánh. Thấy Aliosa bối rối đứng ở cửa, trưởng lão vui sướng mỉm cười với anh và
giơ tay ra:
- Chào con, con ngoan yêu dấu của ta, con đã về rồi. Ta biết
rằng con sẽ về mà.
Aliosa đến gần, rạp đầu chào sát đất và bật khóc. Tim anh như
nứt vỡ, tâm hồn run rẩy, chỉ chực nức lên.
- Này con, khoan hẵng khóc, - trưởng lão mỉm cười, đặt tay
lên đầu anh - con thấy đấy, ta vẫn ngồi nói chuyện, có thể ta còn sống hai mươi
năm nữa, như người đàn bà tốt bụng, dễ thương người vùng Virsigone đã nói hôm
qua, cái bà bế cô bé Lizaveta trên tay ấy mà. Lạy Chúa, hãy nhớ đến cả bà mẹ và
cả cô bé Lizaveta! (Cha làm dấu thánh). Porfin, đã đem tiền bà ấy cúng đến nơi
ta bảo rồi chứ?
Đấy là Cha nói đến sáu đồng hào mà người đàn bà vui anh tôn
sùng Cha đã hiến để tặng “người phụ nữ nào nghèo hơn con”. Những món quyên cũng
như thế là một hình phạt người ta tự nguyện nhận lấy để sám hối, nhất định là
phải bằng tiền mình tự kiếm ra. Từ chiều, trưởng lão đã sai Porfin đến một người
đàn bà vừa bị cháy nhà, một bà góa phải nuôi con, sau khi cháy nhà đã đi ăn
xin. Porfin vội trình rằng việc đã làm tròn, anh đã giao cho góa phụ, đúng theo
lệnh bề trên, “đây là quà của một bà từ thiện không quen biết”.
- Đứng lên, con yêu dấu, - trưởng lão nói tiếp với Aliosa. -
Cho ta nhìn con một chút. Con đã về nhà và đã gặp người anh rồi chứ?
Aliosa lấy làm lạ vì trưởng lão hỏi một cách dứt khoát và
đích xác như thế chỉ về một người anh thôi, nhưng là người anh nào: như vậy có
lẽ chính vì người anh ấy mà hôm qua cũng như hôm nay thầy sai mình đi gặp.
- Con đã gặp một trong các anh, - Aliosa đáp.
- Ta muốn nói đến người anh cả của con mà hôm qua ta đã rạp đầu
lạy sát đất.
- Anh ấy thì con gặp hôm qua, còn hôm nay con không thể nào
tìm được anh ấy. - Aliosa nói.
- Hãy tìm cho bằng được, ngày mai con lại gặp tìm cho bằng được,
mọi việc dẹp hết lại và tìm gấp. Có lẽ con sẽ còn kịp ngăn chặn một việc khủng
khiếp! Hôm qua là ta rạp mình trước một đau khổ cực kì lớn sắp xảy đến cho anh
ta.
Cha bỗng ngừng bặt, dường như nghĩ ngợi. Những lời kì lạ.
Cha Ioxif chứng kiến cảnh trưởng lão rạp đầu sát đất hôm qua,
đưa mắt nhìn Cha Paixi.
Aliosa không nén nổi:
- Thưa Cha và thầy. - Aliosa nói, vô cùng xúc động, - lời thầy
không rõ nghĩa chút nào cả… Nỗi đau khổ đang chờ anh con là thế nào ạ?
- Đừng tò mò. Hôm qua ta cảm thấy có một cái gì khủng khiếp
qua cái nhìn của anh ta dường như bộc lộ toàn bộ số phận của anh ta. Anh ta có
cái nhìn… khiến cho trong lòng ta bỗng chốc khiếp sợ vì anh ta đang sửa soạn
cho mình một cảnh ngộ ghê gớm. Trong đời, một đôi lần ta đã thấy mấy người có vẻ
mặt như thế… như bộc lộ toàn bộ số phận của họ, và số phận ấy, hỡi ôi, đã thành
sự thực… Ta bảo con đến với anh ấy, Aliosa ạ, là vì ta nghĩ rằng khuôn mặt đầy
tình anh em của con sẽ giúp anh ấy Nhưng tất cả đều nhờ Chúa, số phận của tất cả
chúng ta đều là do Chúa. “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất chẳng chết đi thì nó sẽ
cứ ở một mình, nhưng nếu nó chết đi thì sẽ kết quả được nhiều”. Hãy ghi nhớ lấy
điều đó. Còn con, Alecxei ạ, trong đời ta, đã nhiều lần ta thầm cầu phúc cho
con vì con có gương mặt như thế, nhớ lấy nhé! - Trưởng lão nói, miệng mỉm cười
hiền từ. - Ta dự tính cho con như thế này: con sẽ rời khỏi nơi đây, trong đời
thế tục con sẽ là thầy tu. Sẽ có nhiều người chống đối con, nhưng ngay cả kẻ
thù của con cũng sẽ yêu con. Cuộc đời sẽ đem đến cho con nhiều tai họa, nhưng
cũng chính nhờ những tai họa ấy mà con sẽ hạnh phúc, và con sẽ cảm tạ cuộc đời
và làm cho những người khác cũng phải cảm tạ cuộc đời - đấy là điều quan trọng
hơn hết. Con là người như thế đấy. Thưa các cha và các thầy của tôi, - trưởng
lão mỉm cười cảm động nói với các vị khách, - cho đến hôm nay chưa bao giờ tôi
nói, ngay cả với Alecxei, về việc tại sao tôi yêu khuôn mặt trai trẻ của cậu ấy
đến thế. Bây giờ tôi mới nói: đối với tôi khuôn mặt ấy như gợi nhớ và tiên tri.
Trong buổi bình minh của đời tôi, thuở còn bé dại, tôi có một người anh chết giữa
tuổi thanh xuân, trước mắt tôi, khi anh ấy mới có mười bảy tuổi. Sau này trái
qua cuộc sống, tôi dần dần thấy rõ rằng trong số phận của tôi, người anh ấy dường
như là sự chỉ bảo và định mệnh của đấng Tối cao, bởi vì nếu anh không xuất hiện
trong đời tôi, nếu không có anh, thì tôi nghĩ rằng có lẽ không bao giờ tôi đi
tu, không bước lên con đường cao quý này. Sự hiện thân đầu tiên ấy đến với tôi
thời thơ ấu và bây giờ khi chặng đường của tôi sắp chấm dứt thì hình ảnh ấy dường
như lại hiện ra trước mắt. Lạ kỳ thay, thưa các cha và các thầy, khuôn mặt
Alecxei không giống mặt anh tôi lắm, chỉ hơi giống thôi, nhưng tôi cảm thấy
Alecxei giống anh tôi về phương diện tinh thần đến nỗi nhiều lần tôi coi
Alecxei như người anh trẻ tuổi đã xuất hiện ở cuối con đường của tôi một cách
bí ẩn để gợi nhớ lại quá khứ và thấu hiểu lẽ huyền nhiệm, đến nỗi thậm chí tôi
ngạc nhiên về chính mình và về mơ ước kỳ lạ như thế của tôi: Hãy nghe đây,
Porfin, - Cha nói với người tập tu vẫn hầu hạ Cha. - Nhiều lần ta thấy mặt con
lộ vẻ buồn rầu vì ta yêu Alecxei hơn con. Bây giờ thì con biết tại sao như thế,
nhưng ta cũng yêu cả con nữa, con nên biết điều đó, và đã nhiều lần ta rầu lòng
thầy con buồn phiền. Thưa các vị khách yêu quý, tôi muốn kể với các vị về người
anh trẻ tuổi của tôi, bởi vì trong đời tôi không có sự hiện thấy nào quý giá
hơn, có ý nghĩa tiên tri và cảm động hơn. Lòng đầy cảm kích, giây lát này tôi
nhìn lại toàn bộ cuộc đời tôi, dường như tôi sống lại cả quãng đời ấy…
Ở đây tôi cần phải lưu ý rằng cuộc trò chuyện cuối cùng của
trưởng lão với khách trong ngày cuối cùng của Cha có một phần còn lưu lại dưới
hình thức ghi chép. Alecxei Fedorovich Karamazov ghi lại ít lâu sau khi trưởng
lão tạ thế để làm kỉ niệm.
Nhưng có phải toàn bộ cuộc chuyện trò lúc ấy là như vậy hay
trong ghi chép của mình, Alecxei đã điểm vào đó cả những cuộc chuyện trò trước
kia của thầy mình thì tôi không nói chắc được, hơn nữa trong bản ghi chép, trưởng
lão dường như nói liên tục từ đầu đến cuối, dường như Cha thuật lại đời mình
thành một thiên truyện, kể với bạn bè mình, nhưng theo người ta thuật lại sau
này thì chắc chắn là trên thực tế sự việc diễn ra hơi khác, bởi vì tối hôm ấy mọi
người cùng chuyện trò, tuy khách ít ngắt lời chủ, nhưng vẫn góp chuyện, tham dự
vào cuộc đàm thoại, thậm chí còn cho biết điều gì hay kể chuyện gì về mình,
thêm nữa không thể có việc kể chuyện liên tục trong trường hợp này, vì trưởng
lão đôi khi ngạt thở mất tiếng, thậm chí lên giường nằm nghỉ, mặc dù không ngủ
thiếp đi và khách không rời khỏi chỗ.
Một vài lần giữa chừng, Cha Paixi đọc Phúc âm. Có điều đáng
chú ý là trong số những người ấy, không ai cho rằng trưởng lão sẽ chết ngay đêm
nay, nhất là trong buổi tối cuối cùng này của đời mình, sau giấc ngủ say ban
ngày, trưởng lão dường như đột nhiên có một sức lực mới khiến cho Cha nói chuyện
được với bạn bè suốt một thời gian dài. Đấy dường như là sự xúc động cuối cùng
khiến cho trưởng lão tươi tỉnh lạ thường, nhưng không được bao lâu, vì Cha tắt
nghĩ đột ngột. Những chuyện ấy để sau. Bây giờ tôi muốn cho biết rằng tôi không
trình bày hết mọi chi tiết của cuộc chuyện trò, mà chỉ bó hẹp ở câu chuyện trưởng
lão kể, dựa theo bản thảo của Alecxei Fedorovich Karamazov. Như thế sẽ ngắn
hơn, đọc không mệt lắm, tuy cố nhiên, tôi xin nhắc lại, có nhiều điều Alecxei lấy
từ những cuộc chuyện trò trước và gộp cả lại.
Phần 6
Chương 2 - P1: Truyện trưởng lão Zoxima tạ thế trong Chúa (thuật
theo lời Alecxei Fedorovich Karamazov)
a. Người anh trẻ tuổi của trưởng lão Zoxima
Thưa các cha và các thầy yêu quý, tôi sinh ra ở một tỉnh miền
bắc xa xôi, thị trấn N, bố là quý tộc, nhưng không phải là người quyền quý, mà
chỉ là viên chức thường. Bố tôi mất khi tôi mới chỉ hai tuổi, tôi không nhớ gì
về Người. Người để lại cho mẹ tôi một căn nhà gỗ nhỏ và một số vốn không lớn,
nhưng đủ cho mấy mẹ con sống không túng thiếu. Chúng tôi có hai anh em: tôi
Zinovi và anh tôi, Marken. Anh hơn tôi tám tuổi, nóng tính và hay cáu kỉnh,
nhưng tốt bụng, không ưa cợt đùa, ít nói lạ lùng, đặc biệt là ở nhà, với tôi, mẹ
và gia nhân. Ở trong, tôi học khá nhưng không hòa hợp với các bạn, này không
cãi cọ với ai, ít ra theo mẹ tôi nhớ thì như vậy. Nửa năm trước khi anh tôi mất,
khi ấy anh đã mười bảy tuổi, anh thường lui tới với một người sống tách biệt ở thị
trấn chúng tôi, hình như là một người tù chính trị bị lưu đày từ Moskva đến thị
trấn chúng tôi vi có tư cưỡng tự do. Người bị lưu đầy ấy nguyên là một triết
gia uyên bác và nổi tiếng ở trường đại học tổng hợp. Không hiểu vì sao ông yêu
Marken và tiếp anh. Anh thường ở nhà ông ta suốt buổi tối cứ như thế cả mùa
đông cho đến khi người đi đày được gọi về giữ một chức vụ nhà nước ở Peterburg,
theo sự thỉnh cầu của chính ông, vì ông có những người che chở. Bắt đầu tuần
chay lớn, Marken không ăn chay, nhiếc móc và nhạo báng việc ăn chay: “Toàn chuyện
nhảm nhí, chẳng có Chúa Trời nào hết,” - anh làm cho cả mẹ và gia nhân đều kinh
hãi, cả tôi cũng hãi vì tôi tuy mới lên chín, nhưng nghe những lời như thế tôi
khiếp sợ lắm. Gia nhân nhà tôi toàn là nông nô, bốn người, mua của một địa chủ
quen biết. Tôi còn nhớ, trong bốn người ấy mẹ tôi đã bán chị bếp Afimia thọt, đứng
tuổi với giá sáu mươi rúp tiền giấy, và thay vào đó bà thuê một đầy tớ gái là
người tự do. Sang tuần chay thứ sáu, anh tôi bỗng đau yếu hơn, anh vốn hay ốm,
yếu phổi, tạng người yếu ớt, dễ lao phổi; tầm vóc nhỏ, thanh mảnh, còm cõi,
nhưng khuôn mặt thì rất cao quý. Đâu như anh bị cảm lạnh, bác sĩ đến và nói nhỏ
với mẹ tôi rằng đây là lao phổi cấp và không qua được mùa xuân đâu. Mẹ tôi
khóc, lựa lời để không làm anh hoảng sợ, bảo anh đi lễ và chịu phép ban các bí
tích, bởi vì lúc ấy anh vẫn còn đi lại được. Nghe xong anh nổi giận, chửi rủa
nhà thờ nhưng rồi anh nghĩ lại: anh đoán ra ngay là anh mắc bệnh hiểm nghèo, vì
thế mẹ bảo anh đi lễ nhà thờ và chịu phép ban thánh thể trong lúc anh còn đủ sức
đi. Tuy nhiên anh cũng biết mình ốm từ lâu, từ trước đó một năm, có lần ngồi ở
bàn, anh đã nói với mẹ và tôi bằng giọng điềm nhiên. “Số con không sống được với
mẹ và em, có lẽ con không sống nổi một năm nữa đâu,” dường như anh đã nói lời
tiên tri. Ba ngày sau bắt đầu tuần lễ thánh. Từ sáng thứ ba anh đi lễ nhà thờ.
“Mẹ ơi, chỉ vì mẹ mà con làm như thế, chỉ cốt cho mẹ vui và yên lòng,” - anh
nói với mẹ. Mẹ tôi khóc vì vui sướng và đau xót: “Chắc ngày tận số của nó sắp đến
rồi thì nó mới thay đổi đột ngột như thế chứ.” Nhưng anh đi nhà thờ chẳng được
bao lâu, anh ốm liệt giường, vì vậy anh xưng tội và chịu phép ban bí tích ở
nhà. Bắt đầu những ngày tươi sáng, ngát hương thơm, cuối kì, lễ Phục sinh. Tôi
nhớ, suốt đêm anh ho, kém ngủ, vậy mà sáng ra bao giờ anh cũng mặc chỉnh tề và
thử ra ngồi ghế bành mềm. Tôi vẫn nhớ hình ảnh anh như thế: anh ngồi đấy, bình
lặng, hiền hòa, mỉm cười, anh đang ốm mà vẻ mặt vui tươi, sung sướng.
Anh đổi khác hẳn trong tâm hồn, ở anh đột nhiên có sự thay đổi
kì diệu như thế đó! Bà vú già vào phòng anh, “Cậu ơi, cậu cho phép tôi thắp đèn
thờ trước ảnh thánh trong phòng cậu nhé.” Trước kia anh không cho thắp, thổi tắt
ngay. “Cứ thắp lên, vú thân yêu cứ thắp lên, tôi là con quái vật, vì trước ba
tôi đã cấm thắp đèn thờ. Vú cứ thắp lên mà cầu nguyện Chúa, còn tôi sẽ vui sướng
cầu nguyện cho vú. Như vậy chúng ta cùng cầu nguyện một Chúa Trời.” Chúng tôi lạ
lùng về những lời đó, mẹ tôi lui về phòng riêng, và cứ khóc hoài, chỉ khi trở lại
chỗ anh, mẹ tôi mới lau khô nước mắt và làm bộ vui vẻ. “Mẹ ơi, đừng khóc, mẹ
thân yêu,” - đôi khi anh nói, - “con còn sống lâu, còn vui vầy nhiều với mẹ và
em, còn cuộc sống, cuộc sống vui vẻ, sung sướng biết bao!” “Ôi chao, con yêu dấu,
con vui làm sao được, ban đêm con sốt nóng hầm hập và ho tưởng rách lồng ngực.”
“Mẹ ơi,” - anh trả lời, - “mẹ đừng khóc, cuộc sống là thiên đàng, và tất cả
chúng ta đang ở thiên đàng, vậy mà chúng ta không muốn biết điều đó, chứ nếu ta
muốn biết thì ngày mai cả thế gian này sẽ thành thiên đàng.” Mọi người đều ngạc
nhiên về lời anh nói, anh nói điều đó một cách hết sức kỳ lạ và kiên quyết, ai
nấy đều cảm động và khóc. Người quen đến thăm chúng tôi, “Các bạn thân mến ơi,”
- anh nói, - “tôi có gì đáng được các bạn yêu mến, vì lẽ gì các bạn yêu tôi khi
tôi như thế này, làm sao trước kia tôi lại không biết, không quý trọng điều đó
nhỉ?” Gia nhân vào, anh nói: “Các bạn yêu quý ơi, vì sao các bạn hầu hạ tôi,
tôi có đáng được các bạn hầu hạ không? Nếu Chúa Trời gia ơn cho tôi còn được sống
thì tôi sẽ hầu hạ các bạn, vì mọi người phải hầu hạ nhau.” Nghe anh nói, mẹ lắc
đầu: “Con yêu quý của mẹ, con ốm đau nên mới nói như vậy.” “Mẹ ơi, mẹ là niềm
vui sướng của con,” - anh nói, - “không thể không có chủ và tớ, nhưng nếu vậy
thì con sẽ hầu hạ đầy tớ của con như họ vẫn hầu hạ con. Mẹ ạ, con còn xin nói
thêm với mẹ rằng mỗi người chúng ta đều có lỗi với tất cả mọi người khác về tất
cả mọi việc, còn con thì có lỗi hơn cả.” Mẹ tôi mỉm cười, khóc và mỉm cười:
“Làm sao con lại có lỗi hơn ai hết trước tất cả mọi người? Có những kẻ giết người,
cướp bóc, con đã kịp phạm tội gì như thế đâu mà từ quy tội cho mình hơn ai hết?”
“Mẹ ơi, mẹ ruột thịt của con,” - anh nói (dạo này anh bắt đầu thốt ra những lời
cao nhã, bất ngờ như thế), - “mẹ ruột thịt thân thương, vui vẻ của con, mẹ nên
biết rằng mỗi người thực sự có lỗi với tất cả mọi người khác về mọi sự. Con
không biết giải thích điều đó với mẹ như thế nào, nhưng con đau lòng cảm thấy
như thế. Làm sao có thể sống mà cứ cáu giận, không hề biết gì cả?” Mỗi ngày cứ
ngủ dậy anh càng cảm động hơn, vui sướng hơn, lòng tràn ngập tình yêu xao xuyến.
Đôi khi bác sĩ đến - ông già Ayzenxmit người Đức: “Thế nào, thưa bác sĩ, tôi
còn sống được một ngày nữa trên đời không ạ?” - Anh bông đùa với ông ta. “Không
phải một ngày, mà anh sẽ sống thêm nhiều ngày nữa,” - bác sĩ đáp, - “nhiều
tháng và nhiều năm nữa.” “Cần gì phải hàng năm, hàng tháng!” - anh kêu lên, -
“mà cần gì phải hàng ngày, chỉ cần một ngày là đủ để con người biết được tất cả
hạnh phúc. Hỡi những người yêu mến của tôi, cớ gì chúng ta cãi cọ nhau, khoe
khoang nước mặt nhau, oán hận nhau: chúng ta cứ đi thẳng vào vườn, dạo chơi và
nô đùa với nhau, yêu mến và khen ngợi lẫn nhau, hôn nhau và cảm tạ cuộc sống của
chúng ta.” “Cậu con trai bà không sống được bao lâu nữa đâu.” - Bác sĩ nói với
mẹ tôi, khi bà tiễn ông ra đến bậc tam cấp. - “Bệnh tật làm cho cậu ấy lẫn
trí.” Cửa sổ buồng anh trông ra vườn, vườn nhà chúng tôi rợp bóng mát, có những
cây cổ thụ, cây cối đã nảy lộc xuân, chim chóc đầu mùa kéo đến, líu lo ríu rít bên
cửa sổ buồng anh. Anh ngắm nhìn chim và bỗng xin chúng thứ lỗi cho anh: “Hỡi
các chú chim trời sướng vui, xin thứ lỗi cho tôi, vì tôi có lỗi với các chú.” Hồi
ấy không ai trong chúng tôi hiểu nổi anh, còn anh khóc vì vui sướng. “Phải rồi,”
- anh nói, - “xung quanh tôi bao nhiêu là vinh hiển của Chúa Trời: chim chóc,
cây cối, đồng cỏ, bầu trời, chỉ riêng tôi sống trong ô nhục, chỉ riêng tôi làm
ô danh vạn vật, hoàn toàn không biết đến cái đẹp và sự vinh hiển.” “Con tự nhận
lấy nhiều tội lỗi quá đấy,” - đôi khi mẹ tôi khóc. “Mẹ ơi, mẹ là niềm vui sướng
của con, con khóc vì vui mừng, chứ không phải vì đau xót đâu. Chính con muốn
mình có tội với vạn vật, có điều con không giải thích với mẹ được; bởi vì con
không biết phải yêu vạn vật như thế nào. Thì cứ cho là con có tội với vạn vật,
và vạn vật tha thứ cho con, thế thì đấy là thiên đàng rồi. Chẳng phải là hiện
giờ con đang ở thiên đàng sao?” Còn nhiều chuyện nữa, không thể nhớ và ghi lại
hết được. Tôi nhớ, có lần tôi một mình vào buồng anh, chẳng có ai ở đấy cả. Một
buổi chiều sáng sủa, mặt trời đã bắt đầu lặn, căn buồng tràn ngập ánh sáng
chênh chếch. Nhìn thấy tôi, anh vẫy tay tôi lại gần, đặt hai tay lên vai tôi,
nhìn vào mắt tôi với vẻ cảm động, trìu mến. Anh không nói gì, chỉ nhìn tôi như
thế một lát: “Thôi bây giờ em đi chơi đi, hãy sống thay cho anh!” Thế là, tôi
ra ngoài chơi. Sau này nhiều lần trong đời, tôi nhớ lại câu anh bảo tôi sống
thay cho anh mà rớt nước mắt! Anh còn nói nhiều lời tuyệt diệu như thế mà hồi ấy
chúng tôi không hiểu. Anh mất vào tuần thứ ba sau lễ Phục sinh, lúc chết vẫn tỉnh
táo, tuy đã không nói được nữa, nhưng cho đến phút chót anh vẫn không thay đổi:
vẻ nhìn đầy vui sướng, ánh mắt vui vẻ, anh đưa mắt nhìn chúng tôi mỉm cười với
chúng tôi, gọi chúng tôi. Trong thị trấn người ta nói nhiều về cái chết của
anh. Bấy giờ tất cả những điều đó khiến tôi bàng hoàng, nhưng không quá lắm,
tuy tôi khóc rất nhiều lúc mai táng anh. Hồi ấy tôi còn non trẻ, thậm chí là trẻ
con, nhưng tất cả mọi việc in lại dấu vết không phai nhòa trong tim tôi, tình cảm
vùi sâu trong đáy lòng. Đến lúc nào đó tất cả hẳn phải trỗi dậy và lên tiếng.
