Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2020

Cảm thức tha ngã luận 1

Cảm thức tha ngã luận 1
DẪN NHẬP
“Thực tại chỉ là một linh cảm tập thể”[*]
(Lily Tomlin)
Khởi sự để truy vấn về hữu thể là công cuộc bước trên lộ trình mang viễn tượng dự phóng vào vô cùng. Tuy nhiên, không vì thế mà khát khao để đem lại những gì về hữu thể được thường xuyên hiển lộ từng bước trở nên bất khả. Cũng có thể nói rằng, cố gắng phác thảo ra ở đây cũng chỉ là phản ánh dưới khía cạnh tự nó giới hạn lại phân vùng khi nó truy vấn về hữu thể mà thôi. Hữu thể, ở đây, mang tính chất tha ngã tính được nhìn nhận dưới khía cạnh khả năng của các tha thể (hiểu như những khả thể). Tính chất chủ đạo này đóng vai trò trở thành phương thức hướng định đến để hội nhập về phía đích thân hữu thể đang không ngừng hội thông và lưu dẫn vào thực tại. Dựa trên khía cạnh gán như nó với cơ sở mang tính chính thống cho công cuộc xác lập nên hệ hình hữu thể tha ngã tính, cảm thức điềm nhiên phác thảo và phác thảo không ngừng về chính tiên nguyên tha ngã dựa trên sự kiện chủ thể tính (cổ điển) đang bị thao túng và tiến dần đến biến cố cáo chung chính nó. Sau đây chính là một phong cảnh lãng mạn mà chúng ta có thể chiêm ngưỡng được, thông qua lộ trình phác thảo của cảm thức về tiên nguyên tha ngã đầy tinh tế này.
Huế, 15.12.2013
CHƯƠNG I
BẢN THỂ THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN
1. CẢM THỨC KÍCH XUẤT KHÔNG GIAN.
1.1 DIỄN GIẢI VỀ CẢM THỨC
Cảm thức là cái chứa đựng một diễn trình mang tính tác động chung cuộc trong việc hướng định đến tổng phần nội tại của chủ thể. Diễn trình đó, ở đây, chính là sự tương quan giữa cảm giác và tri giác, chúng cùng hòa quyện vào nhau và liên thông với nhau. Khi nhận thức, bản thân chủ thể luôn là trung tâm của những gì được tác động đến. Yếu tố đầu tiên chi phối quá trình nhận thức không gì khác đi ngoài cảm thức, nói cảm thức, ở đây, là muốn nhấn mạnh đến cả cảm giác lẫn tri giác, đồng thời, không loại trừ ra khỏi mối quan hệ trong quá trình tác động qua lại giữa cảm giác và tri giác. Rõ ràng rằng, việc chú ý đến tính tương quan giữa tác động qua lại đối với cảm giác và tri giác là một sự chú ý rất cần thiết, bởi lẽ, chỉ khi nhìn nhận về mối tương quan đó thì xem xét đến cảm thức, ta sẽ thấy được mức độ quan trọng của cảm thức là như thế nào.
Và chính sự tương quan ấy mà trong một mức độ tối thiểu sẽ cho chúng ta hiểu rằng, nó không gì khác chính là một diễn trình, do đó, cảm thức là cái chứa đựng một diễn trình. Những gì tác động đến từ thế giới bên ngoài sẽ phải được thực hiện thông qua cảm thức. Như vậy, chính cảm thức là một sự tác động - một sự tác động trung gian - và giả sử, nếu như sự tác động này không tồn tại thì sẽ dễ dàng thấy rõ về một hệ quả rằng, chủ thể không có được tri thức. Nhưng sự tác động của cảm thức không chỉ có thế, mà cảm thức, vai trò quan trọng của nó, hơn hết, được nói đến ở đây, chính là bản chất của sự tác động mà nó đảm nhận. Sự tác động đó không thể được coi là một sự tác động đơn thuần, như chính sự tác động từ thế giới bên ngoài về phía chủ thể, mà sự tác động của cảm thức mang bản chất là một sự tác động chung cuộc, tất nhiên, chính sự tác động đó bao hàm một diễn trình như đã nói. Một sự tác động bao quát.
Nói về diễn trình như thế, tôi muốn nhấn mạnh đến tính biết của cảm giác/sự biết của cảm giác. Ở cảm thức, theo định nghĩa trong tâm lí học, “là một ý thức trực tiếp và minh tàng về một nội dung tâm thần hiện có trong tâm trí mà không bao giờ được nghĩ tưởng đến hay biểu lộ qua các phản ứng cảm xúc hoặc các động tác vừa mới phát sinh, hoặc các ý hướng hay chiều hướng suy tưởng”[*].
Sự biết của cảm giác theo cách hiểu cũng về khái niệm cảm thức, ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến tính chất “trực tiếp và minh tàng”, đó như là biểu hiện của trực giác được soi chiếu một cách đồng bộ cùng cảm giác và tri giác trong quá trình nhận thức, được diễn giải dưới tên gọi khác đi như là một diễn trình. Với diễn trình là một quá trình đang tiếp diễn. Đó là một quá trình mà việc nhìn nhận về nó, ở đây, chúng ta muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chính quá trình đang được nói đến, ngay trong quá trình đang nói hay đang nhìn nhận về nó, để thấy rõ được tính tiếp diễn của chính nó là như thế nào. Quá trình đó hội tụ những khía cạnh mà việc chúng ta nhìn nhận về nó, khiến chính sự nhìn nhận ấy được đảm bảo cho mức độ khái quát, về những hệ quả đạt được mà quá trình đó có được.
Chính vì thế, cảm thức, không gì khác, tự bản thân, nó chính là một tổ hợp giữa cảm giác, tri giác và trực giác. Nhưng không phải, tổ hợp ở đây, đơn thuần chỉ là việc nhìn nhận có 3 viên bi trong một hộp giấy hình vuông kín, chứa đựng chỉ riêng 3 viên bi xanh, vàng, đỏ, mà tổ hợp đó mang tính tác động chung trong cung cách biểu hiện vai trò. Điều này, phải chăng, tương tự như “một phức hợp gồm những ý lực (idées forces) hay những khuynh hướng chủ đề (thématisme) tình cảm, biểu tượng, ảnh tượng hay phán đoán về giá trị vui thú và buồn khổ, đôi khi về cảm xúc và các tác động gây ra hiệu quả cho cảm thức”[*], được hiểu như bản chất sâu kín của cảm thức trong tâm lí học. Phức hợp đó cũng chính là tổ hợp theo một sự diễn giải tương đồng. Hệ thống tâm lí (tâm hệ) của mỗi cá nhân, trong sự hướng định đến của cảm thức, chính bằng với tổng phần nội tại của chủ thể.
Tổng phần đó, chính là một hệ thống. Mà hệ thống này gieo thành sự ủy thác ý thức tính từ phía tâm hệ trải ra trên bình diện mạnh mẽ của cảm tính. Ở đây, chúng ta thấy rằng, khi tri nhận một sự vật/hiện tượng, cảm thức đồng thời huy động những định phần có trong chính bản thân mình. Và bằng cách phân tích những định phần đó, chúng ta sẽ thấy được bình diện cảm tính của cảm thức nhấn mạnh ở đây luôn trong dưới một cái nhìn trung thực nhất.
Với việc nhìn nhận diễn trình mang tính tác động chung cuộc của cảm thức, nên tự nó mang những khuynh hướng, mà những khuynh hướng đó, luôn khi nào cũng có đối tượng của riêng nó. Khuynh hướng vạch nên đường lối mà chính những định phần của nó hướng đến trên những đối tượng thành phần. Cảm giác có đối tượng của cảm giác, tri giác có đối tượng của tri giác và trực giác cũng không ngoại lệ, trực giác có đối tượng của trực giác. Những đối tượng đó, mà bản thân mỗi định phần tạo ra các khuynh hướng cho riêng mình làm nên tác động, điều này giải thích vì sao ở cảm thức lại mang một tính chất chung cuộc trong việc hướng định đến tổng phần nội tại của chủ thể. Mà chủ thể, nói đến nó, chính là nhằm chỉ ra một đối tượng, ở đó, nó – chỉ đối tượng đó – không gì khác ngoài những gì đang thực hiện một sự phân biệt với những gì khác nó. Ở đó, nó luôn luôn đảm nhận một vai trò được xem xét như là trung tâm của sự tiếp biến những tác động từ bên ngoài về phía chính nó. Nói một cách chính xác hơn rằng, chủ thể là thành phần của quá trình nhận thức thế giới, mà ở đó, chủ thể đóng vai trò tiếp thu những gì từ thế giới bên ngoài đang luôn luôn tác động đến chủ thể. Tác động, nhưng phải thực sự hướng định một đích đến nào đó. Đích đến ấy, không gì khác, chính là tổng phần nội tại của chủ thể. Tổng phần đó phải đang có để đảm bảo tính diễn trình của cảm thức, đồng thời, tổng phần đó là nội tại, tức là nó phải chứa đựng trong chính bản thân chủ thể, nội tại của chủ thể là ở trong bản thân chủ thể. Tổng phần nội tại của chủ thể, được nói đến, để chỉ ra rằng, xem xét về nó, chính là thực hiện một nhìn nhận có liên quan với những gì tồn tại bên trong bản thân chủ thể, mà ở đó, chủ thể có được hình dung như là chủ nhân sở hữu một cách chính đáng những thứ đó vậy. Cảm thức thực hiện công cuộc hướng định đến tổng phần ấy, nhằm để chỉ ra rằng, cảm thức luôn luôn là một yếu tố quan trọng trong sự tác động mang tính nhắm đến cái đích đó. Nhìn nhận về mức độ quan trọng của cái đích đó, như thế, để gián tiếp nâng cao vai trò của cảm thức. Cảm thức, ở đây, được hiểu như một sự hiểu biết đầu tiên, nhưng không là hiểu biết nhỏ nhặt, mà chính nó, thực hiện một sự chi phối gián tiếp đến tổng phần nội tại của chủ thể, như đã nói.
Cảm thức thắt chặt và bủa vây mọi ngóc ngách mà nó hiện có, để tự nó phác thảo ra một diễn trình, được hiểu như là một diễn tiến quá trình trên những khuynh hướng nhắm đến đối tượng, từ phía mỗi định phần ở trong cơ cấu của chính nó. Trong đó, hướng định chính là việc nhìn nhận để chuyển tải về một đối tượng, khi quá trình nhận thức được thực hiện, đó chính là bước kế tiếp của sự phản ánh thế giới (sự chịu sự tác động hay tiếp thu tác động từ thế giới).
Và chính cơ cấu định phần của cảm thức, không gì khác, chính là cơ cấu tiền niệm, xây dựng nên hay vạch ra, để trả lời/đem lại/mang đến những lời giải đáp thực sự rõ ràng cho cảm thức – khái niệm được sử dụng chứa đựng từ tính chất của hiện tượng. Cơ cấu đó trình bày một cách thông suốt hơn tính minh bạch hóa của cảm thức.
Cơ cấu tiền niệm diễn giải nên sự hiển minh cấu trúc không trương của cảm thức và ưu trương của thời trường. René Descartes nổi tiếng với mệnh đề “Cogito ergo sum – Tôi tư duy, vậy tôi hiện hữu”. Thì chính cái tôi tư duy của Descartes rộng ra là vật suy tư (res cogitans), cùng với cái tôi hiện hữu đó, rộng ra là vật khả trương (res extensa) và bằng hành động phủ định đặc tính diên trường ấy sẽ làm nên một phần cấu trúc cho sự hiển minh của cảm thức được diễn giải đi bởi cơ cấu tiền niệm. Cơ cấu tiền niệm chính là sự quy hồi từ cơ cấu định phần cảm thức trên mức độ trực tính thành phần. Một chiết suất sẽ được quy hồi thành kết quả của quá trình tri nhận/thụ nạp (tri thức) từ phía đối tượng, tạo ra nhờ vào những định phần ấy.
Nói đến không trương cảm thức là muốn nhấn mạnh đến tính khả nhiên của những định phần diễn tiến bên trong tâm hệ. Một sự vật/cái gì đó hiện hữu thì được gọi là vật khả trương, chính nhằm vào sự căng trương như là định tính của vật chất, mà sự vật hay cái gì đó chỉ có thể có được, khi nó hiện hữu. Còn cảm thức mang tính không trương, thì để hiểu được tính chất này, chính bằng với việc phủ định đi tính khả trương của đối tượng mang nó, hay nhìn nhận dưới một khía cạnh khác đi của ngôn ngữ xưng danh, thì không trương chính là không khả trương. Và đối tượng mang đặc tính không trương thường là những đối tượng thuộc về tinh thần, hay được biểu hiện khác đi trên một bình diện của cái được gọi là vật suy tư. Mọi định phần của cảm thức đều mang tính không trương, biểu hiện qua cơ cấu tiền niệm, được diễn giải, trước hết, tạo nên một sự hiển minh.
Trong khi tri nhận, mỗi phân vùng của cảm thức sẽ tạo nên những dải tần khỏa lấp vào mọi bộ phận tâm hệ. Một khi sự kiện khỏa lấp đó, được tạo ra với một tiến trình hồi quy bình thường, thì diễn tiến của chính những sự kiện ấy, tạo nên tính thời trường của cảm thức. Nó giống với điều gì đó, bắt đầu xuất hiện, đi qua và lấp đầy. Trong cấu trúc tạo nên sự hiển minh của cơ cấu tiền niệm, được diễn giải ra một cách thành công thì cần phải thông qua thuộc tính ưu trương của thời trường. Với những bình diện sơ đẳng nhất của định phần cảm thức, mỗi định phần luôn dàn nạp cho mình những động cơ mang tính tiềm ẩn, nhưng chính những động cơ đó lại luôn là những khuynh hướng chiếu xét theo sự ưu đẳng, trong quá trình tri nhận. Và chính những khuynh hướng xuất phát từ bản thân của các định phần hướng đến đối tượng của chính nó, chi phối lên trên tâm hệ và hướng cơ cấu tiền niệm đi theo một cách thông suốt, trên lộ trình của diễn tiến khỏa lấp, mà thời trường triển khai ra.
Cơ cấu tiền niệm tối ưu so với cơ cấu định phần cảm thức, như là thượng tầng của chính nó, mà cơ cấu định phần đóng vai trò làm hạ tầng cơ sở. Bằng với hành động nhấn mạnh đến định tính linh hoạt của thời trường, được điều chỉnh trên cơ cấu có trong tâm hệ ngã theo những chiều hướng ưu đẳng nhất, mà tự thân vai trò của mỗi định phần có trong cơ cấu định phần cảm thức phác thảo ra. Do đó, cơ cấu tiền niệm chi phối, chi phối một cách đồng bộ, quy định tính diễn giải về cấu trúc không trương của cảm thức và đặc tính ưu trương của thời trường. Khuynh hướng mà cảm thức nhắm đến chính bằng việc soi xét tính tường minh của cơ cấu vừa nêu. Đặc cách của thời trường là không mang vác sự đẳng trương mà ý hướng về không trương của cảm thức lại được tạo dựng trong một cung cách liên quan đến đặc tính ưu trương của thời trường diễn ra trong tâm hệ. Và cũng với tính ưu trương đó, mà trên những đương lượng tồn tục triền miên (miên tục) có trong chính bản thân thời trường, làm nên một sự giao phó thâm sâu từ phía cảm thức.
Miên tục của thời trường là một định lực của cảm thức. Trong cơ cấu tiền niệm của cảm thức, ta đã biết được thời trường là gì. Và miên tục của thời trường là sự kiện biên niên tồn tục một cách triền miên của thời trường. Nó đi qua và đi qua trên chính những đương lượng được khảo sát đồng thời nhất. Trong sự giao phó của cơ cấu tiền niệm được hiển minh cho đặc tính ưu trương thời trường, miên tục đóng vai trò làm cấu nối giữa những chuỗi sự kiện diễn ra trong quá trình thời trường được huy động thịnh hành. Vì thế cho nên, miên tục tiệm vị trong nó sự định hướng tái chuẩn hóa của những lược đồ tri nhận mà cảm thức vẽ ra. Không có một dính dáng tất yếu nào giữa những sự kiện được khởi thảo nên trong miên tục mà tương ứng với những hệ quả bị cố kết chặt chẽ trong từng đối tượng. Nhưng lưu ý, ở đây, miên tục này là miên tục thời trường, nhằm để phân biệt với miên tục mang tính chất huyền nhiệm tiềm ẩn trong bản thân thực tại. Miên tục của thực tại là tất cả những gì có đó và không có ở đó. Có đó, bởi vì, nó là tồn tục, tồn tục sự tồn tục chứ không phải tồn tục của những khoảng tồn tục. Và không có ở đó, chính là một khi sự tồn tục tồn tục rồi thì không còn gì ở đó nữa để mà sẽ được hiểu như chính những gì ở đó là sẽ được tồn tục.
Miên tục của thời trường, do đó, chứa đựng những gì mà cảm thức giao phó với sự đặc cách tinh tường nhất, khởi đi khả hữu tự thân. Và sự đặc cách tinh tường đó, chứa đựng tính khả hữu kìm nén trong bản thân thời trường, chẳng qua, cũng chỉ là một liên tiến của những xâu chuỗi hiển hiện trong bản thân cảm thức. Cho nên, điều đó dẫn đến sự tương thích giữa những gì mà bản thân miên tục của thời trường có được, bằng với chính những gì mà cơ cấu tiền niệm, trên đương mức thuần thành nghiêng về phía ưu trương của thời trường tác chuyển nên. Bản thân miên tục thời trường là những đồng đẳng được hiểu như những định lực của cảm thức có khả năng hoán vị. Không chồng chéo như điều gì đó là hiển nhiên, trong cơ cấu biểu hiện ra, rõ ràng rằng, để có thể hiểu về miên tục thời trường dưới ánh sáng một định lực của cảm thức, thì chỉ có thể xét trong sự thoát ly những hợp cảnh tồn hữu, khi khởi đi xây dựng hệ hình mang đầy tính ngẫu biến của bản thân những tương tranh xuất hiện trong cảm thức.
Đôi khi, sự hiện diện miên tục của thực tại lại là những mức độ ứng biến có trên hệ hình thao tác cảm thức, gieo vào miên tục của thời trường là một điểm nhấn mang tính định lực. Ở đây, cảm thức như muốn qua lăng kính miên tục của chính đặc tính thời trường cảm thức, cơ cấu tiền niệm khúc xạ qua đó, mang những gì chứa đựng từ sự ưu trương của thời trường tìm về một lộ trình quy hợp trên chung cuộc không trương cảm thức. Yếu tố định lực được diễn giải ra ở đây, không gì khác, mang những mong muốn đang ngày đêm có trong cảm thức thôi thúc qua miên tục thời trường của chính nó. Tuy nhiên, như đã nói, ưu trương của thời trường thực hiện một lộ trình tìm về không trương của cảm thức qua lăng kính miên tục chính nó, việc biện giải như thế, đôi khi, được thôi thúc từ chính những gì đang từng ngày được giản quy đi đến một sự tồn hợp không còn đoán định từ những phía nào, để cưu mang cho nó một sự tự trị thích đáng trong những gì là vô nghĩa. Định lực của cảm thức không là gì khác đi ngoài những gì miên tục thời trường biểu hiện ra trên cơ cấu tiền niệm của cảm thức. Hẳn nhiên, luôn là có một sự hạn định của những phông nền diễn giải thật cặn kẽ và chi tiết, để tạo nên điều gì đó rõ ràng ở tính chất của thời trường không khi nào không tương tác với cảm thức.
Cho nên, tác động của luận lý về cảm thức đang nắm giữ cơ trình thiết tạo vào thời trường là hoàn toàn bất lực. Bằng với những cố gắng diễn giải một cách chặt chẽ nhất, như là mong muốn của luận lý từ sự tác động của chính nó hướng đến đối tượng bất kỳ, bản thân cảm thức là bất khả kháng để diễn giải tường minh tuyệt đối. Do đó, tác động của luận lý nhắm đến cảm thức mang bản tính bất phục. Cảm thức đang nắm giữ cơ trình thiết tạo vào thời trường, chính muốn nhấn mạnh đến vai trò sâu sắc của cảm thức tạo ra thời trường. Trong khi thời trường xảy ra thì việc biểu hiện của nó trở thành đặc tính ưu trương, như là biểu hiện nổi bật nhất, luôn tiếp cận với tính không trương của cảm thức. Mà thực sự, những nhân tố đó có thể có khả năng khơi gợi ra rõ ràng, nhưng vì mang tính đồng thời trình hiện trong thời trường, nên việc dàn nạp những nhân tố đó khó có thể biểu hiện rõ rệt. Việc diễn giải chỉ là, trong một phần nào đó, tự nó giới hạn lại vào vai trò của chính nó, khi mà cơ trình thiết tạo vào thời trường, luôn hướng đến, nhằm xây dựng một giá trị tới hạn của những gì làm nên bản thân cảm thức.
Tính bất lực của luận lý được nêu ra ở đây là muốn nhắm đến, không gì hơn nữa, tính bất toàn của diễn giải về cảm thức. Hậu tố từ cảm thức chưa thực sự được xây dựng nên một cách chắc chắn, nhưng hạn định tất cả những gì gieo rắc thành tư tưởng phi tuyệt đối, khi nhắm đến để hiểu hơn về cảm thức vẫn là một mong muốn tiếp cận chính đáng. Bởi dù gì đi nữa thì tiếp cận cũng là mong muốn tiệm cận đến dù có khó khăn ở những biên vùng đòi hỏi điều gì đó thật sự rạch ròi và chặt chẽ. Bởi chính đòi hỏi ấy, đã làm cạn kiệt đi nỗi nào giảm thiểu những đề hướng về cảm thức. Và một lần nữa, thời trường cảm thức đóng vai trò của những phác đồ thâm sâu về cảm thức, vẽ ra từ viễn tượng của sự trình hiện tự bản thân chính nó.
Vì vậy, lược đồ của lộ trình hành xử không trương cảm thức cơ cấu nên  miên viễn về tụ độ của chú ý vào thời trường. Hẳn nhiên là ở đây, chúng ta đã thấy rất rõ mối quan hệ giữa không trương cảm thức và ưu trương của thời trường. Đặc tính ưu trương của thời trường, dưới một biểu hiện nào đó, gọi là miên tục của chính nó, như đã nói, chính là một định lực của cảm thức. Nhưng còn hơn thế nữa, sự chú ý của cảm thức vào thời trường đang hiện hoạt trong nó, thông qua điểm quy kết tụ độ, là rõ ràng và thông suốt hơn để suy nghĩ trên những miền thửa xa xăm của các quy tắc linh động trong tâm hệ. Thâm nhập từng ngày vào cảm thức để hình thành nên một trật tự, một toàn vẹn tồn sinh, lược đồ của lộ trình hành xử không trương cảm thức luôn bảo tồn tính nguyên vẹn trong từng khoảnh khắc hiện hoạt. Mỗi định phần trong cơ cấu, được diễn giải rộng hơn qua cơ cấu tiền niệm, bung vỡ ra những cuộc hội nhập song trùng, mà chính sự định hướng mang tính chỉ dẫn xuất phát từ mỗi định phần, đã cần đến một tụ độ của chú ý chính bản thân cảm thức nhìn ngắm về phía thời trường, như là nhìn ngắm về những gì nó đang xảy ra, khi tiến hành hoạt động tri nhận.
Tính không trương cảm thức và ưu trương thời trường được khúc xạ về nhau qua lăng kính miên tục của chính thời trường. Ở đây, nói miên viễn về tụ độ  chú ý vào thời trường, chính muốn nói rằng, không có một cái nhìn cận cảnh cho việc thu nhận bất kì một thông tin nào, khả hữu, từ lộ trình đó, để suy diễn trong mối tương quan về ưu trương của thời trường chịu định hướng bởi tụ độ chú ý. Tất cả quá trình đều có sự can thiệp, can thiệp đó chính là sự tương tác lẫn nhau giữa không trương cảm thức và ưu trương thời trường. Qua cái nhìn miên viễn về tụ độ chú ý, thời trường thực hiện một bước phóng vọt hướng đến trung tâm của những định phần làm nên không trương cảm thức, nhằm kết hợp các đặc thù đó lại với nhau, để điều động thành một mong mỏi nguyên vẹn toàn thể.
Nói đến lộ trình ấy, chúng ta như lùi ra xa một bước, để nhìn ngắm về phía không trương cảm thức đang từng ngày khỏa lấp đi những khoảng trống không đáng có. Từ đó chiết xuất ra, một cách thật sự không phải là lật lọng, tất cả những đề hướng làm nên cơ cấu định vị tương quan trên từng đối tượng chiếm hữu, mang các khuynh hướng được quy chiếu hẳn hoi. Tụ độ chú ý, ở đây, được gieo mầm trong chính từng hướng định quy chiếu rốt ráo ở trực tâm của mỗi định phần. Nó khả hữu bao hàm những gì miên man nhất có trong mỗi định phần không thể không nhằm kết hợp/củng cố các cuộc thoái trào lộn ngược, xuất phát từ chính bản thân mỗi định phần. Tụ độ chú ý, tự nó hạn định cho ý chí của những trực tính mỗi định phần có được biểu hiện hợp lý. Ấn tượng về tụ độ, cũng chỉ có thể khai sinh nên bên trong cảm thức đang miên man, trôi trong lang thang của thời trường. Định vị tụ độ là bước quy kết không khả quan. Nó có thể, nay đây mai đó trong tâm hệ, quy kết trên giá trị tới hạn của cảm thức. Tụ độ tự nó thực hiện một kiểu cách chế tác bí nhiệm cho chính nó, khi đặt tất cả mọi sự chú ý, rộng ra là ý chí, vào vùng thửa của cảm thức, chính là không trương của mỗi định phần. Tại vị của mỗi định phần cảm thức là cố kết, nhưng cơ chế hiện hoạt của chúng lại rất linh động, vì linh động cho nên ngẫu sinh ra thành nhiều cương mục, mà tụ độ mang khuynh hướng tự tại ở mỗi chúng sẽ tạo ra điều gì đó là khả hữu, một khả hữu thật sự. Cho dù cơ chế đó có linh động thì cũng chỉ linh động trên cảm thức. Giữa cảm thức và thời trường, diễn giải đi, hiểu ngắn gọn như là chính định phần của cảm thức, tự cảm nhận rồi cảm thấy,  những hiện tượng mà chính chúng tạo ra. Tuy nhiên, đây vẫn không thể được xem như một hành động tự hư vô hóa chính nó, điều đó là không được minh bạch cho mọi kết luận, có chủ ý, tương tự như thế.
Biểu hiện trong một khía cạnh khác đi, dự ý của cảm thức liên thông với phóng trợ không trương vào thời trường. Dự ý đó, diễn ra trong miên tục. Dự ý, được hiểu theo nghĩa khác đi, như mang chiều hướng của sự chú ý nhằm về phía đối tượng. Bước phóng trợ không trương vào thời trường là công việc nhằm để duy trì chính nền tảng mà thời trường đang hiện hoạt. Nếu không có bước phóng trợ không trương vào thời trường thì thiết tạo tự thân cảm thức sẽ không thể diễn tiến nên thời trường. Lúc đó, khi muốn nói đến thời trường, là muốn nhấn mạnh đến cuộc phóng trợ không trương có trong cảm thức. Hiện diện hóa ra thành những dự ý có một cuộc liên thông vào thời trường nên phóng trợ không trương vào thời trường, nhằm duy trì chính sự hiện hoạt của thời trường, trước những gì là quá vãng và khả dĩ cho một liên thông. Ở đây, chính liên thông ấy, làm nên mọi cuộc dịch chuyển trong từng bước phóng trợ để thời trường diễn ra. Dự ý cảm thức không thô ráp quá đà khi mọi thao tác của nó hướng về phía thời trường lại không được khải lộ nên những gì ở đó điều minh bạch. Trong suốt quá trình phóng trợ, dự ý cảm thức luôn tìm cách hướng định đến thời trường, nhằm mang những cấu trúc không trương, thực hiện một cuộc đổ bộ vào chính sự hiện hoạt cho cảm thức tiến diễn. Chỉ có thể thông qua bước phóng trợ mà không trương cảm thức mới có khả năng xâm nhập vào thời trường. Dự ý đóng vai trò diễn dịch tất cả những cơ cấu nền tảng của trực giác tính đang tồn hợp trong cảm thức. Dự ý đó, mạnh lên, làm thành chú ý và hơn thế nữa, trong khả năng thuần thục nhất, dự ý làm nên ý chí của cảm thức muốn vượt thoát khỏi chính nó. Bởi bước phóng trợ kế theo trong sự liên thông đó, đặt định quy tắc vượt thoát của ý chí ra khỏi cảm thức, với đồng bộ trên những miên tục và thời trường. Việc phóng trợ ấy, đảm bảo cho khả năng truyền hưởng  chính bản thân cảm thức lan sang mọi phân vùng của những thành tố mà nó dựng lên. Và cũng chính bước liên thông đó, liên thông hơn nữa với phóng trợ không trương, cho ra khả năng truyền hưởng của cảm thức vào thời trường.