Quả đúng như thế.
Phần 6
Chương 2 - P2
Chương 2 - P2
b. Kinh Thánh trong đời Cha Zoxima
Thế là chỉ còn lại hai mẹ con tôi. Ít lâu sau, những người
quen tốt bụng khuyên mẹ tôi đại khái là: bà chỉ còn độc một cậu con trai, nhà
không nghèo, có vốn tiếng, tại sao bà không làm như những người khác, gửi con
đi Peterburg học, giữ cậu ấy ở nhà là chẹn lấy con đường công danh của cậu ấy.
Họ mách nước cho mẹ gửi tôi vào trường võ bị Peterburg để sau này gia nhập quân
cận vệ của hoàng đế. Mẹ tôi lưỡng lự mọi: xa đứa con trai cuối cùng sao cho
đành, nhưng rồi bà quyết định xây đắp hạnh phúc cho tôi tuy không phải là không
đổ nhiều nước mắt. Bà đưa tôi về Peterburg và thu xếp mọi việc cho tôi, từ đó
tôi không gặp mẹ nữa, vì ba năm sau bà tạ thế, suốt ba năm bà buồn rầu lo nghĩ
về cả hai chúng tôi. Nhà mẹ cha chỉ để lại trong lòng tôi những kỷ niệm quý giá
nhất, bởi vì con người không có kỷ niệm nào quý giá hơn kỷ niệm về thời thơ dại
của mình trong nhà mẹ cha, hầu như bao giờ cũng thế, nếu như trong gia đình có
chút ít tình yêu và sự gắn bó. Hơn nữa, ngay cả gia đình xấu xa nhất cũng có thể
để lại những kỷ niệm quý giá, miễn là tâm hồn người ta có khả năng tìm kiếm cái
quý giá. Trong số những kỷ niệm gia đình, tôi phải kể đến kỷ niệm về truyện
thánh, ở nhà tôi rất ham nghe truyện thánh, mặc dù tôi còn nhỏ lắm. Hồi ấy tôi
có cuốn truyện thánh, tranh rất đẹp, nhan đề là “Một trăm bốn mươi truyện thánh
của Cựu Ước và Tân Ước”, tôi học đọc theo cuốn sách ấy. Bây giờ nó vẫn ở trên
giá sách của tôi, tôi giữ lại như một kỷ niệm quý giá. Nhưng ngay từ trước khi
biết đọc, tôi vẫn nhớ, có, lần một cảm tưởng thấm thía đầu tiên đã đến với tôi,
năm tôi mới tám tuổi. Vào ngày thứ hai thần lễ thánh, mẹ đưa tôi đi nhà thờ dự
lễ, chỉ có một mình tôi thôi (anh tôi hôm ấy đi đâu, tôi không nhớ). Một ngày
sáng sủa, và bây giờ tôi nhớ lại, dường như tôi lại nhìn thấy khói từ bình
hương nhè nhẹ cuốn lên cao, và trên nóc vòm, tia nắng chiếu qua ô cửa sổ hẹp rọi
xuống chúng tôi, khói hương cuộn sóng bốc lên tan ra trong ánh nắng. Tôi cảm động
nhìn cảnh tượng ấy và lần đầu tiên trong đời, tâm hồn tôi tiếp nhận một cách có
ý thức hạt giống đầu tiên của Lời Chúa. Một thiếu niên ra giữa nhà thờ, hai tay
cầm cuốn sách rất lớn, lớn đến nỗi lúc ấy tôi có cảm giác trong thậm chí cậu ta
phải khó nhọc mới cầm nổi, cậu ta để sách lên giá; mở ra đọc, và khi ấy bỗng
nhiên lần đầu tiên tôi hiểu được điều gì, lần đầu tiên trong đời tôi hiểu người
ta đọc gì trong nhà thờ. Ở đất Utx có một người công chính và kính tiếng, ông
ta giàu lắm, có cơ man nào là lạc đà, cừu và lừa, con cái ông ta vui chơi giải
trí, ông ta rất yêu chúng, cầu Chúa Trời cho chúng: chúng có thể phạm lỗi do
chơi bời. Một hôm quỷ lên hầu Chúa Trời cùng với các con Chúa Trời và nói với
Chúa rằng nó đã đi khắp mặt đất và dưới đất. “Thế người có thấy kẻ tôi tớ của
ta là Iov không?” - Chúa Trời hỏi nó. Chúa Trời trỏ kẻ tôi tớ vĩ đại thánh thiện
của mình, khoe với quỷ. Quỷ mỉm cười khi nghe những lời đó của Chúa: “Xin hãy
trao hắn cho tôi, rồi Ngài sẽ thấy kẻ tôi tớ của Ngài oán trách và nguyền rủa
danh Ngài.” Thế là Chúa Trời trao cho quỷ con người công chính mà Ngải rất mực
yêu quý, quỷ sát hại con cái ông ta, gia súc của ông ta, làm tiêu tan hết tài sản
giàu có của ông ta, mọi cái phút chốc tiêu tan hết như bị sét đánh. Iov xé quần
áo gieo mình xuống đất và la gào: “Tôi trần trụi lọt khỏi lòng mẹ, tôi sẽ lại
trần trụi trở về đất bụi. Chúa cho, Chúa lại lấy đi. Tôi ngợi khen danh Chúa từ
nay cho đến trọn đời!” Thưa các cha và các thầy, xin miễn thứ cho những giọt nước
mắt lúc này của tôi, bởi vì cả thời thơ ấu của tôi dường như lại hiện lên trước
mắt tôi, lúc này tôi lại như hồi lên tám, lại như hồi ấy tôi cảm thấy ngạc
nhiên, bối rối và vui sướng. Hồi ấy trí tưởng tượng của tôi xúc động ghê gớm:
nhưng con lạc đà, quỷ Sa tăng nói năng với Chúa Trời như thế, Chúa Trời để mặc
cho kẻ tôi tớ của mình chịu khốn khổ, và kẻ tôi lớ của Ngài kêu lên: “Tôi ngợi
khen danh Chúa, thì Chúa hành tội tôi.” Rồi cả tiếng hát kinh êm nhẹ, ngọt ngào
trong nhà thờ: “Mong sao lời cầu nguyện của con được chấp nhận,” và khói lại bốc
lên từ bình hương của linh mục và những con chiên quỳ gối cầu nguyện! Từ đó, -
thậm chí hôm qua tôi còn lấy cuốn sách ấy ra, - tôi không thể đọc thiên truyện
thánh ấy mà không rơi lệ. Vĩ đại xiết bao, bí ẩn biết chừng nào, không thể tưởng
tượng nổi! Sau này tôi đã từng nghe những kẻ giễu cợt và phỉ báng nói những lời
ngạo mạn: làm sao Chúa Trời có thể giao phó một người thánh thiện được Ngài yêu
mến cho quỷ hành hạ, làm sao có thể cướp đi tất cả con cái của ông ta, khiến
ông ta mắc bệnh và phá ung nhọt đến nỗi dùng mảnh sành cạo mủ vết thương của
mình, mà đấy là Chúa chỉ cốt để khoe với quỷ Sa tăng: “Mi xem đấy, vị thánh của
ta có thể vì ta mà chịu đựng đến như vậy.” Tuy nhiên, sự tích ấy vĩ đại bởi lẽ
đấy là một bí nhiệm: cái biểu hiện trần thế chóng tàn và chân lý vĩnh cửu tiếp
xúc với nhau. Sự thật trần thế chứng kiến sự thật vĩnh cửu thành tựu trước mắt.
Vẫn như những ngày đầu sáng tạo. Đấng Sáng thế kết thúc mỗi ngày bằng lời ngợi
khen: “Tốt đẹp thay những gì ta đã làm ra!” - Ngài nhìn Iov và lại hãnh diện về
tác phẩm của mình. Còn Iov ngợi ca Chúa Trời, chẳng những ông phụng sự Chúa Trời
mà ông phụng sự tất cả sự sáng tạo của Ngài từ thế hệ này sang thế hệ khác, đời
đời kiếp kiếp, và đấy là định mệnh. Lạy trời, cuốn sách tuyệt diệu làm sao và
những bài học sâu nhiệm làm sao! Thánh kinh ban cho con người phép lạ và sức mạnh
mãnh liệt dường bao! Đấy là bức tượng miêu tả thế giới, con người và tính cách
con người, tất cả đều được gọi tên và chỉ rõ cho vạn thế. Biết bao nhiêu bí nhiệm
đã được giải đáp và phơi mở, Chúa Trời lại gây dựng cho Iov, ban tài sản cho
ông ta, nhiều năm trôi qua, ông ta lại có con và yêu quý chúng - trời ơi: “Làm
sao ông ta có thể yêu những đứa con sau này, khi những đứa trước không còn nữa?
Mỗi lần nhớ đến những đứa đã mất, lẽ nào ông còn được hạnh phúc trọn vẹn với những
đứa con sau này, thì đối với ông, họ đáng yêu đến đâu đi nữa?” Nhưng có thể lắm
chứ: nỗi đau xót lâu năm dần dần chuyển thành niềm vui sướng êm đềm, cảm động -
đó là một bí nhiệm vĩ đại của đời người: bầu máu nóng của tuổi trẻ nhường chỗ
cho tuổi già sáng sủa, hiền hòa: tôi cảm tạ mặt trời mọc hàng ngày, trái tim
tôi vẫn hát ca mừng mặt trời như trước, nhưng tôi yêu ánh tịch dương hơn, tôi
yêu những tia nắng dài chênh chếch buổi chiều tà gợi nên những kỉ niệm êm dịu,
cảm động những hình ảnh đáng yêu trong cả cuộc đời dài lâu được Chúa ban phước
- và bao trùm lên tất cả là sự thật của Chúa làm cảm động lòng người, hóa giải
hận thù và tha thứ tất thảy! Đời tôi sắp hết, tôi biết là tôi cảm thấy như thế,
nhưng trong mỗi ngày còn lại của tôi, tôi cũng cảm thầy cuộc đời trần thế của
tôi đã kiếp liến với một cái gì mới mẻ, bất tận, chưa từng biết, nhưng gần gũi
của cuộc đời mai sau, và mối linh cảm ấy làm cho tâm hồn tôi hân hoan rung động,
trí óc tôi ngời sáng, tim tôi khóc vì vui sướng… Thưa các bạn và các thầy tôi
đã nhiều lần nghe nói, và thời gian gần đây tôi càng nghe nói nhiều hơn rằng
các giáo sĩ của chúng ta, nhất là các giáo sĩ nông thôn, kêu than thảm thiết ở
khắp mọi nơi về thu nhập ít ỏi, về địa vị thấp kém của họ, và nói thẳng, thậm
chí cả trên báo chí - hôm nay chính tôi đã đọc thấy, - rằng bây giờ dường như họ
không thể giảng kinh Thánh cho dân chúng được, bởi vì thu nhập của họ quá ít,
và nếu các giáo sĩ Lute và những kẻ dị giáo đến tranh đoạt bầy chiên thì họ
cũng đành chịu, vì họ thu nhập chẳng được bao. Trời ơi! Tôi nghĩ, cầu trời cho
họ thu nhập khá hơn, đây là điều quý đối với họ (sự than phiền của họ là chính
đáng), nhưng tôi nói thật: chính chúng ta có lỗi một phần. Bởi vì cho dù thiếu
thời gian, cho dù vị giáo sĩ nói có lí rằng ông ta luôn luôn bận công chuyện và
việc làm lễ cho giáo dân, nhưng dù sao không phải lúc nào cũng bận, ít nhất mỗi
tuần ông ta cũng có được một giờ để nhớ đến Chúa chứ! Mà đâu phải là công việc
bận rộn quanh năm! Ông ta hãy tụ tập mọi người ở nhà mình một tuần một lần, vào
buổi tối, thoạt đầu chỉ riêng trẻ em thôi, rồi các cha đạo sẽ nghe đồn và sẽ đến.
Không cần xây cung điện dùng cho việc đó, cứ việc mời về túp nhà của mình thôi,
mà chỉ độ một giờ đồng hồ. Mở sách thánh ra và đọc cho họ nghe, không có những
lời thông thái, không phách lối, không kiêu ngạo với họ, mà cảm động và hiền từ,
chính mình vui sướng vì được đọc cho họ nghe, còn họ nghe và hiểu mình, bản
thân mình cũng yêu mến những lời đó, chỉ thỉnh thoảng dừng lại và giảng cho người
bình dân hiểu một từ khó, dừng ngại, họ sẽ hiểu hết, trái tim chính giáo sẽ hiểu
hết! Hãy đọc cho họ nghe về Abram và Xara, về Ixaac và Rebecca, về việc Iacov đến
nhà Laban và vật lộn với Đức Chúa Trời trong chiêm bao và nói: “Chốn này đáng sợ
thay” (1) - như vậy sẽ làm xúc động óc sùng tín của người bình dân. Hãy đọc
cho họ nghe, đặc biệt là trẻ em, câu chuyện về chàng trẻ tuổi Iozef đáng yêu,
người đoán mộng và nhà tiên tri vĩ đại sau này, đã bị các anh ruột đem bán làm
nô lệ rồi họ đưa cho bố bộ quần áo đẫm máu của chàng và nói rằng chàng đã bị
thú dữ xé xác. Đọc cả chuyện sau đó người anh của chàng sang Edifto mua lúa mì,
còn Iozef lúc này đã là quan tể tướng (họ không nhận ra em) hành hạ họ, kết tội
họ, giữ Benjamin lại không cho đi, tuy vẫn yêu anh mình: “Ta yêu các anh ta, ta
yêu nhưng vẫn hành hạ các anh ta.” Bởi vì suốt đời chàng vẫn luôn luôn nhớ các
anh đã đem bán chàng cho các thương gia ở một nơi trên sa mạc nóng bỏng, bên
cái giếng, và chàng đã vặn vẹo hai tay, khóc lóc van xin các anh đừng bán chàng
làm nô lệ sang nơi dẩt khách quê người, và bây giờ, nhìn thấy các anh sau bấy
nhiêu năm, chàng lại yêu các anh vô hạn, nhưng yêu mà vẫn đày đọa, hành hạ họ.
Cuối cùng, không chịu nổi sự giày vò trong lòng, chàng lùi về phòng riêng, gieo
mình lên giường và khóc; rồi chàng lau mặt, hớn hở tươi vui ra nói với họ: “Các
anh ơi, em là Jozef, em của các anh đây!” Tiếp đến chuyện ông già Iakov vui sướng
hay tin đứa con trai đáng yêu của ông vẫn còn sống, ông rời bỏ quê hương sang
Edifto, ông chết nơi đất khách quê người, di chúc lại cho muôn đời sau một lời
vĩ đại suốt đời vẫn giữ kín trong trái tim hiền lành nhút nhát của ông, ấy là:
dòng giống Juđa của ông sẽ sản sinh ra ước vọng vĩ đại của thế giới, đấng dẹp
loạn và cứu thế! Thưa các cha và các thầy, xin thứ lỗi cho tôi và đừng giận vì
tôi như một đứa con nít, đi kể lể với các vị những điều mà các vị đã biết từ
lâu và có thể dạy cho tôi một cách khéo léo và cao đẹp hơn gấp trăm lần. Chỉ vì
hào hứng quá mà tôi nói ra, vì tôi yêu cuốn sách ấy. Nếu người giáo sĩ khóc,
ông ta sẽ thấy trái tim những người nghe run rẩy đáp lại tình cảm của ông. Chỉ
cần một hạt giống nhỏ xíu, gieo vào tâm hồn người bình dân, hạt giống ấy sẽ
không chết, sẽ sống trong tâm hồn người đó suốt đời, ẩn náu trong con người giữa
bóng tối, giữa vũng bùn tội lỗi hôi hám của người, như một điểm sáng, như sự gợi
nhớ vĩ đại, và không cần giảng giải và răn dạy nhiều, con người sẽ hiểu hết một
cách giản dị. Liệu các vị có nghĩ rằng người bình dân sẽ không hiểu không? Hãy
thử đọc cho người đó nghe câu chuyện cảm động, đáng mủi lòng về Exte kiều diễm
và Vaxti kiêu ngạo (2); hay câu chuyện thần kì về nhà tiên tri Jora trong bụng
cá voi (3). Cũng đừng quên những chuyện ngụ ngôn của Chúa, chủ yếu là lấy trong
Phúc âm theo thánh Luca (tôi cũng đã làm như thế), rồi sự trở lại đạo của Xaulơ
trong Công vụ các sứ đồ (nhất định phải đọc truyện này, nhất thiết phải có), cuối
cùng là trích đọc Treti Minei, ít ra là sự tích Alecxei người của Chúa và sự
tích của mẹ Maria Edifto, người vĩ đại nhất trong những người chịu thống khổ mà
vẫn vui sướng, người nhìn thấy thần linh và hoài thai Chúa Kito, - hãy làm rung
động trái tim người bình dân bằng những câu chuyện giản dị như thế, mà chỉ mỗi
tuần một giờ, mặc dù thu nhập ít ỏi của mình, vẻn vẹn có một giờ. Người giáo sĩ
sẽ thấy dân ta nhân từ và biết ơn hậu tạ lại gấp trăm lần. Nhớ đến lòng nhiệt
thành và những lời cảm động của giáo sĩ, dân chúng sẽ tự nguyện đến làm giúp
giáo sĩ trên đồng ruộng, giúp đỡ việc nhà, sẽ tôn kính giáo sĩ hơn trước nhiều,
và thu nhập của giáo sĩ sẽ tăng lên. Đấy là một việc rất đỗi đơn giản, đến nỗi
đôi khi ta ngại không dám nói ra, e người ta cười cho, nhưng mà quả đúng như vậy
đấy! Kẻ nào không tin Chúa thì cũng không tin con dân của Chúa. Người nào tin ở
con dân của Chúa thì cũng sẽ thấy thánh điện của Chúa, tuy trước đó y hoàn toàn
không tin có thánh điện. Chỉ có nhân dân và sức mạnh tinh thần sau này của nhân
dân mới làm cho những người vô thần đã mất gốc trở lại đạo. Lời Chúa Kito mà
không có ví dụ thì còn là cái gì? Không có lời Chúa thì dân chúng diệt vong, bởi
vì tâm hồn nhân dân khao khát lời Chúa và mọi ý tưởng cao đẹp. Thời trai trẻ,
đã lâu lắm rồi, bốn mươi năm trước tôi cùng Cha Afim đi khắp nước Nga quyên tiền
cho tu viện, có lần chúng tôi nghĩ đêm cùng với đám dân chài trên bờ một con
sông lớn, tàu bè qua lại được, đến ngồi bên chúng tôi có một chàng trai dáng vẻ
cao quý, một nông dân, chừng mười tám tuổi anh ta vội đến địa điểm của mình để
sáng mai kéo một chiếc thuyền buồm. Tôi thấy anh ta nhìn về phía trước bằng ánh
mắt cảm động và trong sáng. Trời đêm sáng sủa, yên tĩnh, ấm áp, một đêm tháng bảy,
sông rộng mênh mang, hơi nước bốc lên mát rượi, cá quẫy nhè nhẹ, chim chóc im
tiếng, tất cả đều im ắng, đẹp huyền ảo, vạn vật cầu Chúa. Không chỉ riêng hai chúng
tôi mà cả chàng trai ấy cũng không ngủ, chúng tôi bàn về vẻ đẹp của cõi thế này
do Chúa tạo dựng nên, về bí nhiệm vĩ đại của thế gian. Mỗi cọng cỏ, mỗi con
sâu, cái kiến, con ong vàng đều biết rõ đến kỳ lạ con đường của chúng, tuy
không có trí tuệ mà đều chứng thực sự bí nhiệm của Chúa, đều không ngừng thực
hiện bí nhiệm ấy, và tôi thấy trái tim chàng trai ấy bốc lửa. Anh ta nói với
tôi rằng anh ta yêu rừng, yêu chim rừng; anh ta là người bẫy chim, anh ta hiểu
từng tiếng huýt của chim, biết cách nhử bất cứ con chim nào; anh ta bảo không
có gì thú vị hơn đời sống trong rừng chim mặc dù tất cả đều tốt đẹp. “Đúng vậy,”
- tôi trả lời anh ta, - “mọi cái đều tốt đẹp và tuyệt diệu, vì tất cả đều thực.
Anh hãy nhìn con ngựa xem,” - tôi nói với anh ta, - “một con vật cao quý gần gụi
với người, hay hãy nhìn con bò kia, nó nuôi sống người, làm việc cho người, con
vật ủ rũ và tư lự, hãy nhìn mặt nó mà xem: hiền lành biết bao, quyến luyến với
người biết bao, tuy người thường đánh đập nó tàn nhẫn, mắt nó hiền lành quá chừng,
cả tin quá chừng, đẹp xiết bao. Thật cảm động khi còn biết thêm rằng nó không
vướng chút tội lỗi, bởi vì tất cả mọi vật, tất cả trừ con người, đều không có tội
lỗi, và Chúa Kito ở cùng vạn vật trước khi ở với chúng ta.” “Lẽ nào đấng Kito ở
cùng chúng ư?” - chàng trai hỏi. “Làm sao có thể khác được,” - tôi nói với anh
ta, - “bởi vì Lời là chung cho tất cả muôn loài, cho đến từng phiến đá, đều hướng
về Lời, đều ngợi ca Chúa Trời, khóc với Chúa Kito mà không tự biết, đấy là bí
nhiệm của đời sống không tội loi. Ở nơi nọ,” - tôi nói với anh ta, - “có một
con gấu đáng sợ đi lang thang trong rừng, con gấu ghê gớm, dữ tợn, nhưng đấy
hoàn toàn không phải lỗi của nó.” Và tôi kể cho anh ta nghe: một lần con gấu đến
chỗ một vị chân cao cả tu ở một trai phòng nhỏ trong rừng, vị thánh cao cả động
lòng thương con vật gan dạ ra cho nó một miếng bánh mì: “Con đi đi, Chúa Kito ở
cùng con,” và con thú dữ tợn ngoan ngoãn, hiền lành đi nơi khác, không làm hại
ông. Chàng trai cảm động về việc con gấu bỏ đi, không làm hại người tu hành, và
Chúa Kito ở cùng nó. Anh ta nói: “Chao ôi, thật là tốt đẹp, tất cả những gì do
Chúa tạo ra đều tốt đẹp và huyền nhiệm!” Anh ta ngồi suy nghĩ, trầm lặng và
khoan khoái. Tôi thấy anh ta đã hiểu. Anh ta thiếp đi bên tôi trong giấc ngủ nhẹ
nhàng, trong trắng. Cầu Chúa ban phước cho tuổi trẻ! Tôi đã cầu Chúa cho anh ta
trước khi đi ngủ. Lạy trời ban sự bằng an và ánh sáng cho con dân của Ngài!.
Chú thích:
Chú thích:
(1) Đây là những chuyện trong “Sáng thế kỷ”, quyển đầu trong
năm quyển sách của Meixe, Cựu ước (N.D).
(2) Exte trong “Các sách về lịch sử”: Hoàng hậu Vaxti bị
giáng, Exle được phong làm hoàng hậu (N.D).
(3) “Jora”, một cuốn trong “Các sách tiên tri”: Jora trốn
tránh Đức Chúa Trời. Chúa Trời khiến Jora bị quẳng xuống biển, bị nuốt vào bụng
cá voi. Trong bụng cá, Jora cầu nguyện. Chúa Trời khiến cá voi nhả Jora ra
(N.D).
Phần 6
Chương 2 - P3
Chương 2 - P3
c. Trưởng lão Zoxima hồi tưởng lại thời thanh xuân còn đang sống
đời trần tục. Trận đấu súng.
Tôi ở Peterburg một thời gian dài, trong trường võ bị, ngót
tám năm, nền giáo dục mới đè nghẹt trong tôi nhiều ấn tượng tuổi thơ, tuy tôi
chẳng quên gì hết: Thay vào đó tôi đã nhiễm nhiều thói quen mới, thậm chí cả những
ý kiến mới, đến nỗi tôi biến thành một kẻ gần như man rợ, tàn bạo và phi lý.
Cùng với tiếng Pháp, tôi có được cái bề ngoài lễ độ và thanh lịch hào hoa, ở
trường võ bị tất cả chúng tôi đều coi lính tráng phục dịch ở đây như súc vật, cả
tôi cũng thế. Có lẽ tôi còn tệ hại hơn, bởi vì tôi là người dễ nhiễm ảnh hưởng
hơn tất cả các bạn đồng đội.
Khi đã trở thành sĩ quan, chúng tôi sẵn sàng đổ máu để bảo vệ
danh dự trung đoàn, tuy hầu như không người nào trong chúng tôi biết thế nào là
danh dự thực sự, chứ nếu hiểu ra thì hẳn chính chúng tôi sẽ chế nhạo nó trước
tiên. Chúng tôi gần như tự hào về thói rượu chè, phá phách và ngổ ngáo. Tôi
không nói rằng bọn chúng tôi là những kẻ đốn mạt; bọn chúng tôi đều là những
thanh niên tốt, những xử sự đốn mạt, mà tệ hại nhất là tôi. Cái chính là tôi có
tiền, vì vậy tôi buông mình sống hưởng lạc, với tất cả ham muốn của tuổi trẻ,
vô chừng mực, căng buồm lướt sóng. Nhưng có điều kỳ lạ: hồi ấy tôi đã rất ham đọc
sách. Tôi có một cuốn Kinh Thánh, hầu như không bao giờ tôi mở ra, nhưng không
bao giờ rời nó, đi đâu cũng mang theo, quả thật là tôi giữ gìn cuốn sách ấy
“cho một ngày và một giờ, cho một tháng và một năm” mà tôi không hề biết. Sau bốn
năm tại ngũ, cuối cùng tôi đến thành phố K, trung đoàn tôi đóng tại đó. Giới xã
giao thành phố gồm nhiều loại, đông đảo, vui vẻ, mến khách và giàu có ở đâu tôi
cũng được đón tiếp tử tế, bởi vì tôi vốn vui tính, thêm nữa tôi có tiếng là sẵn
tiền, mà trong giới thượng lưu thì điều đó có nghĩa là không nhỏ. Thế rồi đã xảy
ra một chuyện mở đầu cho mọi chuyện về sau. Tôi có cảm tình với một cô gái trẻ
kiều diễm, thông minh và đoan trang, tính tình cao thượng, quý phái, cha mẹ là
những người đáng kính. Cha mẹ cô có địa vị, giàu có, có thể lực, họ tỏ ra trìu
mến, niềm nở đối với tôi. Tôi có cảm giác rằng cô gái cũng có tình ý với tôi,
tim tôi bừng bừng ngọn lửa ước mơ. Sau này chính tôi hiểu ra, đoán ra rằng có lẽ
hoàn toàn không phải là tôi yêu nàng mãnh liệt đến thế đâu, mà chỉ là tôi kính
trọng trí thông minh và tính tình cao thượng của nàng. Không thể khác thế được.
Tuy nhiên, tự do khiến tôi không cầu hôn lúc bấy giờ: thật đau lòng và đáng sợ
nếu phải giã từ những cám dỗ của cuộc sống độc thân phóng đãng giữa thời trai
trẻ như thế, mà lại sẵn tiền nữa chứ. Tuy nhiên tôi đã nói xa nói gần để ngỏ ý.
Dù sao, tôi tạm hoãn bất cứ bước quyết định nào. Rồi bỗng nhiên tôi có việc đi
công cán hai tháng sang một vùng khác. Hai tháng sau trở về, tôi bỗng hay tin
nàng đã lấy chồng, chồng nàng là một điền chủ giàu có ở ngoại thành, tuy hơn tuổi
tôi nhưng vẫn còn trẻ, anh ta có nàng mối quen biết ở thủ đô và trong giới giao
tế cao sang nhất, điều mà tôi không có, anh ta rất nhã nhặn và có học vấn, mà học
vấn thì tôi thiếu hẳn. Tôi hết sức sửng sốt vì sự thể bất ngờ như vậy, thậm chí
đầu óc tôi mụ mị đi. Điều quan trọng nhất là bấy giờ tôi mới biết người điền chủ
trẻ tuổi kia đã đính hôn với nàng từ lâu và tôi đã gặp anh ta nhiều lần trong
thành phố của họ mà không hay biết gì cả, do quáng lòa về những ưu điểm của
mình. Nhưng đấy chính là điều làm tôi bực tức hơn cả: sao hầu hết mọi người biết,
chỉ mình tôi không hay biết gì cả? Tôi bỗng cảm thấy căm tức không thể chịu nổi.
Tôi đỏ mặt nhớ lại đã nhiều lần tôi gần như tỏ tình với nàng, mà nàng không hề
ngăn tôi lại, cũng không nói cho tôi biết, như vậy tôi kết luận là nàng giễu cợt
tôi. Về sau cố nhiên tôi đã nghĩ lại và nhớ rằng nàng không hề cười, trái lại
nàng dùng lời bông đùa cắt đứt những cuộc chuyện trò như vậy và lảng sang chuyện
khác, nhưng bấy giờ tôi không thể hiểu ra điều đó và lòng bừng bừng ý định trả
thù. Bây giờ tôi ngạc nhiên nhớ lại rằng ngay hồi ấy tôi đã gớm ghét ý định trả
thù và sự tức giận của tôi, vì tôi vốn dễ tính, không thể giận ai lâu được, vì
thế dường như tôi tự kích mình một cách giả tạo và rốt cuộc đã trở nên quái gở,
lố bịch. Tôi đã chộp được cơ hội, và một lần trong cuộc họp mặt đông người, đột
nhiên tôi đã xúc phạm được “ké tình địch” của tôi, vì một lý do tưởng như nghĩ
ra, tôi chế nhạo một ý kiến của anh ta về một biến cố quan trọng thời bấy giờ,
- ấy là vào năm hai mươi sáu - và theo người ta nói thì chế nhạo như thế là sắc
sảo và khéo léo. Rồi tôi buộc anh ta phải nói chuyện với tôi để làm sáng tỏ vấn
đề và khi gặp nói chuyện, tôi đã xử sự thô lỗ đến nỗi anh ta buộc phải nhận đấu
súng, tuy giữa chúng tôi có sự khác biệt lớn, vì tôi ít tuổi hơn, địa vị xoàng
xĩnh cấp bậc thấp. Sau này tôi được biết chắc chắn rằng anh ta nhận lời thách đấu
của tôi cũng vì ghen với tôi: anh ta ghen với tôi từ trước kia, chút ít thôi,
ghen về vợ anh ta, hồi ấy mới là vợ chưa cưới; bây giờ anh ta nghĩ rằng nếu
nàng biết anh ta chịu đựng sự xúc phạm của tôi, không dám nhận đấu súng thì e rằng
nàng sẽ khinh thường anh ta và tình yêu của nàng sẽ lung lay. Tôi tìm ngay được
người làm chứng, một trung úy của trung đoàn chúng tôi. Hồi ấy việc đấu súng bị
trừng trị rất nặng, nhưng đối với các quân nhân, nó dường như vẫn là một cái mốt:
đôi khi những thành kiến mọi rợ vẫn cứ gia tăng và cắm rễ vững chắc như thế đấy.
Bấy giờ đã sắp hết tháng sáu, cuộc gặp mặt của chúng tôi vào hôm sau, ở ngoài
thành phố, lúc bảy giờ sáng, và quả thực với tôi đã xảy ra một việc tuồng như
là định mệnh.
Buổi chiều, khi trở về nhà, tức tối hung dữ, tôi cáu với gã
lính hầu Afanaxi của mình và thẳng tay tống hai quả vào mặt gã, đến nỗi mặt gã
tóe máu. Gã đến hầu hạ tôi chưa lâu, trước đó cũng có lần tôi đánh gã, nhưng
chưa bao giờ tàn ác đến thế. Và thưa các vị các vị có tin được không, đã bốn chục
năm qua mà bây giờ nhớ lại, tôi vẫn hổ thẹn và đau lòng. Tôi đi ngủ, thiếp đi
khoảng ba tiếng, tỉnh dậy thì đã rạng ngày. Tôi trở dậy ngay, không muốn ngủ nữa,
đến gần cửa sổ, mở cửa - cửa sổ phòng tôi tuyệt đẹp chim chóc líu lo. Thế là thế
nào, tôi nghĩ, sao tôi lại cảm thấy tâm hồn mình có một cái gì nhơ nhuốc và hèn
kém? Phải chăng vì tôi sắp gây đổ máu? Không, tôi nghĩ, hình như không phải thế.
Phải chăng tôi sợ chết, sợ bị giết? Không, không phải, hoàn toàn không phải thế…
Bỗng nhiên tôi lập tức đoán ra duyên do tại đâu: là vì hôm qua tôi đã đánh
Afanaxi! Bỗng nhiên tôi lại hình dung thấy tất cả, như thế mọi chuyện lại diễn
ra trước mắt: gã lính hầu đứng trước mặt tôi, tôi thẳng cánh giáng vào mặt gã,
còn gã vẫn đứng nghiêm, đầu cất thẳng, mắt trợn ngược, run lên chịu đựng mỗi cú
đánh, thậm chí không dám giơ tay đỡ, thân phận con người sao mà đến nông nỗi ấy,
và đây là người đánh người! Tội lỗi biết bao! Như có mũi kim nhọn xuyên suốt
tâm hồn tôi. Tôi đứng ngây ra như mê mụ, vầng mặt trời vẫn chiếu sáng lá cây
vui sướng, lấp lánh, còn chim chóc ngợi ca Chúa Trời… Tôi đưa hai tay bưng mặt,
nằm vật xuống giường và khóc nức nở. Tôi chợt nhớ đến anh Marken và lời anh nói
với gia nhân trước khi chết: “Các bạn yêu quý ơi, vì sao các bạn hầu hạ tôi, vì
sao các bạn yêu tôi, tôi có đáng được các bạn hầu hạ không?” “Phải, ta có đáng
không?” - ý nghĩ chợt nảy ra trong óc tôi. Thực vậy, tôi có gì đáng để một người
khác cũng như tôi, là hình ảnh của Chúa và giống như Chúa, hầu hạ tôi? Lần đầu
đến trong đời, câu hỏi ấy xuyên vào trí óc tôi. “Mẹ ơi, mẹ ruột thịt của con
ơi, đúng là mỗi người đều có lỗi với tất cả mọi người và về mọi người, có điều
người ta không biết điều đó, nếu như người ta hiểu ra thì trần gian tức khắc sẽ
là thiên đàng!” “Trời ơi, chẳng lẽ đấy không phải là sự thật sao, - tôi khóc và
nghĩ, - có lẽ quả thật là ta chịu trách nhiệm về mọi người ta tội lỗi hơn hết
thảy, ta là kẻ tồi tệ nhất trần đời!” Và tôi bỗng hình dung thấy tất cả sự thật
với đầy đủ ý nghĩa của nó: tôi sắp làm gì đây? Tôi sắp đi giết một con người
nhân hậu, thông minh, cao quý, không có lỗi gì với tôi, như vậy tôi sẽ làm cho
vợ anh ta suốt đời bất hạnh, đau khổ đến chết mất! Tôi nằm úp sấp trên giường,
vùi mặt xuống gối và không để ý gì đến thời gian.
Ông nhiên trung úy đồng đội bước vào, mang theo mấy khẩu súng
ngắn: “A,” - anh ta nói, - “tốt lắm, anh đã dậy, đến giờ rồi, ta đi thôi!” Tôi
luống cuống, hoàn toàn rối trí, nhưng chúng tôi cùng ra xe. “Anh chờ tôi một
lát,” - tôi bảo anh ta, - “tôi sẽ ra ngay, tôi bỏ quên ví tiền.” Tôi một mình
chạy vào nhà, đến thẳng buồng Afanaxi: “Afanaxi,” - tôi nói, - “hôm qua tôi
đánh anh hai cái vào mặt, tha lỗi cho tôi.” Gã giật nảy người, dường như sợ
hãi, trân mắt nhìn, tôi thấy là nói thế chưa đủ, chưa đủ, thế là đột nhiên vẫn
quân phục đủ lệ bộ, tôi dập trán xuống đất dưới chân gã: “Tha thứ cho tôi!” -
tôi nói. Đến đây gã hoàn toàn sững sờ: “Thưa ngài, thưa ngài thiếu úy, sao ngài
lại… Con đâu có đáng…” - và gã bật khóc như tôi ban nãy, hai tay bưng mặt quay
về phía cửa sổ, mặt chan hòa lệ và run lên, còn tôi chạy ra với người đồng đội,
nhảy lên xe và gào: “Đi!” “Anh thấy đấy,” - tôi gào lên với anh ta, - “người thắng
cuộc đang ở trước mặt anh đây!” Tôi hoan hỉ quá đỗi, tôi cười, suốt dọc đường
tôi nói luôn miệng, chẳng nhớ là mình nói gì. Anh ta nhìn tôi: “Này ông anh ơi
anh là tay cừ khôi, tôi thấy là anh sẽ bảo vệ được danh dự của bộ quân phục.” Đến
địa điểm thì thấy họ đã đang chờ chúng tôi. Tôi và đối thủ dừng cách nhau mười
hai bước, anh ta bắn trước, tôi đứng trước mặt anh ta, vui vẻ, mặt đối mặt, tôi
nhìn anh ta không chớp mắt, tôi biết tôi sẽ làm gì. Anh ta bắn, đạn chỉ làm xước
má tí chút và sượt qua vành tai. “Ơn Chúa.” - Tôi la lên, - “anh đã không giết
người.” Tôi chộp lấy khấu súng của tôi, quay mình về phía sau, ném súng vào rừng
thét lên: “Đấy là con đường của mày.” Rồi tôi quay về phía đối thủ: “Thưa ông,”
- tôi nói, - “xin ông tha lỗi cho tôi, một gã trẻ tuổi ngu ngốc đã lầm lỡ xúc
phạm đến ông, khiến cho ông phải bắn vào hắn. Tôi thấp kém hơn ông đến mười lần,
mà có lẽ còn kém nhiều lần hơn nữa. Xin ông hãy nói lại điều này với người phụ
nữ mà ông kính trọng nhất trên đời!” Tôi vừa nói xong thì cả ba người đều kêu
lên. “Xin hỏi,” - đối thủ của tôi nói, thậm chí anh ta tức giận, - “nếu ông
không muốn đấu thì ông quấy rầy chúng tôi làm gì?” “Hôm qua,” - tôi nói với
anh, - “tôi còn ngu ngốc, hôm nay tôi khôn rồi.” - tôi vui vẻ trả lời. “Về chuyện
hôm qua thì tôi tin, còn nói về hôm nay thì khó lòng mà kết luận được như ý kiến
của ông.” “Hoan hô,” - tôi reo lên với anh ta, - “về điểm này tôi cũng đồng ý với
ông, đáng kiếp cho tôi!” “Thưa tôn ông, ông có bắn hay không?” “Không,” - tôi
nói, - “còn nếu muốn, ông cứ bắn lần nữa đi, nhưng không bắn thì hơn.” Cả những
người làm chứng la hét, đặc biệt người làm chứng của tôi: “Thật là nhục cho
trung đoàn biết bao, đứng ở vạch đấu súng mà xin lỗi; tôi mà biết thế này…” Tôi
đến đứng trước mọi người và không cười nữa: “Thưa các vị,” - tôi nói, - “chẳng
lẽ đối với thời đại chúng ta lại là chuyện lạ lùng khi gặp một người hối hận về
sự ngu ngốc của mình và công khai thú nhận lỗi lầm hay sao?” “Nhưng không phải
khi đã đứng ở vạch đấu súng,” - người làm chứng của tôi lại hét lên.” “Thì thế
mới nên chuyện,” - tôi trả lời họ, - “đấy chính là điều đáng ngạc nhiên, bởi vì
lẽ ra tôi nên xin lỗi ngay khi mới đến đây trước khi ông ấy bắn, không đẩy ông ấy
tới một tội lỗi cực trọng, tội giết người, khốn nhưng chính chúng ta đã tự tạo
nên cho mình một những ý kiến quái gở đến nỗi hầu như không thể làm như thế được,
bởi vì chỉ sau khi tôi chịu đựng cho ông ấy bắn ở khoảng cách mười hai bước thì
lời nói của tôi mới có thể có chút giá trị đối với ông ấy, còn nếu làm thế trước
khi bắn, ngay khi chúng tôi đến đây thì ông ấy sẽ nói thằng hèn, trông thấy
súng là sợ, lời nói của nó không đáng để vào tai. Thưa các vị,” - tôi bỗng kêu
lên với tất cả tấm lòng, - “các vị hãy nhìn những ân huệ Chúa ban cho ở khắp
xung quanh: bầu trời sáng sủa, không khí trong lành, cỏ tươi mởn, chim chóc hót
ca, thiên nhiên mĩ lệ và trong trắng, chỉ có chúng ta, những kẻ báng bổ và ngu
ngốc là không hiểu rằng cuộc sống là thiên đàng, bởi vì chỉ cần chúng ta muốn
hiểu là lập tức thiên đàng sẽ hiện đến với tất cả vẻ đẹp huy hoàng, chúng ta sẽ
ôm nhau òa khóc…” Tôi còn muốn nói nữa, nhưng không nói được nên lời, hơi thở tắc
nghẽn, một cảm giác ngọt ngào, trẻ trung tràn ngập tâm hồn, trái tim chứa chan
niềm hạnh phúc mà cả đời tôi chưa từng cảm thấy bao giờ. “Tất cả những điều ông
nói đến chí lí và đầy lòng kính Chúa,” - đối thủ nói với tôi, - “nhưng dù sao
ông vẫn là người độc đáo.” “Ông cứ cười đi,” - tôi nói với anh ta, - “rồi ông sẽ
khen ngợi tôi.” “Tôi sẵn lòng khen ông ngay bây giờ,” - anh ta nói, - “cho phép
tôi bắt tay ông, bởi vì tôi cảm thấy ông quả là người thành thực.” “Không,” -
tôi nói, - “bây giờ thì không nên, để sau này, khi tôi đã khá hơn và xứng đáng
được ông tôn trọng thì ông hãy chìa tay cho tôi, như vậy ông sẽ làm được một điều
hay!”
Chúng tôi trở về nhà, người làm chứng của tôi la mắng suốt dọc
đường, còn tôi hôn anh ta. Đồng đội nghe biết chuyện, ngay hôm ấy họ họp nhau
phán xét tôi: “Anh ta bôi nhọ danh dự quân nhân, làm đơn xin giải ngũ đi thôi!”
Cũng có những người bênh vực: “Dù sao anh ấy đã đứng ra cho anh ta bắn.” “Phải,
nhưng anh ta sợ những phát súng khác, và đứng tại vạch đấu súng mà xin lỗi.” “Nếu
anh ấy sợ,” - những người bênh vực phản đối, - “thì đến lượt mình anh ấy cứ bắn
đi đã rồi mới xin lỗi, đằng này anh ấy ném khẩu súng đã nạp đạn vào rừng,
không, đây còn có cái gì khác, độc đáo.” Tôi nghe, vui vẻ nhìn họ. “Các bạn và
đồng đội quý hóa của tôi ơi,” - tôi nói, - “đừng bận tâm về chuyện tôi phải xin
giải ngũ, vì tôi đã làm rồi, sáng nay tôi đã nộp đơn ở văn phòng, hễ được chấp
thuận là tôi sẽ lập tức vào tu viện, tôi xin giải ngũ chính là để như thế.” Tôi
vừa nói xong là tất cả mọi người, không trừ một ai, đều phá lên cười: “Đáng lẽ
anh nên cho biết ngay từ đầu, bây giờ thì rõ cả rồi, không thể xét xử một người
tu hành,” - họ cười mãi không thôi, nhưng không phải là giễu cợt, mà cười một
cách trìu mến, vui vẻ, bỗng nhiên tất cả mọi người đều yêu tôi, ngay cả những
người buộc tội hăng nhất, rồi suốt tháng đó, trong thời gian tôi vẫn còn tại
ngũ, người ta đúng là nâng niu chiều chuộng tôi: “A, ông thầy tu!” Người nào
cũng nói với tôi một lời trìu mến, khuyên can tôi, thậm chí còn thương tôi:
“Sao anh lại tự hành thân như vậy?” “Không,” - người ta nói - “anh ấy là người
dũng cảm, anh ấy đã đứng cho đối phương bắn, anh ấy được quyền bắn phát súng của
mình, nhưng đêm hôm trước anh ấy đã chiêm bao thấy mình phải đi tu, duyên do là
thế đấy.” Trong giới xã giao thành phố, sự thể diễn ra cũng gần như thế. Trước
đây người ta chẳng để ý đến tôi nhiều lắm, mà chỉ tiếp đón niềm nở, còn bây giờ
người ta tranh nhau hỏi về tôi và mời mọc tôi: họ cười tôi mà lại yêu mến tôi.