Khả năng truyền hưởng cảm thức đến đương độ thuần thục của ảnh tượng gieo vào thời trường là sự phù ứng chính bản thân cảm thức. Truyền hưởng đó, sẽ được chất chứa trong nó những gì mà chính cảm thức hướng về, phía thời trường. Thời trường hiện hoạt, được trải ra, trên những phân vùng hệ hình ảnh tượng. Chính ảnh tượng mới là điểm nhắm đến như một vạch mốc xuất phát đầu tiên cho sự phù ứng (thích ứng một cách phù hợp) từ phía cảm thức. Khả năng truyền hưởng đó, luôn ngày nào cũng liên đới với dự ý của cảm thức trong bước phóng trợ không trương. Mỗi một tiềm tố chứa đựng trong khả năng truyền hưởng cảm thức hướng đến ảnh tượng phải là những gì đó phát triển đến/ngang mức tiềm lực cho phép.
Mức độ đó được coi như là đương độ thuần thục ảnh tượng. Cùng với dự ý của cảm thức, khả năng truyền hưởng tạo nên một cuộc đổ bộ song trùng vào thời trường, nhằm thiết lập điều gì đó xóa bỏ đi những khả năng lệch lạc, trên mức độ tái thiết chính bản thân cảm thức. Việc hoàn tất cho một chu trình truyền hưởng, phải kể đến định tính đương độ thuần thục của chính ảnh tượng. Với ảnh tượng, được kề cận ở những phân vùng dường như khó có thể bị chia cắt trong sự lãnh nhận bất cứ điều gì mang tính xây dựng chung. Khả năng truyền hưởng xảy ra với điều kiện ảnh tượng phải hiện hoạt đến một đương độ thuần thục. Soi xét dưới khía cạnh nào đó, được coi như hiệu ứng đầy tiềm năng, nhằm giải thích với đích đến là lộ trình hướng định một cách chắc chắn và khả giải nhất. Trong từng khoảnh khắc luôn nhắm đến về phía những gì đi qua và lấp đầy, đó như những gì mà trên một mức độ trùng hợp, ta được dự phóng vào phía vô biên của sự phân lãnh chất chứa mọi hiện tượng. Và cũng chính bằng với hiện tượng đó, nội giới kiêu hãnh bước đi những bước tiến song hành cùng ngoại giới, được coi như một sự kiểm tỏa định vị lẫn nhau.
Kiểm toả đó, luôn khi nào cũng bao chứa một tác động, mà tác động nhìn ngắm không gian xung quanh của chủ thể tạo nên cấu hình cho hành động quét ảnh tượng hiện xung bên trong cảm thức, được dàn dựng lại một cách thiết định công phu đóng vai trò làm cơ sở. Ở đây, bằng với sự phân tích trên từng định phần hướng về phía đối tượng của chính chúng, sẽ làm cho những gì hiển minh trong cảm thức được sáng rõ hơn nữa. Khi chủ thể thực hiện hành động nhìn ngắm không gian xung quanh mình, thì đồng thời cảm thức tham gia vào quá trình du nhập về mình những gì thiết thực nhất, cho cuộc chuyển tải đến những quy trình tiếp theo. Mà ở đó, cảm giác đã, bằng với chính khả năng của mình, thụ nạp những gì tương thích được chuẩn hóa trong bước phóng vọt, vượt thoát khỏi/tràn qua hàng rào kiểm duyệt của ý chí ngoại biên.
Tác động của tri giác tham gia vào ở đây, diễn giải rõ ràng ra sẽ được hiểu rằng, cấu hình xây dựng nên từ những gì cảm giác đem lại cho tri giác sẽ tự nó thiết đặt một cấu hình biến chuyển cho những diễn tiến tiếp theo. Tri giác thâm nhập vào và bằng việc xác định rõ ràng những gì cần thiết đặt và tự thiết đặt, tri giác quả quyết trong từng bước điều hành những gì mang tính trung gian của kẻ đứng giữa (nhị biên). Tri giác hiểu rõ, cơ cấu nền tảng mà nó có được, xây dựng nên, xuất phát từ phía tác động nhìn ngắm không gian xung quanh của chủ thể. Bằng công cuộc hiển trình kế tục sau đó, tri giác tạo nên một cấu hình tiếp biến, được định liệu cho hành động quét ảnh tượng hiện xung bên trong cảm thức. Hành động này, hiểu như là sự phác thảo ra những gì, mà ở đó, trực giác tính xâm nhập vào để nhào nặn ra những gì tức thời nhất, nhưng không hẳn là không bền vững trong cơ cấu của hiện hoạt chính những gì được phác thảo ra đó. Trực giác tính giờ đây, đóng vai trò như một người họa sĩ vẽ ra trên tấm giấy trắng đã có bố cục, những đường nét và màu sắc, trong những gì mà cấu hình tri giác xây dựng nên, để trực giác dàn dựng cuối cùng.
Đi từ tác động nhìn ngắm không gian, thể hiện vai trò của cảm giác, đến quy trình xây dựng nên cấu hình trong vai trò của tri giác và cuối cùng là trực giác biểu hiện kết quả trong miên trường tâm hệ. Với hiện hoạt đóng vai trò làm trung tâm cho nội giới, được khảo sát một cách thuần thành ở diễn tiến chính ảnh tượng, trên một dải hoạt động dây chuyền để từng bước chuyển tải trong quá trình sản xuất. Rõ ràng, với chính những gì được nêu ra ở đây, ta thấy rằng, cả ba yếu tố tổ hợp đang tồn tại trong bản thân cảm thức đều tham gia vào sự chuyển tải hằng hữu từ những gì bên ngoài (ngoại giới) vào những gì bên trong chủ thể (nội giới). Những bước đi song trùng luôn từng ngày được hiện hoạt trong tự thân mỗi quá trình mà các định phần thực hiện. Nội giới và ngoại giới tương tác lẫn nhau cũng như cảm thức tương tranh với bản thân miên tục của thực tại. Việc dàn dựng nên những gì từ kết quả chung cuộc mỗi định phần sẽ không thể không có được sự câu thông/nối kết từ phía thành phần đến tổng thể trên đương mức dàn nạp.
Cảm thức đóng vai trò là trung tâm của mọi sự thụ nạp những gì ngoại giới đang trong từng ngày tác động vào nội giới. Đồng thời, nó phóng nạp ra ngoại giới những gì mà chính cảm thức muốn thực hiện công cuộc khảo sát cho riêng mình, trên từng ý tưởng. Bằng cơ chế hiện hoạt có trong nó, cảm thức luôn khi nào cũng là đối tượng được soi chiếu vào trong tổng phần của chính nó những gì mang tính minh bạch nhất. Cảm thức là nhận thức được cảm quan đem lại những gì có ý nghĩa cho chủ thể. Hơn thế nữa, cảm thức luôn là nơi chứa đựng điều gì đó mang tính tường minh của tổng thể, trong hệ thống tâm lí mỗi cá nhân. “Không trương nào cũng là một hệ thống của những tương quan trừu tượng”[*] (Lagneau). Mỗi định phần của cảm thức là một không trương và cảm thức đóng vai trò cho hệ thống đó, nên trong nó, khó để mà có được những tương quan cụ thể thì cũng là điều thật sự dễ hiểu.
Chú thích:
* Dẫn theo Robert B. Laughlin, Một vũ trụ lạ thường, Chu Lan Đình - Nguyên Văn Đức - Nguyển Tất Đạt dịch, NXB Trẻ, 2012, trang 81.
* Xem Trần Nhựt Tân, Tâm lí học, NXB Lao Động, 2005, trang 140.
* Xem Trần Nhựt Tân, Sđd, trang 144.
* Dẫn theo Trần Nhựt Tân, Sđd, trang 177.
CHƯƠNG I
BẢN THỂ THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN
1. CẢM THỨC KÍCH XUẤT KHÔNG GIAN.
1.2 TIẾN TRÌNH CỦA CẢM THỨC
Mỗi giác độ của cảm thức bao chứa tính không trương, như là một diễn tiến vận hành của chính ý thức dự phóng bảo toàn linh động trong không gian mà ý hướng tính vạch ra. Không gian đó mang nghĩa, là dự phần trong tính tiếp biến phóng thể từ nội giới ra ngoại giới để cảm thức tự trở thành những khuynh lực ý hướng tính. Với ý hướng tính là tính hướng định của ý thức về một cái gì đó. Nó là tính chất của ý thức được đảm bảo rằng, việc thực hiện hay quá trình diễn ra của ý thức phải luôn có đối tượng được hướng đến. Nó mang tính chất nhắm đến của ý thức, tự bản thân ý thức thực hiện được điều này, bởi ý thức muốn được coi là ý thức thì ý thức phải được xem như một quá trình thực hiện có điều nó muốn thực hiện đối với điều mà nó thực hiện, tức là không gì khác ngoài đối tượng của ý thức. Việc chỉ rõ tính chất của sự gắn kết chặt chẽ giữa ý thức và đối tượng của nó làm thành ý hướng tính. Với nội giới là thế giới bên trong của chủ thể. Nơi mà các hoạt động được diễn ra như những quá trình mang tính dàn dựng nên thành những phân vùng riêng biệt mang đậm yếu tố chủ quan. Và ngoại giới là thế giới bên ngoài, so với chủ thể. Ngoại giới là tổng hợp của rất nhiều những thành phần đưa đến tác động đem lại về phía chủ thể. Ngoại giới còn là một mức độ biểu hiện gián tiếp của những hoạt động dàn dựng diễn ra bên trong chủ thể, tức nội giới. Từ đó, phóng thể được hiểu là quá trình thực hiện một cách rõ ràng ra những gì đang chứa đựng như những tiềm lực trong chính bản thân mình đang có. Nó là một bước kế tục của tiếp biến. Phóng thể được coi là cụ thể hóa các tiềm tố thành những gì thực sự có. Chính bằng hành động cụ thể hóa đó, mà phóng thể được coi như một giai đoạn cố gắng cho những nỗ lực thực hiện, để đi đến hệ quả đóng vai trò là một tiềm tố kế tiếp trong quá trình diễn ra sau đó. Trên cơ sở của tiếp biến là sự thực hiện một giai đoạn, mà giai đoạn đó, được kế thừa và rồi chính nó, tự khơi gợi ra một phân vùng nào đó rõ ràng hơn. Giải thích cụ thể, ta thấy rằng, tiếp biến được hiểu như một giai đoạn tiếp nhận sự biến chuyển của một quá trình hay sự kiện nào đó mà trước nó mang lại. Với đồng thời, sự hiện hữu của dự phần được hiểu như một thành phần nào đó tham dự vào quá trình. Nói đến dự phần trong một quá trình bất kì, tức là nhắm đến một mức độ bao hàm của đối tượng, được dự phần đó, trong quá trình đang thực hiện chứa đựng ngay đối tượng dự phần. Và rồi chính khuynh lực, nhằm để chỉ một yếu tố mang tính chuyển tải những cơ cấu cho việc xây dựng nên các quá trình, nó đề bạt và tự triển khai khuynh hướng thành những cơ cấu rõ nét.
Cảm thức được diễn giải qua cơ cấu tiền niệm chính là nhắm vào phía ý thức, như muốn khơi gợi nên một chút gì qua sự suy tư được thực hiện rõ ràng, khi mà tất cả đều nhập cuộc. Mỗi giác độ của cảm thức, do đó, luôn bao chứa tính không trương mà những gì được diễn giải ra là có sẵn ở đó. Giác độ đó được nhìn nhận, khi cảm thức và chỉ duy nhất cảm thức mới có khả năng tái lập nên những hệ hình, mà bản thân mình không thể đáp ứng một cách chu toàn. Không gian mà ý hướng tính vạch ra chỉ duy cảm thức mới có thể đổ bộ vào và hướng đến những quy kết thẩm tra sáng suốt. Trong không gian mà ý hướng tính vạch ra, có sẵn tất cả những điều kiện cần thiết cho mọi quy tắc thẩm tra về phía không trương cảm thức, được biểu hiện qua mỗi giác độ tại thân, luôn tiếp biến trên những mức độ thuần thành. Mỗi giác độ bao chứa tính không trương cảm thức, luôn muốn khơi gợi về những cơ cấu hạ tầng có trong mỗi định phần của cảm thức, tự biện minh cho chính chúng, trước sự phân lập khả giải về nguồn gốc mọi cuộc hướng dẫn tư duy.
Ý thức dự phóng tạo nên ý hướng tính, mà ý hướng tính luôn khảo sát tiềm năng ở mọi phương diện, với khả năng thiết yếu có thể được biểu hiện là khả hữu. Ý hướng tính luôn bảo toàn linh động trong không gian mà chính nó vạch ra. Mỗi giác độ cảm thức trong đương mức có thể hiểu được chính là nhắm vào và gia công hơn nữa cho ý hướng tính. Một diễn tiến vận hành trong những gì được coi như dự phóng thì luôn là sự hướng định đến đối tượng, để tạo nên, trong một chừng mực nào đó, một hệ quả tất yếu. Đi từ diễn tiến vận hành của chính ý thức dự phóng, được bảo toàn linh động trong không gian mà ý hướng tính vạch ra, ta có thể thẩm tra được tính chất có ở mỗi giác độ của cảm thức, bao chứa tính không trương, như là tính chất chuẩn hóa dự tính (tìm đến) những yếu tố tính chất thứ cấp khác. Và cũng có thể thẩm tra theo chiều ngược lại, khi mà việc hiển minh trên mỗi giác độ không trương cảm thức, sẽ có thể cho chúng ta một hệ quả thẩm tra sáng rõ, những gì ý thức dự phóng trở đi được bảo toàn linh động trong không gian mà ý hướng tính vạch ra, được hiểu ngang với một diễn tiến vận hành, trên thời trường.
Khi một quy chụp thẩm tra nào xuất phát từ hệ hình của mỗi phía thì căn cứ vào điều kiện thiết yếu đó, tự suy có thể trở thành, như là nguyên tắc khả giải cho quy chụp thẩm tra ấy. Không gian mà ý hướng tính vạch ra chính là không gian mà ở đó nói lên được tính trực quan của cảm thức, trong việc xâm nhập khả nhiễm vào một dự phóng bất kỳ nào đó, được hiển minh trong cảm thức. Do đó, chính cảm thức là nhân tố chủ đạo trong công cuộc dẫn nhập vào dự phóng, đề hướng về bất kỳ một không gian. Nên tính trực quan cảm thức sẽ được dàn dựng như là yếu tố không thể thiếu, để căn cứ vào đó, thẩm tra về mọi phía của không gian bất kì. Nguyên tắc thẩm tra được xây dựng, ở đây, không nhằm về bất kì một phía nào, để tăng cường cuộc đổ bộ vào không gian, được dự phóng mang đến những hệ quả rao giảng vào hư vô. Mà thẩm tra cho ta biết được, nguyên tắc thích ứng trong từng chuỗi dạng tư duy khi ta có, để thông dẫn không trương cảm thức trên mỗi giác độ luôn có tác động điều hướng về sự dự phóng hình thành không gian. Mọi ý hướng tính ngập tràn sự hiển minh cho không gian được xây dựng trên mức độ cố kết sâu đậm. Và bằng với khâu chuyển tải có thể có, mang vác tính thực hành, để biện minh cho mỗi bước dẫn nhập vào không gian ý hướng tính vạch ra, thì chính những gì mà không gian tính có được từ bước dự phóng ý hướng tính đó, sẽ tạo nên tất cả những hệ hình cơ sở cho việc xây dựng mang tính nguyên tắc thiết yếu, để hiểu hơn về tiến trình của cảm thức. Trên một bước đà được nói đến, chính tiến trình ấy, được khả giải thật rành mạch trong chủ thể bởi những quy trình mang nguyên tắc thẩm tra vừa quy xét.
Với ý chí ngoại biên của vùng miền cảm thức luôn thụ nạp những biến cố phát sinh từ ngẫu nhiên tính triển thời trương độ, ở bản thân không gian cổ điển, được ghi khắc và phù ứng nên thành những âm hưởng và dự ý của chủ thể, đem dàn nạp nó vào trong chính bản thân cảm thức thì đi từ bản thân không gian cổ điển, sẽ là một không gian chứa đựng tính ưu việt miên tục của thực tại. Không gian cổ điển, xưa nay vẫn như thế. Không gian cổ điển là phân vùng thiết đặt ở những gì mà giữa nó và điều kiện hiện hữu có một sự ngăn cách. Khi mà trong chính bản thân không gian đó luôn bung vỡ ra những khả năng, chứa đựng ngẫu nhiên tính hòa tan vào các biến cố, thì sự đặc cách của bất cứ những gì ở ý chí ngoại biên vùng miền cảm thức sẽ luôn thụ nạp chúng. Chúng được phát sinh và luôn được đón nhận một cách nồng nhiệt. Ý chí ngoại biên của vùng miền cảm thức, chỉ những gì tồn tại thành một dải tần ấn kí trong vùng đệm, mà ở đó có khuynh hướng về một tác động của cảm thức hướng xuất ra khỏi bản thân nó.
Ý chí ngoại biên luôn thụ nạp những biến cố phát sinh từ ngẫu nhiên tính, nghĩa là, nó luôn khi nào cũng gom vào mình những gì có thể đạt được về một sự tự tin có ý nghĩa, mang lại một hệ quả. Thụ nạp ngẫu nhiên tính thông qua các biến cố, chính ở đây, tương tác giữa cảm thức và bản thân không gian cổ điển biểu hiện rõ ràng nhất. Và chính điều đó, được biểu hiện ở triển thời trương độ bản thân không gian cổ điển. Khai triển một cách tức thời, luôn đánh đồng được đương lượng ngang bằng với những biến cố phát sinh từ ngẫu nhiên tính. Đồng thời, triển thời trương độ bản thân không gian cổ điển muốn hướng đến cái nhìn trên nền miên tục của thực tại, nhấn mạnh tính trương độ của những biểu hiện vật chất sẽ khả dĩ cho việc thụ nạp các biến cố phát sinh, mang hệ quả từ chính bước phân tích đó đem lại. Ý chí ngoại biên tạo nên một sự kiểm duyệt, hay nói cách khác, chọn lọc có đương mức khả nhiên, cho những gì mang tính chất bất khả kháng, từ chính nguyên tắc thẩm tra mà nó có. Bằng với nguyên tắc thẩm tra đó, ý chí ngoại biên thực hiện lệnh được cấp đi từ trung tâm cảm thức, do đó, việc thụ nạp sẽ được ghi khắc và phù ứng trong tiếp biến mang tính chất của một quá trình.
Sự ghi khắc và phù ứng đó khả hữu cho công cuộc khôi phục nên hệ hình, để có thể dàn dựng thành những âm hưởng và dự ý của chủ thể. Tính ghi khắc và phù ứng bắt buộc phải khả hữu vì tính chất trước đó là thụ nạp. Khi một đối tượng thụ nạp và được đặt trong quá trình thì tiếp theo thụ nạp sẽ là niềm tin xảy đến đối với một sự ghi khắc cộng với phù ứng mang tính khả hữu cho mọi hệ quả cuối cùng có thể xảy ra. Ghi khắc sẽ chứa đựng tác động trực tiếp đến hệ quả đó và phù ứng đóng vai trò như một người trợ lí tham dự vào việc phẫu thuật, sao cho nó có thể, luôn khi nào cũng, diễn ra một cách suông sẻ. Thì chính sự ghi khắc, đồng thời với phù ứng đó, đã tạo nên những âm hưởng và dự ý có được trong chủ thể, hình thành như hệ quả của những điều vừa diễn giải. Âm hưởng luôn ngập tràn trong chủ thể bởi sự khỏa lấp mang tiến trình khuấy động từ tâm hệ. Dự ý ở chủ thể được nói đến, để nhằm xác định các động thái sẽ xảy ra, nếu chủ thể thực hiện theo mỗi khả năng được sắp xếp trước đó. Nhưng chính những âm hưởng và dự ý ấy sẽ trên một tuần hoàn, mang chu trình được dựng sẵn, sẽ quay về lại, nghĩa là được dàn nạp vào trong bản thân cảm thức. Bản thân cảm thức trong mức tương tác khả nhiên cho cái được gọi là ngang bằng với tính miên tục của thực tại, được biểu hiện cụ thể thông qua không gian cổ điển, khi chính những gì mà cảm thức nhắm đến, thì đều đem lại các hệ quả, mà chính những hệ quả đó được đặt định vào những nguyên lý tự thân chính nó. Trong các diễn biến xảy ra bên trong cảm thức, điều mà nó biểu hiện, lại cũng chính là điều mà nó có được tiềm tàng, từ chính việc làm nguyên ủy của nó. Và bất kể một tiến trình nào, cũng phải có đối tượng để tiến trình thấm nhập đến/vào nó. Cho nên, không riêng gì những tiến trình cá biệt, tiến trình cảm thức sẽ được thực hiện khi cảm thức nhắm đến đối tượng, không gì khác đi, của nó, là bản thân không gian cổ điển, tự hạn định trong những đường hướng vừa phân tích.
Và ở đó, trên bước đường dự phóng của cảm thức từ bản thể tôi đến bản thể không gian bao chứa bản thể tôi, luôn ấn định một tác động cảm quan soi chiếu về tính phức hợp, được minh định hóa trong tiến trình phóng ngoại ra khỏi bản thể tôi. Tiến trình của cảm thức, không gì khác hơn, là quá trình mà ở đó có sự thay đổi tính nhìn nhận trực tiếp chính vấn đề muốn nhắc đến. Đi từ bản thể tôi đến bản thể không gian, bao chứa bản thể tôi đó, cảm thức thực hiện một cuộc dự phóng chính quy, như đã nêu ra, và cuộc dự phóng ấy luôn ấn định trên một đường ray mà cảm quan chính là người lái tàu. Tác động cảm quan luôn sâu sắc, chừng nào bước đường dự phóng của cảm thức thể hiện một cách sáng rõ, những hệ quả liên đới với các đích đến khả hữu nhất.
Khi mà tác động cảm quan nhập cuộc vào để thực hiện dự phóng cảm thức, xuất phát từ bản thể tôi đến bản thể không gian chứa bản thể tôi, thì cũng đồng nghĩa với việc, cảm quan trừu xuất trên bước đường dự phóng đó, những phương hướng quang minh, hơn hẳn những gì hiện hữu trong cảm quan. Với lối tiếp cận khác, để nhằm hiểu được những toan tính từ tác động cảm quan, hướng đến công cuộc dự phóng, đó là đầy tiềm năng và khó chứa đựng một sự giao kết biện minh ngang ngửa. Và chính hành động mà bản thể tôi trừu xuất đó, làm thành/nên sự phóng ngoại ra khỏi chính nó. Cũng từ đây, tiến trình phóng ngoại được hiểu như một sự thôi thúc đáng có, khi cảm quan thực hiện đầy đủ vai trò chính quy của mình, như khi mà cảm quan điều phối cảm thức, với cảm quan hiện minh cho toàn bộ quy trình/tính chất mà cảm thức thu nạp.
Không kể đến bất cứ một điều gì mà cảm quan có thể làm, là đem lại tiếng nói, được đánh giá có trọng lượng, thì quan hệ của những thành phần hạ cấp, hẳn sẽ là mang được cho sự thuận theo những khả năng, mà mỗi đối tượng thành phần hiểu rõ nhất. Hẳn với chỉ những gì vừa nêu ra, thì chúng ta sẽ thấy rõ việc làm ở cảm quan, với định tính của nó là gì, tất sẽ có được một câu hỏi đầy sáng suốt, bởi hiểu rõ hơn cảm quan thì khả năng ở bước đường dự phóng cảm thức, sẽ phần nào đó, luôn luôn được nghĩ đến là dễ dàng hơn.
Cảm quan, chỉ những gì chứa đựng quan năng trong cảm thức, mà chính quy mỗi định phần có ảnh hưởng từ nó, một cách liên thuộc nhất. Cảm quan không chỉ là những gì đó mang tính cảm xúc/chứa đựng cảm tính một cách tràn ngập. Mà cảm quan muốn chỉ đến tính tri thức được thu hồi từ chính những gì được phán cho cái tên là cảm tính nhất đó.
Cảm quan không hề đưa ra một gây cấn nào về việc sẽ biện minh cho mình chính bổn phận như vai trò của những bậc tiền bối, mà chỉ việc thông qua cảm quan, đám hậu bối mới truy xét ra trong cảm quan, chứa đựng tất cả những điều gì mang tính đồng loạt, được thẩm định tức thời. Giá trị nó có vững vàng, chừng nào, nó được liên kết với những điều gì đó được cho là mang tính tự trị về mặt pháp chế, tựa như, biên vùng của những thửa đất, mà ở đó đã có chủ sở hữu. Mọi hành động xâm lấn bất hợp pháp đều sẽ phải trả giá cho chính hành động ấy. Tính tự trị ở bất cứ một phân vùng nào, đều được coi là thích đáng bởi tiến trình luôn thúc đẩy đầy tiềm năng, từ dự phóng mang đến ở chính những vai trò đặt ra.
Những tác động của cảm quan sẽ ấn định một cách rõ ràng, trên tiến trình/bước đường dự phóng đó, để sự phóng ngoại thực hiện một cách sung mãn không thể ngờ tới. Tính tự trị được gieo vào, ở đây, như thúc đẩy cho những đương lượng thẩm định tức thời, có cơ hội tràn sang các phân vùng, cũng có thể là toàn bộ phân vùng, trong công cuộc dự phóng. Một điều gì đó được gán cho cảm quan với những tính chất hàn lâm luôn được khả quy,  không gì khác đi, trong chính dự phóng đó, nó mới được nói đến như vậy. Bằng cách liên thông tất cả mọi sự đặt định đúng quy trình của sự kiện đang diễn ra, thì sẽ tất yếu, từ đó, khởi đi một khả hữu cho tiến trình phóng ngoại nhằm giải đáp những đương lượng khả năng, có thể có từ những gì mà cảm quan có thể có. Từ đó, hướng đến việc chỉ cho ta thấy rằng, cảm quan điều phối cảm thức, trên hay trong một khía cạnh nào đó, trái với tính chất hàn lâm, bởi tác động trí năng mà nó chứa đựng.