Xin nói thêm rằng mặc dù mọi người đều công khai nói đến cuộc đấu súng của
chúng tôi, nhưng cấp trên ỉm vụ ấy đi, vì đối phương của tôi là bà con họ gần với
vị tướng quân của chúng tôi, với lại không xảy ra đổ máu, mà như một trò đùa,
hơn nữa rốt cuộc tôi đã xin giải ngũ, cho nên người ta đã biết chuyện ấy mà
không sợ gì cả, mặc dù họ cười tôi, vì dù sao đấy không phải là cái cười độc
ác, mà là tiếng cười đôn hậu. Chuyện ấy còn được bàn tán nhiều hơn trong đám
các bà họp mặt vào buổi tối, phụ nữ càng thích nghe tôi kể và bắt các ông phải
mới tôi. “Sao lại có chuyện tôi chịu lỗi vì tất cả mọi người,” - người nào cũng
cười vào mặt tôi, - “chẳng hạn, lẽ nào tôi phải chịu lỗi về ông?” “Các vị không
hiểu nổi điều đó đâu,” - tôi trả lời họ, - “vì đã từ lâu thế gian đi sang con
đường khác, chúng ta coi sự dối trá là sự thật và đòi hỏi người khác cũng phải
dối trá như thế.” Lần này trong đời, tôi bỗng quyết định hành động thành thật, ấy
vậy mà đối với tất cả các vị, tôi dường như trở thành kẻ điên gàn: tuy các vị
yêu mến tôi nhưng vẫn chế nhạo tôi. “Ông là người như thế mà không yêu ông sao
được?” - bà chủ nhà cười to, hôm ấy nhà bà ta rất đông khách. Bỗng nhiên tôi lấy
trong đám các bà, một phụ nữ trẻ tuổi nhất đứng lên, chính nàng là người đã khiến
tôi gây ra cuộc đấu súng, người mà mới gần đây thôi tôi còn toan hỏi làm vợ và
tôi không để ý rằng tối nay nàng cũng đến. Nàng đến gần tôi chìa tay ra, nói:
“Cho phép tôi bày tỏ với ông rằng tôi là người trước tiên không cười ông, mà
trái lại, rớt nước mắt cảm ơn ông và tôi xin nói lên lòng tôn kính của tôi đối
với ông về hành động của ông lúc ấy.” Chồng nàng cũng đến, tiếp đó mọi người đều
đổ xô đến, gần như ôm hôn tôi. Tôi vui sướng trong lòng, nhưng lúc ấy bỗng
nhiên tôi để ý nhiều nhất đến một người đàn ông đã đứng tuổi cũng đến gần tôi,
tuy tôi biết tên ông ta từ trước, nhưng không hề quen ông ta, thậm chí cho đến
tối hôm ấy chưa hề nói với ông ta một lời.
Phần 6
Chương 2 - P4
Chương 2 - P4
d. Người khách bí ẩn
Ông ta là một quan chức làm việc ở thành phố chúng tôi đã
lâu, có địa vị cao, được mọi người kính trọng, giàu có, nổi tiếng về lòng từ
thiện, đã cúng một món tiền lớn cho nhà dưỡng lão và nhà trẻ mồ côi và ngoài
ra, còn làm nhiều việc thiện kín đáo không công bố, sau khi ông chết người ta mới
biết. Ông trạc năm mươi tuổi, bề ngoài hầu như nghiêm nghị, ít lời. Đã mười năm
nay ông lấy một người vợ còn trẻ, có ba con còn nhỏ tuổi. Tối hôm sau, tôi đang
ngồi nhà thì đột nhiên cửa mở và người đàn ông ấy bước vào. Cần nói rõ trong
lúc ấy tôi không còn ở nhà cũ nữa, ngay sau khi xuất ngũ tôi đã thuê một chỗ
khác trong nhà một bà già, vợ góa của một viên chức, một người ở của bà ta cũng
phục dịch cả cho tôi, tôi chuyến sang ở nhà này chỉ là vì ngày hôm đấu súng trở
về tôi đã trả Afanaxi về đại đội, nhìn vào mắt anh ta, tôi cảm thấy xấu hổ về
hành động mới đây của mình: con người thế tục chưa được rèn luyện rất dễ xấu hổ
thậm chí về một việc làm chính nghĩa nhất của mình.
Ông khách vừa vào nói với tôi: “Đã mấy hôm nay ở nhà này nhà
nọ, tôi nghe ông nói mà hết sức tò mò và cuối cùng tôi muốn trực tiếp làm quen
với ông để nói chuyện kỹ hơn. Thưa ông, ông có thể giúp tôi một việc vô cùng lớn
lao như thế không?” “Được chứ ạ,” - tôi nói, - “tôi hết sức sẵn lòng và coi đó
là một vinh dự đặc biệt.” Nghe nói vậy, ông ta gần như sợ hãi, đến nỗi mới đầu
tôi đâm ra sửng sốt, bởi vì tuy mọi người nghe tôi kể chuyện đều tỏ ra tò mò,
nhưng không ai có biểu hiện nội tâm nghiêm chỉnh và khắc nghiệt như thế đối với
tôi. Người này lại còn đích thân đến nhà tôi. Ông ta ngồi xuống. “Tôi thấy tính
cách của ông cực kỳ mạnh mẽ,” - ông ta nói tiếp, - “bởi vì ông không sợ phục vụ
chân lý trong một việc mà để bảo vệ sự thật của mình, ông có nguy cơ bị cả bàn
dân thiên hạ khinh rẻ.” “Có lẽ ông khen tôi quá lời đấy!” - tôi nói. “Không quá
lời đâu,” - ông trả lời, - “hãy tin tôi, ông làm một việc khó khăn hơn ông tưởng
rất nhiều. Thực tình mà nói, chính điều đó làm tôi ngạc nhiên và vì thế mà tôi
đến ông. Nếu ông không coi sự tò mò của tôi là đáng khinh, vì có lẽ nó sỗ sàng
quá, thì xin ông thuật lại cho tôi nghe cảm giác của ông vào giây phút ông quyết
định xin lỗi: trong cuộc đấu súng, nếu như ông còn nhớ được. Xin đừng coi câu hỏi
của tôi là nông nổi: trái lại khi nêu ra câu hỏi như vậy, tôi có một mục đích
bí mật mà có lẽ sau này tôi sẽ nói rõ với ông, nếu lòng trời muốn cho chúng ta
thân mật với nhau hơn.
Suốt thời gian ông ta nói điều đó, tôi nhìn thẳng vào mặt ông
ta và bỗng cảm thấy hết sức tin cậy ông ta, ngoài ra tôi tò mò lạ thường, bởi
vì tôi cảm thấy tâm hồn ông ta có một bí mật gì đặc biệt. “Ông hỏi tôi cảm thấy
gì lúc tôi xin lỗi đối thủ của tôi,” - tôi trả lời ông ta, - “nhưng tốt hơn hết
là tôi kể từ đầu, cả những điều mà tôi chưa kể với ai.” Tôi thuật lại với ông
ta tất cả sự việc xảy ra với Afanaxi và việc tôi đã rạp đầu xin gã thứ lỗi.
“Như vậy,” - tôi kết luận với ông ta, - “ông có thể thấy rằng trong thời gian đấu
súng tôi dễ xử hơn, vì tôi đã bắt đầu từ nhà tôi, vì hễ đã bước lên con đường
đó thì đi tiếp chẳng những không khó, mà thậm chí còn vui sướng là khác.”
Ông ta nghe tôi nói, nhìn tôi với vẻ thiện cảm. Ông ta nói:
“Tất cả những điều đó hết sức lạ lùng, tôi còn đến ông nữa.” Từ đó gần như tối
nào ông ta cũng đến tôi. Chúng tôi có thể rất thân nhau, nếu như ông ta kể với
tôi về bản thân ông ta. Nhưng ông ta hầu như không nói gì về bản thân, mà chỉ hỏi
về tôi. Mặc dù vậy, tôi rất yêu ông ta và thổ lộ hết với ông ta, vì tôi nghĩ:
Tôi cần gì biết đến ông ta là một người công chính. Thêm nữa ông ta là người hết
sức nghiêm túc, hơn tuổi tôi nhiều, vậy mà lui tới với một người trẻ tuổi như
tôi, không coi thường tôi. Tôi học được ở ông nhiều điều bổ ích, vì ông là người
có trình độ trí tuệ cao. “Về việc cuộc sống là thiên đàng,” - đột nhiên ông ta
nói với tôi, - “thì tôi cũng nghĩ thế từ lâu,” - và ông ta bỗng nói thêm, - “hiện
giờ tôi cũng chỉ nghĩ đến điều ấy thôi.” Ông ta nhìn tôi và mỉm cười. “Điều ấy
thì tôi còn tin hơn ông nữa kia,” - ông ta nói, - “rồi ông sẽ biết tại sao.”
Tôi nghe và nghĩ bụng: “Chắc là ông ấy muốn bộc lộ với ta điều gì.” “Thiên
đàng,” - ông ta nói, - “tàng ẩn trong mỗi chúng ta, hiện giờ trong tôi cũng có
thiên đàng giấu kín, và nếu tôi muốn, ngày mai thiên đàng sẽ thật sự đến với
tôi suốt đời.” Tôi thấy ông ta nói với vẻ cảm động và nhìn tôi một cách bí ẩn,
như dò hỏi. Ông ta nói tiếp: “Còn về việc mỗi người chúng ta đều có lỗi với mọi
người và mọi việc, ngoài tội lỗi của chính bản thân mình, thì ông suy xét hoàn
toàn đúng, và lạ một điều là đột nhiên ông có thể hiểu được ý tưởng ấy một cách
đầy đủ như thế. Đúng là khi nào mọi người đều hiểu điều đó thì đối với họ, nước
thiên đàng sẽ không còn là mơ ước nữa, mà là thực tại.” “Thế bao giờ điều đó
thành sự thực?” - Tôi kêu lên với ông ta bằng giọng chua xót. - “Mà có khi nào
điều đó thành sự thực không? Phải chăng đấy chỉ là ước mơ?” “Vậy là ông không
tin,” - ông ta nói, - “ông rao giảng mà chính ông không cần. Ông nên biết rằng
mơ ước ấy, nói theo lời ông, nhất định sẽ thành sự thật, hãy tin như vậy, nhưng
không phải là bây giờ, mọi hành động đều phải có luật của nó. Đây là việc thuộc
lãnh vực tinh thần, tâm lý. Muốn đổi mới thế giới thì về mặt tâm lý, chính người
đời phải đi sang con đường khác. Chừng nào mỗi người chưa trở thành anh em với
mỗi người khác thì chưa có tình huynh đệ. Sẽ không bao giờ có thể dựa vào bất cứ
khoa học nào hay bất cứ lợi ích nào mà phân chia được tài sản hay quyền lực với
nhau cho ổn thỏa. Mỗi người đều sẽ cho rằng phần mình thế là ít người ta sẽ
luôn luôn phàn nàn, ghen tị và diệt lẫn nhau.” Ông ta hỏi khi nào mơ ước sẽ
thành sự thực? Điều đó sẽ thành sự thực, nhưng chỉ khi nào chấm dứt thời kỳ con
người sống tách biệt nhau. “Tách biệt thế nào kia?” - Tôi hỏi ông ta. “Hiện nay
ở đâu cũng đều như thế, đặc biệt trong thế kỷ chúng ta, nhưng tình trạng ấy
chưa hết đâu, hạn kỳ của nó chưa đến. Hiện giờ người nào cũng cố tìm cách tách
riêng cá nhân mình ra càng nhiều càng tốt, người nào cũng muốn bản thân mình hưởng
thụ trọn vẹn sự đầy đủ của cuộc sống, thế nhưng thay cho sự đầy đủ của cuộc sống,
tất cả những cố gắng của con người chỉ đưa đến sự tàn sát toàn thể, bởi vì đáng
nhẽ phải xác định đầy đủ bản chức của mình thì người ta lại rơi vào trạng thái
biệt lập hoàn toàn. Bởi vì trong thời đại chúng ta, toàn thể loài người tách
thành những đơn vị riêng biệt, mỗi người đều núp vào cái hang của mình, xa lánh
mọi người khác, ẩn náu, có của thì cất giấu đi, rút cục là bản thân mình xa lìa
mọi người và làm cho mọi người xa lìa mình. Mỗi người đơn độc tích cóp của cải
và nghĩ rằng bây giờ ta mạnh thế và giàu có lắm, nhưng kẻ điên rồ ấy không biết
rằng hắn càng ki cóp được nhiều thì càng chìm sâu trong sự bất lực mang tính tự
sát. Bởi vì con người quen chỉ trông cậy ở bản thân mình, và trở thành một đơn
vị tách khỏi toàn thể, nếu họ tập cho tâm hồn không tin vào sự giúp đỡ của người
khác, không tin người, không tin nhân loại, chỉ run sợ lo mất tiền của và mất
nhưng quyền lợi do tiền của mà có. Hiện nay, ở khắp mọi nơi, kỳ cục thay, trí
óc con người không hiểu rằng đảm bảo thực sự cho cá nhân không phải ở những cố
gắng riêng biệt của cá nhân, mà ở sự thống nhất toàn vẹn của cả loài người. Nhưng
nhất định sẽ đến lúc tình trạng tách biệt đáng sợ ấy phải chấm dứt và mọi người
sẽ đồng thời hiểu ra rằng họ đã tách rời nhau một cách trái tự nhiên như thế
nào, họ sẽ ngạc nhiên về việc họ ngồi trong bóng tối lâu như thế, không nhìn thấy
ánh sáng. Khi ấy trên bầu trời sẽ hiện lên dấu hiệu của con người… Nhưng cho đến
lúc ấy vẫn cần giữ gìn ngọn cờ, và đôi khi, hay dù chỉ đơn độc một mình, con
người phải nêu gương và đưa tâm hồn mình ra khỏi trạng thái cách biệt để phụng
sự cho sự nghiệp bốn bể là anh em, cho dù có bị thiên hạ coi là gàn dở. Như vậy
để gìn giữ cho ý tưởng vĩ đại khỏi bị tiêu vong…”
Hết tối này sang tối khác, giữa chúng tôi diễn ra những cuộc
chuyện trò say sưa thích thú. Thậm chí tôi bỏ cả những cuộc họp mặt xã giao, bắt
đầu ít với chơi nhà bạn bè, vả chăng tôi cũng không còn là cái “mốt” đương thời
nữa rồi. Tôi nói điều đó không phải là có ý chê trách, bởi vì người ta vẫn yêu
mến tôi, vui vẻ với tôi nhưng trong giới lượng lưu thì “mốt” quả là có ảnh hưởng
không nhỏ, dẫu sao vẫn phải thừa nhận điều đó. Rốt cuộc tôi đâm ra cảm phục ông
khách bí ẩn, bởi vì ngoài việc tôi thích thú về trí tuệ của ông, tôi còn linh cảm
thấy rằng ông ấp ủ một ý đồ gì đó và đang chuẩn bị thực hiện một kì tích có lẽ
là vĩ đại. Có lẽ ông cũng lấy làm thích vì tôi không tỏ ra tò mò về bí mật của
ông, không hỏi thẳng cũng không nói bóng gió. Nhưng cuối cùng tôi nhận thấy có
lẽ chính ông đã bắt đầu day dứt muốn thổ lộ với tôi điều gì. Ít ra khoảng một
tháng sau khi ông đến thăm tôi, điều đó đã hết sức rõ ràng. “Ông có biết
không,” - có lần ông hỏi tôi, - “trong thành phố người ta rất tò mò về hai
chúng ta và lấy làm lạ rằng tôi đến ông thường xuyên như thế. Nhưng mặc họ, bởi
vì chẳng bao lâu nũa mọi việc sẽ sáng tỏ.” Đôi khi đột nhiên ông xúc động lạ
thường, và những lúc như thế hầu như bao giờ ông cũng đứng dậy và ra về. Đôi
khi ông nhìn tôi hồi lâu bằng cái nhìn sắc bén; tôi nghĩ: “Ông ta sắp nói điều
gì đây”, nhưng ông bỗng đột ngột nói sang một chuyện bình thường quen thuộc.
Ông cũng thường hay kêu nhức đầu. Có lần, hoàn toàn bất ngờ, sau khi ông đã
hăng say nói một lúc lâu, tôi thấy ông bỗng tái mét đi, mặt méo xệch, ông nhìn
thẳng vào tôi.
- Ông làm sao thế? - Tôi hỏi. - Trong người khó ở à?
- Ông làm sao thế? - Tôi hỏi. - Trong người khó ở à?
Còn ông kêu nhức đầu.
- Tôi… ông ạ… tôi đã giết một người.
Ông vừa nói vừa mỉm cười, nhưng mặt trắng bệch. “Tại sao ông
ta mỉm cười nhỉ?” - Tôi thầm nghĩ, chưa kịp hiểu ra điều gì. Tôi cũng tái mặt.
- Ông làm sao thế? - Tôi la lên với ông ta.
- Ông thấy không, - ông ta trả lời, vẫn với nụ cười nhợt nhạt,
- nói ra câu đầu tiên khó biết chừng nào. Bây giờ nói ra rồi thì khác nào đã bước
lên đường. Sẽ đi tiếp thôi.
Một thời gian dài tôi không tin ông, không tin ngay, mà chỉ sau khi ông đến tôi ba ngày liền và thuật chuyện tỉ mỉ. Tôi cho là ông loạn trí, nhưng cuối cùng tôi hết sức đau xót và ngạc nhiên tin chắc rằng ông nói thật. Đấy là một tội ác ghê rợn xảy ra mười bốn năm trước với một người đàn bà giàu có, trẻ tuổi và xinh đẹp, vợ góa một điền chủ, có nhà riêng ở thành phố này để ở lại mỗi khi về đây. Say mê bà ta, ông đã tỏ tình và nài nỉ bà ta lấy ông. Nhưng bà ta đã, trao trái tim mình cho người khác, một quân nhân dòng dõi quý tộc cấp bậc khá cao, thời gian ấy đang tham gia hành binh, tuy nhiên bà ta đang chờ người yêu sắp trở về. Bà ta khước từ lời cầu hôn và yêu cầu ông đừng lui tới nhà bà ta nữa. Ông thôi không đến nữa, nhưng biết sự bố trí trong nhà, ban đêm ông lẻn vào chỗ bà ta, qua vườn, rồi theo nóc nhà mà xuống, như vậy là cực kì táo tợn, vì có nguy cơ bị phát hiện. Nhưng, điều rất thường xảy ra là những tội ác thực hiện một cách táo bạo lạ kì lại thành công nhiều hơn. Ông qua cửa tò vò trên mái vào gác trong, rồi theo một cái thang nhỏ xuống các phòng ở của bà ta, ông biết rằng do sự sơ suất của đầy tớ cửa cuối cầu thang không phải bao giờ cũng khóa. Ông tính đúng, lần này sự thể đúng như vậy. Sau khi đã lọt vào trong, ông lần mò trong bóng tối vào buồng ngủ của bà ta, ở đây leo lét một cây đèn. Như có ý định trước, hai cô hầu phòng đều không xin phép chủ, lén đi dự bừa tiệc mừng lễ thánh ở một nhà cùng phố. Các gia nhân nam nữ khác đều ngủ trong buồng gia nhân và bếp ở tầng dưới. Nhìn thấy bà ta đang ngủ, niềm say mê của ông bừng lên, rồi cơn uất giận ghen tuông tràn ngập lòng ông, và mê man như kẻ say, ông đến gần và cắm phập mũi dao vào tim bà ta, trúng đến nỗi bà ta không kịp kêu lên một tiếng, tiếp đó ông sắp đặt tình huống một cách ác độc và quỷ quyệt đến nỗi người ta nghi cho đầy tớ. Ông lấy luôn cả ví tiền của bà ta, dùng chìa khóa tìm thấy ở dưới gối mở tủ ngăn kéo và lấy đi một số đồ vật, hành động hệt như một đứa đầy tớ ngu dốt hẳn sẽ làm, nghĩa là để lại những chứng khoán, chỉ lấy tiền, mấy đồ vật bằng vàng khá to, còn những vật quý giá gấp mười lần, nhưng bé nhỏ thì không thèm lấy. Ông còn lấy đi mấy thứ nữa để giữ làm kỉ niệm, những chuyện ấy để sau. Làm xong cái việc khủng khiếp ấy. Ông bò ra theo đường cũ. Hôm sau, khi cái tin ghê gớm lan ra, cũng như mãi cho đến nay, chưa hề có ai ngờ cho kẻ thực sự là hung thủ! Và cũng chẳng ai biết ông yêu bà ta, bởi vì tính ông vốn ít nói, không hay giao du, ông không có người bạn nào để có thể thổ lộ tâm tình. Người ta coi ông chỉ là người quen của nạn nhân, thậm chí không thân lắm, vì hai tuần sau cùng ông không đến thăm bà ta. Người ta nghĩ ngay một gia nhân nông nô tên là Petr, mọi tình tiết đều khớp nhau để xác nhận sự tình nghi đó, bởi vì gã gia nhân này biết, và bà chủ quá cố cũng không hề giấu giếm rằng bà ba định bắt gã đi lính để góp một suất đinh mà bà ta phải góp cho quân đội vì gã chưa có vợ, hạnh kiểm lại xấu. Nghe nói trong cơn tức giận, nhân lúc say, ở quán rượu, gã đã dọa sẽ giết bà ta. Hai ngày trước khi bà ta thiệt mạng, gã đã trốn đi và nương náu ở đâu không rõ trong thành phố. Vụ giết người xảy ra thì hôm sau người ta tìm thấy gã lên đường cái ngay cửa ô thành phố, gã say như chết, trong túi có con dao, bàn tay phải không hiểu sao lại vấy máu. Gã một mực nói rằng đấy là máu mũi đổ ra, nhưng người ta không tin. Hai cô hầu phòng thú nhận là đã bỏ nhà đi chơi và để cửa ra bậc tam cấp không khóa cho đến lúc trở về. Ngoài ra còn vô số dấu hiệu tương tự khiến người ta đã bắt giữ gã gia nhân vô tội. Người ta bắt giam gã và khởi tố vụ án, nhưng đúng một tuần sau, kẻ bị bắt lên cơn sốt và chết ở nhà thương trong trạng thái mê man bất tỉnh. Vụ án thế là chấm dứt, để tùy ý trời định đoạt, và tất cả mọi người, cả các thẩm phán, cả các nhà chức trách, cả công chúng đều đinh ninh rằng hung thủ chính là tên gia nhân đã chết chứ không còn ai khác. Và sự trừng phạt thế là đã bắt đầu.
Ông khách bí ẩn, bây giờ đã là bạn tôi, thổ lộ với tôi rằng thoạt đầu, ông không cảm thấy lương tâm cắn rứt nhiều lắm. Ông bị dằn vặt một thời gian lâu, chỉ hối tiếc là đã giết người phụ nữ mình yêu, bây giờ nàng không còn nữa, ông giết nàng là đã giết mối tình của mình, trong khi ngọn lửa say mê vẫn rừng rực trong huyết mạch ông. Nhưng ông hầu như không nghĩ gì về máu vô tội đã đổ ra, về việc giết người. Ông không thể chịu nổi ý nghĩ rằng người đàn bà mà ông giết có thể trở thành vợ người khác, vì thế một thời gian dài ông yên trí rằng ông không thể làm khác được. Mới đầu ông có hơi khổ tâm về việc người đày tớ bị bắt, nhưng rồi việc gã nhanh chóng ngã bệnh rồi chết khiến ông yên tâm, bởi vì gã chết rõ ràng không phải do bị bắt hay sợ hãi (hồi ấy ông lập luận như vậy), mà do bị cảm lạnh chính trong mấy ngày gã trốn nhà, khi gã say rượu như chết nằm lăn lóc suốt đêm trên đất ẩm. Đồ vật và tiền mà ông lấy đi không mấy làm ông bối rối, bởi lẽ (ông vẫn lập luận như thế) ông lấy cắp không phải vì vụ lợi, mà để đánh lạc hướng nghi ngờ. Tổng cộng những thứ ông lấy đi tính ra không lớn, và ít lâu sau ông đã cũng cho nhà dưỡng lão thành phố chúng tôi một số tiền thậm chí còn lớn hơn thế nhiều. Ông cố ý làm như vậy để lương tâm được yên ồn, và lạ thay, ông yên tâm được một thời gian, thậm chí là một thời gian dài, chính ông cho tôi biết như vậy. Ông càng làm việc càng hái gấp bội trong công vụ, ông tự nguyện nhận một công việc phiền phức và khó khăn làm ông bận rộn mất hai năm, và vốn tính cương quyết, ông gần như quên sự việc xảy ra: mỗi khi nhớ lại, ông cố không nghĩ đến gì nữa. Ông ra sức làm việc từ thiện, làm nhiều việc tốt và quyên cũng nhiều cho công cuộc từ thiện trong thành phố chúng tôi, nổi tiếng cả ở hai thủ đô, được bầu làm hội viên các hội từ thiện cả ở Moskva và Peterburg. Nhưng cuối cùng ông vẫn lâm vào một trạng thái trầm tư đau khổ, vượt quá sức chịu đựng của ông. Rồi ông mến một cô gái tuyệt sắc và khôn ngoan. Ít lâu sau ông cưới nàng, mơ ước cuộc hôn nhân sẽ xua tan được nỗi sầu muộn cô đơn, và bước lên con đường mới, tận tụy làm tròn bổn phận với vợ con, ông sẽ biến hẳn khỏi những hồi ức cũ. Nhưng thực tế trái ngược hẳn với điều ông mong đợi. Ngay tháng đầu có vợ, một ý nghĩ đã không ngớt làm ông bối rối: “Vợ ta yêu ta, nhưng nếu nàng biết chuyện ấy thì sao?” Khi vợ có mang đứa con đầu và cho ông biết, ông càng bối rối: “Ta tạo ra một sinh mạng, nhưng chính ta đã hủy hoại một sinh mạng.” Con cái ra đời: “Làm sao ta có thể yêu chúng, dạy dỗ chúng, ta sẽ nói với chúng ra sao về đức hạnh: ta đã làm đổ máu người.” Con ông đứa nào cũng xinh đẹp lạ thường, ông muốn vuốt ve chúng: “Ta không thể nhìn những khuôn mặt ngây thơ sáng sủa kia, ta không xứng đáng được nhìn.” Rốt cuộc một ảo giác rùng rợn, đau xót ám ảnh ông: Máu của người bị giết; cuộc đời trẻ trung của nàng bị hủy hoại, máu đòi được trả thù. Ông bắt đầu có những cơn ác mộng. Nhưng tâm tính vốn cứng rắn, ông chịu đựng nỗi giày vò một thời gian dài. “Ta sẽ chuộc lại tất cả bằng nỗi giày vò âm thầm.” Nhưng hi vọng ấy chỉ là hão huyền: càng về sau càng đau khổ hơn. Trong xã hội, ông được kính trọng vì hoạt động từ thiện, tuy mọi người đều sợ tính nghiêm nghị và rầu rĩ của ông, nhưng người ta càng kính trọng ông thì ông càng không chịu nổi. Ông thú nhận với tôi rằng ông đã có ý định tự sát. Nhưng một mơ ước khác bắt đầu ám ảnh ông: mơ ước mà lúc đầu ông cho là không thể thực hiện được và điên rồ, nhưng cuối cùng nó bám chặt lấy trái tim ông đến nỗi không sao dứt bỏ được. Ông mơ ước đứng ra tự thú trước thiên hạ rằng ông đã giết người. Ba năm trời ông ấp ủ mơ ước đó, ông tưởng tượng nó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cuối cùng ông hết lòng tin rằng một khi đã phơi bày tội ác của mình, chắc chắn ông sẽ làm cho tâm hồn được yên ổn suốt đời. Nhưng, một khi đã tin như thế, ông lại cảm thấy khiếp sợ trong lòng: thực hiện thế nào? Thế rồi bỗng xảy ra cuộc đấu súng của tôi. “Nhìn thấy ông, bấy giờ tôi đã quyết định.”
Một thời gian dài tôi không tin ông, không tin ngay, mà chỉ sau khi ông đến tôi ba ngày liền và thuật chuyện tỉ mỉ. Tôi cho là ông loạn trí, nhưng cuối cùng tôi hết sức đau xót và ngạc nhiên tin chắc rằng ông nói thật. Đấy là một tội ác ghê rợn xảy ra mười bốn năm trước với một người đàn bà giàu có, trẻ tuổi và xinh đẹp, vợ góa một điền chủ, có nhà riêng ở thành phố này để ở lại mỗi khi về đây. Say mê bà ta, ông đã tỏ tình và nài nỉ bà ta lấy ông. Nhưng bà ta đã, trao trái tim mình cho người khác, một quân nhân dòng dõi quý tộc cấp bậc khá cao, thời gian ấy đang tham gia hành binh, tuy nhiên bà ta đang chờ người yêu sắp trở về. Bà ta khước từ lời cầu hôn và yêu cầu ông đừng lui tới nhà bà ta nữa. Ông thôi không đến nữa, nhưng biết sự bố trí trong nhà, ban đêm ông lẻn vào chỗ bà ta, qua vườn, rồi theo nóc nhà mà xuống, như vậy là cực kì táo tợn, vì có nguy cơ bị phát hiện. Nhưng, điều rất thường xảy ra là những tội ác thực hiện một cách táo bạo lạ kì lại thành công nhiều hơn. Ông qua cửa tò vò trên mái vào gác trong, rồi theo một cái thang nhỏ xuống các phòng ở của bà ta, ông biết rằng do sự sơ suất của đầy tớ cửa cuối cầu thang không phải bao giờ cũng khóa. Ông tính đúng, lần này sự thể đúng như vậy. Sau khi đã lọt vào trong, ông lần mò trong bóng tối vào buồng ngủ của bà ta, ở đây leo lét một cây đèn. Như có ý định trước, hai cô hầu phòng đều không xin phép chủ, lén đi dự bừa tiệc mừng lễ thánh ở một nhà cùng phố. Các gia nhân nam nữ khác đều ngủ trong buồng gia nhân và bếp ở tầng dưới. Nhìn thấy bà ta đang ngủ, niềm say mê của ông bừng lên, rồi cơn uất giận ghen tuông tràn ngập lòng ông, và mê man như kẻ say, ông đến gần và cắm phập mũi dao vào tim bà ta, trúng đến nỗi bà ta không kịp kêu lên một tiếng, tiếp đó ông sắp đặt tình huống một cách ác độc và quỷ quyệt đến nỗi người ta nghi cho đầy tớ. Ông lấy luôn cả ví tiền của bà ta, dùng chìa khóa tìm thấy ở dưới gối mở tủ ngăn kéo và lấy đi một số đồ vật, hành động hệt như một đứa đầy tớ ngu dốt hẳn sẽ làm, nghĩa là để lại những chứng khoán, chỉ lấy tiền, mấy đồ vật bằng vàng khá to, còn những vật quý giá gấp mười lần, nhưng bé nhỏ thì không thèm lấy. Ông còn lấy đi mấy thứ nữa để giữ làm kỉ niệm, những chuyện ấy để sau. Làm xong cái việc khủng khiếp ấy. Ông bò ra theo đường cũ. Hôm sau, khi cái tin ghê gớm lan ra, cũng như mãi cho đến nay, chưa hề có ai ngờ cho kẻ thực sự là hung thủ! Và cũng chẳng ai biết ông yêu bà ta, bởi vì tính ông vốn ít nói, không hay giao du, ông không có người bạn nào để có thể thổ lộ tâm tình. Người ta coi ông chỉ là người quen của nạn nhân, thậm chí không thân lắm, vì hai tuần sau cùng ông không đến thăm bà ta. Người ta nghĩ ngay một gia nhân nông nô tên là Petr, mọi tình tiết đều khớp nhau để xác nhận sự tình nghi đó, bởi vì gã gia nhân này biết, và bà chủ quá cố cũng không hề giấu giếm rằng bà ba định bắt gã đi lính để góp một suất đinh mà bà ta phải góp cho quân đội vì gã chưa có vợ, hạnh kiểm lại xấu. Nghe nói trong cơn tức giận, nhân lúc say, ở quán rượu, gã đã dọa sẽ giết bà ta. Hai ngày trước khi bà ta thiệt mạng, gã đã trốn đi và nương náu ở đâu không rõ trong thành phố. Vụ giết người xảy ra thì hôm sau người ta tìm thấy gã lên đường cái ngay cửa ô thành phố, gã say như chết, trong túi có con dao, bàn tay phải không hiểu sao lại vấy máu. Gã một mực nói rằng đấy là máu mũi đổ ra, nhưng người ta không tin. Hai cô hầu phòng thú nhận là đã bỏ nhà đi chơi và để cửa ra bậc tam cấp không khóa cho đến lúc trở về. Ngoài ra còn vô số dấu hiệu tương tự khiến người ta đã bắt giữ gã gia nhân vô tội. Người ta bắt giam gã và khởi tố vụ án, nhưng đúng một tuần sau, kẻ bị bắt lên cơn sốt và chết ở nhà thương trong trạng thái mê man bất tỉnh. Vụ án thế là chấm dứt, để tùy ý trời định đoạt, và tất cả mọi người, cả các thẩm phán, cả các nhà chức trách, cả công chúng đều đinh ninh rằng hung thủ chính là tên gia nhân đã chết chứ không còn ai khác. Và sự trừng phạt thế là đã bắt đầu.
Ông khách bí ẩn, bây giờ đã là bạn tôi, thổ lộ với tôi rằng thoạt đầu, ông không cảm thấy lương tâm cắn rứt nhiều lắm. Ông bị dằn vặt một thời gian lâu, chỉ hối tiếc là đã giết người phụ nữ mình yêu, bây giờ nàng không còn nữa, ông giết nàng là đã giết mối tình của mình, trong khi ngọn lửa say mê vẫn rừng rực trong huyết mạch ông. Nhưng ông hầu như không nghĩ gì về máu vô tội đã đổ ra, về việc giết người. Ông không thể chịu nổi ý nghĩ rằng người đàn bà mà ông giết có thể trở thành vợ người khác, vì thế một thời gian dài ông yên trí rằng ông không thể làm khác được. Mới đầu ông có hơi khổ tâm về việc người đày tớ bị bắt, nhưng rồi việc gã nhanh chóng ngã bệnh rồi chết khiến ông yên tâm, bởi vì gã chết rõ ràng không phải do bị bắt hay sợ hãi (hồi ấy ông lập luận như vậy), mà do bị cảm lạnh chính trong mấy ngày gã trốn nhà, khi gã say rượu như chết nằm lăn lóc suốt đêm trên đất ẩm. Đồ vật và tiền mà ông lấy đi không mấy làm ông bối rối, bởi lẽ (ông vẫn lập luận như thế) ông lấy cắp không phải vì vụ lợi, mà để đánh lạc hướng nghi ngờ. Tổng cộng những thứ ông lấy đi tính ra không lớn, và ít lâu sau ông đã cũng cho nhà dưỡng lão thành phố chúng tôi một số tiền thậm chí còn lớn hơn thế nhiều. Ông cố ý làm như vậy để lương tâm được yên ồn, và lạ thay, ông yên tâm được một thời gian, thậm chí là một thời gian dài, chính ông cho tôi biết như vậy. Ông càng làm việc càng hái gấp bội trong công vụ, ông tự nguyện nhận một công việc phiền phức và khó khăn làm ông bận rộn mất hai năm, và vốn tính cương quyết, ông gần như quên sự việc xảy ra: mỗi khi nhớ lại, ông cố không nghĩ đến gì nữa. Ông ra sức làm việc từ thiện, làm nhiều việc tốt và quyên cũng nhiều cho công cuộc từ thiện trong thành phố chúng tôi, nổi tiếng cả ở hai thủ đô, được bầu làm hội viên các hội từ thiện cả ở Moskva và Peterburg. Nhưng cuối cùng ông vẫn lâm vào một trạng thái trầm tư đau khổ, vượt quá sức chịu đựng của ông. Rồi ông mến một cô gái tuyệt sắc và khôn ngoan. Ít lâu sau ông cưới nàng, mơ ước cuộc hôn nhân sẽ xua tan được nỗi sầu muộn cô đơn, và bước lên con đường mới, tận tụy làm tròn bổn phận với vợ con, ông sẽ biến hẳn khỏi những hồi ức cũ. Nhưng thực tế trái ngược hẳn với điều ông mong đợi. Ngay tháng đầu có vợ, một ý nghĩ đã không ngớt làm ông bối rối: “Vợ ta yêu ta, nhưng nếu nàng biết chuyện ấy thì sao?” Khi vợ có mang đứa con đầu và cho ông biết, ông càng bối rối: “Ta tạo ra một sinh mạng, nhưng chính ta đã hủy hoại một sinh mạng.” Con cái ra đời: “Làm sao ta có thể yêu chúng, dạy dỗ chúng, ta sẽ nói với chúng ra sao về đức hạnh: ta đã làm đổ máu người.” Con ông đứa nào cũng xinh đẹp lạ thường, ông muốn vuốt ve chúng: “Ta không thể nhìn những khuôn mặt ngây thơ sáng sủa kia, ta không xứng đáng được nhìn.” Rốt cuộc một ảo giác rùng rợn, đau xót ám ảnh ông: Máu của người bị giết; cuộc đời trẻ trung của nàng bị hủy hoại, máu đòi được trả thù. Ông bắt đầu có những cơn ác mộng. Nhưng tâm tính vốn cứng rắn, ông chịu đựng nỗi giày vò một thời gian dài. “Ta sẽ chuộc lại tất cả bằng nỗi giày vò âm thầm.” Nhưng hi vọng ấy chỉ là hão huyền: càng về sau càng đau khổ hơn. Trong xã hội, ông được kính trọng vì hoạt động từ thiện, tuy mọi người đều sợ tính nghiêm nghị và rầu rĩ của ông, nhưng người ta càng kính trọng ông thì ông càng không chịu nổi. Ông thú nhận với tôi rằng ông đã có ý định tự sát. Nhưng một mơ ước khác bắt đầu ám ảnh ông: mơ ước mà lúc đầu ông cho là không thể thực hiện được và điên rồ, nhưng cuối cùng nó bám chặt lấy trái tim ông đến nỗi không sao dứt bỏ được. Ông mơ ước đứng ra tự thú trước thiên hạ rằng ông đã giết người. Ba năm trời ông ấp ủ mơ ước đó, ông tưởng tượng nó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cuối cùng ông hết lòng tin rằng một khi đã phơi bày tội ác của mình, chắc chắn ông sẽ làm cho tâm hồn được yên ổn suốt đời. Nhưng, một khi đã tin như thế, ông lại cảm thấy khiếp sợ trong lòng: thực hiện thế nào? Thế rồi bỗng xảy ra cuộc đấu súng của tôi. “Nhìn thấy ông, bấy giờ tôi đã quyết định.”
Tôi nhìn ông ta.
- Có lẽ nào, - tôi vung hai tay, kêu lên. - Lẽ nào một việc
nhỏ mọn tình cờ xảy ra như thế lại có thể khiến cho ông đi đến một quyết tâm
như thế?
- Quyết tâm của tôi thai nghén ba năm mới ra đời, - ông trả lời
tôi. Việc xảy ra với ông chỉ là một kích thích đối với nó.
Nhìn ông, tôi tự trách mình và thèm muốn được như ông. Khi
nói điều này với tôi, thái độ của ông thậm chí nghiêm khắc.
- Người ta sẽ không tin ông, - tôi lưu ý ông, - đã mười bốn
năm rồi kia mà.
- Tôi có những bằng chứng hết sức chắc chắn. Tôi sẽ đưa ra.
Lúc ấy tôi khóc và hôn ông.
- Ông hãy quyết định cho tôi một điều, chỉ một điều thôi! -
Ông ta nói với tôi (tuồng như bây giờ tất cả tùy thuộc vào tôi) - Vợ con tôi!
Có lẽ vợ tôi sẽ chết mất vì đau xót, còn các con tôi tuy không mất địa vị quý tộc
và tài sản, nhưng sẽ là con của tên trốn tù khổ sai, sẽ mang tiếng mãi mãi. Tôi
sẽ để lại cho chúng một kỉ niệm như thế nào về tôi!
Tôi im lặng.
- Phải chia tay với vợ con, lìa bỏ họ mãi mãi ư? Vì như thế là
mãi mãi, mãi mãi!
Tôi ngồi lẩm nhẩm nguyện kinh. Cuối cùng tôi đứng lên, tôi
khiếp sợ.
- Thế sao nào? - Ông nhìn tôi.
- Ông đi đi, - tôi nói, - thú nhận công khai với mọi người
đi. Mọi cái đều sẽ qua đi, chỉ có sự thật sẽ còn lại. Lớn lên các con ông sẽ hiểu
quyết tâm vĩ đại của ông cao quý biết nhường nào.
Phần 6
Chương 2 - P5
Chương 2 - P5
Lần ấy ông từ biệt tôi ra về, ông dường như thực sự đã quyết
tâm. Thế nhưng hai tuần sau, tối nào ông cũng đến tôi, ông vẫn cứ chuẩn bị mà vẫn
không quyết được. Ông làm tôi đau lòng.
Đôi khi đến tôi, ông có vẻ kiên quyết và nói với giọng cảm động:
- Tôi biết rằng thiên đàng sẽ đến với tôi, sẽ đến ngay khi
nào tôi công khai nói ra tội của mình. Mười bốn năm tôi sống trong địa ngục.
Tôi muốn đau khổ. Tôi sẽ chấp nhận đau khổ và sẽ bắt đầu sống. Sống giả dối rồi
hối hận không lại. Bây giờ chẳng những người lân cận, mà ngay cả các con tôi,
tôi cũng không dám yêu. Trời ơi, có lẽ các con tôi sẽ hiểu giá trị nỗi đau khổ
của tôi và sẽ không lên án tôi! Chúa Trời không phải ở trong sức mạnh, mà ở
trong sự thật.
- Tất cả mọi người sẽ hiểu việc làm cao cả của ông, - tôi
nói, - không phải bây giờ thì sau này họ sẽ hiểu, bởi vì ông phục vụ sự thật, sự
thật cao cả nhất, ở ngoài cõi trần…
Rồi tôi ra về, ông dường như nguôi lòng, nhưng hôm sau trở lại, tự dưng ông có vẻ tức giận, mặt tái đi, ông nói bằng giọng giễu cợt:
Rồi tôi ra về, ông dường như nguôi lòng, nhưng hôm sau trở lại, tự dưng ông có vẻ tức giận, mặt tái đi, ông nói bằng giọng giễu cợt:
- Mỗi lần tôi đến ông, ông nhìn tôi rất đỗi tò mò: “Ông lại
chưa công khai nói ra tội lỗi của ông ư?” Hãy khoan, đừng quá khinh tôi. Việc
đó không dễ làm như ông tưởng đâu. Mà có lẽ tôi sẽ không làm đâu. Thế ông sẽ đi
tố cáo tôi chứ, hả?
Còn tôi chẳng những tôi không dám nhìn ông với vẻ tò mò vô lí
như ông nói, mà còn không dám nhìn ông nữa kia. Tôi đau khổ đến phát ốm, tâm hồn
tôi đầy nước mắt. Thậm chí đêm tôi mất ngủ.
- Vừa nãy, - ông nói tiếp, - tôi ở chỗ vợ tôi ra đi. Ông có
hiểu thế nào là người vợ không? Khi tôi đi, bọn trẻ la lên: “Chào ba, ba mau
mau về với chúng con nhé… đọc truyện cho chúng con nghe.” Không, ông không hiểu
điều đó đâu! Tai họa của người khác không dạy khôn gì cho ta.
Mắt ông long lên, môi ông run lật bật. Bỗng nhiên ông đấm tay
xuống bàn, đến nỗi các đồ vật trên bàn nảy bật lên: ông vốn là người mềm mỏng,
đây là lần đầu tiên ông như thế.
- Có cần làm như thể không? - Ông kêu lên. - Có nên không?
Không có ai bị kết án, không có ai vì tôi mà đi tù khổ sai, gã gia nhân chết vì
ốm kia mà. Còn tôi đau đớn giày vò vì đã gây đổ máu, thế là tôi bị trừng phạt rồi.
Với lại người ta sẽ không tin tôi, sẽ không tin bất cứ bằng chứng nào tôi đứa
ra. Có nên công khai nhận tội chăng, nên chăng? Tôi sẵn sàng chịu giày vò suốt
đời vì đã giết người, miễn là đừng làm khổ vợ con. Hủy hoại cuộc đời họ cùng với
mình thì có công bằng không? Chúng ta có lầm chăng? Đâu là sự thật trong trường
hợp này? Mà người ta có nhận ra sự thật ấy không, có biết quý trọng nó không?
“Trời ơi,” - tôi nghĩ thầm. - “lúc này mà ông ta còn nghĩ đến
sự kính trọng của người đời!” Lúc ấy tôi thương ông đến nỗi tôi muốn chia sẻ số
phận của ông, miễn sao, giảm nhẹ gánh nặng cho ông. Tôi thấy ông như điên cuồng.
Tôi khiếp sợ, không phải chỉ bằng trí óc, mà bằng cả tâm hồn sống động, tôi hiểu
một quyết tâm như thế đáng giá nhường nào.
- Ông hãy quyết định vận mệnh tôi đi! - Ông ta lại kêu lên.
- Ông hãy quyết định vận mệnh tôi đi! - Ông ta lại kêu lên.
- Ông hãy ra công khai nói rõ tội ác của ông. - Tôi thì thầm
với ông ta. Tiếng tắc nghẹn, nhưng tôi thì thầm một cách cương quyết. Tôi cầm lấy
cuốn Phúc âm trên bàn, bản tiếng Nga, chỉ cho ông bản Phúc âm theo thánh Gioan,
chương XII, đoạn 24: “Thực, ta bảo thực các người: nếu hạt lúa mì gieo xuống đất
chẳng chết đi thì nó sẽ cứ ở một mình, nhưng nếu nó chết đi thì sẽ kết quả được
nhiều.” Tôi vừa đọc đoạn này, ngay trước khi ông tới.
Ông đọc.