Để rồi, mọi không gian dự kiến phát sinh tồn hợp trong tác động cảm quan của chủ thể. Không gian, được định nghĩa, là dự phần trong tính tiếp biến phóng thể từ nội giới ra ngoại giới để cảm thức tự trở thành những khuynh lực ý hướng tính. Không gian, được sản sinh từ cảm thức. Không gian trong vật lí khác với không gian được sản sinh từ cảm thức. Không gian từ cảm thức chỉ là dự phần, mà dự phần đó, mang trong mình tính tiếp biến phóng thể. Nghĩa là, một bộ phận khả nảng có khả năng xảy ra khi khuynh hướng nhắm đến, trong mức độ chờ đợi, để hiện hữu trở nên mang tính có. Cuộc phóng thể đi từ nội giới ra ngoại giới muốn nói đến không gian, chính là việc thực hiện những gì mà nội giới khuấy động nên sự tự thành để hiện hoạt. Và chính tiếp biến phóng thể đó, làm cho cảm thức tự trở thành những khuynh lực, bức phát nên, trong một độ lùi gia tăng mức độ, trên bình diện ý hướng tính. Ý hướng tính được nói đến, cho nên, thể hiện rõ được sự chờ đợi để những hiện hữu mang tính có xảy ra. Không gian cảm thức là những không gian khả năng, không gian có thể có. Không gian cảm thức mang những biểu hiện của riêng mỗi phân vùng, khi mà nó có thể hiện hoạt, thì chính nó sẽ tự mình trở thành không gian, theo đúng nghĩa của từ đó. Và vì liên quan đến khả năng có thể có trong những gì sẽ xảy ra, nên không gian, chẳng qua cũng chỉ là, những dự phần mà thôi, dự phần trong tính tiếp biến phóng thể (phóng vọt ra khỏi đối tượng tự quy (chiếu). Khuynh lực ý hướng tính sẽ lan tràn trong các phân vùng được hạn định bởi ý chí ngoại biên của cảm thức, nhằm thiết đặt sự ảnh hưởng ý hướng tính đến quá trình sản sinh ra không gian. Cảm thức đóng vai trò như một trạm trung chuyển những gì tương tác song hành giữa nội giới và ngoại giới. Trên từng đương mức khả thành của sự tiếp biến vừa nói trên thì khả năng bủa vây mọi ngóc ngách cảm thức đến nội giới là rất rành mạch, để từ đó, hướng đến việc nâng cấp chủ tri một cách thành thật hơn. Và chính những gì mà khuynh lực ý hướng tính vạch nên trên hạn định ý chí ngoại biên cảm thức, nên dự phần của mỗi thành tố không gian là khả giải cho tác động trí năng chủ thể. Mọi không gian được dự kiến sản sinh ra, phụ thuộc trong tác động diễn giải tường minh đó. Và chính tiếp biến ấy còn mang trong mình những lộ trình thứ cấp khác.
Cho nên, phức hợp luôn dàn dựng vào bên trong không gian cổ điển mang những lộ trình thực hữu đối với sự lấn loát cảm thức vào thời trường. Lấn loát cảm thức vào thời trường chính là sự thiết tạo không trương cảm thức đến ưu trương thời trường. Tất cả những lộ trình thực hữu chính là tiến trình của cảm thức. Lộ trình đó, luôn mang tính phức hợp. Bên trong không gian cổ điển mang những lộ trình thực hữu ấy, khi mà sự lấn loát cảm thức được thực hiện một cách thông suốt. Tiến trình cảm thức được xây dựng trên những lộ trình đó, đủ chứng lý cho sự sáng tỏ hơn vai trò của cảm thức. Bản thân không gian cổ điển, tự thân nó, không gì khác ngoài những phân vùng chứa đựng cứu cánh với các mức độ khả quy. Không gì hơn cho việc minh giải về phía không gian cổ điển, mà chứa đựng trong nó những gì đầy đủ của phức hợp tính, đều có ý nghĩa tất hữu. Bản chất của phức hợp tính bao chứa trong sự ấn định mà lộ trình lấn loát đó luôn là khả hữu, với từng ấn định, phức hợp luôn gia tăng mức độ hợp lí.
Ở đây, không trương của cảm thức ấn định nơi từng không gian, mặc dù có thể có trường hợp chúng ta đang không ở trong phần lớn các không gian khác, nhưng với tác động chung của toàn thể, ta cảm ứng được từ nhiều phía của chuỗi dạng thông tin đến từ các không gian khác đó.
Phức hợp tính bây giờ được thể hiện rất rõ và tác động ấn định của không trương cảm thức nơi từng không gian, nhấn mạnh rành mạch đến phân vùng của điều khả quy. Toàn thể thực tại là gì đó được hiểu như một bao chứa, mà ở nó có sự kết hợp của những biên vùng rõ rệt với tất cả định liệu dự trù cho tiến trình cảm thức, được thông dẫn đến hồi khải lộ. Trong đặc tính của tiến trình đó, cần một tác động chung mang tính biểu thị từ nhiều phía của chuỗi dạng thông tin đến với các không gian khác. Tác động toàn thể là tác động chính của tiến trình cảm thức, nên mọi định liệu, là cần thiết cho mỗi kết lập tiến trình đó được hiện trình sáng rõ. Tiến trình được gia cố trong toàn thể tính, không gì khác, từ cơ cấu liên tải, chứa đựng trong thực tại này với sự hướng định không hề mệt mỏi đến hệ hình đa không gian.
Được nói đến bằng tích tụ khảo sát những liên tải trong không gian, cho nên thao tác thăm dò bên trong cảm thức mang những phân vùng được dàn dựng một cách công phu nhưng tức thời. Tích tụ đó, chứa đựng mọi vẻ của sự khảo sát chính đáng có trong bản chất mỗi không gian. Đồng thời với chính sự tích tụ đó, thao tác thăm dò bên trong cảm thức như chứa đựng mọi điều, mọi vẻ, mà chính thao tác thăm dò ấy, mang những phân vùng được dàn dựng một cách công phu nhất. Công phu nhưng tức thời. Tích tụ khảo sát bên trong những liên tải không gian, nghĩa là, không ngừng truy về phía mỗi không gian để có thể nắm được điều gì có khả giải cho một hiệu lực truyền hưởng từ phía mỗi không gian có đó. Đi từ các tích tụ khảo sát để nhắm đến những gì bên trong cảm thức, như vậy, minh chiếu nên sự rõ ràng về tiến trình cảm thức trong tương tác với việc định hình không gian là như thế nào? Tiến trình cảm thức đóng vai trò cho mọi sự hướng nhìn về phía không gian, được đặt ra thông qua một viễn cảnh mang tính thực tế, mà bấy lâu nay, chưa định hình nên một cách toàn bộ, rằng, thực tại đó, là thực tại đa không gian.
Tiến trình cảm thức, không gì khác hơn, chính là tích tụ những khảo sát liên tải bên trong không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển, để dẫn nhập vào bản thể thực tại đa không gian. Tiến trình đó, đòi hỏi mức độ tương tác giữa cảm thức và không gian cổ điển được đẩy lên đến mức cao trào. Bằng với tích tụ khảo sát thì chính sự tích tụ đó được giải thích cho mức độ tương tác vừa nêu. Tiến trình cảm thức mang cứu cánh về một quy hợp cảm thức định hình thực tại đa không gian. Tiến trình đó, hợp lí trên mọi căn nguyên của vô số những tiềm năng chứa đựng nơi thực tại dự trù đến. Tiến trình đó, là khả quan đối với mọi sự tất hữu được liên đới hướng định vào nhau, qua tương tác thuần thành mà viễn tượng của cảm thức nói lên rất rõ/sâu hơn những gì cần diễn giải ở đây. Bất kể tương tác nào cũng là đồng bộ và khả quy. Nên, khảo sát sẽ không thể không đồng bộ vì khả quy, do đó, thao tác thăm dò bên trong cảm thức đề hướng đến một chung cuộc vĩ mô trên tầm nhìn viễn tượng của tiến trình cảm thức.
Viễn tượng của cảm thức hình dung về mỗi một không gian, đương lượng với tư cách khả vi  giao hoán cho bất kỳ một không gian nào khác nó, chính bằng hiệu năng từ sự liên kết tương ứng giữa chúng. Không gian này, ở đây, không gian kia, ở đó. Giữa hai không gian, ta nói rằng, có một hiệu năng (hiệu quả năng lực) của sự liên kết giữa chúng, được đương lượng, với tư cách khả vi giao hoán về mỗi một không gian. Chính điều này, tự nó, thừa nhận, sự tương tác giữa các không gian là hoàn toàn khả hữu. Không gian chứa đựng những định liệu chính yếu đối với mỗi tư cách được cho rằng, nó có thể định liệu về mọi phương hướng. Mỗi một không gian là mỗi một viễn tượng cho cảm thức hình dung nung nấu trong mình sự thấm nhập của những biến quy đồng phức. Khả vi giao hoán đối với bất kì một không gian nào khác nó không có nghĩa là thay đổi vị trí của chúng với nhau, mà ý muốn nói rằng, khả vi cho sự tương tác những liên tải bên trong mỗi không gian. Không gian nào cũng được coi là không gian từ các mức độ phẩm tính của cảm thức mà thành, cho nên, tự chúng có trong những liên tải khác nhau. Những liên tải đó, nếu được coi là hiệu năng giữa các không gian, thì không gì khác hơn cho chính việc quy xét hiệu quả của năng lực, khi những tương tác liên tải xảy ra đối với mỗi không gian, rộng ra là đối với hai không gian.
Hiệu năng của sự liên kết giữa hai không gian thì cũng đồng bộ cho hiệu năng của sự liên kết tất cả các không gian, trong một tổng thể. Bởi thế, mới viện dẫn đến một viễn tượng, mà ở đó, khó thật sự chối bỏ khẳng định vừa nêu. Hiệu năng nào cũng là gia cố thêm vào tiến trình định liệu cho hiệu quả của sự liên kết, để tiến trình cảm thức có thể diễn ra một cách suông sẻ. Hiệu năng lúc nào cũng nung nấu trong mình sự không cam tâm chịu nung nấu từ bất kể một dự định nào được tính trước. Chính hiệu năng là điều kiện cho đương mức để tiến trình cảm thức trong tiềm độ ngày một tăng cường hơn nữa tính tái thiết mọi bộ phận, chính quy cũng như không chính quy, khi tiến trình được khởi thảo và di nhập vào bất kể phương vùng nào, mà tiến trình đó, gợi mở đến những đương độ khả năng thuần thành cho hệ hình muốn xây dựng.
Hệ hình đó, chứa đựng tính biền biệt của thời gian hiện diện trong không gian, hiển nhiên làm thành tính không trương cảm thức xúc tác vào trong một ứng động chung. Khi công cuộc chuyển thể bên trong bản chất phân vùng không gian của thực tại được vạch sẵn, thì từ đó, sẽ làm nên cách thức chuyên biệt ở bản chất trong tính chuẩn hóa không gian không hề khi nào mang sự dị biệt do cảm quan đem lại. Trong tương tác giữa không trương cảm thức với ưu trương thời trường, hẳn sẽ là, khả dĩ cho việc khẳng định tính biền biệt của thời gian hiện diện trong không gian như một khả dĩ tất hữu.Tiếp đó, là diễn giải rõ hơn, chính điều ấy, hiển nhiên góp vào thành tính không trương cảm thức xúc tác trong ứng động chung chính nó. Nói tính biền biệt của thời gian hiện diện trong không gian, không gì khác, chính là viện dẫn cho công cuộc chuyển thể vào trong bản chất phân vùng không gian của thực tại. Khi không trương cảm thức phát động nên một tiến trình cảm thức về lộ đạo đa không gian, thì đồng thời, tính biền biệt cũng tham gia vào công cuộc chuyển thể bên trong bản chất phân vùng mỗi không gian của thực tại, do cảm thức vạch sẵn này.
Chính điều đó, đã làm nên sự chuyên biệt bản chất của tính chuẩn hóa không gian, không hề khi nào mang sự dị biệt do cảm quan đem lại. Thêm một tư suy cho tiến trình cảm thức, ở đây, trong tiến trình cảm thức, tương tác không trương-ưu trương ngày càng bộc lộ một cách rõ ràng. Ưu trương góp vào không trương, đồng thời không trương tác động vào ưu trương. Tiến trình cảm thức luôn mang một cung cách quy giản trên từng chặng lộ trình như thế làm cho nó ngày càng, được sáng rõ. Tiến trình phân định mỗi khi sự khả giải có được khả giải mang tính toàn bộ. Dự liệu từ tất cả những gì mang lại điều đó được coi là dị biệt thì cũng đều là dị biệt, tất nhiên, sẽ không khả quan như trong tâm tưởng hướng đến tiến trình cảm thức.
Chuyển thể nào trong bản chất phân vùng không gian của thực tại, do cảm thức vạch sẵn, đều muốn nói đến vai trò của cảm thức trong từng hiện diện ở tiến trình cảm thức. Tiến trình của sự kích xuất nên lộ trình về không gian, với việc hướng định đến trường hợp xán lạn nhất, khi những cứu cánh có mục đích đối diện với hệ hình, không gì khác, mang tính đa không gian.
Để rồi, bất kể một sự thụ tạo nào cũng đều mang bản chất của công cuộc hội ngộ đánh đồng quy chụp cảm thức phóng nạp vào không gian. Bởi nó là thụ tạo nên nó luôn gia nạp vào trong mình bất kể những điều gì mà nó cần cho nó. Nó có những điều gì mà nó luôn mong muốn được thôi thúc để bổ sung thêm những điều gì, mà tự nó, muốn được sở hữu những điều như vậy. Bởi rằng, bất kể một sự thụ tạo nào cũng đều mang bản chất của một cuộc hội ngộ, nên thụ tạo đi liền với điểm tập kết chính quy, để từ đó, phóng vọt cho ra những gì mang tính hệ quả có quy chiếu. Nhưng với lí lẽ để viện dẫn rằng, và thật sự đúng như thế, cuộc hội ngộ đó đánh đồng quy chụp của cảm thức phóng nạp vào không gian. Cho nên, phóng nạp vào không gian như điều kiện trong một bước giải quyết đồng tâm của nó, chính là sự thụ tạo có gia nạp những đi liền những truyền hưởng khả thi. Và rằng, bất kể một sự thụ tạo nào cũng chứa đựng ý nghĩa, nên thụ tạo đó, đi đôi với việc trừu xuất ra những gì mang kết quả khả giải, là điều gì luôn được đánh giá với tư cách khả quan, cho việc quy xét đến tính chất của mỗi một công cuộc, mà công cuộc đó, dẫn dắt cho việc tư suy đi từ cảm thức, đến những gì mang lại từ cảm thức viễn trình ra. Hay nói cách khác, cho những gì là viễn tượng của cảm thức đem đến.
Hẳn là, bằng với bất kể một sự thụ tạo nào, cảm thức cũng đều gia nạp và gia nạp không ngừng về tâm tưởng truyền thông cho phóng nạp vào không gian. Như khi mà không gian, còn đón đợi điều gì đó được cho là khả nghi xuất phát nơi cảm thức. Bởi chăng, bất kể một điều gì bị cho là đánh đồng trên toàn bộ, thì cũng đều là những gì cục bộ/riêng rẽ, mang hàm ý của những miệt thị. Cho nên, hẳn là sự chỉ dẫn đối với những chú giải về bất kể một biên vùng thụ tạo nào, thì gia lực truyền hưởng đó sẽ luôn thực hiện tốt, ít nhất là như vậy, cho việc mà ta nghĩ tưởng đến, bằng với lộ trình phóng nạp vào không gian. Mà chính không gian được nói đến, ở đây, hay là một không gian bất kì, mang tính chung, đều cấu nạp từ sự thụ tạo hẳn hoi đó. Và phóng nạp chính là tiền đề để từ đó khởi đi của những tụ độ.
Mỗi tụ độ là mỗi một hồi cố về phân vùng không gian có giới hạn riêng biệt. Phương tiện diễn đạt mang đến cho ta thấy rằng, chính sự hồi cố về phân vùng không gian có giới hạn riêng biệt, sẽ cho ta một nhận thức về tụ độ. Ngược lại, biểu hiện khác đi của nguyên nghĩa hồi cố đó, cho ta một khái niệm về tụ độ. Tụ độ xuất phát từ dự phóng bao hàm trong ý chí chính bản thân chủ thể. Nói mỗi tụ độ là mỗi một hồi cố để hiểu rằng, hồi cố, đó chính là bước truy lùng để quay về với những diễn giải quy xét vào tụ độ. Hồi cố đó, có đối tượng chính là phân vùng không gian mang giới hạn riêng biệt chứ không phải là không gian đơn thuần. Hay hiểu như một không gian bất kì, cũng đều một khi mang đến với tư cách, là đối tượng của hồi cố, thì điều đó được coi như chính sự xuất hiện của mỗi tụ độ tương ứng với bất kì một không gian nào.
Diễn đạt như thế có thể hiểu một cách khác rằng, chính những dự phóng ý chí được quy giản trong từng tụ độ, nên mỗi tụ độ, khả nhiên, sẽ là một tác động hồi cố về điều gì đó mà chính ý chí dự phóng đến. Tất cả điều gì đó mang tư cách là dự phóng của ý chí hướng tới, thì cũng đều gia tăng màu sắc cho hồi cố, được chuyển tải một cách rành mạch và sâu sắc hơn trong từng tác động. Dự phóng ý chí thẩm định những gì mà hồi cố phân lãnh nên. Hồi cố được triển khai, ở đây, hướng về phân vùng không gian có giới hạn riêng biệt. Tính chất không gian đó, chỉ ra rằng, với tính giới hạn riêng biệt, sẽ khả giải cho tác động hồi cố thêm rõ ràng, nhưng với chỉ tác động hồi cố đó, để thẩm định một cách sáng suốt nên những gì mà ai cũng hiểu, thì hẳn nhiên điều khả giải ấy, phải cần đón nhận một túc lý tự thân. Và rằng, túc lý đó, sẽ được điềm nhiên khải lộ về một định chuẩn trong cơ cấu hướng đích, đến cơ sở đóng vai trò như nguyên nhân được trình bày một cách thông suốt. Chỉ những ngoại biên của ý chí mới là những gì mà túc lý cần nắm bắt và nhận biết cho sự đóng vai trò bổ túc đối với chính nó lấy đó làm cơ sở.
Ngoại biên của ý chí được thực thi bằng tụ độ bản nhiên. Ý chí cho ra những dự phóng và bằng những dự phóng đó, sẽ đem đến/ mang lại bất cứ một điều gì mà ý chí cần. Sự cần thiết đó nói lên rằng, dự phóng của ý chí là chỉ định cho bất kể một công cuộc dẫn nhập nào, về phía đối xuất trực tính của cảm thức. Và ngoại biên của những ý chí được thực thi bằng tụ độ bản nhiên của chính nó, chính là, xuất phát từ đó, mà chúng ta cho rằng, tụ độ bản nhiên của những gì mà ngoại biên ý chí được thực thi, chính là hành động hiện thực hoá từ những dự phóng đó. Và cũng chính dự phóng là tiềm tố mà chúng ta cần chú ý, để có thể, giải quyết rành rọt cho những gì liên quan đến ngoại biên của những ý chí.
Ngoại biên của những ý chí được thực thi hay là hành động hiện thực hoá của những dự phóng. Và chính các tụ độ được nhắc đến ở đây, hẳn sẽ là điều kiện luôn cần phải được nhắc đến, nó - những tụ độ đó, phải mang tính bản nhiên của chính nó. Tính bản nhiên đó chỉ dẫn rằng, bản chất tất nhiên của mỗi tụ độ, khi được nói đến, đều coi chúng như những tụ độ bản nhiên, chính là nói đến trung khu của những gì được thực thi khả hữu, xuất phát từ điều gì đó là chính quy cho một sự giải thích, mang mong muốn quy hồi về với những điều kiện được coi là xuất phát cho nó.
Nói đến ngoại biên của những ý chí mà không nói đến chính bản thân của chú ý, viện dẫn rằng, nói thế để chuyển tất cả các định hướng có được dự phóng khởi đi từ những tụ độ, chính vì vậy mới khả hữu nên sự kiện tất yếu cho viện dẫn như thế là hợp lý. Với tính quy tắc gạn lọc cho điều kiện được soi chiếu là mang tính bản nhiên của những tụ độ, xuất phát từ ngoại biên ý chí, không gì hơn, tăng cường công tác tư suy về việc giải thích được cho là rõ ràng bằng viện dẫn, được khởi đi từ những vùng biên của ý chí, hơn là nhắc đến bản thân ý chí. Ý chí phát xuất bằng những gì hướng định, nhưng ngoại biên của ý chí thì chứa đựng sự phơi bày mang tính tập trung. Nên có được tập trung chính là thực hữu cho những khả cấu không gian, đang trong quá trình phát sinh, cũng như trong sự băng hoại của chính chúng, đang có đó.
Ngay khi suy nghĩ đóng vai trò là một tập trung, chính bằng hành động tự do, sẽ tạo dựng thành những khả cấu không gian thực hữu cho chính bản thân cảm thức hướng đến. Tiến trình cảm thức phỏng chiếu nên trình tự, mà ở đó, cảm thức đi từ những định phần có quy hướng về với những điều kiện mang trong nó một định tính.
Khi suy nghĩ, tự do trong suy nghĩ thì khó mà dám nói rằng, điều gì đó được minh bạch cho những suy nghĩ được suy nghĩ tới đó; khi suy nghĩ được suy nghĩ tới đó, biết rằng, đang được suy nghĩ qua chủ thể, thì suy nghĩ về chính sự suy nghĩ sẽ khó mà hoài nghi một cách chính đáng về những điều đang được suy nghĩ. Vì suy nghĩ là suy nghĩ của riêng mỗi chủ thể nên suy nghĩ là tự do. Tự do suy nghĩ là tự suy nghĩ đó, tự nó phán xét cho chính nó - tức suy nghĩ được nói đến, là suy nghĩ, mà một khi suy nghĩ đó, được cảm thức hướng đến, để tạo dựng thành những khả cấu không gian thực hữu, ít nhất ra, là trong suy nghĩ về chính sự suy nghĩ đến khả cấu những không gian thực hữu. Suy nghĩ đó, đóng vai trò là suy nghĩ cho sự suy nghĩ được biện minh về suy nghĩ mang quy tắc tự trị của suy nghĩ, nên khó nói suy nghĩ là suy nghĩ điều gì về không suy nghĩ, cho những gì vẫn được coi như suy nghĩ điều gì về không suy nghĩ, đối với những gì vẫn được coi là suy nghĩ không chính đáng.
Suy nghĩ đó, có chính định hướng là suy nghĩ và suy nghĩ mang tính chất cho mọi đánh giá về suy nghĩ là suy nghĩ đang suy nghĩ. Suy nghĩ mang tất cả những gì mà suy nghĩ có thể suy nghĩ, nên mỗi suy nghĩ đều có khả năng tạo dựng thành những khả cấu không gian/ không gian cảm thức chứa đựng các suy nghĩ hướng đến, như với tính định vị ngẫu phát từ cảm thức. Chính bản thân cảm thức hướng đến, cho nên, suy nghĩ là suy nghĩ về điều gì đó mà suy nghĩ tự cấp phát cho chính suy nghĩ, để suy nghĩ về nó những gì khi sự suy nghĩ được suy nghĩ nhiều hơn những gì được suy nghĩ như thế nữa. Những khả cấu không gian xuất phát từ chính hành động tự do của suy nghĩ, như có được từ bản thân cảm thức định vị ngẫu phát. Và chính tự do đó, nên lưu chuyển bất kể điều gì trong định vị ngẫu phát, cũng đều là không chính đáng, cho những khẳng định tất yếu về điều gì được coi là bền vững. Bền vững trong tính tự trị của bền vững quy nhiên.
Để rồi, đề hướng cảm thức về ý định lưu chuyển của bản thân hữu thể trong thời trường, gia tăng mức độ giảo hoạt tính chính bằng trạng thái mập mờ của thực tại. Đề hướng mang tác động định quy cho cảm thức. Khi ý định lưu chuyển bản chất hữu thể trong thời trường được diễn ra, thì cũng đồng nghĩa với việc, cảm thức tự trình bày nên quy tắc đón nhận rằng, chính nó sẽ đảm đương công tác lưu chuyển đó. Không gì khác hơn, là chính ý định lưu chuyển của bản chất hữu thể trong thời trường, sẽ đề cập đến cảm thức, như cơ sở cho mọi biến chuyển được diễn ra. Bản chất hữu thể trong thời trường diễn giải rằng, hữu thể phân lãnh nên như chính nó biến thành một ánh xạ và ánh xạ đó phóng vọt trong thời trường. Ánh xạ được hiểu như điều gì đó tương tự các bức xạ, phần nào được khả kiến, vì khả kiến nên ta có thể biết nó có thể xảy ra/hiện diện, ít nhất là trong trí óc.
Cũng chính sự đề hướng đó của cảm thức làm gia tăng mức độ giảo hoạt tính, mức độ giảo hoạt tính chính bằng những phân vùng ngoại cảm, mà bản thân cảm thức không dẫn dắt để đổ bộ vào trong được. Mức độ đó ngày càng gia bội, chứng tỏ rằng, miên tục của thời trường đang tăng cường sự thăng giáng của mình. Chính vì sự thăng giáng miên tục của thời trường, nên khả năng lưu chuyển bản chất hữu thể trong thời trường, được coi không chỉ là điều gì đó lớn nhất, hay ít ra được nói rằng, là ý định, thì lúc này, sẽ bắt gặp rất nhiều trục trặc/ sự cố. Chính giờ này mà mức độ giảo hoạt tính sẽ thoát ly ra khỏi trạng thái tĩnh, để bắt đầu tăng vọt. Điều gì được mang đến như là hệ quả cho chính sự tăng vọt đó? Và mức độ gia tăng giảo hoạt tính chính bằng trạng thái mập mờ của thực tại. Khi khả năng lưu chuyển bản chất hữu thể trong thời trường, tự giản quy về các phân vùng bất khả nghi, được cố kết từ những trụ cột vững chắc, thì không gì hơn, chính khi giảo hoạt tính gia tăng mức độ, thì chủ thể mang bản chất trong thời trường điều xuất về tất cả những khả năng có thể xảy ra, trong những gì được diễn tiến tiếp theo sau đó. Trạng thái mập mờ của thực tại là khả nhiên. Trạng thái đó, cố định nên các truy phục vào những gì tất định mang bản tính cố kết khả hữu cho sự kiện được coi là bất biến.
Chính vì vậy, biểu trưng  hư vô chỉ là một trong những mức độ thuần thục của giảo hoạt tính, tự tồn (tạm thời) nương náu đằng sau những tác động giả cách của cảm thức chưa hướng định đến được tổng phần cảm quan chính bản thân hữu thể.
Nói thế, để viện dẫn rằng, hư vô hiện hữu chỉ dưới tư cách nhìn nhận về nó như một biểu trưng. Biểu trưng hư vô chỉ là một trong những mức độ thuần thục của giảo hoạt tính. Mức độ đó, mà giảo hoạt tính là sự chỉ sự giả cách, đả phá đến mọi hệ hình cơ sở được hiểu theo lý thường tình, nghe như có vẻ thuyết phục trong từng biểu hiện. Giảo hoạt tính đó, nương náu tạm thời đằng sau những tác động giả cách của cảm thức. Hư vô, được hiểu về nó, như một biểu trưng, đủ cho thấy, khả năng hiện hữu của hư vô chẳng qua chỉ là một ý niệm/ ý tưởng về nó, được có nó để nó được có những gì mà nó có, chẳng qua, cũng chỉ là những điều gì đó đặt định bên ngoài nó. Biểu trưng hư vô chỉ là một trong những mức độ thuần thục của giảo hoạt tính. Giảo hoạt tính đề xướng nên phân vùng, mà ở đó, sự hiện hoạt của đối tượng chỉ mang tính giả định tạm thời để suy tư về nó. Thuần thục, ở đây, như chính điều kiện của giảo hoạt tính phân bố, sắp xếp nên cung cách biểu hiện của những gì được đề ra như là biểu trưng hư vô. Giảo hoạt tính đó, nói đến tính chất của nó, được lồng ghép vào bên trong, chính nó, mang tự tồn những tác động giả cách của cảm thức. Nghĩa là, mỗi đề hướng về phía ngoài bản thân cảm thức, mà cảm thức hướng đến, chính cảm thức tự thiết đặt nên những gì mà nó không thể phân lãnh rành mạch được. Khi cảm thức hình thành những tác động giả cách, hay nói đúng hơn, những tác động giả cách xuất hiện song hành ở các tiến trình xảy ra bên trong cảm thức, được hiểu như một hệ quả thứ cấp. Nhưng nguyên nhân nào lại đặt định các tiến trình xảy ra đó, nương náu đằng sau những tác động giả cách tự làm thành bản thân giảo hoạt tính?
Không gì khác đi, với những điều mà cảm thức hướng định đến được tổng phần cảm quan, chính bản thân hữu thể, là nguyên nhân của những tiến trình cảm thức coi như giảo hoạt tính. Với một điều kiện là những tác động giả cách của cảm thức, chưa hướng định đến được tổng phần của cảm quan chính bản thân hữu thể.
Do đó, nếu nói về biểu trưng hư vô thì luôn luôn xem xét nó trong sự tiệm cận đến biên vùng cảm quan bản thân hữu thể. Tổng phần cảm quan sẽ cứ liệu những gì mà điểm xuất phát từ nó minh chiếu về một nền tảng cho những gì khả biến. Hư vô xuất hiện như chính nó, mang tính bào mòn gián tiếp, sẽ dẫn đến sự khế hợp đến tổng phần cảm quan chứa đựng những cái không tương quan, biểu hiện đi, trở thành một cách nan giải. Khi tác động giả cách của cảm thức hướng định đến tổng phần cảm quan, thì chính kết quả có được đó, sẽ trình chiếu nên những ảnh tượng sáng rõ, và khi đó, nói hư vô có, sẽ khó nhận định rằng, nó vô nghĩa. Nhưng nó – chỉ hư vô, chỉ đặt định khi hướng đến là mang kết quả được (đến được), nên chỉ khi không đến được thì hư vô lại xuất hiện, còn như khi không đến được thì sẽ phi tính tiếp cận đến một đặt định rằng nó không có, là khả nhiên.
Bản thân hữu thể không khi nào không linh động trong từng bước tường minh về miên trùng của nội giới. Ở đó, tổng phần cảm thức chính thức điều phối tất cả những gì mà nó có khả năng làm được/thực hiện thành công, thì sẽ chỉ những gì không có khả năng mới trong/ dưới một chiều kích nào như thể, gợi đến một cung cách (cung cách gì đó) khả giải về hư vô.
Hư vô xuất hiện khi chính tiến trình hướng đến tổng phần cảm quan của cảm thức, được hiểu, bị gián đoạn đi. Hư vô, chỉ khi đó, được hiểu như là hư vô tại nghĩa. Hư vô không là gì khác đi khi không là hư vô mà chúng ta cũng cho đó là hư vô thì cũng đồng nghĩa với những hành động ấy chẳng khác gì là hư vô cả. Chỉ khi khả nhiên để định tính những gì được hướng định đến tổng phần cảm quan, thì hư vô mới chính nên hư vô được nói đến như là hư vô, mang nghĩa hư vô. Biện giải về hư vô, chính là, không gì khác, một cuộc đổ bộ để đẩy được hướng nhìn (nhận) của cảm thức lại phía tồn vong bản thể thực tại.
Định lực mang những họa đồ chính quy nhất của khả giải về mức tồn vong bản thể thực tại, được ấn định từ bản thân cảm thức. Nói thế, để diễn đạt rằng, mức dự phóng từ cảm thức sẽ mang những khoả lấp vào sự hiển minh của bản thể thực tại. Nếu không có cảm thức thì suy tư về bản thể thực tại sẽ không được rõ ràng. Mức tồn vong bản thể thực tại sẽ được thực thi bởi chính cảm thức. Định lực từ cảm thức mang những hoạ đồ luôn luôn coi đó là chính quy nhất, của những gì cho mọi sự chú ý về thực tại, coi như khả nhiên, được quy kết, từ trong cảm thức. Những hoạ đồ ấy là những dự phần của mỗi một biểu hiện trong liên thuộc phát sinh không gian. Điều chính quy nhất gia tăng sự ảnh hưởng của cảm thức vào chính điều được nói về bản thể thực tại, chính là sự ấn định khiến cho cảm thức, với những gì có thể tạo dựng nên, mà ở cảm tưởng về bản thể thực tại, sẽ là, điều được hiểu khác đi như những gì đang có. Khi mà chính sự ấn định đó, không có được một giải thích nào cho chính mình mà cần phải vin vào những điều kiện thiết yếu (bất kì) khác.
Mức tồn vong bản thể thực tại được hiểu như là sự sống chết của thực tại, hiểu theo những điều hiển nhiên đang có về sự sinh tồn, có đáp ứng những mong mỏi, được kí gửi từ những thiết đặt liên thông khác không? Mang những hoạ đồ chính quy nhất của khả giải về mức tồn vong đến cho bản thể thực tại, thêm một lần nữa, hướng đến sự phân định trong thiên hướng vạch nên các dự phần có ở mỗi tiềm tố không gian, chính mang những hệ quy chiếu khác nhau triệt để, đập vào bản thân thực tại, lấy ra ở đó những gì được quy định trong từng bước ảnh hưởng của cảm thức đến bản thể thực tại này. Không có một bất cứ điều gì có thể được hiểu như điều gì trong tự thân nó có những tri thức mà chỉ mình nó hiểu được chính nó. Thực tại cũng như cảm thức, thời trường cũng như miên tục, tất cả đều đã in sâu trên những lằn ranh tương quan với nhau. Khi chính sự hiện hoạt của bất cứ điều gì cũng đều là phông vỡ dự phóng vào nhau, trên một tổng thể, hiểu như một toàn phần.
CHƯƠNG I
BẢN THỂ THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN
2. QUY HỢP CẢM THỨC KHẢ KIẾN ĐỊNH HÌNH THỰC TẠI  ĐA KHÔNG GIAN.
Diễn tiến tâm hệ bên trong chủ thể đề hướng về cơ cấu tổ chức cố định nên tương tranh với bản thân miên tục. Trong tâm hệ, mọi sự đều là tương quan của những không trương. Không trương nào cũng là đối tượng mang diễn tiến bên trong chủ thể. Với sự đề hướng từ diễn tiến tâm hệ bên trong chủ thể, chính muốn nói với chúng ta rằng, sự linh hoạt luôn diễn ra trong mức độ biểu hiện của những hoạt động mỗi định phần có trong cảm thức, vì cảm thức đóng vai trò mấu chốt và căn bản của tâm hệ. Và chính diễn trình đó, đã đề hướng về tổ chức, một tổ chức đặc biệt, không gì đặc biệt hơn tổ chức này, mà, sự quy định mang tiếp chuẩn của nó hướng về cơ cấu đầy huyền nhiệm - cơ cấu cố định tương tranh với bản thân miên tục. Cơ cấu cố định này, tương tranh với không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển. Chính vì tương tranh ấy, mà bắt buộc phải có sự xuất hiện của một dự phần bổ sung cho công cuộc tương tranh đó. Công cuộc tương tranh này, mang những lộ trình được quy giản vào trong tính tồn hợp của không gian cổ điển ở vũ trụ cổ điển. Tương tranh với bản thân miên tục, với miên tục, ở đây, không phải là miên tục của thời trường mà là miên tục của thực tại. Thực tại đó, chính bằng (sơ khởi như thế) không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển. Diễn tiến trong tâm hệ sẽ đề xuất bên trong chủ thể hướng định nên tổ chức đó, đồng nghĩa với việc tự khẳng định vai trò của vai trò cảm thức đến tính hướng định cơ cấu tương tranh với bản thân miên tục. Muốn chỉ rõ hay định hình thực tại này là đa không gian, thì phải, trước hết, không gì hơn chính là làm rõ cơ cấu tương tranh đó, cho nó được rõ ràng, ít nhất, trong một chừng mực/mức độ nào nó không còn tồn tại một điều gì bị coi như chưa được thông suốt. Cơ cấu cố định tương tranh với bản thân miên tục chính là nhắm đến khả năng tham vấn về sự hoài nghi với không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển. Cơ cấu đó, vạch nên một quỹ đạo mà giới hạn của nó phổ biến ở những biên vùng khó có sự nắm bắt, nếu tính đến một cách minh bạch, là chặt chẽ. Cơ cấu tương tranh với bản thân miên tục là điều kiện tất yếu để dẫn nhập vào tính chất mang định vị của không gian, được tính đến, với nghĩa không gian, như nó là không gian tồn tại bên cạnh những gì được cho là không gian. Đa không gian được quy hợp chính từ cơ sở của cơ cấu tương tranh với bản thân miên tục.
Đi từ ý lực truy phục  nên sự kiện đa không gian, chính bằng những hằng hữu tiếp biến bên trong cảm thức, sẽ làm thành một cấp độ minh định hóa cho công cuộc bảo toàn sự ấn kí của ảnh tượng, tạo thành ý chí ngoại biên, hoạch định nên tính ngẫu phát một cách thật sự rốt ráo. Sự kiện đa không gian được hình thành nên, bởi cảm thức, mà, nói cho chính xác, là bằng những hằng hữu tiếp biến bên trong cảm thức. Với sự kiện đó, được định hình thịnh hành như điều gì được xem là tồn hữu, thì chí ít, nó cũng tồn hữu/hiện hoạt trong cái coi như đó là ý lực. Ý lực truy phục nên sự kiện đa không gian là nói đến khả năng hình thành nên một bức tranh đa không gian được quy chiếu. Và chính tiến trình truy phục nên sự kiện đa không gian, chính bằng những hằng hữu tiếp biến bên trong cảm thức, mà tự nó, làm thành một cấp độ minh định hoá, cho công cuộc bảo toàn sự ấn định của ảnh tượng tạo thành ý chí ngoại biên. Đi từ ý lực đến ý chí ngoại biên đem lại trong cấp độ minh định hoá đối với cuộc bảo toàn sự ấn định ảnh tượng, tiến trình mà ở đó, ta thấy rõ những khả quyết về hiệu lực truyền hưởng của cảm thức, đối với những gì được cho là tiền minh sáng quyết trên bầu trời chứa đựng những lằn ranh. Giới hạn, có được cho là hay quy chiếu đến bất kể một điều gì mang tính phóng ngoại hoạch định nên ngẫu phát, mà ngẫu phát đó, tồn tại một cách thật sự rốt ráo. Cái rốt ráo ấy, ở đây, cho phép chúng ta hiểu rõ hơn, một cách sâu sắc sự phân định chủ thể tương ứng với mỗi không gian là khả nhiên, nên bên trong bất kì một cứ lí nào vương vịn vào chính nó. Ý lực truy phục hay bất kể một điều gì cũng đều mang đến cứu cánh chỉ về đối tượng là cảm thức. Đặc biệt nhấn mạnh, ở đây, chính là những hằng hữu tiếp biến bên trong cảm thức. Điều gì đó, được cho là (nó) có bởi bất kể điều gì chỉ dẫn, đối với tự bản thân nó có điều khả tất hữu cho những gì nó có và sự có đó, luôn được có một cách đặc trưng và luôn đúng. Bất kể một điều gì đó, cũng được nói là không thể không có từ chính điều được phán định là có hay sự có đó, có thể nói là không thể bị phủ định, dù bất cứ một sự phanh phui nào để diễn tả về nó – tức sự có đó, đều chứa đựng tính hoài nghi tràn lan sự có đó luôn khi nào cũng chính bằng với lược đồ đa không gian của thực tại tự tồn này.
Lược đồ mang những kích động tiết điệu cho họa đồ đa không gian, chỉ có thể xuất phát từ tính phù ứng của cảm thức thiết tạo nên mà thôi. Cũng như diễn tiến của triền miên ở thời trường, luôn được đặt định bởi không trương sơ nhiên, trong chính bản thân cảm thức của bản thể  - hữu thể. Nói thế, nhằm để chỉ ra cứu cánh về thực tại đa không gian, không gì khác, chính điều đó là điều cần phải được chứng minh ở đây. Hoạ đồ đa không gian chính là viễn cảnh cần nhấn mạnh rằng, đa không gian chính chất cho thực tại này. Lược đồ mang những kích động tiết điệu cho hoạ đồ đa không gian, đa không gian mang viễn cảnh, mà viễn cảnh đó, có sự kích động tiết điệu tính kích động tiết điệu, như thế chỉ có thể xuất phát từ tính phù ứng của cảm thức thiết tạo nên mà thôi. Tính phù ứng của cảm thức hỗ trợ đắc lực cho công cuộc thẩm định nên sự kích động  tiết điệu hoạ đồ đa không gian. Tính phù ứng của cảm thức thiết tạo nên lược đồ mang những kích động tiết điệu là ý chỉ cho mức tương trợ của cảm thức được thuần thục hoá. Và rằng, diễn tiến ở thời trường luôn đặc trưng bởi không trương sơ nhiên (là đặc trưng) mà ở đó, là nguyên uỷ. Nguyên uỷ ấy, tồn hữu trong chính bản thân cảm thức; trong cảm thức, đặc trưng nguyên uỷ xuất phát từ trực tính bản thể - hữu thể, nghĩa là có sự vay mượn ở thực tại. Nguyên uỷ đó, mang cung cách sơ nhiên như chính nó muốn tự nó khẳng định về định tính bản thân hữu thể. Hữu thể phát xuất và làm nên một tường minh thông diễn cho hoạ đồ đa không gian, mà định tính, được nhắc đến, ở đây, mang sự chỉ dẫn không hề thua kém đối với bất kì một điều gì được cho là đem đến thoát li trong nguyên uỷ thuần thành, sở đắc nên nguyên uỷ chính bằng với tính phù ứng của cảm thức hướng định đến cung cách sơ nhiên cho bản thân thực tại. Bất kể một điều gì cũng có thể là sâu mọt, nếu không tính riêng cuộc đổ bộ của một trường hợp đặc thù nào, thì cũng có thể nói, như là, chính nguyên uỷ đó, luôn xuất phát từ tính phù ứng của cảm thức. Tiết điệu hoạ đồ đa không gian mở ra với chiều kích mang viễn tượng của tất cả điều gì được khơi gợi là thẳm sâu và miên trùng. Kể cả sự gia tăng không ngừng cho một định tố phóng xuất đối với chính bản thân mỗi không gian.
Gia tăng ấy, mang những gia bội hóa của không gian đều được coi là những tiến trình thôi thúc sự tựu thành cho tâm hệ toàn ảnh. Gia bội của không gian nghĩa là sự nhân đôi gấp bội lần cho việc khải lộ không gian. Gia bội hoá không gian là ý muốn khẳng định sự có đó của rất nhiều không gian, mà trong một khả năng nào đó, có thể là vô cùng không gian. Gia bội, bất kì một sự gia bội nào, cũng đều là những tiến trình thôi thúc cho sự tựu thành tâm hệ toàn ảnh. Tâm hệ toàn ảnh là tâm hệ được đặt dưới sự cường sát của sức mạnh cảm thức hướng định một cách mạnh mẽ nhất. Tâm hệ toàn ảnh là sự cố kết, mà đối với một bất khả quy nào cũng đều bị cho là ngoại đạo. Sự tựu thành tâm hệ toàn ảnh viện dẫn rằng, một sung túc viên mãn sẽ được giành cho tâm hệ dưới cuộc hướng dẫn của cảm thức. Thông suốt cảm thức đặt để vào tâm hệ với mong muốn định liệu cho mọi tái hợp có quy chiếu đồng bộ một cách khả quy. Bất kể một sự gia bội nào cũng đồng nghĩa với việc phân định sự khả quyết đó thành những biên vùng không có sự dính dáng tái tổ hợp ngược lại. Dù gì đi nữa thì bất kể khi nào tâm hệ toàn ảnh nhập cuộc với mong muốn chiếm hữu, kể cả bất kì một biên độ thực tế nào quy cho nó là không khả hữu, thì sự dù gì luôn đồng nghĩa với tiến trình thôi thúc chính tâm hệ toàn ảnh. Không gian được giả cấu trong tiến trình thôi thúc đó, nên gia bội hoá nào của không gian cũng đều là tiến trình thôi thúc một sự tư suy chính đáng và khả giải, chứ không thể không là gì khác đi. Một điều gì tư suy, được nghĩ đến như khả giải, thì dù là khả hữu cũng sẽ luôn có lợi cho tiến trình thôi thúc. Tiến trình thôi thúc là khả giải/khả hữu cho sự khả hữu/khả giải đối với tâm hệ toàn ảnh trong quy chuẩn gia bội hoá bất kì một không gian nào. Sự tựu thành như việc mà khi chúng ta nghĩ đến điều gì đó được viên mãn, sự tích luỹ luôn đến được với một độ chín muồi. Vì tựu thành, cho nên, điều kiện chỉ cốt đến việc bảo lưu mọi sự phục táng đối với gia bội hoá một không gian bất kì. Khi gia bội hoá được thôi thúc tái lập đi, tức là thực hiện như một tiến trình đồng chuẩn, thì gia bội hoá cũng đồng nghĩa với những gì là hằng hữu của không gian.
Biểu lộ tính hằng hữu của đa không gian là bước phát xuất phóng trợ cho cảm thức hồn nhiên. Cảm thức hồn nhiên là cảm thức được hiển trình như cảm thức nguyên thủy, cảm thức tự nó có để hiện hoạt cho chính nó. Tính hằng hữu của không gian là hưởng cảnh mà cảm thức hướng đến, chí ít, cũng đủ để tìm về điều gì đó nguyên thủy. Không một đòi hỏi gì đâu xa mà ta lại xem nó là không có nguồn gốc, đem gán sự thẩm tra là quy tắc cho mọi diễn giải, nhằm làm cho nó được sáng tỏ. Khi bất cứ cái gì được thẩm tra, để được hiểu như những gì sẽ sáng tỏ thì mỗi điều kiện nào cho quy tắc thẩm tra, cũng mang tính đồng bộ cho mọi công cuộc biến chuyển, đối với bất kì một điều gì có thể nhiều hơn thế. Và dù rằng, nếu có bất kì điều gì đó cho mọi công cuộc biến chuyển thì biểu lộ tính hằng hữu của đa không gian cũng đều tương trợ cho chính công cuộc ấy, không xê lệch ra khỏi mọi biểu hiện từ tính đối tượng tương thích. Bằng việc biểu lộ hằng hữu tính đa không gian thì phóng trợ phát xuất, dĩ tất, sẽ là khả nhiễm cho một cảm thức hồn nhiên mang tính nguyên thủy tự tồn. Bước phát xuất phóng trợ đó, đề hướng, và ta cũng có thể gọi là định hướng lại/về cho một khả tất tính đối với đa không gian mang biểu lộ tính hằng hữu. Bất kì điều gì là minh bạch thì cũng khả hữu cho một sự minh bạch (tối thiểu ra) có khoảng trống. Quy hợp nên hệ hình đa không gian không thể nói rằng, vì nói như thế là không đúng đắn, đến việc đệ trình ra một nguyên tắc của cái nhìn đa nguyên về phía thế giới. Mà quy hợp nên hệ hình đa không gian chính là hủy thiêng cho bất kì một thuần túy nào đó là diễn giải mang tính quy tắc. Quy hợp hệ hình đa không gian, vì thế, là điều cần thiết cho mục đích chung cuộc đối với sự chống đối/chỉ trích về bất kì một sự thể tuyệt đối, được mọi cứ lí vin vào đó tạo nên những hệ hình. Hay hành động ấy, ngang bằng với sự giải thể tất cả những điều gì đó là chung cuộc cho mọi diễn giải có cơ sở để diễn giải, và điều đó, cũng không loại trừ cho việc hòai nghi về hệ hình đa không gian từ đó tạo nên một cơ sở, cho những diễn giải khác là điều kiện hoài nghi cần thiết. Bởi sự hoài nghi đó, mang mục đích đúng đắn với tinh thần khởi lập lại một nền tảng diễn giải chứa đựng những cơ sở hệ hình luôn luôn được biểu sinh đóng vai trò làm nền móng.
Để làm rõ hơn điều ấy, chúng ta sẽ lấy trong biểu hiện đáng để xem xét nhất. Hoài niệm là sự kiện mang bản chất (của hành động) bắt giữ và xác lập nên vô số tiếp diễn không gian đang vây quanh thế tính cảm thức nơi chủ thể. Tưởng nhớ về quá khứ như định liệu cho khả năng tồn vong của hoài niệm được sáng rõ. Hoài niệm mang những tâm tưởng dự phóng về phía quá khứ. Quy hồi quá khứ như một tiến trình được thực hiện/đóng vai trò của hoài niệm xác lập nên. Hoài niệm quy về với phân vùng của những gì đã qua, mà nay đã không còn, ngay khi chúng ta đọc đến đây, thì tất cả những gì được viết ra trước đó đã trở thành quá khứ. Cho dù liên tưởng được tái tạo trong đầu óc của chúng ta thì cũng không có cứ lí nào phủ định được điều đó, vì chúng ta đã mất đi một lượng thời gian cho việc đọc những dòng chữ này. Trở lại, hòai niệm là sự kiện, nói rằng, sự kiện đó mang bản chất hành động bắt giữ và tái lập nên vô số không gian đang tiếp diễn vây quanh thế tính cảm thức nơi chủ thể, được hiểu như sự bắt giữ và xác lập ấy là hoàn toàn khả nhiên. Ở đây, thêm một lần nữa cảm thức đóng vai trò làm tiềm tố cho mọi biểu hiện liên quan đến sự kiện đa không gian. Hoài niệm trở về và trở về - trong nhiều cách trở về (trong nhiều cách trở về) - với quá khứ. Hoài niệm thật sự không khi nào không tất định trong một cố định đối với việc xác lập nên lộ trình hồi chung về những gì đã qua. Cách tái thiết không gian mà nay đã không còn nằm trong vố số những xác suất khả năng xảy ra đối với sự xác lập và bắt giữ của hoài niệm. Hoài niệm định hình trong một giả cấu, mà ở đó, bất kì một giả cấu nào cũng có thể được hình dung ra, nhưng việc hình dung đó, chúng ta, ít nhất rằng, và đừng nên lầm tưởng, và cho đó, là tưởng tượng. Hoài niệm, như đã nói, chứa đựng hướng trình hồi quy về quá khứ, nó nghĩ về trong một giả cấu chứ không phải đặt trong một hư cấu. Giả cấu nghĩa là đã có điều gì đó tương ứng với nó là thật, nhưng điều đó đã qua, nên quy hồi về đó, được thực tế trong một giả cấu là hoàn toàn lặp lại để phân biệt hoài niệm với tưởng tượng là giống nhau. Từ một độ lùi để phân biệt hoài niệm với tưởng tượng là không giống nhau. Và cũng từ một độ lùi vào dĩ vãng chúng ta có một cơ sở cho hệ hình đa không gian, thì phóng vọt vào tương lai bằng ước vọng hiển nhiên, cũng sẽ là một túc lí hữu ích đối với chính hệ hình đa không gian ấy.
Ước vọng mang tính tức thời khai triển nên bên trong bản thân không gian cổ điển những sự thụ nạp phi luận lí. Ước vọng là triển thời về một phân vùng bên trong bản thân không gian cổ điển những chiều kích của rất nhiều biên vùng không gian khác nhau. Bên trong bản thân không gian cổ điển, để hiểu chúng bằng ước vọng/thông qua ước vọng chính là nhắm đến một tức thời khai triển về hệ hình đa không gian. Do đó, diễn giải có thể đúng/sáng tỏ/hợp lí ở không gian này lại hoàn toàn không đúng/không sáng tỏ/không hợp lí đối với những không gian khác. Cho nên, ước vọng là tức thời khai triển nên một sự thụ nạp phi luận lí là như vậy.
Ước vọng là viễn trình vào tương lai mang tất cả dự phóng về những điều gì đó có thể  có cho chủ thể. Ước vọng như hướng định vào bộn bề của thực tế, mà biên vùng nào cũng có một sự tự trị hẳn hoi, để rồi dành cho ước vọng, chỉ còn quyền là tự lựa chọn, ước vọng khoan khóai khi giải quyết được điều gì đó sẽ là mang/bao chứa hệ quả mà nó có thể ẵm trọn cho mình. Ước vọng trước hết/đầu tiên, mang khuynh hướng cho những ảnh tượng bất kì nào trong bất kì cách hiểu về sự bất kì có thể xảy ra. Ước vọng chỉ đuối sức trong những khai triển cố gắng hướng đến điều gì đó được coi là mang tính chủ động tất định. Bất kể một phân lập mang tính giới hạn nào, cũng đều căn cứ vào ước vọng để nhắm về phía tương lai, nếu như giới hạn đó nằm về phía tương lai.
Ước vọng là tất cả điều gì có thể xảy ra về phía không gian cổ điển, trong tương lai cũng như đặt vào đó một dấu giá trị tuyệt đối, cho ước vọng để tự nó trở thành hoài niệm khi mang giá trị đối xứng. Ước vọng bằng với hoài niệm là hai khả hữu túc lí cho hệ hình đa không gian, được sáng tỏ một cách có cơ sở hơn. Tất cả đều nằm trong tính lựa chọn của chủ thể, như cách mà, tôi có quyền đứng ngắm thế giới ở vị trí nào mà tôi có thể tự chọn cho tôi. Quy hợp đa không gian luôn cần đến một cơ sở túc lí, và ước vọng – hoài niệm là bộ đôi túc lí hoàn toàn hợp lí. Nhằm vào việc khả nhiễm cho toàn thể thực tại mang hệ hình đa không gian, để tư suy trở nên có ý nghĩa hơn trong từng dòng suy tư của mỗi một con người.
Để rồi khi uốn nắn dòng suy tư, cảm thức len lỏi trong suốt quá trình vận hành lý tính sẽ không bao giờ thật sự mang tính không hợp lí, bởi bản thể thực tại là liên tải của những không gian chồng chéo vào nhau. Và ngay chính cả bản thể thực tại cũng chồng chéo vào quá trình vận hành lý tính đó, như là điều gì hiển nhiên. Cảm thức len lỏi trong suốt quá trình vận hành lý tính, vì cảm thức bị điều phối bởi tâm hệ, cho nên cảm thức được thôi thúc mạnh mẽ bởi những gì mang nền tảng của cảm tính, nhưng sự len lỏi của nó luôn được diễn ra trong quá trình vận hành lý tính. Và sự len lỏi được nói đến đó, được phán rằng, nó không thật sự không mang tính hợp lí. Chồng chéo không gian được hiểu rằng, khả năng xuất phát từ trên một toàn ảnh mà mọi phân vùng đều có sự tương tác với nhau. Tương tác chứ không phải tương quan. Tương tác, cho nên mọi sự định liệu để cho rằng, cảm thức trên phân vùng của lý tính cũng được xem là hoàn toàn hợp lí. Bởi, nếu không hợp lí thì hệ hình đa không gian được nói đến sẽ không khả quy.
Tính tồn hữu đó, của cảm thức, được gia công mạnh mẽ, chưa bao giờ thật sự ngưng nghỉ cho mọi tính toán, dự liệu đến sự bổ sung đối với những gì mang  tiếng là hư danh. Tôi có thể không là gì đi nữa nhưng nói không tôi, cũng đều là gì đó, không thể không coi là không là gì đi nữa. Cho nên, nói như khi mà cảm thức len lỏi, để trình xuất cho bản thể thực tại một quy hợp đa không gian thì cũng không vì thế, mà nói rằng, nó không thể không được đảm bảo.
Bản thể thực tại là liên tải của những không gian chồng chéo vào nhau, một lần nữa, chứng lý/bổ túc cho hệ hình đa không gian được vững chắc với cái nhìn khả nhiên.
Không một dối lừa nào được nói ra từ kẻ nói dối, mà lời nói dối đó, lại không mang một điều gì coi như phát xuất ra một mặc cảm có tội, thì lời nói của kẻ nói dối, dĩ nhiên là không đáng tin, nhưng chính vì thế mà những gì liên quan đều được để mắt cho cái nhìn thiếu thiện cảm, là thật sự không đúng đắn. Một khi sự để mắt đó, được đặt vào trường hợp của chồng chéo như trên, thì quy xét bởi nghĩa lí nào, cũng đều là một quy chiếu có thẩm định chung cuộc, chung cuộc là điều đáng để nói, mang tính bắt buộc, bắt buộc một cách chặt chẽ đối với từng tác động.