- Quả là như thế. - Ông nói và mỉm cười cay đắng. - Mà lại
trong những cuốn sách này, - ông nói sau một lúc im lặng, - bắt gặp những điều
như thế này thật là khủng khiếp. Dí nó vào mũi người ta thì dễ thôi. Nhưng ai
viết những điều như thế, có phải con người viết không?
- Thánh linh viết đấy. - Tôi nói.
- Thánh linh viết đấy. - Tôi nói.
- Ông ba hoa thì dễ thôi. - Ông ta vẫn nhếch mép cười, nhưng
gần như căm thù. Tôi lại cầm lấy cuốn sách, mở ra ở chỗ khác, mở cho ông phần
“Thư gửi người Hêbrơ”, chương X đoạn 31.
Ông đọc: “Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống thật đáng khiếp
sợ thay.” Đọc xong, ông quẳng quyển sách đi. Thậm chí ông run khắp toàn thân.
- Một câu ghê rợn, - ông nói, - thực quả là ông đã chọn sẵn.
- Ông rời ghế đứng lên. Thôi, - ông nói, - vĩnh biệt, có lẽ tôi không đến nữa
đâu… chúng ta sẽ gặp nhau ở thiên đàng. Vậy là mười bốn năm tôi đã “rơi vào tay
Đức Chúa Trời hằng sống”, dù ra mười bốn năm ấy mang tên như thế đấy. Ngày mai
tôi sẽ van xin đôi bàn tay ấy tha tôi ra…
Tôi muốn ôm hôn ông, nhưng không dám: mặt ông méo xệch hẳn đi,
nom mà đau lòng. Ông đi ra. “Trời ơi,” - tôi nghĩ - “ông ta đi đâu thế này?”
Tôi quỳ thụp xuống trước ảnh thánh và khóc cầu nguyện Đức Mẹ chí thánh cho ông.
Đức Mẹ bao giờ cũng mau lẹ bênh vực và cứu giúp con người. Chừng nửa giờ tôi đứng
cầu nguyện trong nước mắt, đêm đã khuya, khoảng mười hai giờ. Bỗng nhiên tôi thấy
cửa mở, ông lại vào. Tôi ngạc nhiên.
- Nãy giờ ông ở đâu? - Tôi hỏi.
- Tôi, - ông nói, - hình như tôi quên cái gì… có lẽ là chiếc
khăn tay… Mà cứ cho là không quên gì đi nữa thì hãy để tôi ngồi đây…
Ông ngồi xuống ghế. Tôi đứng trước mặt ông. “Ông ngồi xuống
đi.” Tôi ngồi xuống. Chúng tôi ngồi khoảng hai phút, ông chăm chú nhìn tôi và bỗng
mỉm cười, tôi ghi nhớ điều đó rồi ông đứng lên, ôm ghì lấy tôi và hôn…
- Hãy nhớ kĩ lần thứ hai này tôi đến anh như thế nào. - Ông
nói. - Nghe rõ chứ, nhớ kĩ điều đó!
Lần đầu tiên, ông gọi tôi bằng “anh”. Rỏi ông ra về. “Ngày
mai,” - tôi nghĩ.
Sự thể đúng như vậy. Tối hôm ấy, tôi không biết ngày mai
chính là ngày sinh nhật của ông. Mấy ngày gần đây tôi không hề đi đâu, vì thế
không được ai nói cho biết. Hằng năm đến ngày ấy nhà ông rất đông khách, cả
thành phố kéo đến. Lần này cũng thế.
Thế rồi, sau bữa tiệc thịnh soạn, ông ra giữa nhà, hai tay cầm tờ giấy: đơn chính thức trình cấp trên. Bởi vì cấp trên của ông có mặt tại đây, nên ông đọc lên cho mọi người cùng nghe, trong đơn thuật lại đầy đủ tội ác ông đã làm, với mọi chi tiết: “Tôi là con quái vật, tôi tự loại mình ra khỏi xã hội loài người. Chúa Trời đã đến cùng tôi,” - ông kết luận trong đơn, - “tôi muốn đau khổ!” Liền đó, ông dem ra bày lên bàn tất cả những thứ mà ông coi là có thể chứng minh tội của ông mà ông đã cất giữ mười bốn năm trời: những đồ vật bằng vàng của người đàn bà bị giết mà ông đã lấy đi để đánh lạc hướng nghi ngờ, tấm ảnh đeo dây chuyền và cây thánh giá ông tháo ở cổ bà ta - ảnh đeo dây chuyền ấy là chân dung vị hôn phu của bà ta, quyển sổ ghi và cuối cùng là hai lá thư: thư của vị hôn thê báo tin ông ta sắp về và thư trả lời của bà ta chưa viết xong, bà ta để trên bàn định mai gửi bưu điện. Ông lấy đi cả hai bức thư đó, để làm gì? Rồi ông giữ suốt mười bốn năm trời để làm gì trong khi đáng lẽ phải hủy đi cho phi tang? Tình thế đã diễn ra như thế này: mọi người đều ngạc nhiên và khiếp sợ, không ai muốn tin, tuy mọi người đều lắng tai nghe hết sức mò mò nhưng như thể nghe người ốm. Rồi mấy ngày sau, ở tất cả các nhà, người ta cả quyết phán định là con người bất hạnh này loạn trí. Cấp trên và tòa không thể không để cho vụ việc được tiến hành, nhưng rồi họ đình lại: tuy những đồ vật và thư từ đưa ra khiến người ta phải suy nghĩ, nhưng họ quyết định rằng cho dù những tang chứng là thực đi nữa thì cũng không thể chỉ dựa vào đó mà đưa ra lời buộc tội dứt khoát được. Những thứ đó ông có thể được bà ta trao cho, vì ông là người quen tin cẩn. Tuy nhiên, tôi nghe nói đồ vật của nạn nhân sau này đã được những người quen và họ hàng xem xét kĩ và xác nhận là đích thực, không có gì đáng hồ nghi. Nhưng vụ này vẫn không ngã ngũ được. Năm ngày sau mọi người được biết con người khốn khổ phát ốm và người nhà lo cho tính mệnh của ông. Ông bị bệnh gì, tôi không rõ, nghe nói ông bị rối loạn nhịp tim, nhưng người ta được biết rằng các bác sĩ, theo lời khẩn nài của vợ ông, đã hội chẩn về trạng thái tâm thần của ông và kết luận rằng quả thật đã có sự loạn trí. Tôi không tiết lộ điều gì, tuy người ta đổ xô đến hỏi tôi, nhưng khi tôi muốn vào thăm ông dù một thời gian dài người ta không cho vào, nhất là bà vợ. “Chính ông,” - bà ta nói, - “đã làm ông ấy rối loạn tinh thần, trước đây ông ấy cũng vẫn rầu rĩ, nhưng năm vừa qua mọi người đều nhận thấy ông ấy lo lắng lạ thường và có những hành động kì lạ, chính ông đã làm hại đời ông ấy, nhồi nhét cho ông ấy những điều ác hại, một tháng vừa rồi ông ấy toàn đến nhà ông.” Không chỉ riêng bà vợ, mà thành phố đều đổ xô đến nhà tôi và đổ tội cho tôi: “Tại ông cả đấy!” - họ nói. Tôi làm thinh, nhưng vui sướng trong lòng, vì tôi nhìn thấy ân huệ của Chúa Trời hiển nhiên đã xuống với người biết xử tội mình. Còn về chuyện ông bị loạn trí thì tôi không thể tin được. Cuối cùng người ta đã cho tôi vào thăm ông, chính ông nằng nặc đòi cho tôi vào để ông vĩnh biệt tôi. Vào đến nơi, tôi thấy rằng mạng sống của ông không phải là tính từng ngày, mà từng giờ. Ông yếu lắm, vàng vọt tay run rẩy. Ông thở nghẹn ngào, nhưng ánh mắt cảm động và vui sướng.
Thế rồi, sau bữa tiệc thịnh soạn, ông ra giữa nhà, hai tay cầm tờ giấy: đơn chính thức trình cấp trên. Bởi vì cấp trên của ông có mặt tại đây, nên ông đọc lên cho mọi người cùng nghe, trong đơn thuật lại đầy đủ tội ác ông đã làm, với mọi chi tiết: “Tôi là con quái vật, tôi tự loại mình ra khỏi xã hội loài người. Chúa Trời đã đến cùng tôi,” - ông kết luận trong đơn, - “tôi muốn đau khổ!” Liền đó, ông dem ra bày lên bàn tất cả những thứ mà ông coi là có thể chứng minh tội của ông mà ông đã cất giữ mười bốn năm trời: những đồ vật bằng vàng của người đàn bà bị giết mà ông đã lấy đi để đánh lạc hướng nghi ngờ, tấm ảnh đeo dây chuyền và cây thánh giá ông tháo ở cổ bà ta - ảnh đeo dây chuyền ấy là chân dung vị hôn phu của bà ta, quyển sổ ghi và cuối cùng là hai lá thư: thư của vị hôn thê báo tin ông ta sắp về và thư trả lời của bà ta chưa viết xong, bà ta để trên bàn định mai gửi bưu điện. Ông lấy đi cả hai bức thư đó, để làm gì? Rồi ông giữ suốt mười bốn năm trời để làm gì trong khi đáng lẽ phải hủy đi cho phi tang? Tình thế đã diễn ra như thế này: mọi người đều ngạc nhiên và khiếp sợ, không ai muốn tin, tuy mọi người đều lắng tai nghe hết sức mò mò nhưng như thể nghe người ốm. Rồi mấy ngày sau, ở tất cả các nhà, người ta cả quyết phán định là con người bất hạnh này loạn trí. Cấp trên và tòa không thể không để cho vụ việc được tiến hành, nhưng rồi họ đình lại: tuy những đồ vật và thư từ đưa ra khiến người ta phải suy nghĩ, nhưng họ quyết định rằng cho dù những tang chứng là thực đi nữa thì cũng không thể chỉ dựa vào đó mà đưa ra lời buộc tội dứt khoát được. Những thứ đó ông có thể được bà ta trao cho, vì ông là người quen tin cẩn. Tuy nhiên, tôi nghe nói đồ vật của nạn nhân sau này đã được những người quen và họ hàng xem xét kĩ và xác nhận là đích thực, không có gì đáng hồ nghi. Nhưng vụ này vẫn không ngã ngũ được. Năm ngày sau mọi người được biết con người khốn khổ phát ốm và người nhà lo cho tính mệnh của ông. Ông bị bệnh gì, tôi không rõ, nghe nói ông bị rối loạn nhịp tim, nhưng người ta được biết rằng các bác sĩ, theo lời khẩn nài của vợ ông, đã hội chẩn về trạng thái tâm thần của ông và kết luận rằng quả thật đã có sự loạn trí. Tôi không tiết lộ điều gì, tuy người ta đổ xô đến hỏi tôi, nhưng khi tôi muốn vào thăm ông dù một thời gian dài người ta không cho vào, nhất là bà vợ. “Chính ông,” - bà ta nói, - “đã làm ông ấy rối loạn tinh thần, trước đây ông ấy cũng vẫn rầu rĩ, nhưng năm vừa qua mọi người đều nhận thấy ông ấy lo lắng lạ thường và có những hành động kì lạ, chính ông đã làm hại đời ông ấy, nhồi nhét cho ông ấy những điều ác hại, một tháng vừa rồi ông ấy toàn đến nhà ông.” Không chỉ riêng bà vợ, mà thành phố đều đổ xô đến nhà tôi và đổ tội cho tôi: “Tại ông cả đấy!” - họ nói. Tôi làm thinh, nhưng vui sướng trong lòng, vì tôi nhìn thấy ân huệ của Chúa Trời hiển nhiên đã xuống với người biết xử tội mình. Còn về chuyện ông bị loạn trí thì tôi không thể tin được. Cuối cùng người ta đã cho tôi vào thăm ông, chính ông nằng nặc đòi cho tôi vào để ông vĩnh biệt tôi. Vào đến nơi, tôi thấy rằng mạng sống của ông không phải là tính từng ngày, mà từng giờ. Ông yếu lắm, vàng vọt tay run rẩy. Ông thở nghẹn ngào, nhưng ánh mắt cảm động và vui sướng.
- Thành tựu rồi. - Ông nói với tôi. - Đã từ lâu tôi khao khát
được gặp anh, sao anh không đến?
Tôi không cho ông biết là người ta không cho tôi vào.
- Chúa thương tôi, gọi tôi về với Ngài. Tôi biết tôi sắp chết,
nhưng lần đầu tiên sau ngần ấy năm tôi cảm thấy vui sướng và yên tâm. Làm xong
việc cần làm, tôi cảm thấy ngay thiên đàng trong linh hồn. Bây giờ tôi đã có thể
yêu các con tôi và hôn chúng. Người ta không tin tôi, chẳng ai tin, cả vợ, cả
những người xét xử tôi; các con tôi sẽ không bao giờ tin. Tôi thấy đó là ơn
Chúa Trời đã xuống với các con tôi. Tôi chết, nhưng đối với chúng, tên tôi vẫn
không hề có vết nhơ. Còn bây giờ tôi linh cảm thấy Chúa, trái tim tôi vui sướng
như ở trên thiên đàng… tôi đã làm tròn bổn phận…
Ông không nói được, ông thở hổn hển, bàn tay ông nóng hổi xiết
chặt tay tôi, ông nhìn tôi bằng cặp mất nồng nàn. Nhưng chúng tôi nói chuyện chẳng
được bao lâu, vợ ông luôn luôn ngó vào chỗ chúng tôi. Nhưng ông vẫn kịp nói thầm
với tôi:
- Anh có nhớ lần tôi trở lại nhà anh vào quãng nửa đêm không?
Tôi còn dặn anh nhớ kĩ lấy phải không? Anh có biết tôi trở lại làm gì không?
Tôi đến định giết anh đấy!
Tôi bất giác giật mình.
Tôi bất giác giật mình.
Khi ấy ở nhà anh, tôi dấn mình vào bóng tối, đi lang thang
qua các phố và đấu tranh với bản thân. Bỗng nhiên tôi căm thù anh không sao chịu
nổi. “Bây giờ,” - tôi nghĩ, - “hắn là người duy nhất trói buộc ta và là quan
tòa của ta, ta không thể từ bỏ việc lên án tử hình ta ngày mai, vì hắn biết hết
rồi.” Không phải là tôi sợ anh sẽ tố cáo tôi (tôi không hề có ý nghĩ ấy), nhưng
tôi nghĩ: “Nếu ta không tự tố cáo thì ta còn mặt mũi nào nhìn thấy hắn?” Dù anh
ở tận cùng trời cuối đất nhưng còn sống thì tôi còn không thể chịu nổi khi nghĩ
rằng anh vẫn đang sống, anh biết hết và kết tội tôi. Tôi căm thù anh, tuồng như
anh là nguyên nhân gây ra mọi sự và tất cả là tại anh. Tôi trở lại nhà anh, tôi
nhớ trên bàn anh vẫn có con dao găm. Tôi ngồi và bảo anh ngồi xuống, tôi nghĩ
suốt một phút. Nếu như tôi giết anh thì đằng nào tôi cũng đi đời về tội giết
người ấy, cho dù không thú nhận tội trước đây. Nhưng lúc ấy tôi hoàn toàn không
nghĩ đến chuyện ấy và không muốn nghĩ đến. Tôi chỉ căm thù và muốn thẳng tay trả
thù anh về mọi chuyện. Nhưng Chúa Trời của tôi đã thấy con quỷ trong tim tôi.
Tuy nhiên, anh nên biết chưa bao giờ anh gần cái chết như lúc ấy.
Một tuần sau ông chết. Cả thành phố đi đưa ông đến tận huyệt. Tổng linh mục đọc lời điếu thấm thía. Người ta thương tiếc ông mắc bệnh thiệt đời. Cả thành phố chống lại tôi khi mai táng ông, thậm chí người ta không tiếp tôi nữa. Của đáng tội, một số người thoạt đầu thì ít thôi, rồi càng về sau càng nhiều hơn, bắt đầu tin những điều ông thú nhận là thực và họ bắt đầu năng đến thăm tôi và hỏi han với thái độ hết sức tò mò và vui sướng: bởi vì người ta bao giờ cũng thích bậc công chính sa ngã và bị ô nhục. Nhưng tôi im lặng, ít lâu sau tôi rời bỏ hẳn thành phố ấy, năm tháng sau tôi đã xứng đáng được Chúa Trời dẫn lên con đường vững chắc và huy hoàng, tôi cảm tạ ngón tay vô hình đã chỉ cho tôi thấy rõ con đường ấy. Còn về Mikhail, kẻ tôi tớ đã từng đau khổ nhiều của Chúa thì cho đến nay, hàng ngày tôi vẫn nhắc đến khi cầu nguyện.
Một tuần sau ông chết. Cả thành phố đi đưa ông đến tận huyệt. Tổng linh mục đọc lời điếu thấm thía. Người ta thương tiếc ông mắc bệnh thiệt đời. Cả thành phố chống lại tôi khi mai táng ông, thậm chí người ta không tiếp tôi nữa. Của đáng tội, một số người thoạt đầu thì ít thôi, rồi càng về sau càng nhiều hơn, bắt đầu tin những điều ông thú nhận là thực và họ bắt đầu năng đến thăm tôi và hỏi han với thái độ hết sức tò mò và vui sướng: bởi vì người ta bao giờ cũng thích bậc công chính sa ngã và bị ô nhục. Nhưng tôi im lặng, ít lâu sau tôi rời bỏ hẳn thành phố ấy, năm tháng sau tôi đã xứng đáng được Chúa Trời dẫn lên con đường vững chắc và huy hoàng, tôi cảm tạ ngón tay vô hình đã chỉ cho tôi thấy rõ con đường ấy. Còn về Mikhail, kẻ tôi tớ đã từng đau khổ nhiều của Chúa thì cho đến nay, hàng ngày tôi vẫn nhắc đến khi cầu nguyện.
Phần 6
Chương 3 - P1: Rút từ những cuộc chuyện trò và thuyết giáo của trưởng
lão Zoxima
e. Về người thầy tu Nga và người đó có thể có vai trò như thế
nào
Thưa các cha và các thầy, người thầy tu là gì? Trong giới có
học vấn, ngày nay từ ấy được nói ra với ý giễu cợt, một số người còn dùng nó
như lời thóa mạ. Càng về sau càng tệ hại hơn. Sự thật là ôi đáng tiếc thay, sự
thật là trong giới tu hành cũng có nhiều kẻ ăn bám, dâm đãng và ham khoái lạc,
nhiều kẻ lang thang trơ tráo. Những người có học trong giới thượng lưu vẫn chỉ
vạch ra: “Các người là những kẻ lười biếng và vô ích sự trong xã hội, các người
sống bằng lao động của người khác, các người là những kẻ hành khất trơ tráo.”
Thế nhưng trong giới tu hành có bao nhiêu người khiêm nhường và hiền lành, khao
khát sống cách biệt và nồng nhiệt cầu nguyện trong yên tĩnh. Người ta ít nói đến
những người này, thậm chí lờ hẳn đi, và hẳn các vị sẽ hết sức ngạc nhiên nếu
tôi nói rằng những người khiêm nhường và khao khát cầu nguyện trong cô tịch ấy
có lẽ sẽ một lần nữa cứu nước Nga! Bởi vì những người sống trong cảnh thanh
tĩnh, quả thực đã chuẩn bị sẵn sàng “cho một ngày và một giờ, cho một tháng và
một năm”. Sống cô tịch, họ giữ được hình ảnh Chúa Kito huy hoàng và không hề bị
xuyên tạc, trong sự thật thuần khiết của Chúa Trời, do các Cha đời xưa, các sứ
đồ, các vị tuẫn đạo để lại và khi cần, họ sẽ phơi bày hình ảnh ấy trước sự thật
đã lung lay của thế gian. Ý tưởng ấy thật là vĩ đại. Ngôi sao ấy sẽ ngời sáng ở
phương Đông.
Tôi nghĩ như thế về thầy tu, phải chăng thế là lầm, là kiêu
căng? Hãy nhìn cuộc sống của những người thế tục trong toàn bộ cái thế giới đã
tự đặt mình lên trên đám con dân của Chúa mà xem, có phải trong thế giới đó
hình ảnh và sự thật của Chúa đã bị xuyên tạc không? Họ có khoa học, nhưng khoa
học chỉ là những gì phục vụ nhục thể. Còn thế giới tinh thần, phân nửa cao cả
nhất của con người thì bị gạt bỏ hoàn toàn, bị trục xuất và người ta lấy thế
làm hoan hỷ, thậm chí là căm thù nó. Thế gian đề xướng tự do, đặc biệt thời
gian gần đây, và chúng ta nhìn thấy gì trong cái tự do ấy của họ: chỉ là nô lệ
và tự sát! Bởi vì người ta nói: “Có nhu cầu thì cứ thỏa mãn bởi vì anh cũng có
quyền như những người quyền quý và giàu có, đừng sợ thỏa mãn nhu cầu, thậm chí
cứ tăng thêm nữa lên,” - đấy là chủ thuyết hiện nay của người đời. Người ta cho
như thế là tự do. Quyền tăng thêm nhu cầu đưa đến kết quả gì? Với người giàu
thì đó là sống tách biệt và tự sát về tinh thần, với người nghèo thì đó là ghen
tị và giết người, bởi vì người ta cho quyền có nhu cầu. Người ta cả quyết rằng
thế giới ngày càng thống nhất, người với người ngày càng xích lại gần nhau
trong tình anh em vì khoảng cách không gian được rút ngắn, tư tưởng được truyền
đi trong không trung. Hỡi ôi đừng tin ở sự thống nhất như thế. Do hiểu tự do là
sự gia tăng nhu cầu và mau chóng thỏa mãn nhu cầu, người ta xuyên tạc bản chất
của mình, bởi vì họ làm nảy sinh ra trong bản thân họ nhiều ham muốn và thói
quen vô nghĩa và ngu ngốc, nhiều giả tưởng hết sức vô lý! Người ta sống chỉ để
ghen tị với nhau, để thỏa mãn nhục cảm và để vênh vang. Chiêu đãi và du ngoạn,
ngựa xe, chức tước và kẻ hầu người hạ, những thứ đó được coi là thiết yếu đến mức
có thể vì nó mà hi sinh cả tính mệnh, danh dự và lòng nhân, thậm chí có thể tự
giết mình nếu như không thỏa mãn được. Ở những người không giàu, ta cũng thấy
như thế, còn người nghèo thì tạm thời dùng men say để dìm ngập nỗi uất hận
không thỏa mãn được nhu cầu và lòng ghen tị. Nhưng chẳng bao lâu, thay cho rượu,
họ uống cả máu, người ta dẫn dắt họ đến chỗ ấy. Tôi xin hỏi các vị: người như
thế có tự do không? Tôi biết “một chiến sĩ đấu tranh cho tư tưởng” đã kể với
tôi rằng, một lần trong tù, anh ta bị cắt thuốc lá, sự thiếu thốn ấy hành hạ
anh khổ sở đến nỗi anh suýt phản bội “tư tưởng” của mình chỉ cốt có thuốc lá
hút. Vậy mà con người ấy vẫn nói: “Tôi đấu tranh cho nhân loại.” Thế thì anh ta
sẽ đi đến đâu và anh ta có khả năng làm gì? Cùng lắm thì có được một hành động
bột phát trong chốc lát, chứ không thể chịu đựng lâu dài được. Chẳng lấy gì làm
lạ rằng thay cho tự do, người ta rơi vào vòng nô lệ, và thay cho việc phục vụ
tình hữu ái và sự đoàn kết nhân loại, thì ngược lại, người ta lâm vào tình trạng
chia rẽ và sống tách biệt, như ông khách bí ẩn và người thầy của tôi đã nói với
tôi hồi tôi còn trẻ. Vì thế ý tưởng phục vụ nhân loại, ý tưởng về tình anh em
và sự thống nhất loài người ngày càng lụi tắt trên thế gian, lực tế nói đến ý
tưởng đó thậm chí người ta còn giễu cợt, bởi vì làm sao từ bỏ được thói quen của
mình, kẻ nô lệ ấy sẽ đi đâu, một khi hắn có cơ man nào là thói quen thỏa mãn số
nhu cầu do chính hắn tưởng tượng ra? Hãn sống tách biệt, hắn thiết gì đến toàn
cục. Kết quả là người ta tích cóp được nhiều đồ vật hơn, mà niềm vui thì ít đi.