Tác động chung của những miền không gian khi chúng ta thực hiện hành động quét ảnh tượng hiện xung qua vùng không gian chính quy ở vũ trụ cổ điển, thì chính hành động đó, tương đương với hành động trừu xuất ra khỏi hợp cảnh đương diễn ở vũ trụ cổ điển này, ngay đây, mà trên một góc độ nào đó suy xét về các đương lượng khả dĩ của những chiều không gian, mở ra, như là một tác động của những hành động trí năng tác động vào bên trong bản chất của vũ trụ cổ điển này, để vạch ra một cách triệt để nhất những phần không gian mà chúng ta muốn nói đến. Ảnh tượng hiện xung là ảnh tượng được ấn kí tường minh vào thời trường, với sự ưu trương quá vãng và không trương cảm thức đến độ thuần thục nhất cho mọi quy biến. Quét ảnh tượng hiện xung là thực hiện sự phân lập nên khả năng ấn kí được linh hoạt hơn trong từng biểu hiện, thật sự rõ ràng, ở cảm thức. Hành động đó, được thực hiện thông qua sự quét trên không gian chính quy vũ trụ cổ điển – vũ trụ thường hữu này. Thì chính hành động đó, tương đương với hành động trừu xuất khỏi hợp cảnh đương diễn ở vũ trụ cổ điển này. Nghĩa là, sự trang bị cho những đối ngẫu, phục táng trong hành động quét, chính những ảnh tượng hiện xung, sẽ mang tính điều phối đến với các chiều không gian, được mở ra, tương đương với tác động trí năng của chủ thể tác động vào bên trong bản chất của vũ trụ cổ điển này. Những miền không gian, được nói đến, mang sự trang bị là khả quy, thì chính hành động trí năng sẽ khả giải cho sự chính quy được/muốn nói đến là khả quy một cách rành mạch và sáng sủa. Hợp cảnh đương diễn ở vũ trụ cổ điển này, là trừu xuất của những bờ thửa không gian có thể được nhắc đến trong khi hành động trí năng hướng định trên lộ trình tư suy của chủ thể. Trừu xuất ra khỏi hợp cảnh đương diễn ở vũ trụ cổ điển, chính là sự tái lập cho những phân bổ ngoạn mục vào các không gian được điều động một cách giản quy nhất. Được điều động đó, thì chính hành động trừu xuất sẽ luôn đứng vững, nên một khi định cảnh chi phối toàn bộ phân vùng của những gì nói đến/cho về một không gian bất kì nào. Trừu xuất ra khỏi vùng không gian chính quy vũ trụ cổ điển, không gì khác, hẳn nhiên, là hành động, một hành động mang tính tác động, đến/về, sự có mặt của những biến cố sự kiện.
Đối với dự phần của cảm thức trong tính ngoại biên ý hướng tính về thời trường, thì mọi biến cố sự kiện diễn ra đằng sau nó, đồng nghĩa với việc bảo đảm rằng tự trong bản thân mỗi biến cố sự kiện đó in sâu một lằn ranh giới hạn cảm thức nơi chủ thể. Nghĩa là, mỗi biến cố sự kiện được diễn ra trong tính ngoại biên ý hướng tính về thời trường, sẽ đồng nghĩa với chính khả năng của cảm thức hạn định trên chủ thể. Dự phần của cảm thức trong tính ngoại biên ý hướng tính về thời trường, chính là quy giản cho một sự chờ đợi từ chính bản thân cảm thức, mang đến những tác động hồi quy ngoại biên ý hướng tính về thời trường. Tính ngoại biên ý hướng tính, nhằm vào sự chỉ định cho một khả tức thời, về mỗi biến cố sự kiện, được diễn ra bởi/trong nó. Đi từ một sự kiện/biến cố đơn giản, ta cũng có thể thẩm tra về ngoại biên ý hướng tính có liên quan đến phía thời trường, là như thế nào. Bất kể một hạn định nào của cảm thức trong chủ thể cũng bảo tồn những dự phần, (của cảm thức), trong tính ngoại biên về ý hướng tính đến thời trường.
Mọi biến cố sự kiện diễn ra đằng sau nó – chỉ ngoại biên ý hướng tính, và chỉ có ở ngoại biên, mới không tính đến những tác động gì khác, được nhắc đến hay nhiều nhất, có thể, là lấp đầy đi, tính biểu hiện của sự thẩm định vững chắc cho ý hướng tính về thời trường, phân lập nên những nguyên tắc mang tính chú giải, cho biên độ hạn định cảm thức nơi chủ thể. Chủ thể hiện hoạt với sự tự trị, nhưng một khi, tính đến sự tồn tại của mỗi biến cố sự kiện, diễn ra đằng sau ngoại biên ý hướng tính về thời trường, thì sự tự trị đó là đồng nguyên, trên một tổ hợp chung quy. Cứ lí nào về mọi diễn giải, cũng đều xâu chuỗi nên bên trong tính ngoại biên ý hướng tính đó. Không một chút gì diễn ra đằng sau mỗi biến cố sự kiện, mà lại không tính đến sự vây hãm của những nguyên chủng thứ tính gieo rắc nào đó, cho khải thị có thêm nhiều màu sắc đặc thù. Chính vì thế, cho nên, ảnh tượng khó có thể được quy hồi vì chính tác động của mỗi biến cố sự kiện, hay ít ra, là cảm thức có được tiềm tố quy hợp khả nhiên, định hình một cách nhìn về chủ thể được thông suốt.
Định hình đó, thực sự rõ ràng khi và chỉ khi nó được nhìn nhận là thông qua ảnh tượng triền miên, không khi nào được quy hồi một cách khả giải cho dàn nạp công phu nhất. Với sự điều động cho công cuộc hướng đến mức độ kiện toàn, bởi sự chi phối được tạo ra từ chính bản thân cảm thức, mà chính bằng với những hành động tương tự, ta có thể mang sự minh định quy chiếu thực hữu đó làm nên cuộc biến chuyển một cách đầy đủ nhất, với mức độ không khi nào là tối thiểu cho sự lo lắng của chủ thể, trước mức ứng biến khơi động nên những tha thể tự tạo thành hành động quảng diễn trước vô số mối lo toan, xuất phát từ chính bản thân chủ thể. Mà có và chỉ có cảm thức mới lại là luôn luôn có được định lực hằng hữu tiền minh làm nên cuộc biến chuyển vĩ đại cho công cuộc tiến đến cái khả nhiên của thực tại tự tồn này.
Thực tại đó, chính là thực tại đa không gian qua cái nhìn của chủ thể về những khả năng tồn tại của những chủ thể khác nó. Tương ứng khi cái nhìn đến thực tại mà mỗi chủ thể nhìn về chính những thực tại bao chứa đó, định hình nên một thực tại đa không gian. Thực tại đa không gian là thực tại của vô cùng những chủ thể, (những chủ thể khả năng). Chính vì thế, mà sự minh định quy chiếu thực hữu đó làm nên một cuộc biến chuyển vĩ đại. Khi, nó – chủ thể không thể không lo nghĩ tới sự tồn vong của mình. Chỉ có quy hợp cảm thức mới định hình nên một thực tại đa không gian khả kiến. Quy hợp cảm thức điều động cho công cuộc hướng đến một mức độ kiện toàn. Cái khả nhiên của thực tại tự tồn này là khả nhiên cho một thực tại, và rằng, thực tại đó, chính không là gì khác, thực tại đa không gian. Thực tại đa không gian là khả nhiên nên một cuộc biến chuyển vĩ đại, một cuộc biến chuyển của những phân trùng quảng diễn trước vô số tính đặc thù do khả năng cộng hưởng chính nó mang lại. Thực tại, mà khi nghĩ về nó qua chủ thể để biết đến những khả năng của chính chủ thể, là sẽ đề hướng về một thực tại đa không gian. Định hình thực tại đa không gian là minh chứng cho bản thể thực tại tự tồn, không gì khác hơn, là thực tại đa không gian. Tính chất của nó sẽ hướng đến nhiều sự phân lãnh của một “thực tại đa tầng” (les réalités multiples)[*], hay ít nhất ra, nó cũng như là một tự tồn của những “mê cung trùng mộng” (le labyrinthe des rêves superposés) [*].
Chú thích:
* Xem Remo Bodei, Triết học thế kỷ XX, Phan Quang Định biên dịch, NXB Thời Đại, 2011, trang 206.
CHƯƠNG II
TÍNH KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN
1. TỔNG THỂ QUY HỒI.
1.1 BIẾN CỐ VỚI SỰ KIẾN TẠO KHÔNG GIAN
Biến cố được khởi đi từ sự kiện hay chúng ta có cảm tưởng rằng, sự kiện, mà từ đó, biến cố được thực thi như chính những gì mà nó được hội lãnh trong từng cung cách biểu hiện, trên những cương vực sinh tồn không gian?
Có thể thông qua từng bước giao hội với biến cố sự kiện dựng hình một cách thật rành mạch rằng, khi mà chú ý về đối tượng được đáp ứng như một quy tụ trọn vẹn, để từ đó điều phối nên công cuộc, tức là tham chiếu cho công cuộc cộng sinh hiện hữu giao lãnh về phân vùng của các điệp khúc trong biến cố. Ta có trong chính cảm tính của mình phỏng đoán trọn vẹn từng đương lượng những khởi thành, để sự tự trị mỗi một phân vùng không gian luôn luôn có được khả hữu về mặt trực giác tính.
Khả nhiễm vào phân vùng không gian, mà không gian đó, được nói đến, ở đây, là không gian cổ điển, và dàn dựng nên việc định khu phân vùng đối với biến cố từ đó khởi đi những sự kiện. Không gian định khu bên trong chính không gian những phân vùng, nói như thế có vẻ vô nghĩa chăng? Biến cố sự kiện được hiện diện trong khung cảnh cộng sinh giúp tăng cường gạn lọc tính tự trị, cho sự chủ toàn phân lãnh nên những cương vực mà rõ ràng có thể soi chiếu trên chính hành động được vẽ ra từ mỗi sự kiện.
Bất kể một chiết khấu nào để có thể gây dựng thành những biến cố, mà từ đó, sự kiện khởi thảo nên, thì có lẽ, sự kiện được đương lượng ngang bằng với chính những gì hiển nhiên nhất. Không hẳn chỉ có một bước đi của công cuộc định hình sự hiện minh, mà bất kể một giao phó nào từ phân vùng đến biến cố vạch ra trong không gian hướng về phía sự kiện cũng sẽ được sáng tỏ một cách khả kiến, bởi trong đó, đối tượng chủ tri tự định hình mình vào trong những phân vùng như thế.
Có thể nói rằng, khi một sự kiện được khởi đi thì chính một sự kiện trước đó đang thực hiện công cuộc cộng sinh với miên tục của thực tại (đa không gian), mà thực tại đó, tự tồn trong những cương vực huyền nhiệm bản thể. Cũng có thể nói rằng, sự thoái thác trách nhiệm cộng sinh về phía nào đó, mà bản thể chứa đựng hay mang vác về mình bất kì một điều gì khả nhiên, và cho đó là có ý nghĩa, thì chính nó cũng đồng ý với bất kì một phương hướng cộng sinh nào đó của biến cố về phía huyền nhiệm bản thể thực tại, được soi chiếu, qua những khía cạnh tự tồn đa không gian, đáp ứng một cách luôn luôn là chưa được rành mạch. Khi mà biến cố định hình nên sự kiện thì cũng chính khi đó, sự kiện được phân lãnh không một chút vô ích nào, xét trên tính hiệu quả của nó, để cố gắng gán xét những đương vùng mà sự kiện tiếp diễn là khó khăn cho lắm, điều đó giống như một hành động được thực hiện hay tính hành động đó được trải ra, trên mọi bình diện của sự tự trị mỗi bình diện đối với hệ quả của công cuộc cộng sinh từ mỗi biến cố.
Sự kiện chất chứa trong nó những khả năng và chính bản thân nó cũng là một khả năng thuần thành của thực tại.
Tương ứng cho cộng sinh, chỉ có thể miên man trong tâm trí, như những gì hờ hững nhất đối với chủ tri bởi vì chủ tri chưa thực hiện những xung năng thẩm thấu vào trực giác tính chính mình. Chỉ có thể trang bị, nói như thế, có lẽ sẽ nêu bật được những gì đó có khả năng diễn tả chăng, trực giác tính cho chủ tri thì chủ tri mới xâm nhập vào để hiểu ra bản chất của hệ quả từ mỗi biến cố gây nên mỗi sự kiện?
 Chúng ta, bình thường luôn sống trong tính hợp lý tự nhiên nhất của trực giác tính được lập trình sẵn, nhưng chỉ có những xung năng hiện tồn trong từng khoảnh khắc mới có thể đổ bộ vào biên vùng, để trong một khả năng nào đó, sẽ tiệm cận đến tính huyền nhiệm bản thể thực tại. Chồng chéo chưa được mang đến như chuyển động hỗn độn đối với miên tục ẩn giấu đằng sau cánh cửa huyền nhiệm đó của thực tại, dù rằng, bản thân sự cộng sinh ấy luôn là thực thi cho chính sự uốn nắn có tính chất được sắp đặt có ý nghĩa.
Cho điều gì đó được hiện ra trong những chiều kích mang tính tiềm ẩn, thì có lẽ, chỉ trong khi được tăng cường từ trực giác tính, chủ tri mới có khả năng nhận ra được yếu tố khải huyền ở công cuộc cộng sinh đó chăng? Hẳn là với một sự giao phó thâm sâu đến độ thẩm thấu tận cùng, để rồi đi xung quanh những gì đón đợi từ hệ quả rơi rớt lại qua những kẽ hở trong sự cân xứng đối với điều gì đó là tự nhiên và siêu nhiên. Nên đối với trực giác tính, luôn có sự chú ý mong muốn đổ bộ vào cương vực của huyền nhiệm thực tại, thì dù có nói gì đi nữa, nó cũng luôn mong muốn có thể khởi đi, hẳn là luôn mang một ý nghĩa của sự tự trị đúng đắn.
Biến cố được khởi sắc hơn nữa để từ đó khởi đi những sự kiện, thì đảm bảo cho sự kiện có được điều hiển nhiên như là hiển nhiên nhất về đẳng cấp trực giác tính dọi phóng vào huyền nhiệm bản thể thực tại, chính không gì khác, điều đó ngang bằng với mọi sự cố gắng hướng về tính tự trị của chủ thể hiện diện trong/trên thế giới.
Do đó, xuất hiện biến cố đồng nghĩa với sự tái thiết hiệu năng của vô cùng các sự kiện tức thời. Giữa thế giới, luôn trong tình trạng đầy ứ những sự kiện và bất kể mỗi một sự kiện nào cũng luôn là liên tục của những biến cố. Trong tiềm năng mỗi định liệu từ biến cố để khởi đi từ nó những sự kiện thì biến cố luôn đặt định trong những giới hạn sự kiện chứa đựng các khu biệt. Mà sự khu biệt đó, hiện diện ra một cách rõ ràng, không gì khác, chính là sự tự trị của bản thân mỗi sự kiện khởi đi từ các biến cố tiềm sinh ấy. Không gian luôn trải ra trong một toàn bộ, mà bất kể quy chụp nào liên đới với từng lượng thức cơ cấu nên tương tranh định vị mỗi một phân vùng tồn sinh sự kiện cũng đều được khởi đi từ biến cố, (thì) chắc chắn rằng, đồng nghĩa với tái thiết hiệu năng của vô cùng các sự kiện tức thời luôn đưa đến sự xuất hiện các biến cố. Trong khi quy chụp được cắt nghĩa một cách có chuẩn mực đối với dự định tìm về điều gì đó sáng rõ, thì chỉ và chỉ có mỗi biến cố khởi đi từ nó những sự kiện mới dự định mang vác trong (vào) nó sự phục sinh ý nghĩa. Để thường hằng tính nhân lên đến những phân vùng chứa đựng hệ quả luôn được dọi qua bằng cái nhìn thông suốt. Biến cố có thể sẽ chưa được đổ bộ vào sự kiện, bởi sự kiện là tuyến tính, nhưng biến cố khởi táng để phục sinh những dữ kiện đóng vai trò làm cơ sở cho mọi căn tố biến nhập xâm nhập vào sự kiện. Biến cố luôn đảm đương cho mình có được công cuộc với một bằng lòng mãn nguyện tương đối. Khi nào cũng thế, chính bằng với sự xuất hiện biến cố mà tính hiệu năng của khả độ các sự kiện bộc phát ra, được trực giác thâu tóm và cố kết trong cảm thức một cách rành mạch nhất. Mà đương diễn của bất kì mỗi một sự kiện nào khởi đi từ biến cố, thì cũng luôn được hiện diện dưới khía cạnh mang một ý nghĩa tự tồn, không khỏi lo âu khi chính mỗi biến cố đang trong những phân trùng. Ở đó, sự kiện bị gián đoạn ngăn cách với chính những tiềm thể có trong biến cố, để từ sự khởi đi xuất hiện những trục trặc không đáng có thì cố kết ấy được giải quyết một cách êm đẹp, không gì khác, bằng việc đặc cách cho biến cố. Nhưng không đồng nghĩa với việc tước đoạt đi ở sự kiện, những lằn ranh bao bọc cho sự kiện được luôn đương diễn trong từng cung cách biểu hiện. Soi chiếu về bất kể một phân vùng nào của sự kiện diễn ra, thì trong đương mức khả năng biến cố có thể góp nhặt vào trong đó những lưu độ, khi khải huyền của bất kì một gia cố nào cho sự kiện cũng luôn được đảm bảo bởi điều gì đó là lung lay thì chắc chắn phải cần được xem lại.
Giữa các sự kiện tức thời luôn đặt trên một tương tranh định vị mà chính hiệu năng giữa chúng thôi thúc ra sự thành hình của tiềm thể - biến cố. Chỉ trong những chừng mực mà sự kiện gia công hơn nữa vào trong tất định biến cố khởi đi những sự kiện thì xuất hiện biến cố cũng có nghĩa là sự kiện được phục sinh. Sự lan tràn của bất kì một tiềm tố sự kiện nào, cũng đều là yếu tố quy chuẩn cho bất kì mọi cơ sở cung cấp đến việc một biến cố khởi đi bên cạnh những cung cấp phải được coi là thích đáng. Khi xảy ra một sự bất đồng trong tương quan nhìn nhận về biến cố khởi đi những sự kiện thì cho dù bất kể một đương lượng nào cũng chỉ có như thế mà thôi, cho nên có được sự kiện là một tất hữu (lý) thì đơn giản, coi như vậy, cũng đúng thôi. Bằng bất kể điều gì đó, sự kiện hay biến cố được lựa chọn cho những định liệu dự trù bị cố kết có chăng là hữu lý và cho dù mọi công cuộc phiếm định nào ngăn cản công cuộc dự tính phân tích sự kiện đó, cũng được cho là đồng đều trong việc phân tích ý nghĩa thì bất kể dự tính nào chịu sự ngăn cản cũng luôn được bỏ phiếu bởi lá phiếu đưa ra từ chính tay của trực giác tính nơi chủ thể. Khi bất kì một sự kiện này nối tiếp một sự kiện kia, biến cố không thể không xuất hiện như việc tuyến tính được điều động bởi sức căng của đường tiệm cận. Cho dù, sự kiện luôn bị nhúng trong biến cố thì từ một lộ trình tái lập được liên kết về lại biến cố đến sự kiện, của những điều phối nên tiềm thể để cầu sinh nào cũng hiện hoạt trong hoàn trộn bất kể một tác chế nào, mà mầu nhiệm, thì cũng phải nhường chỗ cho một phần nào đó, mang tính sự kiện xuất hiện từ biến cố được kết lập trong những phức khả di trùng huyền nhiệm thực tại.
Để từ đó trở đi, hễ bất kì một kích động liên thông nào giữa biến cố này với biến cố khác sẽ truyền hưởng cho cơ cấu không gian hiện minh. Kích động đó, tự tạo cho mình cơ sở để trụ vững trước những ảnh hưởng của bất kì một tính chất ngoại lai nào, mang những phân mảnh vi nhiễu từ bản thân không gian cổ điển truyền đến. Nhưng một khi kích động đó liên thông giữa, ít nhất là hai biến cố, thì cơ cấu không gian được hình thành. Trong cơ cấu hiện minh vừa nói đến, nó được hiện minh, nhờ vào kích động giữa biến cố này với biến cố khác chính muốn nhấn mạnh đến khả năng kiểm toả của những sự kiện được khởi đi từ các biến cố đó. Không thể đơn giản trong một chỉ điểm mang tính nguyên tắc rằng, biến cố này là hoạt xung trong giao cấu với khả năng tái lập từ một biến cố khác. Mà những biến cố khởi đi các sự kiện lại ngoảnh mặt làm ngơ trước những năng lực tổ hợp nên các phân vùng bố trí trong một phối cảnh địa bàn thường hằng, chỉ nhằm vào đối tượng là không gian cổ điển. Khi xét đến bất kỳ một năng lực nào cầm chân và níu kéo tất cả các biến cố đó, được phù ứng nên thành những ngưng trùng một cách điềm nhiên, thì kể cả chút ít gì được biện minh/nói đến cho ý nghĩa của bất kỳ mỗi phân vùng không gian nào cho dù là cổ điển hay không cũng không có được. Hay nó sẽ chẳng bao giờ có được điều gì đó là khả hữu về một túc lý đi tìm sự dị biệt, mà trước mắt, nó hiện diện một cách tràn lan. Không thể phủ định sự nhìn nhận về việc kích động đó khơi thông nên cơ cấu không gian thành hình để viện dẫn cho những đổ bộ đào sâu về tất cả vùng biên tiếp giáp đối với bất kể một điều kiện hiện hữu nào, hẳn sẽ là, một di trùng cho những hồi cố sự kiện. Trong cơ cấu để đạt được từ kích động đó, hiển nhiên là phân phối đến một vô tận sẽ làm dịu đi phần nào tính định hướng có chuẩn bị những tiền đề đồng phôi giao cấu nên trong những đa tạp. Và thật sự, điều ấy được biện minh cho điều gì đó hết sức hiển nhiên, khi mà trực giác tính đem chức năng của mình đi cắt nghĩa/ tiến hành phân tích điều kiện tạo nên những phân lập. Từ đó, đồng điệu cho những quy trình chứa đựng hơi thở giao cấu vào bản thân không gian cổ điển, để cho rằng, nó sẽ luôn đón đợi từ bất cứ một phương cách nào mà độ lùi về một biên vùng sẽ là vị trí tốt nhất để xem xét/ nhìn ngắm những biên vùng còn lại. Và độ lùi đó, ở đây, được nói đến như một lưu động tức thời của các biến cố. Độ lùi khả hữu cho lưu động các biến cố.
Sự lưu động tức thời các biến cố vạch nên quỹ đạo thịnh hành cho việc xuất hiện một cách ngẫu nhiên những không gian khác nhau. Ở đây, xét đến các biến cố như một tiềm thể để từ đó chứa đựng những khả năng hình thành không gian. Và tất nhiên, một biến cố trải ra thành không gian thì chỉ và chỉ có thể đi từ bản thân nó, bắc cầu vào, những phân trùng quảng diễn của thực tại. Mỗi hệ hàm không gian lưu động trong những bổ trợ mà tái lập nên bất kể một trừu xuất nào cũng sẽ làm cho lưu động đó được linh hoạt hơn rất nhiều. Điều được đảm bảo một cách thật sự rõ ràng, ở đây, là việc nhìn nhận về bất kỳ một phân cách nào đó của chúng ta qua cảm quan phóng chiếu về thực tại. Không hề vương vịn vào bất kể một điều vô lý nào, và cho nó là những có lí để trình xuất về sự lưu động hoàn toàn vi phạm đến điều gì đó, mà ta cho là tổn hại/ vi phạm đến những quy tắc cung ứng nên trình xuất phân minh với các đòi hỏi mang tính tự tại không thể chối cãi. Hành động cứng rắn hơn cũng có thể đi từ biên độ biến cố này đến biên độ biến cố của chính nó, sau một lượng thời gian được cho là đảm bảo giới hạn tức thời. Trong khi biên độ đó được thiết lập như chính những biến cố lúc nhìn về nó, tự nó đòi hỏi cho chính nó có được những biên vùng nào, và bất kỳ một quy tắc hiển nhiên nào cũng sẽ là tự trị cho chính biến cố đó. Nó đảm bảo, tự nó đảm bảo những gì mà tự trị của những sự kiện được khởi đi từ nó sẽ là điều mà giới hàn lâm cho là việc nên cần xét lại. Nhưng túc lý nào để câu phối vào trong biến cố thì cũng đồng ý rằng, việc gia nạp của bất kì mỗi một tiềm tố cũng là đương lượng cho những ngẫu nhiên không gian. Lưu động biến cố vạch nên các quỹ đạo, dĩ nhiên từ đó, sẽ khởi đi/ khơi thông cho sự kiện tương ứng được điều động trong thành hình chưa bao giờ đi vào dĩ vãng của những gì đó được coi là lạc hậu. Phân bố lưu động tức thời của một sự kiện (khởi đi từ biến cố) thì cũng luôn được định vị trong những rung chuyển truy tầm về phía hệ dao động của trường không gian phủ lấy đường viền. Bên trong đường viền ấy, hẳn nhiên chứa đựng một sự tự trị đang cố níu kéo để giữ vững đối với bất kì điều gì, mà quỹ đạo lưu động đó khỏa lấp vào huyền nhiệm thực tại. Biến cố chứa đựng điều duy nhất mà phân trùng nào của mỗi một không gian cũng đều được căn cứ trên nó/ bổ trợ cho nó có được những khả hữu.
Mỗi một biến cố sắp đặt nên mỗi một không gian khả hữu chính yếu duy nhất của biến cố đó lại là một đòi hỏi mà chúng ta cần phải làm sáng tỏ luôn ở đây. Đi từ biến cố, ta có thể thấy một cách rõ ràng, những sự kiện được khởi đi từ biến cố đó và chính mỗi sự kiện là quy tụ cho không gian chứa đựng. Đồng thời, tính trình hiện một cách tức khắc về bất kì một gia cố nào, thêm nữa, về những điều kiện thiết yếu cho sự kiện khoả lấp vào thực tại. Suy ra từ đó, ta có thể đi đến nhận định về không gian như chính nó là hệ quả của sự trừu xuất chính bản thân mỗi biến cố. Có thể thấy, ở bất cứ giá nào những hiệu quả mà không hề lặp lại, dù cho mỗi biến cố có được từ mỗi sự kiện cấu nạp vào trong những phân trùng của thực tại chứa đựng huyền nhiệm, thì biến cố là giả cấu cho bất kể một sự tự tin không thoả đáng về việc bổ trợ những khế ước, luôn luôn được gia cố điều gì đó mang tính đảm bảo tạm thời. Biến cố đi từ biến cố mà mỗi bước đi không gian được bung vỡ khỏi những cùm kẹp/kìm nén trong tự trị phát triển đến một toàn trị của những biên vùng chuyên chế. Biến cố sắp đặt nên số phận cho chính nó, biến cố tự tạo thành những sự kiện để không gian có cơ hội khải lộ, là biến cố đã tập trung đả phá vào tính toàn trị chuyên chế đó, của những kìm nén chứa đầy gia lực hắc ám trong bản thân thực tại. Tuyến tính bên trong tiến trình thực tại là khởi độ để cho mỗi một thăng giáng nào của biên độ phát sinh không gian, cũng đều được tìm về với những tiềm thể trong mình (các biến cố) là hoàn toàn được mong mỏi và dĩ nhiên cũng sẽ tự đáp ứng được cho chính nó. Sắp đặt theo trình tự nào, thì đó là việc của biến cố nhưng khi sắp đặt nào hiện diện được rồi, thì cũng luôn chứa đựng sắp đặt của phân vùng có khởi đi những khả độ về sự điên cuồng khoác lấy vẻ hắc ám kia. Chính những gì mà tự trị gieo rắc vào thành khuynh hướng thì gia lực truyền hưởng của nó sẽ ngày càng được khả thi cho chính hậu quả liên đới với những gì cấp phát một cách bất kì về mỗi một phân bổ nào, để cưu mang đối với bất kì mỗi một sự tự trị nào đó, như mong muốn của chính bản thân nó. Có như thể của rất nhiều những tương tranh mà bất kể mỗi một sự tương tranh nào cũng nhằm góp phần làm thoả đáng tự trị sẽ luôn được vun bồi cho biến cố có những phát sinh sự kiện. Trong cung cách gián tiếp định hình nên không gian tương ứng hay tương đương, với cung cách biểu hiện tự trị trực tiếp của chính nó – biến cố hội thông tính tự trị cho những khả độ tất hữu của hệ quả đối với biến cố từ đó khởi đi những sự kiện.
Hội thông ấy tạo ra khả năng tái thiết các sự kiện được đương lượng ngang bằng với độ biến thiên phát sinh không gian. Các sự kiện luôn được cộng sinh trong những hợp cảnh nhất định, mà điều đó, là khả hữu cho tồn vong chính nó. Các sự kiện có thể cụ thể hoá ở bất cứ một phương vùng nào, mà nó cho rằng việc có mặt ở đó, của nó, là chứa đựng một điều, để làm nên những gì có ý nghĩa nhất thì cho đó coi như là mông lung đi. Bất cứ chỗ nào cầu thị một điểm tựa thì trạng thái tồn vong ấy luôn được thăng giáng một cách bất chợt, nhưng bất chợt đó lại được coi là hết sức hiển nhiên. Tại vì, có sự thăng giáng tồn vong ấy ở các sự kiện mà khả năng tái thiết của chúng dự định là sẽ mang lại điều gì đó khả quan hơn cho những cương vực sinh tồn không gian. Có thể nói rằng, cương vực sinh tồn không gian ngang bằng trong tầm dự phóng chính khả năng tái thiết các sự kiện, nghĩa là đi từ sự tái thiết mà độ biến thiên phát sinh không gian sẽ diễn ra theo một tỉ lệ thuận và dĩ nhiên mối quan hệ giữa chúng luôn là đồng biến. Khi nói rằng, các sự kiện được tái thiết thì ngay lúc đó, các sự kiện được phục sinh vào những cương vực sinh tồn không gian một cách không hề nao núng. Ta có thể đi từ bất cứ một điểm tựa nào, mà điểm tựa đó, câu thông được với huyền nhiệm bản thể thực tại thì nó sẽ luôn gia nạp vào trong chính hành động ấy để bắc cầu vào trạng thái tái thiết kia . Từ đó, hình thành nên liền mạch các sự kiện được câu thông đương diễn một cách tuyến tính. Không thể có cho tái thiết các sự kiện đi từ những sự kiện trơ/ì, bởi chúng đóng vai trò làm điểm xuất phát khi chính chúng đã tự hư vô trong nó những nguyên nghĩa cộng tồn, của bất kì một điều gì đón đợi cho chúng. Để tái sinh thành một bản sao, khi tái thiết luôn bị đẩy lùi về phía vô tận của không trung thì không thể coi như đó là một cái nhìn hiển nhiên/thông suốt, tất nhiên, là đối với ý kiến phát xuất từ căn tố trơ/ì khởi đi những sự kiện sau nó. Biến thiên phát sinh không gian cứ tự động cấu nạp vào sự tái thiết để đảm bảo mức ứng đệm tuyến tính, do đó, lập thể của những khả quy không gian bao chứa tính đồng thời/ngang bằng với các sự kiện đang có/đang xảy ra đó.
Để rồi, ở trong những chừng mực mà mỗi một khả năng vạch nên các sự việc thật sự xảy ra sau một giới hạn biến cố sự kiện, thì hữu hạn của những trường hợp cố định khả năng xảy ra đó, đi đôi với việc minh bạch hoá về tính đồng thuận của các chiều kích, được vạch ra một cách thật sự rõ ràng là như nhau qua các mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển. Đi từ khuếch tán không trương bắt đầu từ trong cảm thức để ngộ nhận đến khả năng vạch nên những sự việc thật sự xảy ra ở đó, thì còn phải đòi hỏi những mô phỏng ấy được hiện diện không nữa hẳn là một ngộ nhận luôn được cho rằng có khả năng. Mà khả năng đó, không chỉ bung vỡ trong một phôi sinh và tại vị trí ấy lắng đọng nên bất cứ một thứ gì cặn bã thì cũng là điều nên cần được xem lại. Khoả lấp/khuếch tán không trương vào huyền nhiệm thực tại chỉ thực sự có được khi chủ thể đặt chú ý vào tính dật ứng phiếm định trên miên tục của thực tại. Khả năng có thể đồng bộ hay không đồng bộ thì cũng một phần nào đó, do giới hạn biến cố sự kiện được hạn định bởi những mô phỏng chưa được rạch ròi. Để từ bất kể một hạn định nào mang tuyến tính quy giản vào bản thể thực tại thì cũng đồng nghĩa với sự dự phóng vào những phân vùng, mà ta coi đó, như làm đứt gãy đi dự tính liên tục của chính khả năng ấy. Theo lý mà nói, thì khả năng nào cũng đều là những nghiêng ngửa của sự việc có thể xảy ra theo bất kì một chiều hướng nào đó, mà sự hạn định về một phương vùng có thể là cực đoan/luôn bị coi là vụ lợi/không chính đáng. Không thể trên những phân vùng được quy hồi về phía không gian cổ điển, mà lại nổi lên ở đó, những vệt sẫm của các gam màu tối thì có lẽ việc đệ trình đến đây nhằm ủng hộ cho sức sáng sủa từ quy hồi đó là biểu năng sắp đặt xem xét lại bất kì một điều gì mà nó cho là ngộ nhận đi nữa. Cũng đồng thời với nó, như cưu mang những chuỗi đoạn vướng víu vào sự tự trị các biên vùng được coi là khả cấu bám chặt vào (hay được gán cho ưu thế tồn vong vào sinh mệnh của chính mình), nên ở đó, hẳn sẽ có sự toàn chuyển mang tính thích ứng nhất. Luôn đưa đến trong một cuộc hoan ca, có lẽ sẽ đậm màu sắc của những phù hoa từ sức biến điệu thăng giáng huyền nhiệm, làm cho chính bản thân mỗi một giới hạn biến cố sự kiện luôn tự hạn định mình vào trong chính âm hưởng của tiềm tố mang ơn khả năng đó. Thuần thục nào của bất kì một câu thông thực hiện phiếm định sở hữu thường hằng tính vào miên trùng thực tại, có được coi là bất lực đi chăng nữa, thì quy tụ trọn vẹn trong nỗi niềm của những chiều kích dự phóng chính là khả năng. Bất kể một tình trạng suy vong nào về chiều kích khả năng ấy, thì đồng thời với nó, là sự kiểm toả của bất cứ một quy tụ trọn vẹn nào từ trên mức độ tiếp diễn của vũ trụ cổ điển sẽ luôn luôn đón lấy những dự phần. Bên ngoài chính mỗi khả năng, khi nghĩ về bất kì một cố định nào, trong việc dự phóng vào nó, thì mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển, là mức độ được cấu nạp rành mạch nhằm minh định hơn cho chính khả năng mang đồng thời tính ấy. Mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển biểu thị những đợt lưu xuất không ngừng của bất kì một biên vùng nào, luôn được dự hướng vào bên trong bản chất sự dự phóng cảm thức, về chính những điểm tập kết chưa đón lấy là rõ ràng một cách nào đấy. Hay, chỉ với điều mà mức độ tiếp diễn ấy thịnh hành được, thì có lẽ khả năng bao chứa của vũ trụ cổ điển làm môi trường cho sự lưu xuất, mở ra cũng sẽ coi như đồng nghĩa với chính những chiều kích đó phóng vọt ra khỏi miên trường. Nhằm cố định điều gì là hội thông cho bất kể một căn tố nào là mong manh trên từng chặng đường biến tấu cái được coi như chiều kích, thì tiêu chuẩn để định hình nên tính tự trị của mỗi biến cố sự kiện được gia bội, luôn cộng tồn vào trong nó một hữu lý không hề bất tất, như chính niềm tin phủ định dồn dập vào trong nó hơn nữa. Mà đôi khi, chỉ bằng với những quy chuẩn được định liệu đó, đối với mỗi biến cố sự kiện thì cũng đồng nghĩa trong chính hạn định biểu kiến tự nhiên của những cộng tồn cương vực không gian, được biểu thị trên hoạ đồ không gì thay thế cho những khả năng có lý, hướng về phía giới hạn các biến cố sự kiện như thế nữa. Cho dù bất kì một sự phục sinh nào về khả năng đối ngẫu đó. Với những chiều kích tái thiết thì không gì hơn, chính mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển đã chứng minh (coi như là khả giải).
Khi một sự kiện được gia bội hoá tính dị biệt định hướng trên mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển thì sẽ tác chế nên những sắp đặt không gian rõ nét.Ở đây, cũng như những diễn giải trước đó, chúng ta sẽ thấy được vai trò của sự kiện trong việc thiết lập nên không gian hẳn sẽ có giá trị như thế nào. Trong bất cứ một trường hợp của quy chiếu từ sự kiện đến không gian cổ điển, luôn luôn được phân bổ vào những phân vùng có sự neo đậu của rất riêng những chấm định mô phỏng đi từ khả năng chính bản thân sự kiện. Không cần một điều gì mà sự kiện trở nên khác đi hay biểu hiện dưới những lộ trình không có sự dính dáng gì đến nhau, thì cũng chỉ duy nhất khả năng gia bội hóa tính dị biệt của sự kiện mới khả giải cho những mức độ lưu chuyển không gian tương ứng với sự kiện. Hầu hết quần hợp phân vùng các sự kiện dựa vào đó để củng cố (nên) những tái thiết có hiệu quả đối với việc sắp đặt bất kì một lộ trình quy hợp nào, hẳn sẽ luôn được gia nạp vào mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển, bởi trong đó, khó có sự thoái thác chức năng trình hiện cho đối ứng tiềm thể. Trong bất kì mỗi một điều được gia nạp như thế, chứa đựng một số (những) phân vùng mà chỉ có chừng đó thôi cũng đủ làm thành cộng hưởng mang lại hệ quả chính quy nhất. Từng bước tái thiết bất kì mỗi sự kiện trên cơ sở đi từ lộ trình của gia bội hóa đó, để phân tỏa vào trong mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển có được những giá trị tối ưu nhất. Không kể đến cho bất kì điều gì coi như chứa đựng những khả thể đối với mỗi sự kiện, thì bất cứ một khả thể nào cũng tạo dựng trong nó hay bên ngoài chúng những khả năng cường sát đối với trực tính xâm nhiễm vào bất kì một điều gì từ nó trở đi mà nó thấy đầy chướng ngại. Chính gia bội hóa sự kiện mà mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển mới tiến đến gạn lọc ra thành những phân bổ cấu hình, đầy tràn tiềm thể phôi sinh mang tính tự tại cho công cuộc định hình tiếp theo. Điều đó được trở đi trở lại trên chính sự gia bội hóa được ngày càng nâng cấp hơn, ở đó, có sự chứa đựng của tất cả những biên vùng mà ta cho nó là mờ nhạt, thì nó hẳn sẽ không thể không mờ nhạt.
Biên vùng mờ nhạt ấy, không gì khác các khả năng phán đoán cả. Phán đoán là một hành động kích xuất nên vô số trường hợp những không gian khả kiến khác biệt nhau. Phán đoán, do đó, lưu dẫn khung hình nền tảng cố kết mạch lạc giữa các biến cố trong tương quan hệ quả với sự kiện mà từ một tác động chung, không gì khác, đưa đến những kích xuất về không gian. Phán đoán là khơi động nên các phân vùng mà sự cộng sinh vào mức độ quảng cách trên vũ trụ cổ điển được sáng rõ hơn bất cứ khi nào hết. Và cho dù, có một điều gì đó được cho là cá biệt/ngoại lệ thì chúng ta cũng gọi phán đoán trong cung cách mà chính nó được gán vào phân vùng sáng rõ, ở những khả năng mà nó khám phá ngay tự trong chính bản thân nó. Phán đoán được cộng sinh, và tất nhiên,  không những chỉ được, mà còn phải được, cộng sinh với mức độ quảng cách trên vũ trụ cổ điển, để biết rằng, nó đang lan tràn vào trong huyền nhiệm thực tại để thâu tóm điều gì đó cho dù nó chứa đựng một phần nhỏ mà thôi, cũng là điều đương nhiên, vì nó đáng được như thế. Hành động phán đoán là hành động mà chính nó tự tìm cách đổ bộ vào điều gì có vẻ trái ngược với nó, bởi một khi đổ bộ thành công thì phán đoán đó sẽ chết đi và điều phán đoán sẽ bước sang một địa hạt mới. Lúc này, ta chỉ có thể chú ý, không gì hơn thế nữa, vào điều được phán đoán hơn là chính bản thân phán đoán. Cũng có thể, khi công cuộc cộng sinh của phán đoán cho ra đời những phương cảnh khác nhau trên vũ trụ cổ điển thì điều đó cũng đồng nghĩa, biến cố được kích xuất nên (mang/bao hàm - hẳn) những tương ngẫu khả năng hiện hoạt được gia cố một cách mạnh mẽ/chắc chắn nhất vào cương vực sinh tồn của huyền nhiệm. Phán đoán đặt ra điều mà trực giác tính có thể xâm nhập vào và gợi mở tri giác được thông suốt. Khi phán đoán thực hiện thì phán đoán làm những quy chuẩn để nâng biến cố đối diện với sự kiện kích xuất nên vô số những trường hợp không gian khả kiến khác biệt nhau. Phán đoán sang rõ là thế, và dĩ nhiên, nó không thể sáng rõ hơn nữa theo cách hiểu được đem lại từ phía trực giác. Sự kiện kích xuất đó, sẽ là nguyên nhân phát động nên những phân trùng (ở đây, không tính đến những phân vùng nữa) hạn định trên các bờ thửa mà luôn được cộng sinh vào thực tại một cách mạnh mẽ.
Sự kết lập mang tính mềm dẻo của những khuynh hướng vận động trong khuôn mẫu mỗi một biến cố, định hình nên chính bản chất khả hữu của bất kỳ mỗi một không gian riêng biệt nào. Nói như thế, nhắm đến một mục đích tối thượng là đả phá vào thành trì của sự cứng nhắc những lưu động trong thực tại này. Tức (là) giữa thực tại luôn khả hữu cho những thành trì, mà tối ưu của sự kết lập mang tính mềm dẻo, luôn xé bỏ/ bứt phá ra bên ngoài (ngoài, đối với những bờ thành có chủ ý đối với mọi sự phóng tán có chủ đích). Tuy nhiên, đối với những ý nghĩa kết lập nên như thế, được tạo thành, thì hẳn nhiên nó luôn chứa đựng trong nó sự đầy đủ mỗi một sự kiểm tỏa cầu viện đến bất kể điều gì đó được coi là khả quy. Đối với thực tại như bây giờ/ thế này, sự kết lập không thể đánh đổ điều gì đó được coi là khác đi về mặt bản chất, nhưng không hẳn, sự đánh đố lại không tiềm phục nên (thành) một điều gì cố nhiên chứa đựng được ý nghĩa hẳn hoi. Trong bước đường xung kích của mỗi hệ quỹ đạo nào mà sự kết lập mềm dẻo đi từ những khuynh hướng vận động trên khuôn mẫu mỗi một biến cố tạo nên, thì thông qua khuynh hướng đó, nó sẽ gắn kết vào miên tục của thực tại, để không gian định hình mang tính khả hữu sẽ rất khó bị hoài nghi. Sự kết lập đó, được đương lượng trong chừng mức khả năng của những lưu độ phồn tạp bởi các đối ngẫu trong việc phóng tán đến miên tục chính thực tại. Hoạt xung vào, và tràn lan sang mọi biên vùng chưa một lần tính đến sự khiên cưỡng hay cứng nhắc của một cấu trúc nào, như mong muốn thuần túy đem lại ý nghĩa được chứa đựng hoặc cầu thị cho mối liên kết cầu viện đến sự trợ cấp đối với những phân vùng tương ứng. Cho nên, kết lập khó có được khả năng thối chuyển để quy hồi về lại chính chủ thể như một sự khêu mời để khơi gợi, về những phân vùng mà nó bảo ban cho chính nó. Trên nền tảng của những hoạt xung trong sự kết lập ấy, khả nhiễm nên bất kể một điều gì mà kết lập đó được chứa đựng trong nó – tức miên tục, thì hiển nhiên công cuộc định hình sẽ làm nên điều gì đó kinh điển đối với những khuynh hướng của bất kỳ mỗi một không gian riêng biệt nào. Nghịch đảo lý luận diễn giải, đó hẳn nhiên, cũng là một cách của kết lập - một sự kết lập đối khuynh hướng.
Chúng ta đã nói rất nhiều về sự kiện nhưng sự kiện là gì hay trong đòi hỏi về một khái niệm được trình bày về nó, ngay đây, hẳn sẽ không được coi muộn màng cho lắm; bởi sự hiện diện đầy đủ ý nghĩa của nó như một khái niệm, cũng sẽ phải có và rất cần cho những cơ sở để lập luận về sau, hay được kể đến như minh chứng cho những kết quả diễn giải ban đầu.
Sự kiện là những khả cấu mang ý lực của cảm thức được gia bội hoá vào miên trường, vạch nên hay dựng hình thành mỗi một không gian trong tổ hợp của vô cùng các không gian khác nhau, sau bức màn những biến cố phát động từ tâm hệ phóng trợ vào thời trường. Với tính hướng định như thế, biến cố luôn thụ nạp vào mức độ gia bội hằng hữu trong miên trường của thực tại. Mà ở đây, là vũ trụ cổ điển, chứa đựng những lượng tái cơ cấu nên những không gian với đương lượng đi đến vô cùng.
Đi từ cảm thức ra thực tại, hiển nhiên, tiến trình của cảm thức sẽ luôn chứa đựng khuynh hướng bức phát nên điều gì đó mang tính xâm nhập vào bên trong, để sự tự trình đối với bất kể những phân vùng được hiện diện trong thực tại phải mang lại ý nghĩa cho chính nó. Đối với sự kiện, trước hết, nó là những khả cấu mang ý lực xuất phát từ cảm thức, mà bản thân chúng luôn được gia bội hóa vào miên trường. Khả cấu mang ý lực là những trung khu chịu đựng các điều phối từ ảnh tượng chính bản thân cảm thức. Khả cấu luôn tính đến sự tự trình có hiện hữu của bất kì một lối cấu trúc đem diễn giải cho bất kể một đối tượng nào, mà theo nó, có thể trình hiện một cách trực tiếp, ít ra là bên trong cảm thức, về những khả năng mà trung khu chịu đựng sự điều phối ấy sẽ thăng giáng trên chính phân bổ của thời trường. Trung khu đó, ở đây, chứa đựng những phân bổ, nhưng quan trọng hơn hết, trung khu đó phải chứa đựng những khả cấu mang ý lực. Ý lực được xem như một sự điều động đối với nguyên tắc khả giải cho những bước đi trực sẵn hệ hình được đón lấy. Trung khu ấy tồn tại trong tính tiệm vị của cảm thức, để có thể từ đó, cảm thức thực hiện những xung năng thẩm thấu vào bên trong đề hướng (xuất) ra bên ngoài thông qua/bằng ý lực. Ý lực, được đương lượng như chính những gì mà các sự kiện rành mạch không ngừng, trong sự sâu xé của bất kể một lối đi hay cách diễn giải nào ở nhóm các sự kiện được tái lập hay hình thành với tư cách chính quy không cần bị quy xét dài dòng. Sự kiện được nói đến như những khả cấu mang ý lực, mà chính ý lực đó, luôn được sẵn sàng trong tư thế đón chờ cảm thức gia bội hóa vào miên trường, có như thế, tức có sự gia bội thì khi đó, cảm thức mới đảm đương như chính những gì cấu nạp vào thời trường để biểu hiện cho những cương vực của sự kiện. Từ đó, vạch nên/dựng hình mỗi một không gian trong tổ hợp của vô vàn các không gian khác nhau, nói thế, chính muốn nói rằng, không gian được điều xuất luôn được phát động từ chính bên trong mỗi sự kiện. Không gian được định hình thì không chỉ có một, mà chúng (chỉ không gian) luôn được định hình trong một tổ hợp của vô cùng các không gian khác nhau, thêm một bổ túc nữa cho cái được coi là cơ sở chính đáng về sự kiện. Sau bức màn của những biến cố phát động từ tâm hệ phóng trợ vào thời trường, phóng trợ đó, mang những ý nhiệm huyền lực tải đi điều mà trong bất cứ điều gì xuất hiện nên, để vin vào cớ đó, cho rằng nó tồn tại cho bản thân nó là luôn có ý nghĩa, thì nó đó, cái luôn được đồng ý cho một điều gì, mà thật ra nó đã vốn có sẵn như thế rồi. Cộng với các thái cách (cách thức biểu hiện hình thái) của chúng được gạn lập ra trên một bức màn những biến cố, bức màn đó, là trung khu mà khả năng chứa đựng đối với công cuộc phóng trợ nghiễm nhiên không sao đong đầy, khi mang những thối chuyển kề cận là được coi đồng bộ. Biến cố, từ nó sẽ khởi đi những cảm quan mà bất cứ một cường sát nào khơi mào cho bất kì một không gian bất kì khả độ cho chính sự kiện, để sự kiện được diễn ra một cách sốt sắng nhất, thì luôn được coi là điều gì đồng nghĩa với sự hoàn bị chứa đựng trật tính quy hồi qua định hình trên những biến thái cách mô phỏng về những phân vùng (cũng có thể là đối trọng của những phân vùng được tạo lập nên), hay ít ra và nhất là khi chúng ta muốn nói đến những điều gì, mà có cho đó là tối ưu nhất, thì cũng luôn có thể ngước nhìn bởi tính cao sâu của nó hay bình quân nhất về mọi phủ quyết bằng cách tiếp nhận từ trực giác tính mang những yếu tố luôn được định hình đối với chính sự mô phỏng chẳng thể khi nào được gạn lọc cho cái gì đó là chính quy.
Và tính hướng định luôn được cấu nạp vào trong biến cố, mà bản thân sự gia bội đó phân lập nên bên trên tất cả mọi sự mô phỏng. Để có như thế, nó phóng xuất vào bên trong bản thể thực tại/miên trường (của thực tại). Ở đây, đi đôi với gia bội là những lượng tái cơ cấu trong vũ trụ cổ điển bằng cung cách khởi đi ở đó các tiềm tố đi đến vô cùng. Gia bội hóa vào trong hằng hữu miên trường của thực tại được định đoạt bằng tất cả sự ngả ngũ cho mọi chất vấn rằng, đều có thể tái lập một cách linh hoạt trong tiên liệu bất cứ từ một sự cho dù nào đến một sự khẳng định tất hữu nào. Cũng có thể nói rằng, khi mà sự kiện được biến cố gia bội hóa để đón đợi những cấu nạp vào trong miên trường, thì cũng vào lúc đó, mọi quy chuẩn đồng bộ hóa nào cũng là điều kết lập một cách vững chắc nhất, không thể có được một viện lý nào về những đối chất mà ngẫu sinh cũng làm rạng rỡ cho sự mô phỏng ấy, chính bằng với xung lượng tái cơ cấu vào trong vũ trụ cổ điển và chính bằng cơ sở được xây dựng bên trên nền tảng đó, mà sự mô phỏng đáng được trải dài trong vô số những trùng ngưng, chưa từng bao giờ đón đợi điều gì đó, bị coi là đứt đoạn đối với mọi sự kiện hay bất kể những gì, mà nó được định hình cho chính sự mô phỏng hướng về phía bản thân sự di mãn tính phóng trợ có ở trên vào trong những tiềm tố có ở nội vi bản thân thực tại. Đi từ sự mô phỏng của những hệ hình, có cứ lý nào chắc chắn không khi chỉ trong một đương lượng tưởng chừng như mỗi cung cách biểu hiện như thế, xem ra khó mà có đạt được sự tự thành của những hệ mẫu đang lẩn khuất trong chốn mê cung dày đặt và san sát các đương lượng khả năng trên chính sự mô phỏng ấy? Có thể nói rằng, nếu như sự kiện không xuất hiện để rồi lưu hoạt trong bản thân không gian cổ điển thì thực tại này, chẳng khác gì một cái gì đó đầy ứ, phồn tạp. Thậm chí, đương lượng trên vai trò của mỗi biến cố thì chính biến cố được coi như sáng giá nhất cho từng biểu hiện đối với lượng tái cơ cấu trong vũ trụ cổ điển, sẽ được gia bội hóa đi đến vô cùng, hẳn nhiên, luôn chứa đựng điều gì sốt sắng trong từng diễn giải mà bất kể một sự liên kết nào từ mô phỏng đi vào các khả năng đóng vai trò là dự phần, như kết quả đồng thời hướng đi, thì có lẽ nó luôn luôn được nhìn nhận về những mức độ dự phần có ý nghĩa (dĩ nhiên là có sự bổ trợ của mức định đối ý thức).
Khi tôi quán xét mọi tia nhìn của tôi về phía vũ trụ cổ điển, để minh chứng cho những lượng khả năng có thể xảy ra sau một hành động được tạo dựng nên từ mỗi một biến cố nào đó, thì cũng đồng nghĩa với việc tôi thực hiện hành động thâu tóm chuỗi khả năng ấy trong một mức độ tối đa cho phép, để sự nắm bắt trên đạt đến một mức độ khả quan. Ở đây, đi từ những gì chủ động trong lộ trình hiển minh nên các giả lập về tính mô phỏng ra bên ngoài. Khả năng là điều đáng được bàn cãi, bởi chính sự mô phỏng bất kì, đều có liên quan dù trực tiếp hay gián tiếp gì đi nữa cũng là trong quan hệ với khả năng. Khả năng tạo nên mô phỏng, bằng với chính những cung cách phác thảo ra để sự mô phỏng có được những điều gì coi đó là minh bạch hóa. Còn trong một quy chụp tác động trở lại đối với mô phỏng, thì chính sự mô phỏng lại mang tính đào thải khả năng trong những gì, mà bản thân khả năng có điều kiện khi chính bản thân nó gây ra cho nó. Đi từ khả năng, ta có thể biết được mô phỏng nhưng như thế chưa đủ mà còn cần phải xem xét khả năng đó thuộc loại nào và những trừu xuất nào, đáng để cho mô phỏng dính líu đến trong chừng mực, mà chính khả năng có thể cho phép bất cứ một mô phỏng nào đó, được có đều được phép thụ nạp một cách trọn vẹn những chuẩn mực cho mọi sự chín chắn, cũng như già dặn nhất, để rồi từ đó, đóng vai trò trong quan hệ chung - nhân quả. Khi mà quá trình quán xét về phía không gian của vũ trụ cổ điển thông qua bản thân chủ thể tôi, thì tại đây, bất kì mỗi một sự minh chứng nào về khả năng cho hành động tạo dựng nên từ một biến cố nào đó sẽ luôn là hữu lý. Bởi rằng, cho dù và đối ngẫu tất cả những phân bố nào trên không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển cũng sẽ là điều mà ta chăm sóc và dĩ nhiên, đó cũng sẽ là điều mà bản thân nó mang lại cho bản thân ta, ít nhất ra cũng là một sự chú ý có mục đích. Tóm lại, mô phỏng được nói đến, chẳng khác gì là điều mà hành động xuất phát từ bản thân tôi thâu tóm chuỗi khả năng xảy ra trên từng mức độ để sự nắm bắt đó từ phía tôi đạt đến một mức độ khả quan. Mô phỏng ấy nằm trong quan hệ với khả năng và tất cả những khả năng đều có liên quan đến mô phỏng. Sự ngự trị độc tôn của những hệ mẫu luôn là bước cản oái oăm nhất cho khả năng tấn công vào, để phá bỏ, làm sụp đổ tất cả mọi thành trì của nó, để đạt đến, những phân vùng luôn cầu viện hay vin vào các cứ lý thích đáng cho sự tự tại lúc có được những công nhận rất (đáng được) phải nhắc đến. Sự công phá không cho rằng, trong những lấn át về vùng biên độc tôn đó lại lẫn lộn bởi những ý hệ chưa được thảo sẵn một cách rành mạch, thì bất kể điều gì, có đó, trong nó, cũng sẽ lưu chuyển nên (nói đúng hơn là được lưu chuyển nên) thành sự tự trị sáng rõ đặt trên cơ sở mỗi biến cố. Biến cố nào cũng là điều kiện đối với sự mô phỏng hay khả năng có những cứ lý mà bản thân chúng có vị trí tự chúng dành cho chúng để chúng sẽ trình diện ra bên ngoài, như những gì mà chính chúng chứ không gì khác sẽ thế chỗ của chúng, bởi chúng có khả năng và chính những mô phỏng về chúng luôn được trang bị/gắn sẵn trong chúng.Chứa đựng khả năng vào mô phỏng hay quy kết mô phỏng vào khả năng luôn phải được tính đến trong cơ cấu của cái gì đi ra trước và cái gì có mặt sau, khi đó, mới tiến hành để phân đoạn tất cả những chỉ dẫn có được sức mạnh một cách chặt chẽ nhất, nhưng không vì thế mà mọi sự đặt định nào từ lúc chối bỏ của chính những khả năng, được xem như tính chất mỗi biến cố hay mô phỏng được gán trong chính quy vai trò mỗi sự kiện. Bất cứ cái gì cũng có thể là điều mà chúng ta không có cơ hội để hiểu rõ về chúng thì có đồng nghĩa rằng, như thế chúng ta cũng sẽ luôn luôn và mãi mãi mù tịt về chúng đâu. Cũng có thể sự xuất phát những điều mà ta cho mềm dẻo nhất hay trong cung cách tia nhìn của chủ thể tôi về phía vũ trụ cổ điển thì hành động được quy kết đến/về lộ trình nào đó, hay bất cứ điều gì được bổ sung cho chính nó, cũng còn phải được xem xét nhiều hơn chăng? Và cũng tại tính chất của những ngưng trùng khả năng/mô phỏng ấy, mà sự phân mảnh không gian được đặt trong một xác suất tiên liệu về sự nắm bắt bất cứ điều gì xảy ra sau đó, luôn được định vị một cách chu toàn. Mẫn cảm nào cũng là không thích đáng chính sự phân mảnh để đòi hỏi tính tự trị đối với mỗi một phân vùng, thì chính quy để tính mẫn cảm đó lên tiếng (thậm chí một cách gay gắt) cũng không thể loại trừ nhưng cũng cần phải (và nên như thế) vơi dần đi nỗi lo lắng đó.