Con đường của người tu hành thì khác. Người ta chế nhạo sự tuân lời, ăn chay và
nguyện kinh, thế nhưng đấy mới là con đường đi đến tự do thực sự, chân chính:
tôi tự cắt bỏ những nhu cầu vô ích của tôi, tôi ghìm nén ý muốn đầy tự ái và
kiêu căng của tôi, và đã lại nó bằng sự tuân lời, và như vậy, nhờ Chúa Trời
giúp đỡ, tôi đạt được tự do tinh thần, và do đó cả sự vui vẻ về tinh thần! Ai
trong hai loại người có khả năng suy tôn tư tưởng vĩ đại và phục vụ tư tưởng đó
hơn - người giàu sống tách biệt hay người được giải thoát khỏi bạo quyền của đồ
vật và thói quen? Người ta trách nhà tu hành sống cách biệt: “Anh sống cách biệt
trong tu viện để tìm đường cứu rỗi, mà quên mất việc phục vụ tình hữu ái của
nhân loại.” Nhưng ta hãy xem ai sốt sắng hơn với tình hữu ái? Bởi vì họ sống
cách biệt, chứ không phải chúng tôi, nhưng họ không thấy điều đó. Ngay từ cổ
xưa, những nhà hành đồng của nhân dân cũng từ chúng tôi mà ra, vậy tại sao bây
giờ lại không thể có những người như thế? Những người ăn chay và những người
kiêng nói khiêm nhường và hiền lành ấy đứng ra phục vụ sự nghiệp vĩ đại. Nhân
dân sẽ cứu nước Nga. Từ muôn đời tu viện Nga vẫn đi với nhân dân. Nếu nhân dân
sống cách biệt thì chúng tôi cũng sống cách biệt. Nhân dân cùng chung tín ngưỡng
với chúng tôi, mà ở nước Nga chúng ta, nhà hoạt động không tín ngưỡng không làm
nên trò trống gì, cho dù người đó có tấm lòng chân thành và trí tuệ thiên tài.
Hãy nhớ lấy điều đó. Nhân dân sẽ đương đầu với người vô thần và quật đổ kẻ đó,
nước Nga chính giáo thống nhất sẽ xuất hiện. Hãy bảo vệ nhân dân và chăm sóc
trái tim nhân dân. Hãy giáo dục nhân dân trong bằng an. Đấy là công quả của người
tu hành, bởi vì dân ta mang Chúa trong bản thân mình.
f. Về chủ và tớ, chủ và tớ có thể là anh em tinh thần với
nhau được không?
Nói có trời, dân chúng cũng không thoát khỏi tội lỗi. Sự đồi
bại lan nhanh như lửa cháy trước mắt, hàng giờ, từ trên xuống… Cả trong dân
chúng người ta cũng bắt đầu sống cách biệt nhau: phú nông và cường hào xuất hiện;
thương gia ngày càng thèm khát danh vọng hơn, muốn tỏ ra mình có học vấn, tuy
chẳng có học chút nào, vì thế họ ra mặt khinh miệt thói tục đời xưa, thậm chí xấu
hổ về tín ngưỡng của cha ông. Họ lui tới các công tước, tuy họ chỉ là loại
mugich hư hỏng. Dân chúng bại hoại vì say rượu và không thể từ bỏ được thói xấu
đó. Họ tàn ác biết bao với gia đình, với vợ, thậm chí cả với con: chỉ vì rượu. Ở
các xưởng máy tôi đã thấy cả những trẻ em mười tuổi: còm cõi, héo hắt và đã trụy
lạc. Gian nhà ngột ngạt, máy chạy ầm ầm, làm việc suốt ngày, những lời tục tĩu
và rượu, rượu, phải những cái đó cần cho tâm hồn đứa trẻ nhỏ tuổi như vậy? Đứa
trẻ ở tuổi ấy cần ánh sáng mặt trời, những trò chơi trẻ con, tấm gương sáng ở
khắp nơi và một giọt tình yêu cho nó. Hãy làm sao cho không còn tình trạng ấy,
thưa các vị đồng đạo, làm sao chấm dứt hẳn sự hành hạ trẻ em, các vị hãy dừng
ra truyền dạy đạo lí, và gấp gáp lên. Nhưng Chúa Trời sẽ cứu nước Nga, bởi vì
người dân đen tuy trụy lạc và không còn thoát nổi ra khỏi vũng bùn tội lỗi hôi
hám, nhưng họ vẫn biết rằng tội lỗi thối tha của họ bị Chúa Trời rủa xả và phạm
tội như vậy là xấu xa. Vậy là nhân dân ta vẫn không ngừng tin vào sự thật, thừa
nhận có Chúa và khóc vì cảm động.
Không như những kẻ ăn trên ngồi chốc. Những người này muốn dựa
vào khoa học để tổ chức cuộc sống công bằng chỉ theo trí tuệ của mình, không cần
đến Chúa Kito như trước nữa, và họ đã tuyên bố rằng không có tội ác, cũng không
có tội lỗi. Mà họ cũng có cái đúng của họ: bởi vì không có Chúa Trời thì làm gì
có tội ác? Ở châu Âu, dân chúng nổi lên chống lại người giàu bằng bạo lực, các
lãnh tụ của họ ở khắp nơi đều đưa họ đến chỗ gây đổ máu và dạy họ rằng sự giận
dữ của họ là chính đáng. Nhưng “cơn tức giận của họ đáng rủa xa, vì nó tàn ác”.
Còn nước Nga sẽ được Chúa Trời cứu vớt, như đã cứu vớt nhiều lần. Sự cứu rỗi ấy
là nhờ ở nhân dân, ở đức tin và anh quy thuận cửa nhân dân.
Thưa các cha và các thầy, hãy gìn giữ đức tin của nhân dân,
đây không phải là mơ ước đâu: suốt đời tôi sửng sốt vì nhận thấy nhân dân vĩ đại
của chúng ta có một phẩm giá cao cả chân chính, chính mắt tôi, tôi có thể làm
chứng, tôi nhìn thấy và ngạc nhiên, tôi nhìn thấy, mặc dù ở họ bốc mùi tội lỗi
và họ nom như lũ hành khất. Họ không xun xoe nịnh bợ, mà đấy là sau hai thế kỉ
nô lệ. Họ tự do trong dáng vẻ và cách cư xử mà không làm ai phật lòng. Họ không
thù hằn và không ghen tị. “Anh quyền thế, anh giàu có, anh thông minh, anh tài
ba, tốt thôi, cầu Chúa ban phước lành cho anh. Tôi kính trọng anh, nhưng tôi biết
rằng tôi cũng là con người. Tôi kính trọng anh mà không ghen tị, điều đó cho
anh thấy phẩm giá con người của tôi.” Thực ra họ không nói như thế (vì họ chưa
biết nói như thế), nhưng họ hành động như thế, chính tôi nhìn thấy, chính tôi cảm
nghiệm được điều đó, và không biết các vị có tin không: người Nga chúng ta càng
nghèo nàn và thấp kém thì sự thật cao cả càng lồ lộ ở họ, bởi vì những người
phú hộ và cường hào phần nhiều đâm ra trụy lạc, lỗi lớn là do sự thờ ơ và thiếu
chú ý của chúng ta! Nhưng Chúa sẽ cứu con dân của Ngài, bởi vì nước Nga vĩ đại
là ở sự quy thuận của mình. Tôi mơ ước nhìn thấy và dường như đã nhìn thấy rõ rệt
tương lai của chúng ta: rồi đây, ngay cả người giàu đồi trụy nhất của chúng ta
rốt cuộc cũng sẽ xấu hổ với người nghèo về sự giàu có của mình, còn người nghèo
thấy sự khiêm nhường đó, sẽ hiểu và vui lòng nhường nhịn người giàu, sẽ trìu mến
đáp lại sự xấu hổ cao quy của người giàu. Các vị hãy tin rằng cuối cùng sẽ như
thế: tình thế đang đi theo chiều hướng ấy. Chỉ có bình đẳng trong phẩm giá tinh
thần của con người, điều ấy chỉ chúng ta mới hiểu. Người ta coi nhau như anh em
thì sẽ có tình anh em, mà chưa có tình anh em thì không bao giờ người ta chia
nhau của cải được ổn thỏa. Chúng ta giữ gìn hình ảnh đấng Kito, hình ảnh sẽ ngời
sáng trước cả thế gian như viên kim cương quý giá! Amen, amen!
Thưa các cha và các thầy, có lần một việc rất cảm động đã xảy
ra với tôi. Trong thời kì hành hương, một lần ở thị xã N, tôi gặp người lính hầu
trước kia của tôi, Afanaxi, từ hồi tôi chia tay với anh ta đến lúc ấy đã tám
năm. Tình cờ nhìn thấy tôi ở chợ, anh ta nhận ra, chạy đến với tôi, và trời ơi,
anh ta mừng rỡ quá, đâm bổ đến với tôi: “Cha ơi, đại nhân ơi, đại nhân đây ư?
Có phải Cha đấy không?” Anh ta dẫn tôi về nhà. Anh ta đã giải ngũ, đã lấy vợ,
có hai đứa con lít nhít. Vợ anh ta buôn thúng bán mẹt ở chợ. Căn buồng nhỏ của
anh ta nghèo nàn, nhưng sạch sẽ, vui tươi. Anh ta mời tôi ngồi, đặt ấm xamôva,
cho đi gọi vợ về, cứ như thể tôi đến là một ngày hội đối với anh ta. Anh ta dem
các con ra: “Xin Cha ban phước cho các cháu.”- “Tôi đâu đáng ban phước cho các
cháu,” - tôi trả lời anh ta, - “tôi là một thầy tu bình thường bé mọn, tôi sẽ cầu
Chúa cho các cháu, còn về anh, Afanaxi Pavlovich ạ, bấy nay ngày nào tôi cũng cầu
khấn cho anh, kể từ hôm ấy, bởi vì mọi sự đều từ anh mà ra.” Và tôi đã gắng hết
sức giải thích cho anh ta. Con người đến lạ: anh ta nhìn tôi và vẫn không thể
hình dung được rằng, tôi, chủ cũ của anh ta, một sĩ quan, bây giờ lại ở trước mặt
anh ta trong bộ dạng như thế, y phục như thế, thậm chí anh ta khóc. “Tại sao
anh khóc,” - tôi bảo anh ta, - “tôi không thể nào quên anh được, anh nên mừng
cho tôi mới phải, bạn thân mến ạ, vì con đường tôi đi là con đường vui sướng và
tươi sáng.” Anh ta không nói gì, chỉ thốt lên tiếng “ồ” ngạc nhiên và lắc đầu cảm
động nhìn tôi. “Còn tài sản của Cha thì sao?” - anh ta hỏi. Tôi trả lời anh ta:
“Tôi cũng cho tu viện, những người tu hành chúng tôi sống chung với nhau.” Uống
trà xong, tôi từ giã gia đình anh ta, đột nhiên anh ta đưa cho tôi đồng năm
mươi kopek cúng cho tu viện và hối hả giúi vào tay tôi một đồng nữa, tôi thấy
cũng là năm mươi kopek. Anh ta nói: “Đây là biếu Cha, Cha là người hành hương,
còn đi đây đi đó có thể sẽ có lúc cần đến, thưa Cha.” Tôi nhận tiền, cúi chào
hai vợ chồng và ra đi, lòng vui sướng, trên đường tôi nghĩ: “Bây giờ cả hai
chúng ta, cả anh ta ở nhà và ta đang đi trên đường, hẳn là đều thốt lên hai tiếng
kêu ngạc nhiên và mỉm cười sung sướng, trong lòng tưng bừng rộn rã, gật gù nhớ
lại trời đã run rủi cho chúng ta gặp nhau như thế nào.” Từ đó tôi không hề gặp
lại anh ta. Trước kia tôi là chủ, anh ta là tôi tớ của tôi, còn bây giờ chúng
tôi âu yếm hôn nhau, chứa chan cảm kích, giữa chúng tôi đã đạt tới sự hòa hợp
vĩ đại của con người với nhau. Tôi đã nghĩ nhiều về sự việc đó, còn bây giờ tôi
nghĩ thế này: chẳng lẽ lại không thể quan niệm được rằng sự hòa hợp vĩ đại và
chân chất ấy, đến kì hạn của nó, sẽ được thực hiện ở khắp nơi, giữa người Nga
chúng ta với nhau? Tôi tin rằng điều đó sẽ xảy ra, thời hạn đã gần rồi.
Về những người tôi tớ thì tôi nói thêm như sau: trước đây, hồi
trai trẻ, tôi thường hay cáu với họ: “Chị bếp đưa lên món ăn nóng quá, lính hầu
không chải áo cho tôi.” Nhưng tôi chợt tỉnh ngộ nhờ một ý nghĩ của người anh mến
thương của tôi mà tôi đã được nghe hồi còn bé: “Tôi có đáng được người ta hầu hạ
không, tôi có quyền xử tệ với họ chỉ vì họ nghèo khổ và tăm tối không?” Tôi lấy
làm ngạc nhiên rằng những ý nghĩ đơn giản nhất, rõ rành rành như vậy lại đến với
trí óc chúng ta muộn như vậy. Trên thế gian này không thể không có người làm
tôi tớ, nhưng hãy làm sao cho về phương diện tinh thần, người đầy tớ của anh sẽ
tự do hơn là anh ta không làm đầy tớ. Tại sao tôi lại không thể là đầy tớ của đầy
tớ tôi, và làm sao cho y không nhìn thấy điều đó về phần tôi thì không chút
kiêu ngạo, còn về phần y không hề nghi ngờ. Tại sao người đầy tớ của tôi lại
không thể được coi như họ hàng của tôi, để cuối cùng tôi sẽ lấy làm vui sướng
mà tiếp nhận y vào gia đình tôi? Ngay cả bây giờ điều đó cũng có thể thực hiện
được lắm chứ, nhưng nó là cơ sở để thiết lập sự hòa hợp vĩ đại sau này khi con
người sẽ không tìm đầy tớ cho mình và không muốn biến những người tương tự như
mình thành đầy tớ như hiện nay, mà trái lại, sẽ hết lòng mong muốn chính mình
làm đầy tớ cho mọi người theo Phúc âm. Phải chăng là mơ tưởng khi nghĩ rằng cuối
cùng con người sẽ tìm thấy niềm vui chỉ trong công đức khai hóa và từ thiện, chứ
không phải trong những thú vui tàn ác như hiện nay - trong sự hưởng thự vô độ
dâm đãng, kiêu ngạo, khoe khoang và ghen ghét vượt lên đầu nhau? Tôi tin chắc rằng
đấy không phải là mơ mộng và đã gần đến lúc ấy rồi. Người ta cười và hỏi: bao
giờ thì đến lúc ấy và liệu có bao giờ như thế được không? Tôi thì tôi nghĩ rằng
chúng ta sẽ hoàn thành sự nghiệp vĩ đại ấy cùng với đấng Kito.
Trên trái đất này, trong lịch sử loài người có biết bao nhiêu
ý tưởng mà mười năm trước là không thể tưởng tượng nổi, vậy mà bỗng nhiên lại
xuất hiện khi thời hạn bí ẩn của nó đã đến, và những ý tưởng ấy sẽ truyền lan
khắp trái đất? Với chúng ta cũng sẽ như thế dân tộc ta sẽ ngời sáng trước cựu
thế giới và toàn dân thiên hạ sẽ nói: “Phiến đá bị những người xây dựng loại ra
sẽ trở thành phiến đá nền tảng.” Và ta có thể hỏi chính những kẻ giễu cợt: nếu
là chúng tôi mơ mộng thì bao giờ các người dựng nên được tòa nhà của mình và tổ
chức được cuộc sống công bằng chỉ nhờ trí tuệ của các người, không cần đến đấng
Kito? Nếu họ khẳng định rằng chính họ, trái lại, đang đi đến sự hòa hợp thì thực
ra chỉ có những người hết sức ngây thơ trong bọn họ mới tin được, đến nỗi ta có
thể ngạc nhiên về sự ngây thơ đó.
Thực ra họ mơ tưởng ngông cuồng hơn chúng ta. Họ toan tính tổ
chức cuộc sống công bằng, nhưng khước từ đấng Kito, rốt cuộc họ sẽ làm thế gian
ngập máu, bởi vì máu gọi máu, kẻ vung kiếm sẽ chết vì kiếm. Nếu như không có lời
hứa của đấng Kito thì họ sẽ tiêu diệt nhau cho đến khi trên thế gian chỉ còn có
hai người. Và do thói kiêu căng, hai con người cuối cùng này sẽ không thể báo
được nhau, người nọ sẽ giết người kia, rồi kẻ còn lại cũng sẽ tự giết mình. Điều
đó sẽ xảy ra thực sự, nếu như không có lời hứa của dâng Kito sẽ ngăn chặn tình
trạng đó vì tình yêu những người hiền lành và quy thuận. Hồi ấy, khi còn mang
quân phục sĩ quan, sau cuộc đấu súng, tôi có nói về những kẻ tôi tớ trong xã hội,
và tôi nhớ, mọi người đều ngạc nhiên về tôi, họ nói: “Thế thì chúng tôi phải mời
đầy tớ ngồi lên đi văng và dâng trà cho họ ư?” Tôi trả lời họ: “Sao lại không,
ít ra thỉnh thoảng làm như thế.” Thế là mọi người cả cười. Câu hỏi của họ thật
nông nổi, còn câu trả lời của tôi thì mập mờ, nhưng tôi cho rằng trong đó có một
phần sự thật.
Phần 6
Chương 3 - P2
Chương 3 - P2
g. Vê sự du nguyện, về tình yêu và sự tiếp xúc với các thế giới
khác
Hỡi anh bạn trẻ, đừng quên cầu nguyện. Mỗi lần cầu nguyện, nếu
là thành thực, thì sẽ chớm nở một tình cảm mới, trong đó có cả một ý nghĩ mới
mà trước đây bạn chưa từng biết và ý nghĩ ấy sẽ khích lệ bạn. Bạn sẽ hiểu rằng
cầu nguyện là giáo dục. Hãy ghi nhớ điều này nữa: hàng ngày và bất cứ lúc nào
có thể được, hãy thầm nhắc đi nhắc lại: “Lạy Chúa, xin Chúa xuống ơn cho tất cả
những người hiện đang cúi mình trước Chúa.” Bởi vì mỗi giờ, mỗi khoảnh khắc có
hàng nghìn người lìa đời trên cõi thế này và linh hồn họ đang ở trước Chúa, và
rất nhiều người trong bọn họ từ giã thế gian trong cô đơn, chẳng được ai biết đến,
họ đau buồn phiền muộn vì không có ai thương họ và thậm chí hoan toàn không biết
đến họ: có họ hay không có họ trên đời. Vậy mà có lẽ từ đầu kia thế giới, lời bạn
cầu khấn cho sự bình an của người đã khuất sẽ đến tai Chúa Trời, tuy bạn hoàn
toàn không biết người đó, và người đó không biết bạn. Linh hồn người qua đời
run sợ trước mặt Chúa, nhưng lúc ấy sẽ cảm động xiết bao vì trên trái đất vẫn
có một người cầu khấn cho mình và yêu mình. Chúa sẽ nhìn cả hai, bởi vì nếu bạn
còn thương người kia thì Chúa càng thương hơn, vì Chúa lòng lành vô cùng và yêu
thương con người hơn bạn. Chúa sẽ vì bạn mà tha tội cho người kia.
Hỡi anh em, đừng sợ tội lỗi của con người, hãy yêu con người
trong tội lỗi của họ, bởi vì đó là thể theo tình yêu của Chúa và là cực đỉnh của
tình yêu trên thế gian. Hãy yêu mọi tạo vật của Chúa, cả toàn bộ và từng hạt
cát. Hãy yêu từng phiến lá, từng tia sáng của Chúa, hãy yêu loài vật, yêu cỏ
cây, yêu từng sự vật bạn sẽ yêu tìm sự vật và sẽ hiểu được bí mật của Chúa
trong các sự vật. Một lần bạn hiểu được và rồi sẽ không ngừng nhận ra ngày càng
nhiều hơn, cứ thế mỗi ngày. Cuối cùng bạn sẽ yêu cả thế gian bằng một tình yêu
bao trùm tất thảy. Hãy yêu loài vật: trời đã ban cho chúng nền tảng nghĩ suy và
niềm vui hiền hòa, đừng chọc giận chúng, đừng hành hạ chúng, đừng phá rối niềm
vui của chúng, đừng chống lại ý trời. Hỡi con người, đừng lên mặt với loài vật:
chúng không có tội lỗi, còn con người, với sự cao cả của mình, đang làm ung thối
trái đất bằng sự có mặt của mình và để lại dấu vết ung nhọt sau khi qua đời, hỡi
ôi, hầu như mỗi người chúng ta đều thế! Nhất là hãy yêu trẻ em, bởi vì trẻ em
cũng không có tội lỗi, các em như thiên thần, các em sống để làm chúng ta cảm động,
để làm cho trái tim chúng ta trở nên trong sạch và như một sự chỉ dẫn cho chúng
ta.
Khốn thay cho kẻ xúc phạm một đứa trẻ thơ. Chính Cha Afim đã
dạy cho tôi yêu trẻ: trong thời gian chúng tôi cùng nhau đi hành hương, con người
dễ thương luôn luôn trầm lặng ấy đã dùng tiền người ta quyên cũng mua bánh kẹo
phân phát cho trẻ em. Ông không thể đi qua chỗ trẻ em mà không rung động cõi
lòng, ông là con người như thế đấy.