Và lo lắng đó, thứ sự được vơi dần đi khi viễn tải của những sự kiện đưa đến tác động hình thành mỗi không gian mang tính cơ trình minh bạch hoá một cách rõ ràng. Ở đây, là bước khẳng định lại như hồi kết cho những gì được diễn giải trước đó. Từ sự kiện để hình thành nên không gian, mà không gian đó là hiển minh một cách sáng rõ. Sự kiện khêu chọc vào trong bất cứ một điều gì mà nó có thể có khả năng là còn trùng ở nó với chính những khả năng. Trên một trung tâm của sức điều động bất kì mỗi sự kiện thì luôn luôn khi nào cũng hàm chứa vấn đề, mà ở đó, có sự cấp phép những bước ngoặt đầy đặn. Sự kiện mà nhìn nhận được đến nó trong một chiều kích chứa đựng sức căng trải về phía vô cùng luôn đồng nghĩa cho tính định vị tự tại của mỗi một không gian. Không thể nói rằng, ở đây, chưa có sự kiện được quy ước như thế nào và điều ấy có cho là đúng đắn đối với chúng hay không thì trên toàn bộ sự quy ước đó, luôn được sáng rõ một cách chắc chắn.
Viễn tải của sự kiện, hay nói đúng hơn, chính quá trình gia tăng những khả năng của khả năng chất chứa trong mỗi sự kiện, bản thân sự kiện không là bất kì một điều gì đó dễ dãi cho bản thân không gian nhắm đến và quy định. Nhưng đối với bất kể một viễn tải nào, đem đến điều ấy, thì cũng chính sự hoang mang tột độ của khả năng chết rụi, một hay điều gì đó, được nói đến, mang tính bất kì chắc chắn sẽ thể hiện được khả năng đó ở nơi chính nó.
Không thể giản quy tất cả các tính chất, mà người ta gọi bằng hai từ lố lăng vào những gì mà sự kiện có thể mang lại, hay nói đúng hơn trong cung cách mà mỗi một người đứng nhìn nhận về sự kiện, sẽ luôn đảm bảo cho anh ta có được niềm tin về những lộ trình quỹ đạo, mà khả năng mô phỏng sự kiện có thể khơi gợi nên, hay phác họa ra một cách rõ nét. Điều còn tùy thuộc vào một cơ sở nào không chắc chắn thì bao giờ cũng luôn chứa đựng một sự hoài nghi tối thiểu. Bản thân sự kiện kết lập nên không gian mà chính sự kiện được khởi đi từ các biến cố luôn đảm bảo trong định mức lập luận, hẳn sẽ khó vi phạm bất cứ một quy tắc nào, cho dù quy tắc đó, có như thể được nói đến mang tính sắp đặt của những dự trình vào mọi phân khu mà bản thân nó, đang cố gắng đương lượng trong từng mức độ chẳng thể khi nào làm cạn kiệt đi bất cứ một niềm tin, về sự kiến tạo không gian giản cách khả giải cho chính vai trò của chúng như thế.
Tác động mang sắc thái phối cảnh ở không gian này sẽ luôn đưa đến một tác động thành phần trong từng bước phát triển của những sự kiện hay biến cố có khả năng xảy ra ở những không gian khác nó.Có thể chúng ta đã biết về khái niệm toàn ảnh (holography) trong vật lý hiện đại. Thì chính luận điểm này, hẳn sẽ là một hệ quả không gì khác từ chính nguyên lý đó. Một tác động, ở đây, có thẻ làm cho ngọn lửa cháy dữ dội hay dòng sông đóng băng dày đặc hơn nữa, ở đâu đó. Đi từ sự liên hệ mang tính mật thiết giữa những cơ cấu vĩ mô được sắp đặt trên chính những gì, mà mỗi thành phần trong cơ cấu đó, hạn định nghiễm nhiên là luôn chứa đựng những nỗi mong ước thỏa đáng bất kì đối với mỗi tính chủ đạo phân lập nên trên cơ cấu chính sự liên hệ đầy tiềm năng đó. Bước phát triển bao chứa tác động và đi từ một phân vùng này, để rồi mang lại  cho phân vùng khác một dấu ấn. Không thể kể đến như bất cứ điều gì mà sự liên hệ ấy lại được cho là ngoại lệ. Có thể khi không biết về một hiện tượng ở không gian này thì làm sao có được sự hạn định đối với những gì diễn ra ở không gian kia, một sự cần đáp trả mà mỗi bản thân chính chúng đã hằn chứa đựng như thế rồi. Cho nên, khi sự liên hệ mật thiết đó đứng ra để hạn định tất cả những gì mà nó có hay được điều phối nên, thì cũng ở chính nó (tức bản thân không gian bao hàm đó) có mang đến sự chịu đựng đối với bất kì mỗi một điều gì, cũng đều là cách, mà ta luôn hằng suy nghĩ về chính sự kiện tương ứng mỗi tiềm năng đó sẽ có thể chứa đựng những mục ruỗng mà ta không lường trước được.
Cơ cấu ấy, hoạt động một cách tinh vi, để đi từ bất kì một sự tác động nào hẳn cũng sẽ mang lại đối ứng trong cung cách biểu hiện bên trong mỗi không gian, đến cái mà chúng ta có thể làm là thoát li tất cả mọi tập quán trong cách diễn giải khác đi này, mà ta đang thực hiện thì luôn được cho bằng giá trị đối sánh và thậm chí còn rành mạch hơn những gì ta tưởng. Bất kể điều gì được cho là xuất phát từ một điểm nhìn này, để kêu gọi về phía không gian kia, nhưng tất cả sự kêu gọi như những lời rao mời đầy quyến rũ, thì cũng luôn cần một sự tỉnh táo của suy nghĩ để biết đâu là đúng đắn và đâu là những thích ứng một cách cơ giới/máy móc mà trong một chừng mực nào đó gần như là giả tạo.
Cho nên, bất kể mỗi sự kiện đương diễn nào cũng nằm trong trạng thái phân vùng của vô số những khả năng không gian khác nhau, được vạch ra, trong chính hệ quả từ mỗi một sự kiện chính quy nào đó mang lại. Điều đó là đồng bộ mà sự tái hiện nó, ở đây, như bước đà quy kết cho sự kiện có được những đối sánh đứng trước hồi nan giải. Sự kiện có hai loại: sự kiện đương diễn và sự kiện khả năng. Khi tính đến sự kiện đương diễn mà nhìn nhận về nó trong mức độ quãng tính gắn với biến cố phát sinh không ngừng nghỉ thì sự kiện đương diễn không được coi là tồn tại. Nhưng thử đặt trong một trường hợp riêng biệt nào đó, mà hệ quy chiếu chúng ta xem xét về sự kiện đó, là một sự kiện đương diễn, thì bất kể khi nào nó diễn ra, nó cũng là trạng thái phân vùng của vô số những khả năng không gian khác mà thôi. Những trường sức không gian, theo Einstein, được nối kết vào nhau theo hình cái bọt nước, nhưng trạng thái phân vùng không gian, sẽ không thể được hình dung như chính những cái bọt nước đó ghép lại với nhau. Mà ở đây, sẽ là sự kết cấu hóa một cách linh hoạt giữa các trường sức không gian bao chứa mỗi sự kiện được cho phép trong quá trình xảy ra không hạn định. Không gian, mà rộng hơn là trạng thái phân vùng của không gian, chính là sự kết lập từ các trường sức không gian đó lại với nhau, điều này được nói đến như cơ sở cho tính đương diễn có ở mỗi sự kiện được diễn ra suông sẻ là vì thế. Cho nên, đối với mỗi hành động có thẩm tra một cách đúng đắn nhất về mọi quy ước thu được từ giải trừ những gì không liên quan thì sự kiện đương diễn cũng thế thôi, bằng với chính khả năng của mình đào thải đi những gì không đáng có. Đối với mỗi một sự việc xảy ra trên cơ sở của chính nó như phân vùng nào cũng được cho là điều động nên từ những gì chính đáng nhất, thì bất kể một sự kiện hay là một quy ước nào, cũng gắn liền với chính mỗi sự kiện đương diễn đó với không gian khả cấu vào trong trạng thái phân vùng, của rất nhiều các sự kiện đương diễn, chứ không phải chỉ có một mình một bóng của riêng một sự kiện đương diễn. Điều gì được coi là khác đi so với trước kia, ở đây, mà nếu nói như thế thì sự kiện đương diễn được lặp lại một cách máy móc trên những trạng thái đó của toàn bộ kết cấu các trường sức không gian? Dĩ nhiên không như vậy, mà chính ngay bên trong mỗi sự kiện đã chứa đựng những phôi sinh khuynh hướng, nó được quy về cho vô định hình chất chứa bên trong nó, như lăng kính soi vào đều trơ vơ, vì ở đó, cũng chẳng thấy được những điều gì mà ta còn cho nó là điều như ta hằng mong ước.
Và vì thế, sự kiện chính ngay những kẻ giảo hoạt. Tức là, muốn nhấn mạnh đến khởi thành của những cương vực mà sự kiện đó thao tác nên trong tình trạng bị giằng co và sâu xé không cùng trước các đợt cuồn cuộn thăng giáng miên tục. Nghĩa là, trong một tương quan nào đó, ta có thể hiểu sự giảo hoạt được trao cho chính sự kiện muốn đề cập đến những phân trì hạn độ, như thế, việc xác lập nên mỗi sự kiện thuần túy cực kì khó khăn đối với mỗi sự nhìn nhận này. Nhưng hơn hết, tính giảo hoạt đó đã mang lại một bước tiến đem quy chuẩn vào sự đúng đắn, để những gì đăng đối được hiện minh trong kết phần có sự tương trợ thích ứng. Có thể khi đi từ sự kiện, mà chúng ta có thể nói về sự kiện như những gì nó vẫn chính là nó, hay là cái cách mà chúng ta có được hình ảnh về chính điều gì mà rất có ý nghĩa. Điều kiện để cho sự kiện trở thành đúng đắn, thì bất kì một điều gì, có căn nguyên từ mọi cơ số về công cuộc đệ trình đối với mọi nguyên tắc.
Giảo hoạt tính của sự kiện muốn nói rằng, giảo hoạt là kẻ chỉa mũi nhọn vào cường độ sỉ vả đối với bất kì một trung khu nào có sự giả cách về nó khi luôn hướng định đến điều gì đó, mà nó cho là có ý nghĩa. Sự kiện bất kì nào cũng đều không được mong muốn như chính những gì mà nó gom góp vào, để chính vô cùng điều hoài nghi được sắp đặt về phía chúng. Sự kiện điều động những phương cách, mà trong cơ cấu, nó luôn muốn hiển thị nên điều gì được cho là minh bạch, ít ra đối với chính nó, nhưng phương cách thì vẫn là phương cách, từ biểu hiện mà có được ở đó những ngẫu phối, thì khi ấy, chúng ta mới thấy được sự kiện ngay lúc này đang trào dâng nên những định hình giả cách nói tới như thế này. Điều gì có cho là đồng bộ thì cũng chính nó luôn mong muốn có được những dự phần vào trung tâm mà sự cách ly để ra đời điều gì đó bị gián đoạn.
Kẻ giảo hoạt luôn nung nấu trong mình ý chí sắp đặt nên ngẫu phối của bất kì mỗi một thứ kiện tính nào, mà trung khu thực tại, đều được nó gán cho cái cốt lõi nhất đói với chính nó, khi mà với riêng nó, là đều đáng cần phải được xem xét. Hay ít ra, là trong một sự trình/qua hiển minh nào đó, nên chúng ta mới thấy được sự kiện đang di mãn ra ngoài phương cách, mà từ đó, nó được mô phỏng như những gì vẫn được hiểu là đã từng hiểu như thế.
Do đó, hội nhập của sự kiện là đương diễn những biến cố trong trình tự đón nhận các khả năng tiến đến vô cùng với mức độ đón nhận là ngang nhau. Để khơi sâu vào trong chính tiềm tố mà mỗi một quan năng chủ thể hiểu rõ thì luôn luôn cần và được tính đến cho công cuộc hội nhập của sự kiện. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, mà bất kể những khả năng hội nhập vào sự kiện mang tính đương diễn thì cũng đều là trình tự chứa đựng bất kì một sự tự tin mang tính cẩn trọng nào đó. Hay trong cung cách biểu hiện về phía bất kì mỗi một điều gì mà ta không nắm được, tất nhiên, là sự nắm bắt đó được hiểu như một sự nắm bắt còn đang đón đợi đối với/về phía những gì, mà công cuộc hội nhập của sự kiện cũng vạch nên, trong trình tự đón nhận ngang bằng các khả năng mô phỏng.
Tiềm thể nào cũng đường hoàng một cách danh giá cho cung cách nắm bắt được lộ trình quy hợp về bất kể một sự chân chính nào làm nên từ nó. Mức độ đón nhận là ngang nhau, tức sự thụ nạp vào trong những xác suất không xê dịch về một cán cân nào, để tính đến/trình ra sự hơn thua/ít-nhiều ở những kề cận đang còn nung nấu ở đâu đó.
Về phía không gian cổ điển, hội nhập sự kiện đương diễn nên trình tự đón nhận hẳn là đáp án cho mọi ẩn số của sự kiện khởi đi từ biến cố luôn được đặt trong mong muốn kiện toàn. Cóp nhặt mọi sự rơi vãi nào đó để cất công dựng xây, không được cho là vô ích trên chính điều gì mà ta đây coi nó là những nét vẽ sáng ngời của bất kể một bước đi nào. Và ở đó, ta còn thấy biến cố được vẽ ra về một phân vùng hay cũng với những sự dẫn nhập vào công cuộc ấy, mà trình tự đón nhận của bất kì điều gì trở đi, khi tiến đến vô cùng cũng đều nhen nhóm nên bên trong sự kiện cách nó những bước đi mang tính xâm nhập. Công cuộc đón nhận về phía nào đó trong những cung cách đón nhận là ngang nhau để hứng lấy hệ quả đối với mỗi một sự định hình trong bản thân chúng ta, hẳn sẽ luôn chứa đựng những trình tự đón nhận có ý nghĩa. Đón nhận là sắp đặt nên điều gì đó, mà ở đây, chúng ta nói về chúng (sự kiện khởi đi từ biến cố trong công cuộc hội nhập) sẽ là những điều gì được đền đáp một cách xứng đáng, đối với mong mỏi chưa bao giờ đem lại tính chất triển khai đi đến vô hiệu hóa toàn bộ hệ thống.
Và công cuộc đón nhận nào cũng đặt cơ sở trên tác động định niệm của cảm thức. Tác động định niệm của cảm thức mang tính chất một triển thời về không gian tự phát, thụ nạp trong hư cấu những khả năng cho mọi xác suất của mỗi một biến cố thực hữu xảy ra.
Không gì khác, mỗi một không gian được hình thành từ chính tác động định niệm của cảm thức là vấn đề rất đáng lưu ý ở đây. Đối với không gian, hay nói rõ hơn, là biến cố khởi đi những sự kiện đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành không gian, luôn tồn tại trong những xác suất cố hữu. Điều này đã được nhắc đến trước đó qua những khả năng và mô phỏng. Tuy nhiên, liệu điều đó, được trình bày như thế, có được cho là sáng tỏ hay chưa? Bởi khả năng và mô phỏng chỉ là hệ quả đối với những xác suất từ mỗi một biến cố mà thôi. Do thế, mà tác động định niệm đó của cảm thức luôn mang tính chất một triển thời về không gian tự phát. Điều được thụ nạp ở đây, trước hết, chính là xác suất cho mỗi biến cố được xảy ra, hay phải chứa đựng những khả năng được xảy ra, trên tất cả mọi phương diện của sự đón nhận đến với chúng được khởi đi từ những xác suất thành hình từ đó.
Tác động định niệm của cảm thức là sự tương tác giữa cơ cấu tiền niệm bên trong cảm thức với những gì được cho là bên ngoài, như thế, vị trí đặt định đối tượng đó có đúng không? Ở đây, một điều đúng cũng bất khả và nói nó sai cũng không thể. Trước hết, cơ cấu tiền niệm sẽ tạo dựng những động lực nhằm phối cảnh trong cái nhìn chủ thể về chính bản thân chủ thể, để chủ thể xác định được vị trí của anh ta trong không gian, mà anh ta hiện hữu tương ứng với không gian đó. Khi công cuộc được tiến hành và đồng thời có sự duy trì của những hoạt lực tự bên trong, thì khi đó, tác động định niệm sẽ thực hiện bước dời chỗ qua điều được coi là tách biệt, có như thế, nó mới mang thực chất của tầm vóc vĩ đại chính cơ cấu không gian tri giác mà nó vẽ ra. Và cũng đồng thời, trực giác tính tham gia vào công việc thấu thị trực tiếp sự ngăn cách giữa những phân vùng, giữa những lưu động tồn tại bên ngoài (đối với chủ thể), và sự lưu động để hiện diện rõ rệt những phân vùng, như thể luôn tồn tại trong thế giới, mà không gian cổ điển, rộng ra là của bản thân chính thực tại.
Tính chất triển thời biểu hiện về không gian tự phát, tưởng chừng như những định liệu đó luôn khởi xướng đến mức tương ứng, thì cũng đồng nghĩa với những gì còn lấp lửng nửa chừng là một cách diễn giải không gì khác. Trong khoảnh khắc tức thời ấy, từ bên trong ra bên ngoài, như sức lực nào đó mà bấy lâu nay bị kìm nén giờ này bung toả hẳn ra, bắn phá vào bất kì mỗi một phương vùng (hay là cung cách đi tìm sự tự trị của mỗi một biến cố đối với việc hình thành (nên) không gian). Điều ta cho là tự phát ở đây, có thể trong thành phần mà chúng ta hiểu được mỗi một khi sự kiện tức thời đó, giải phóng dưới dạng tính chất của tác động định niệm thì sẽ là điều mà ta đây có được về những trạng thái đối khu, tất nhiên, đó cũng là một điều dễ hiểu. Tính chất ấy, chính quy để khởi đi từ cảm thức, bởi dù gì đi nữa, thì chính trong lòng cảm thức đã chứa đựng những xung lực mà trong một mức độ tương đương nào đó, chính những xung lực này một khi bộc phát ra để nhắm vào vô số các đối tượng cần phải nắm, thì giờ này dường như sự đón nhận cần được đón nhận, hay đang được chờ đợi, đã đạt đến một trạng thái bão hoà và lúc này nó đã mang những cứ liệu không thể bắt bẻ được nữa.
Tiến trình cứ thế tiếp tục, để rồi chính sự thụ nạp trong hư cấu những khả năng cho mọi xác suất từ mỗi biến cố thực hữu xảy ra. Ở đây, liệu rằng có mâu thuẫn gì chăng? Một bên là hư cấu, một bên là thực hữu đi từ hư cấu để gây ra hệ quả đối với thực hữu. Dĩ nhiên là không mâu thuẫn, trong sự quy định của chính quy bước đường tư duy, để bất kể một sự khởi đi nào từ biến cố đóng vai trò như một khởi đi thứ cấp, ngay khi khởi đi nguyên cấp từ cảm thức. Đảm bảo bước đường từ xác suất đến khả năng và cuối cùng là mô phỏng thì mọi đặt định về hư cấu - thực hữu xảy ra, trong trường hợp tổng quát này, luôn được nhìn nhận như một xu hướng tất yếu, có đó bởi truy phục vào cứu cánh, mà chính nó mang lại cũng đều cho ra đời những dự phần ứng lãnh đối với toàn bộ kết cấu tư duy, khi định hình vị trí của tôi đây trong không gian (đây là không gian nói chung, chứ không phải không gian cổ điển, không gian được nói đến như một không gian thuần tuý không gian).
Vì thế, tiết điệu của tính khảo cấu không gian thấm nhập vào những tầng vỉa cảm thức thuần tuý mang trương độ triển thời đang hoạt động trong cuồng lưu mọi biến cố sắp xếp nên sự liên thuộc nội tâm hữu thể. Cái đáng nói ở đây chính là điều mà sự in hằng của những mong muốn cho điều gì đó diễn ra/hiện kiện trong chính điều gì đó được coi là tồn tại ở bên trong (nói như thế, tất nhiên, không có nghĩa là đặt trong quan hệ với những gì bên ngoài). Đặc cách đối với sự xuất hiện, ở đây, mà làm cho điều xuất hiện để đi đến sự tác động mang tính qua lại, đồng nghĩa với điều gì đó gạn lọc đi bằng hai chiều. Được thực hiện bởi những diễn ra bên trong chủ thể làm thành sự lưu động đối với điều gì đó, được coi là mang tính chất đối ứng của hệ hình mang tương tác hoàn trộn về một phần và một phần chất chứa ở sự kiện không hoàn trộn khi những phù lưu ấy, chưa đóng kín trên từng bước đi của chính nó vào sự đeo bám quá chừng được coi như là cũ kỹ.
Tiết điệu trong bất cứ một tiềm năng hiện diện nào, rồi cũng sẽ mang sự khảo sát làm thành cơ cấu về đối tượng (khảo cấu), cho nên, ở bất kì một điểm nào cũng sẽ là tương đương với mô phỏng về phía tiềm năng ẩn chứa những điều không thể. Một khi chúng ta nói rằng, điều kiện để sự tự thành đối với mỗi biến cố trong kiến tạo không gian luôn được quy giản trên chính niềm tin mà ta nhắm đến sự tiết điệu này. Để đơn giản hóa đi những chuỗi dạng dữ liệu, khi sự thấm nhập vào, ở đây, đang trong tình trạng lưu chuyển thành biến thái cách hiện trình đối với cung phần lịch trình về phía những tầng vỉa của cảm thức thuần túy. Bất kể một sự chú ý nào cũng đều là sự chú ý luôn đón đợi trong tư cách mà nó cho phép tiết điệu được quy giản hay là không quy giản như một bước đệm đối với tình trạng thấm nhập đó vững chắc hơn. Có lẽ, sẽ đúng trong những điều gì đó, mà có cho nó bằng những biến thái cách, để sự có đủ tiến dần đến dự phần sở hữu thì mọi âm hưởng chính điều gì đó đều phải được coi như âm sắc của thực tại.
Trên từng bước nhịp điệu mà có sự trở về trong lưu động những khuôn phép thì oái oăm lắm mới có thể cho ra điều gì đó quá ư là vững chãi, đối với mọi quy tắc nằm trong liên quan về trương độ triển thời luôn tái diễn (chứ không phải tiếp diễn) bằng chính những gì được trừu xuất ra qua tương ưng thứ cấp. Bất kể vấn đề có được coi là lạm dụng thì cũng phải gán cho chính nó những cụ thể hóa đối với bất kì mỗi một bàng quan giả cách thì khi đó tính cuồng lưu trong chuỗi hoạt động của mọi biến cố mới có được những đặc ân, trong tiến trình quy hồi nói trên diễn ra một cách suông sẻ. Bằng với chính điều gì đó, khi mà bất kể mỗi một trạng thái cất cánh những bước đi liên tiếp đối với mọi cụ thể hóa, và nếu được đương biến trong một dàn trải thành hình của rất nhiều khuynh hướng thì chính tiết điệu sẽ đem đến cho cuồng lưu những quảng cách về tần số biến điệu vi vu, y như là sự phát tiết bất kì một đạo lộ thanh âm nào được truyền đến bên tai ta. Trong khi điều đó xảy ra thì nội tâm của chủ thể cũng sẽ hòa giải những đệm tấu trên mô hình liên thuộc khả vi, mỗi đối với bất kể sự lạm dụng nào, mà nó thâu tóm hay có được đi nữa thì bằng nội tâm chúng cũng chẳng có dính líu một xu nào trong kho ý nghĩa chính nó.
Không thể quán xét bất kỳ một điều gì cho tính cuồng lưu mọi biến cố mà khả năng hợp trội của nó - chỉ biến cố - sẽ luôn là triển thời; ở đây, không có một sự đối kháng hay mâu thuẫn nào được nói ra mang ý nghĩa hoặc tự mà phải tính đến cung cách của khuynh hướng biểu hiện những đột biến, trong từng bước thu nạp vào đối với chính sự gia hưởng trường sức không gian nhằm tính đến các tột cùng của việc trừu xuất đối ngẫu biên bỉ. Khả năng thấm nhập ấy, phải được thực hiện và bắt buộc phải được thực hiện, nếu không sẽ rất khó để chủ thể hiểu rõ một cách sâu sắc về hữu thể, mà nói tóm lại cho phương pháp đó, coi như là thẩm thấu hữu thể. Qua những gì mà phương pháp ấy mang lại thì mới đặt ra được cơ sở/nền tảng thật sự vững chắc, cho công cuộc tiếp nhận những tri thức về sự dự phóng vào miên trường, của những dị phức trùng tính trong hệ hình huyền nhiệm bản thể thực tại. Nói không chừng, nếu không là như vậy, hay rõ ràng hơn, là không có được sự thẩm thấu đó thì sự mù tịt sẽ còn đeo bám dai dẳng/ trường kỳ.
Sắp xếp bởi việc xây dựng từ bên trong bản thân cảm thức như mang tính thiết định về phần cung ứng những dữ liệu đang từng ngày bị thao túng đối với chính bản thân mỗi sự kiện. Tức là, chính mỗi sự kiện được cố định trước sẽ dễ dàng bị hư hỏng đi, hay nói một cách khác rằng, chính bản thân sự kiện đó - nó không còn là nó nữa, mà lý do chính ở chỗ, sự sắp đặt/sắp xếp việc xây dựng đối với phía (đi từ đó) ở cảm thức đến không gian thì bản thân mỗi sự kiện sẽ bị lôi cuốn vào trong một dòng chảy khó tìm lại được đâu là khởi đầu, để đi vào nơi chốn của những gì có cơ sở nhất. Khi mà sự cố định trong đường hướng dẫn đến những khả năng như vậy, thì tính thiết định của cảm thức về phía không gian cổ điển sẽ luôn mang những tan chảy (nó không còn là nó theo một cách diễn giải khác đi), thì dù rằng, bất kể một sự tổ chức/sắp xếp lại chính nó cũng khó lòng được điều tiết đối với những gì mà coi như đó là chính quy.
Sự kiện được khởi đi từ biến cố hay đặt biến cố trong tác động trực xuất vào đối tượng, mà ở đó, sự kiện chứa đựng những dữ liệu, thì đối với bất kỳ một sự mong muốn khả hữu nào cho chính biến cố đó, như một lời biện hộ mang tính chất trong sáng của nó, hẳn sẽ còn để lại nhiều dấu hỏi đáng quan trọng. Qua việc làm mà biến cố được dẫn khởi nhằm đi đến lộ trình chứa đựng sức mạnh quan trọng vào trong chính nó thì luôn luôn tác động mang vào cho chính nó, có được những gì tương xứng với việc làm đó - mà nó có, như thế, nhằm để đảm bảo cho bằng với tiên liệu trên tương quan luôn có sẵn những sức ghì chặt vào mức độ hôn phối có quy cách, hay chứa đựng những giả năng cho bao điều hư tưởng là không được cất lên một tiếng nói ở đây.
Chúng ta thấy rằng, điều gì/sự việc như thế nào cũng đã một khi mang trong mình sự triển khai tự nó thì luôn luôn mang tính tự do đối với mọi quy tắc mà bất kì một phương cách ứng xử nào được tinh lọc đến tận cùng như thế? Đối với những điều kiện cho sự việc có những thôi thúc như cố vin vào trong sâu thẳm của điều gì đó được sắp đặt bởi chúng, hay từ trước, điều chính quy mang đến những phân bổ ngoạn mục vào thao tác, mà khẳng định một cách thật sự chính xác phải là cung cách mang tính tự trị khởi lập nên ở bất kì đâu đó, trong không gian cổ điển, đi từ chính mỗi một biến cố.
Mỗi một biến cố thiết đặt vào trong bản thân không gian hồi quy về với nó một phân vùng lắp đặt hiện hữu cho tha tính có cơ hội xâm nhập vào ấn tượng hiện minh nơi chủ thể.
Điều mà nó thiết đặt sẽ là điều mà chính nó sẽ phải làm để có thể đương đầu với những chốt chặng không thể cưỡng lại được. Biến cố - không gian, không gì khác hơn, một lộ trình đầy màu sắc của thực tại này. Bản thân trạng thái phồn tạp là hệ quả cho chính hình thức được thấy về phía không gian cổ điển trong từng phân bổ đối với vai trò mỗi một biến cố. Biến cố thiết đặt vào trong không gian cũng chỉ để khứ hồi/mang về nó những dự phóng mà thôi. Không có bất cứ điều gì mà biến cố được cho là rãnh rổi, kể cả khi xét đến sự kiểm toả, của bất kì điều gì mà bản thân biến cố đó trình hiện các khả năng sắp đặt nên chính nó.
Biến cố - không gian, cặp đôi mà tính đến sự mở cửa của nó là cả một màu sắc những gì huyễn tưởng chăng? - Không, đối với tương quan sẽ liên tục dàn trải sốt sắng trên những hệ hình có sự hoạt xung vào trong phân vùng cảm thức, để ấn kí tường minh vào mỗi một không gian về phía cơ cấu lộ trình trên quỹ đạo chung hợp của thực tại. Trong (đối với) những dự kiến đào thải về bất kì mỗi công đoạn sắp đặt cho dị thể tính tràn ngập vào biến cố, để dẫn khởi đi điều mà công cảm thoái chuyển, khi chảy qua không gian cổ điển, luôn đệ trình đến những ngẫu biến tương sinh vào lúc nào cũng được tương quan để định vị mang tính quy chuẩn cho mọi phông nền.
Hãy cố gắng gạt bỏ qua bất kỳ mỗi một tiết điệu nào mà chính bản thân tiết điệu đó cầu cứu đến để đội ơn chúng thì hãy tỉnh thức trong trạng thái biến cố vẽ nên luôn là những ngẫu biến phát sinh trên tương quan, mà chính nó được lấy làm điển hình. Để bất cứ điều gì có được cho là đón đợi hay đã thực sự tồn tại ở đó rồi thì mong muốn suông sẻ hơn cũng không thể. Cũng có điều, nói nó tương quan, một khi dẫn nhập đến với bức thành trì những hoạt động phai phôi từ mọi miền dữ liệu truyền hưởng, cũng luôn tự động thực hiện bước tiến so với những gì tiệm cận đến điều được cho là nghịch dị của những khả thể. Án chừng trong tiềm phôi sinh mà mong cầu dự trù cũng sẽ vẫn luôn được mang ra để mong mỏi trong từng điệu bộ, mà có cho đó là đểu cáng, cũng khó có thể không bị loại trừ một cách chính danh.
Dẫn nhập đó, được đặt định trên tác động của biến cố thì luôn luôn tính đến dị phức trùng tính có ở trước để gợi ra những biểu tượng di mãn vào trong bất kể mọi sự phân vùng nào, của khả năng, đem lại chính chủ thể, mà tha tính được biểu hiện. Điều khơi dòng cho mọi biến nhập được xem như hệ quả vĩ đại nhất của biến cố trên tiến trình quy hồi về chính điềm nhiên mong muốn có một diễn giải là sự hiện diện của tha tính cũng theo cung cách mà ta đã gợi ra như thế. Tức là, tha tính được đương lượng trên chính những ngẫu phối đi từ bản thân mỗi sự kiện, mà từ đó, dẫn nhập để đi vào chủ thể luôn được chấm định bởi ấn tượng hiện minh nơi chính chủ thể, bằng với những tác động của tha tính. Ấn tượng hiện minh là điều gì đó phập phồng trong trạng thái thăng giáng của mọi biểu hiện đối với chính tha tính trong chủ thể. Ở đây, nhằm muốn tạo cho tha tính có được những khả độ tương xứng với chính nó trong tác động ngang bằng với điều được dự phóng về phía đương mức tiềm năng ấn kí trong chủ thể. Một biến cố, do đó, chính muốn nói rằng, mà trước đó, ta đã nhấn mạnh đến vai trò/tác động trong sự định hình không gian, ngoài ra biến cố còn được hiện ra để cơ cấu hoá cho tha tính hiện diện trong chủ thể, bằng những phông nền khả năng.
Đi từ tác động thẩm thấu hữu thể mà chính phương pháp đó đóng vai trò làm điều tiên quyết cho tha tính có được động lực thâm nhập vào chủ thể, nhằm chọn lấy những vị trí, mà ở đó, nó có thể ngẩng cao đầu để thực hiện một cuộc đối thoại với hữu thể chứa đựng ngã sinh tính trong chính chủ thể tồn tại hữu thể đó. Có thể dẫn dắt cho tha tính xâm nhập vào trong trường hệ của những xung động đối kháng, đó sẽ là cung cách mà biến cố thể hiện ra một cách rõ ràng nhất, đối với chính vai trò của nó, mà không một đối tượng nào, được chọn lấy có thể tạo ra những bước đi như thế, để cầu thị đến mong muốn được rõ ràng, ở chính mỗi chặng đường xâm nhập sẽ chất chứa điều khẳng quyết về ngay bản thân chủ thể cũng đã và đang vạch ra cách thức hoạt động cho chính mình. Cho nên, biến cố được xem như kiện tính của tha tính và đồng thời nó cũng được xem như phối tính đối với ngã sinh tính chính hữu thể, như một khái quát trọn vẹn nhất về biến cố.
Luận lí sẽ thực sự khơi dòng nên tương tranh định vị mãnh liệt xuất phát ngang bằng với những sắc thái mang khuynh lực ý hướng ứng xuất triển thời mong manh, trên tính quảng diễn của những hệ hình lí thuyết về sự đặt định cho một biến cố không gian. Luận lí, ở đây, muốn thực hiện được những điều vừa nêu không còn cách nào khác ngoài sự kiện không thể vi phạm bất cứ một quy tắc nào có sự trì hoãn ở trong đó. Để rồi đón đợi bất kể một cái gì cũng đều là dự phần toàn lãnh đối với những điều mà nó rõ thấy. Luận lí được ứng biến trên nguyên tắc ngang bằng những sắc thái mang khuynh lực chấm định về phía nó các điều hướng biểu hiện rạch ròi khảo cứu bằng bất kể điều gì được đặt định cho chính nó.
Trên cơ sở của tính quảng diễn những hệ hình lý thuyết, mà từ đó, mỗi không gian được định hình thì với đầy đủ các tính chất sẽ luôn được coi là đối với  những trình tự thảo sẵn. Luận lí luôn gợi ra như thế bởi đối với điều gì quá ư là trọn vẹn một cách tuyến tính. Và chính điều đó luôn tiềm ẩn những cung phần  đối ngẫu với sự vạch nên điều gì được coi là hiển nhiên nhất. Cho dù cái đó có làm nên bất kể vấn đề nào không chịu sự tác động trong một phân phối thì ở nơi chốn, chỉ những vùng mà sự khả thi mang hiệu lực để truyền đi, trên chính lộ trình cấu nạp vào bên trong bản thân nó hay luận lí đó được có ý nghĩa sẵn sàng trong chính bản thân chứ không ở đâu khác.
Luận lý chất chứa của những điều thân thuộc. Ràng buộc cũng chỉ là vi phạm quy tắc không được thích ứng chính bản chất mỗi một đối ngẫu của dự hướng vào trong chính bản thân luận lý đề nên. Lụi tàn đi trong những biểu hiện đối với quy định được khởi sẵn từ tất cả điều gì chứa đựng/tiềm ẩn trong nó, mang cung cách biểu hiện của chính luận lý về công cuộc điều hành các đường nước bước đi đối với lộ trình mà chung hợp nào, cũng là sự khả thi chính đáng trong yêu cầu của tất hữu những điều mong mỏi đến ở biểu hiện luận lí là liên thuộc vào trên chính lộ trình được coi như hợp quỹ đạo ấy. Đồng nhất đối với quy tắc lập trình bên trong bản thân luận lí thì bất kể một sự cầu ứng nào, để mỗi phân viện tạo dựng cho mình có những địa hạt du hành qua toàn bộ trừu xuất, cũng được coi là hợp chuẩn ngang bằng mọi quy xét, ít nhất ra là thích ứng đối với chính luận lí đó.
Vì thế cho nên, không một cơ sở tiếp hậu nào mà lại không thể khẳng định được một cách chắc chắn rằng, nó sẽ được đảm bảo trong mức độ tái thiết cơ cấu lại trên tổng phần linh động của mọi sự ngang bằng với những ước đoán được thích nghi về lại những kích động khi ngoại giới xâm nhập qua chủ thể muốn ghi khắc tính luận lí hiển nhiên cho bản thân ý thức.
Kích động là điều quan trọng mà hơn hết những thôi thúc để cấu thành tác động. Tác động chính mang cách thức mà mọi sự phô diễn vào trong phương thức biểu hiện của những biến cố. Kích động luôn được dựng hình (thành) bất kể cung cách nào đó, mang lại sự điều tiết đối với việc cầu sinh nên vùng miền mà không gian từ đó được dẫn khởi đi. Có thể nói rằng, đối với kích động, nó luôn đảm bảo trong chính những điều phối mà bản thân tổng phần cơ cấu được biểu hiện một cách linh động.
Đi từ sự kích động sẽ khơi dòng cho một tiếp hậu tiến vào thành trì của những điều được tiến diễn sau nó. Cho nên, cơ sở tiếp hậu đặt ra để điều lực hướng định kích động chính những tiềm tố mong muốn có được sự thích nghi. Do vậy, kích động và tiếp hậu bổ khuyết cho nhau để khỏa lấp vào trong vẻ chân chất của thực tại này. Mặt bổ khuyết được vét cạn trong long sâu thẳm bức bích họa có từ tâm hệ. Nó là sự kế tục của những chặng đường trước đó, bên trong tính căn lập nên chính quá trình khởi thảo biến cố. Tiếp hậu là tái diễn cho công cuộc trước đó được tương sinh đối với cung cách khởi thành vĩ đại của mỗi một biến cố dẫn đi những sự kiện để định hình bằng năng lực của riêng nó.
Xét đến đây, thì cái được gọi là trường cảm thức bên trong tâm hệ trên cơ cấu tiền niệm đã định hình nên một tổng phần linh động nhất. Sự linh động đó, được biểu thị qua dải trình lộ đạo có thẩm định của những quy tắc ngang bằng và cân xứng đăng đối ở bên trong. Mức độ tái thiết nên nội vi, nó cũng sẽ,  luôn được phân bổ đối với chính chúng. Điều tái thiết đó luôn được đảm bảo cho những định hình bền vững, mà tất cả vấn đề khơi nhập trong dòng chảy phân bổ loại hình nào cũng sẽ là. Sự tái thiết đó, đóng vai trò căn nguyên đối với dòng chảy tràn trề bên trong tổng phần linh động ấy.
Đi từ tính câu thông về tổng phần linh động bên trong cảm thức ra bên ngoài, mà tiếp hậu được đưa vào như một hệ quỹ đạo, đối với quá trình câu thông dẫn khởi đó. Khi ấy, sự tái thiết sẽ thích nghi về lại chính những kích động đã gây ra nó. Nói tái thiết thích nghi về lại những kích động có nghĩa là sự sinh ra đã thực hiện một bước hồi quy đến chính nguồn gốc đã sinh ra mình. Trên tuyến tính tiệm tiến, cho nên, công cuộc tuần hoàn luôn được đặt ra bởi yêu cầu về lại đó, giữa hai yếu tố ấy. Cái biểu thị chính quá trình tiệm tiến mang tuyến tính, mà bất kì một sự dẫn khởi nào đi từ kích động (bất kể một sự kích động không níu kéo hay vương vấn) đối với bất kể một sự tác động ngoại lai nào. Sự lui về/về lại của chính sự tái thiết đối với quá trình ngẫu sinh.
Tuy nhiên, không chỉ đi từ cảm thức mà chính cơ cấu bên trong nó được vận hành, mà sự vận hành đó, còn được biểu sinh cho những quy hợp trong cung cách mang tính chính đáng. Nói như vậy, đồng nghĩa với quá trình ngoại giới xâm kích vào nội giới qua biểu sinh được khả thành và khả hữu tất yếu. Ngoại giới xâm nhập kích ứng chủ thể thì lộ trình tiếp hậu đó, khơi thông, nên nhằm cố định cảm quan vào trong một điều gì cứng nhắc khi sự xâm nhập trở nên tai hại, mà chỉ có thể thông qua sự xâm nhập ấy để chủ thể, quan trọng hơn hết, xác định được vị trí của mình trong thế giới. Khi đó, như thể chẳng khác gì là một đối tượng như bao đối tượng khác về bất kì mỗi một sự vật/hiện tượng nào, hàm chứa trong quá trình đi vào hay trong sự kiện được bào chữa của cung cách tiết điệu, đến những phân vùng nội vi (điều gì đó là) lập dị, hẳn nhiên, cũng có thể có khả năng xảy ra, trong một cung cách như thế hay cũng có thể tương tự như thế.
Khi ngoại giới xâm nhập vào bên trong, nó phân định được những hạn độ chất chứa bên trong mà cảm thức thiết tạo nên. Trên chính điều hành từ cảm thức đóng vai trò làm gốc rễ. Ngoại giới xâm kích không gì khác hơn ngoài mong muốn ghi khắc nên bên trong chủ thể tính luận lí hiển nhiên. Đi từ biến cố trong lộ trình hình thành không gian thì chính đối tượng của nó là ngoại giới với lộ đạo mặc định như đường hướng vạch ra những nguyên tắc cố định bổ trợ cho nhau. Và dù sao đi nữa, thì chính bước đường nguyên cấp trong cung cách đóng vai trò kiến tạo nên không gian không gì khác hơn ngoài những gì được định đoạt bởi chính bản thân biến cố.
CHƯƠNG II
TÍNH KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN
1. TỔNG THỂ QUY HỒI.
1.2 MẶC ĐỊNH CỦA THỰC TẠI
Mặc định của thực tại mang tính chất phồn tạp hiển nhiên như chính bản thân sự mặc định đó được dự liệu trong toàn bộ sơ đồ hay bố cục chính bản thân mỗi sự kiện khoác vào mình.
Mặc định của thực tại là điều mà thực tại với tư cách điềm nhiên như nó có trong mọi diễn biến của chính nó. Mặc định đó, luôn được điều phối bởi chính khả năng của nó có trên những điều mà nó luôn phân lãnh đối với chính thực tại. Mặc dù, điểm quy kết vi phạm về mặc định của thực tại đi từ chính điểm quy kết đó, nếu ta thực hiện một độ lùi ra xa, ta sẽ thấy được sự mặc định ấy bao hàm cả những vi phạm về chính mọi biểu hiện của nó.
Mặc định của thực tại mang tính chất phồn tạp hiển nhiên là một tất yếu. Tính chất đó, được hiểu rằng, ở trong chính thực tại mọi biên kiến của vô cùng sự vật/sự việc/sự kiện và hiện tượng đều được phân lãnh nên trong những chồng chéo mang tính cấu nạp vào nhau. Chập chồng ấy, của mọi thứ đều là điều kiện mà phồn tạp được hiểu về như bản chất của sự quy hồi làm nên chính mặc định của thực tại. Điều được cho là có ý nghĩa đối với tính mặc định ấy cũng là điều mà mọi bổ khuyết nên nó trở thành bất khả. Tính chất phồn tạp của mặc định thực tại luôn được phóng xuất điều gì đó hiển nhiên, như những biểu hiện cho hệ hình chính nó được sáng tỏ về với nó, còn bởi nó hay không điều này, còn tùy thuộc vào sự cảm biết của chính chủ thể được đặt trong tình huống đó. Tính chất ấy được nói đến hay biểu hiện qua điều mà bất kể những gì diễn ra xung quanh điều gì đó mang tính chất đang là. Điều mà được quy cho là phồn tạp thì chính bản chất của thực tại trở nên đầy ứ những lưu động, cừu xuất, phân lập nên vô cùng chập chồng có thể coi như tốt tươi hay tàn lụi đi ở trong chính bản thân của thực tại tự tồn này. Điều mà phồn tạp đó được nói đến cho sự hiểu biết của chúng ta về nó – tức thực tại, thì cũng đều mang tính chất đối với mọi công cuộc ngẫu sinh nên thành bất kể mỗi một công cụ chứa đựng đầy tiềm năng. Phồn tạp là điều mà chập chồng làm nên những giá trị cho chính mình về phía thực tại, tựa như điều mà chập chồng ấy tham gia vào quá trình cơ cấu hóa chính bản thân thực tại.
Mặc định đó, được dự liệu trong toàn bộ sơ đồ hay là điều mà thực tại được biểu sinh từ chính những sự kiện tổ hợp nên thành các không gian? Sự chuyển tiếp từ tính chất phồn tạp ấy, được hạn định đối với những gì có ý nghĩa bởi chính điều được coi là phồn tạp hay bố trí cho những sơ đồ, về phía đi vào các sự kiện khoác vào mình.
Sự kiện khoác vào mình, điều đó có được cho là cơ sở vững chãi đối với điều kiện chân chính về phía mặc định của thực tại được hay không? Mặc định của thực tại lại là điều mà ta có thể đối sánh cho chính quy bất kể điều gì mà (lại) với tính chất phồn tạp? Tính chất phồn tạp được cấu nạp vào trong những dự trù được phân hạch nên hay bất kể cho một công tác nào về phía mặc định của thực tại.
Bằng những thao tác của quy cách thực hiện bước tiến một cách thích hợp trong sự thẩm định mỗi một công án, ta có thể đột sinh khả nhiễm vào cung cách mặc định chính quy thực tại này. Luôn luôn như thế, khi cái cách mà chúng ta có lý do để thu nạp những biểu hiện về phía mặc định thực tại, trên tư cách toàn bộ sơ đồ của mỗi sự kiện khoác vào mình. Mặc định thực tại là hiển nhiên nhưng là hiển nhiên như thế nào? Tính hiển nhiên của mặc định đó, được hạn định sáng rõ đối với mỗi cung cách truy vấn về phía bước đường chính điều phồn tạp, khi đặt cho cơ sở có thể hiểu về nó một cách sáng rõ/rành mạch nhất có được không?
Bố cục của chính bản thân mỗi sự kiện khoác vào mình là điều mà tất yếu  tính mặc định đó không thể lấp đầy hơn được nữa. Điều mà cho là chập chồng, không có nghĩa là được chồng chéo và cho dù đến đâu đi nữa (tức sự chồng chéo ấy) thì cũng chính khơi gợi đó, mang quy tắc của điều coi như là mặc định thực tại. Bản thân bất kể một phục sinh tính nào về phía thực tại cũng hiển nhiên biểu thị cho chính tính phồn tạp. Tổng quát có thể quy chụp như thế này, thực tại mà trong tính chất chân chính của nó là phồn tạp. Thực tại phồn tạp là cơ sở để những diễn giải về sau có sức điều phối để gọi nó một cách thích hợp nhất. Phồn tạp đến vô cùng bởi thực tại tự nó đã là vô cùng, thực tại là vô hạn thì điều đó chẳng khác gì bởi/cho điều tác động đến phồn tạp là vô hạn. Phồn tạp trong đối sánh với thực tại là đặt định trong quan hệ của những gì chính quy, mà bước sang địa hạt của thực thể là tất hữu để không bao giờ vi phạm bất kì mỗi một quy tắc nào của tính mặc định đó.
Và sẽ không khi nào mâu thuẫn, khi cho rằng, thực thể mang quy trình của những ước đoán. Nói như thế, thực thể là sự chỉ sự khả năng được hạn định nên thành các chiếm hữu dứt khoát của sự phân tranh. Ước đoán chỉ có thể là cách thức duy nhất mà ta có thể từ đó hiểu về thực thể. Không một điều gì đem lại tri thức về thực thể, mà có khả năng hiểu biết một cách rành mạch và tường tận. Đem đối chiếu của bất kì mỗi một điều gì đi ra từ thực thể, thì hẳn nhiên cũng sẽ luôn được hôn phối bởi những quy trình phân lập nên trên nền tảng lấp lửng của điều quy kết đến tính chính thống.
Thực thể là tự động phân lập nên trong chính nó những bản thảo của chính kỉ cương/khuôn phép được nói đến về nó, chẳng qua và đi đến tột cùng, cũng chỉ là những điều gì đó quá ư vớ vẩn. Không đi từ điều kiện mà chính ước đoán đã phân định nên trong những thực thể. Thực thể sẽ là điều mà chính sự ước đoán nhắm đến. Quy trình của ước đoán để biểu hiện khi đem lại từ phía thực thể luôn được nắm lấy một cách say sưa nhất. Đối với điều gì đó mà thực thể định hình thì ước đoán sẽ là điều mang lại cho chính nó những ý nghĩa khả năng. Trong định mức bất kì của mỗi một ước đoán thì cũng đồng nghĩa với quyền năng hun đúc nên, bởi sinh thành từ phía chính điều tiên liệu từ những mô phỏng.
Thực thể chính quy là khái niệm thường được đồng nghĩa với thực thể thuần túy. Tuy nhiên, thực thể, như đã nói, bất kể mỗi một thực thể nào cũng đều là quy trình của những ước đoán. Vậy cho nên, thực thể có được ngẫu sinh/thành từ chính quy đến thuần túy, bằng cung cách gì đi nữa, thì tác động mang tính định hình đó đều được khả quy trên chính sự duy trì của những ước đoán. Ước đoán, chỉ có thể, bất kì điều gì có về thực thể sẽ được che đậy bất kể kì cùng nào, với tư cách đối ngẫu của chính điều được mang cho là chính quy hay thuần túy.
Thực thể mang quy trình của chính những ước đoán, điều đó đồng nghĩa với sự liên thuộc hiệu năng thực thể trong tương quan với những ước đoán. Ước đoán là tiềm sinh, nên trong cung cách mà ta có thể hiểu về thực thể được xem như điều kiện cho sự phân lập bất kì mỗi một năng trường nào. Về phía thực thể, điều được cho là có ý nghĩa luôn luôn cũng là điều quy chuẩn đối với chính những gì mà ở đó dọi phóng về phía thực tại từ chủ thể, sẽ luôn có sự định hình riêng biệt hay khả năng phóng tán của ước đoán một cách quá đỗi hài hòa.
Vì hài hòa, nên tính phù du lưu động luôn định diễn trong thực tại mang tính đa thể này. Bởi, sự dẫn nhập đã thực sự truyền hưởng cho một nội năng khá lớn, với sự ưu trương quá vãng, một khi định mệnh của những sắp đặt khả quyết cường soát, đảm bảo tích tụ trong thời tính hiện hoạt.
Phù du lưu động được coi là quy tắc định diễn trong thực tại. Mà thực tại này mang tính đa thể. Đa thể bởi những phân vùng có được khả năng xảy ra, khi hoạt xung cho các thực thể tự tồn là hoàn toàn được ngã ngũ. Đối với bất kì một cách thức nào đó, cũng hướng về điều kiện có ý chí truy phục vào những ý lực bức bích đồ cảm quan. Phù du lưu động, cho nên sự kiện đó, được điều phối mới dâng trào lên trên những gì lan tỏa ở ngữ cảnh của bút pháp diễn giải. Phù du lưu động được định diễn là một điều khác nữa là đằng khác. Phù du lưu động đòi hỏi một sự phân lãnh khả tất tính, đối với mỗi điều gì đó được định diễn, ngay cả khi và luôn luôn coi là điều độ như thế, của thực tại mang tính đa thể này.
Đa thể là biểu sinh nên những bối cảnh có ấn định của phân vùng tái hợp bất kể một điều gì, mang đến cho chính trung khu những cường sát tất hữu. Biểu đạt nên bên trong họa đồ đa không gian, do đó, đường lối của việc cấu nạp đến một phân vùng nào cũng cần đến sự dụng công bất kể điều gì được coi là quy tắc, đối với chính thực tại mang những đa thể ấy. Định diễn là cách thức mà các sự kiện viễn tượng hóa ra ngoài không gian. Định diễn còn là phương hướng mà mỗi bước đi của tiềm phục tàng trữ trong mọi ngóc ngách cơ cấu điều định hình cho chính đa thể, mang quy tắc bổ sung đến tột cùng hạn độ lênh láng tiềm phôi, của bất kể những điều gì đó được đem cho thực tại mang tính đa thể này.Thực tại mà chất chứa trong nó sự cơ cấu hóa tình trạng đa thể, cho nên, bất kể mỗi một phân lập nào chăng nữa cũng đột sinh nên những ngẫu tượng, mà bất kì một thao tác nào, dù có linh hoạt hay gián đoạn trong phân lãnh những khô cứng cục bộ của đương nhiên thì với mỗi riêng biệt đang cơ cấu đến kì cùng của thực tại cũng đều mang tính chất đa thể mà thôi. Chứ không, nếu nói như thế, khi bất kì một sự kì cùng nào của định diễn tính được lưu động trong phù du, hẳn sẽ sẵn sàng cưu mang nên bất kể (có thể sẽ hạn định về phía vô cùng trong trình tự tiệm cận) những điều gì mà tất hữu diễn ra trong thực tại tính này (dĩ nhiên là chất chứa của những đa thể).
Và điều đó, được cho là định đoạt ở trong thực tại, mà chỉ có thể thông qua bước dẫn nhập vào đa thể tính này, mới mong sẽ mở ra những cương vực cho huyền nhiệm thực tại. Bởi song song với tương tác, khi khơi mào trong dẫn nhập tự tính đều được coi là đã truyền hưởng nên một nội năng. Và như đã nói rằng, nội năng đó, được bơm cho một sức lưu trữ đến độ quá vãng của tính ưu trương, như căng trướng đến hạn độ biểu tất tính vô cùng. Và ưu trương đó, tích tụ ở trong chính thời tính hiện hoạt, kế cận bên nó những phân vùng, dù chỉ là (điều đó) đang ở mức coi như, thì đà tiến của nó đến mức đang là như được căng ra trên những biên độ thành hình, đối với mọi sự ngẫu sinh phối tính trong tận cùng. Để biểu đạt cho sự dật ứng mang bất kì một tình thái quy tắc nào đó, cũng luôn được như thế, sẽ đi đến (truy phục nên) câu hỏi: tại sao tôi lại là người chủ động nhìn ngắm thế giới này chứ không phải một ai khác ngoài tôi? Khi câu hỏi đó đặt ra, thì ưu trương quá vãng giờ này đã bung vỡ cho tiền đề bấy lâu nay chất chứa đến một bão hòa không thể bao chứa thêm bất cứ tiểu lượng nào nữa. Thì chính lúc đó, điều mà câu hỏi ấy được đặt ra là cách thức đột nhập vào những phân vùng hiểu như chính không phận của các biểu sinh điều phối từ đó hay đi ra từ đâu, để đến được ở đây?
Thời tính hiện hoạt là để thúc đẩy cho điều gì đó, làm nên một sự phân trùng của khả độ hiện diện đang tồn tại này mang những quan năng được cảm mến chẳng bao giờ không là phiến diện cả. Điều mà phân trùng định diễn, cho phù du lưu động chẳng khác gì được hiểu dưới cung cách biểu hiện khác đi, đối với chính sự diễn giải về mặc định thực tại. Phân trùng định diễn – mặc định thực tại là cặp biểu kiến ngày một tiệm cận đến gần lại với nhau, trong cung cách bung vỡ từ phía thời tính hiện hoạt. Hữu hiệu hóa nào, của bất kể mỗi một cấu