Đôi khi người ta băn khoăn, đặc biệt khi nhìn thấy tội lỗi của
người khác và tự hỏi: “Dùng bạo lực hay tình trêu khiêm nhường?” Bao giờ cũng
nên quyết định dứt khoát: “dùng tình yêu khiêm nhường”. Hãy quyết định mãi mãi
như vậy và bạn sẽ chinh phục được toàn thế giới. Sự khiêm nhường chan chứa tình
yêu thương là một sức mạnh ghê gớm, vô địch, không gì sánh được. Từng ngày, từng
giờ, từng phút hãy từ phía ngoài nhìn lại mình, làm sao giữ được cho mình một
hình ảnh cao quý. Này nhé, bạn đi ngang chỗ một đứa trẻ nhỏ mà vẻ mặt hầm hầm,
buông lời phỉ báng, lòng đầy giận dữ; có thể bạn không để ý đến đứa trẻ nhưng
nó nhìn thấy bạn, và có thể hình ảnh xấu xa, đáng khinh của bạn sẽ in lại trong
trái tim bé bỏng không có gì bảo vệ của nó. Bạn không biết điều đó, nhưng có lẽ
bạn đã gieo vào nó một hạt giống xấu, rồi hạt giống ấy có thể sẽ nảy mầm, tất cả
chỉ vì bạn đã không giữ gìn trước mặt trẻ em, bởi vì bạn đã không nuôi dưỡng được
cho mình tình yêu chín chắn, hoạt động. Hỡi anh em, bởi vì tình yêu khó mà có
được, phải mua bằng giá đắt, bằng cố gắng lâu dài và qua một thời gian dài, bởi
vì không phải yêu trong chốc lát, chỉ do tình cờ, mà là yêu trọn đời. Bất cứ
người nào cũng có thể yêu một cách tình cờ, kể cả kẻ bất lương. Người anh trẻ
tuổi của tôi xin chim chóc tha thứ: làm thế dường như là dớ dẩn, nhưng lại là
đúng, bởi vì tất cả gộp lại như một đại dương, tất cả đều trôi chảy và tiếp xúc
với nhau, động chỗ này thì có tiếng vang đáp lại từ nơi cùng trời cuối đất.
Cho dù cầu xin chim chóc tha lỗi là điên rồ đi nữa, nhưng
chim chóc, hay đứa trẻ, hay bất cứ con vật nào ở quanh ta cũng sẽ cảm thấy nhẹ
nhõm hơn, nếu như bản thân ta trở nên cao quý hơn ta hiện giờ, dù chỉ chút
thôi. Tất cả gộp lại như một đại dương, tôi nói với các vị thế đấy. Khi ấy ta sẽ
cầu khấn chim chóc, đắm đuối trong một tình yêu bao trùm, như trong lúc xuất thần,
ta sẽ cầu khấn chim chóc tha tội cho ta. Hãy quý trọng sự xuất thần ấy thì người
ta cho là dớ dẩn. Các bạn ơi, hãy cầu xin Chúa ban cho sự vui vẻ. Hãy vui vẻ
như trẻ em, như chim trời. Đừng vì tội lỗi của người đời mà bối rối trong sự đạo
của mình, đừng sợ rằng tội lỗi sẽ lấn át công quả của mình và không để cho nó
được thành tựu, đừng nói: “Tội lỗi có sức mạnh, sự báng bổ có sức mạnh, hoàn cảnh
xấu có sức mạnh, còn chúng ta cô độc và bất lực, hoàn cảnh xấu sẽ lấn át chúng
ta và không để cho sự đạo tốt lành của chúng ta thành tựu.” Các con, đừng nản
lòng như vậy! Chỉ có một cách cứu rỗi: hãy can đảm tự coi mình là người chịu
trách nhiệm về tất cả tội lỗi của mọi người. Bạn ạ, sự thật là như vậy đấy, bởi
vì hễ bạn thành tâm tự coi mình có trách nhiệm về mọi việc và bạn đích thực là
có lỗi về mọi sự và về mọi người. Còn nếu trút sự lười nhác và bất lực lên mọi
người thì rốt cuộc sẽ nhiễm thói kiêu ngạo của quỷ Sa tăng và sẽ oán trách Chúa
Trời. Về thói kiêu ngạo của quỷ Sa tăng thì tôi nghĩ thế này: chúng ta khó mà
hiểu được thói kiêu ngạo ấy trên trái đất này vì thế ta rất dễ phạm sai lầm và
nhiễm thói kiêu ngạo ấy mà lại vẫn cho rằng ta đang làm một cái gì vĩ đại và
tuyệt đẹp. Vả chăng trong những tình cảm và diễn biến mãnh liệt nhất của thiên
tính chúng ta, còn nhiều điều chúng ta chưa thể hiểu được trong lúc còn sống
trên cõi trần này, đừng vì thế mà ngã lòng và đừng nghĩ rằng đấy có thể là sự
bào chữa nào đó cho mình, bởi vì vị pháp quan vĩnh hằng sẽ chỉ xét xử về những
gì ta có thể hiểu được, chứ không phải về những gì ta không hiểu được, chính bạn
sẽ thấy rõ điều đó, bởi vì khi ấy bạn sẽ thấy hết mọi điều đúng sai và sẽ không
cãi lại. Trên cõi trần này quả là chúng ta như đang lạc đường, và nếu như trước
mắt ta không có hình ảnh cao quý của đấng Kito thì chúng ta sẽ hư mất và lầm lạc
không phương cứu vẫn như loài người trước trận hồng thủy. Trên cõi trần này có nhiều
điều ẩn giấu ta không thấy được, bù lại ta được trời phú cho cái cảm giác bí ẩn
thầm kín về mối liên hệ sống động của chúng ta với một thế giới khác, thượng giới
cao siêu, và gốc rễ của những ý nghĩ và tình cảm của chúng ta không phải ở đây,
mà ở những thế giới khác. Vì thế các triết gia nói rằng ở cõi thế gian này
không thể hiểu được bản chất của sự vật. Chúa lấy hạt giống ở các thế giới
khác, gieo trên cõi đất này và gây trồng ở khu vườn của Ngài, tất cả những gì
có thể mọc lên đã mọc lên, nhưng cây đã mọc lên vẫn đang sống và nó sống chỉ là
do cảm giác về sự cộng thông với những thế giới bí ẩn khác của mình.
Nếu cảm giác ấy suy yếu hay bị hủy diệt trong ta thì cái được
gây trồng trong ta cũng chết lụi. Khi ấy ta sẽ thờ ơ với cuộc sống, thậm chí
căm ghét nó. Tôi nghĩ như thế đấy.
h. Có thể phán xét đồng loại không? Đức tin trọn vẹn
Đặc biệt hãy nhớ rằng bạn không có quyền phán xét ai cả. Bởi
vì trên trái đất này, không thể xét xử kẻ phạm tội trước khi chính quan tòa nhận
thức được rằng bản thân mình cũng là kẻ phạm tội hệt như kẻ đang đứng trước
mình, mà có lẽ còn có lỗi hơn ai hết về tội của kẻ đó. Khi nào hiểu được điều
đó thì mới có thể làm người xét xử. Mặc dù ý nghĩ ấy xem ra đến là rồ dại,
nhưng sự thật là thế đấy, bởi vì nếu tôi là người công bình thì có lẽ sẽ không
có người phạm tội đứng trước mặt tôi. Nếu như bạn có thể nhận lấy tội của kẻ phạm
tội đang đứng trước mặt bạn mà trái tim bạn lên án, thì hãy nhận ngay lấy và
đau khổ thay cho y, hãy thả cho y đi mà không trách móc gì hết. Cho dù chính luật
pháp đặt bạn làm pháp quan thì bạn hãy tận dụng khả năng xét theo tinh thần ấy,
bởi vì người phạm tội sẽ ra về mà tự kết án mình khắc nghiệt hơn sự phán xử của
bạn. Còn nếu kẻ đó nhận cái hôn của bạn, ra về mà vẫn nhơn nhơn, lại còn chế nhạo
bạn thì cũng đừng vì thế mà ngã lòng: như vậy là thời gian của người đó vẫn
chưa đến, nhưng rồi nó sẽ đến; nếu như thời điểm ấy vẫn không đến thì người
khác sẽ nhận ra thay cho người ấy, sẽ đau khổ, sẽ tự lên án mình và sự thật sẽ
được lập lại. Hãy tin như thế, tin chứ không chút hồ nghi, vì tất cả hi vọng và
toàn bộ đức tin của các thánh là ở chỗ đó.
Hãy hành động không ngừng. Nếu ban đêm, khi đi ngủ, bạn nhớ
ra rằng: “Ta chưa làm cái việc cần làm” thì hãy trở dậy ngay và đi làm việc đó.
Nếu quanh bạn toàn là những người hung tợn, nhẫn tâm và không muốn nghe bạn thì
hãy sấp mình trước mặt họ, cầu xin họ tha thứ, bởi vì họ mà không nghe bạn thì
thực sự là lỗi tại bạn. Còn nếu bạn không thể nói với những người nổi khùng thì
bạn hãy lẳng lặng hạ mình phục dịch họ mà đừng bao giờ mất hi vọng. Nếu mọi người
đều ruồng bỏ bạn hay dùng sức mạnh xua đuổi bạn thì khi chỉ còn một mình, hãy sấp
mình xuống đất và hôn đất, hãy nhỏ nước tưới cho đất và đất sẽ đâm hoa kết quả
nhờ nước mắt của bạn, tuy chẳng ai nhìn thấy và nghe thấy bạn trong tình cảnh
đơn độc của bạn. Hãy tin đến cùng, cho dù cả thiên hạ đều lầm lạc đi nữa, chỉ
có bạn là người duy nhất vẫn trung thành: thế thì hãy cứ dâng của lễ và ngợi
khen Chúa, ngay cả khi bạn là người duy nhất còn lại. Nếu có hai người như bạn
gặp nhau thì đấy đã là cả thế giới, thế giới của tình yêu sống động, hãy ôm lấy
nhau trong sự cảm kích và ngợi khen Chúa Trời: bởi vì sự thật của Chúa đã được
tái lập chí ít là ở hai người các bạn.
Nếu chính bạn phạm tội lỗi và đau xót chết đi được về những tội
lỗi hay một tội lỗi bất ngờ của mình thì hãy vui mừng về người công chính, hãy
vui mừng vì nếu bạn tội lỗi thì bù lại, người kia là người công chính và không
có tội lỗi.
Nếu sự tàn ác của người ta làm bạn phẫn nộ và đau xót đến độ,
thậm chí muốn trả thù những kẻ gian ác thì hãy nên sợ tình cảm đó hơn hết. Hãy
tức khắc đi tìm cho mình những nỗi khổ tâm như thể chính bạn có lỗi về sự tàn
ác của người ta. Hãy nhận lấy những khổ tâm ấy và chịu đựng như vậy trái tim bạn
sẽ nguôi dịu và bạn sẽ hiểu rằng chính bạn có lỗi, bởi vì bạn là người duy nhất
không có tội lỗi có chế soi sáng cho những kẻ gian ác, vậy mà bạn đã không làm
được. Nếu như bạn rọi sáng thì ánh sáng của bạn có thể chỉ đường cho người khác
và người khác làm ác có thể đã không phạm điều đó nhờ ánh sáng của bạn. Thậm
chí nếu như bạn đã rọi sáng, nhưng bạn thấy người ta vẫn không đi vào con đường
đúng nhờ ánh sáng của bạn thì cứ vững lòng tin, đừng nghi ngờ sức mạnh ánh sáng
thiên giới. Hãy tin rằng dù bây giờ họ không được cứu rỗi thì sau này họ sẽ được
cứu rỗi.
Nếu sau này họ không được như thế, dù con họ sẽ được cứu rỗi,
bởi vì ánh sáng của bạn sẽ không lụi tắt, dù bạn đã chết. Người công chính qua
đời vẫn để lại ánh sáng. Người ta vẫn được cứu rỗi ngay cả sau khi đấng cứu thế
đã chết. Loài người không chấp nhận những đấng tiên tri của mình và đánh đập họ,
nhưng người ta yêu những người tuẫn đạo và tôn kính những người bị hành hạ. Còn
bạn làm việc vì mục đích toàn cục, bạn hoạt động vì tương lai. Đừng bao giờ tìm
kiếm phần thưởng, bởi vì chẳng cần thế thì phần thưởng của bạn trên trái đất
này cũng đã quá lớn rồi: niềm vui sướng tinh thần của bạn là niềm vui sướng mà
chỉ bậc công chính mới có được. Đừng sợ những người quyền quý và những người mạnh
thế, nhưng hãy là người hiền minh và luôn luôn cao quý. Phải biết chừng mực, phải
biết mọi sự đều có hạn kì, hãy học biết điều đó. Hãy lánh mình đi mà cầu nguyện.
Hãy yêu mến đất, sấp mình xuống mà hôn đất. Hãy hôn đất, hãy yêu không ngừng,
không biết chán, yêu tất cả mọi người, yêu tất cả mọi vật, hãy tìm kiếm sự hân
hoan và cuồng loạn ấy. Hãy làm cho đất thấm đẫm giọt mắt vui sướng của bạn và
hãy yêu những giọt lệ ấy của bạn, đừng hồ thẹn về sự cuồng loạn ấy, hãy quý trọng
nó, vì đấy là ân sủng Chúa ban cho, một ân súng cực kỳ lớn lao mà không mấy người
được hướng, chỉ có những người được quyền chọn.
i. Về địa ngục và lứa địa ngục, luận thuyết huyền bí
Thưa các cha và các thầy, tôi tự hỏi: “Địa ngục là gì?” Tôi
luận giải thế này: “Là nỗi đau khổ vì không thể yêu được nữa.” Một lần, trong
cõi vô tận không đo được bằng thời gian cũng như không gian, một sinh vật có
linh hồn xuất hiện trên trái đất và được trời phú cho khả năng tự nói với mình:
“Tôi tồn tại, vì vậy tôi yêu.” Một lần, chỉ một lần thôi, sinh vật đó được ban
cho một khoảnh khắc tình yêu hoạt động, sống động, vì thế mà có được kiếp sống
trần thế có hạn định thời gian, vậy mà thế nào: sinh vật đầy ơn phúc ấy đã khước
từ món quà vô giá, không quý trọng và yêu mến khả năng ấy, lại còn có thái độ
giễu cợt, vậy nên vẫn cứ là giống vô tính. Người như thế, khi đã lìa đời, nhìn
thấy cõi cực lạc và chuyện trò với Abram (1) như ta đã biết qua câu chuyện
ngụ ngôn về người giàu có, về Laza (2), người ấy chiêm ngưỡng thiên đường và có
thể đến trước Chúa Trời, nhưng y khổ tâm chính bởi lẽ y lên trước Chúa Trời mà
chưa từng yêu, y sẽ tiếp xúc với những người đã từng yêu, song y đã khinh rẻ
tình yêu của họ. Bởi vì bây giờ y thấy rõ và tự nhủ: “Giờ đây ta đã biết khao
khát yêu, nhưng tình yêu của ta sẽ không làm nên công quả gì, không phải là sự
hi sinh, bởi vì kiếp sống trần gian đã chấm dứt và Abram sẽ không đến vẩy cho
ta lấy một giọt nước hồi sinh (nghĩa là lại ban sự sống trần thế hoạt động trước
kia) để làm nguội lạnh ngọn lửa khao khát tinh thần giờ đây đang bừng bừng
trong ta, tình yêu mà ta đã coi rẻ khi còn ở cõi đời: không còn mạng sống nữa,
và cũng không còn thời gian nữa! Dù ta có vui lòng hi sinh mạng sống cho người
khác thì cũng không được nữa, bởi vì sự sống mà ta có thể đem hi sinh cho tình
yêu đã qua rồi, bây giờ có một vực thẳm giữa sự sống ấy và sự tồn tại hiện
nay.” Người ta nói về lửa địa ngục như một biểu hiện vật chất cụ thể: tôi sợ
không dám nghiên cứu điều bí ẩn đó, nhưng tôi nghĩ rằng nếu đó là lửa cháy thực
thì đúng là tôi vui mừng, bởi vì tôi mơ ước như thế, trong nỗi đau khổ về thể
xác họ sẽ quên đi trong giây lát nỗi đau khổ tinh thần cực kì ghê sợ. Mà không
thể giải trừ cho bọn họ sự đau khổ tinh thần đó, vì cái đau dằn vặt ấy không phải
là cái đầu tiên ở ngoài, mà ở bên trong. Mà nếu như có thể giải trừ được thì
tôi cho rằng họ sẽ càng khốn khổ hơn, bởi vì tuy những bậc công chính trên
thiên đàng tha thứ cho họ đau khổ nhiều hơn, bởi vì chỉ càng thổi bùng lên
trong họ ngọn lửa khao khát tình yêu hoạt động và biết ơn để đền đáp lại mà họ
không sao có được nữa. Lòng tôi nhút nhát, nhưng tôi nghĩ rằng chỉ riêng việc họ
nhận ra rằng bây giờ họ không còn khả năng ấy nữa rốt cuộc sẽ làm cho họ nhẹ
nhõm hơn, bởi vì khi chấp nhận tình yêu của những bậc công chính mà không đền
đáp lại được, trong sự vâng lời và khiêm nhường của mình, cuối cùng họ sẽ tìm
được một hình ảnh nào đó của tình yêu. Hỡi các anh em và các bạn của tôi, tôi lấy
làm tiếc là không thể nói điều này cho thật rõ. Nhưng khốn thay những kẻ tự hủy
diệt mình trên cõi thế gian, khốn thay những kẻ tự sát (3)! Tôi cho rằng không
có ai khốn khổ hơn những người này. Người ta bảo rằng cầu khấn Chúa Trời cho những
người này là phạm tội lỗi và bề ngoài nhà thờ dường như gạt bỏ họ, nhưng trong
thâm tâm tôi nghĩ rằng, có thể cầu khấn cho những người như thế, tôi xin xưng tội
với các vị, thưa các cha và các thầy, và bây giờ ngày nào tôi cũng cầu khấn cho
họ.
Chú thích:
Chú thích:
(1) Theo “sáng thế kỷ”, Abram là người được đức Giehova lựa
chọn, ban ơn phước, là tổ tiên dân Israel (N. D).
(2) Phúc âm theo Luca; chương XVI, đoạn 19-31. Laza nghèo khổ
ghẻ lở, nằm ngoài cổng nhà giàu. Sau khi chết Laza được thiên sứ đặt vào lòng
Abram, còn người giàu thì linh hồn xuống địa ngục, chịu lửa thiêu (N.D).
(3) Theo quan niệm của nhà thờ Cơ đốc, tự sát là một trong những
tội trọng. Người tự sát không được mai táng theo lễ tang nhà thờ như những người
khác (N.D).
Ôi, dưới địa ngục cũng vẫn có những người kiêu ngạo và hung dữ,
mặc dù đã biết rõ mười mươi và chiêm ngưỡng cái sự thật không thể chống cưỡng
được; có những người ghê gớm hoàn toàn nhiễm tính quỷ Sa tăng và thói kiêu ngạo
của nó. Đối với những người đó, địa ngục là nơi họ tự nguyện đến và không bao
giờ nó làm họ chán: đấy là những kẻ tự nguyện chịu khổ hình. Bởi vì chính họ tự
nguyện rủa mình, sau khi đã nguyền rủa Chúa Trời và cuộc sống. Họ tự nuôi dưỡng
bằng sự kiêu ngạo hung ác của mình, như kẻ đói trong sa mạc tự mút máu trong cơ
thể mình. Nhưng họ đời đời không biết no chán và khước từ sự tha tội, họ nguyền
rủa Chúa Trời vẫn đang kêu gọi họ. Họ không thể chiêm ngưỡng Chúa Trời hằng sống
mà không căm thù và đòi hỏi không được có Chúa Trời của cuộc sống, đòi Chúa Trời
phải tự hủy diệt và hủy diệt mọi thứ Chúa sáng tạo ra. Và họ sẽ đời đời cháy
trong ngọn lửa giận của họ, sẽ khao khát cái chết và hư vô. Nhưng cái chết
không đến với họ…
Bản thảo của Alecxei Fedorovich Karamazov chấm dứt ở đây.
Tôi nhắc lại: nó không đầy đủ và rời rạc. Chẳng hạn, những điều
về tiểu sử chỉ bao gồm thời kì đầu tuổi xuân của trưởng lão. Những lời thuyết
pháp và những ý kiến của Cha, rõ ràng nói vào những thời kì khác nhau, vì những
lí do khác nhau, nay được gộp cả lại như một toàn bộ thống nhất. Tất cả những
gì thực ra trưởng lão đã nói trong những giờ cuối cùng của đời mình không phải
là đích xác, mà chỉ cho một khái niệm về tinh thần và tính chất của cuộc đàm đạo
ấy, nếu so với bản thảo của Alecxei Fedorovich, ở đó anh đưa vào cả những lời
thuyết pháp trước kia. Phút lâm chung của trưởng lão đến bất ngờ. Bởi vỉ trong
tất cả những người đến thăm Cha trong buổi tối cuối cùng ấy hoàn toàn hiểu rằng
cái chết của Cha đã gần kề, nhưng không thể tưởng tượng rằng nó đến bất ngờ như
thế: trái lại, bạn bè của Cha, như tôi đã lưu ý ở trên, đêm hôm ấy thấy Cha dường
như rất đỗi hào hứng và nói nhiều, nên thậm chí tin chắc rằng sức khỏe của Cha
đã khá hẳn lên, ít ra là một thời gian ngắn. Thậm chí năm phút trước khi Cha tắt
thở, vẫn không thể thấy trước gì cả, sau này họ ngạc nhiên kể lại. Cha bỗng cảm
thấy đau nhói ở ngực, tái người đi, hai tay ôm chặt lấy ngực chỗ tim đập. Mọi
người đều đứng dậy và đổ xô đến. Nhưng, tuy đau đớn, Cha vẫn mỉm cười nhìn họ,
từ ghế bành từ từ tụt xuống sàn, quỳ gối, rồi phủ phục mặt sát đất, dang hai
tay ra, và dường như hân hoan vui sướng hôn đất và cầu nguyện (như chính Cha đã
dạy), nhẹ nhàng và vui sướng hiến linh hồn cho Chúa. Tin trưởng lão từ trần lập
tức lan ra trong tu xá và truyền đến tu viện. Những người thân cận nhất với người
vừa mới qua đời và những người có bổn phận (theo quy định của nhà thờ) bắt đầu
sửa soạn cho thi hài Cha theo nghi lễ cổ, cả giáo đoàn tụ tập ở nhà thờ lớn.
Sau này người ta đồn rằng trời chưa sáng, tin trưởng lão qua
đời đã đến thành phố. Sáng ra gần như cả thành phố nói về biến cố vừa xảy ra và
người ta lũ lượt kéo đến tu viện. Những chuyện ấy chúng tôi sẽ nói đến trong
quyển sau, bây giờ chỉ xin nói trước rằng ngay trong ngày hôm ấy đã xảy ra một
việc không ai ngờ, và ấn tượng do nó gây ra trong tu viện và trong thành phố
xem ra kỳ lạ, đáng lo ngại và hỗn độn đến nỗi cho đến nay, sau ngần ấy năm,
trong thành phố chúng tôi vẫn còn nguyên kỷ niệm sống động về cái ngày vô cùng
sóng gió đối với nhiều người…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét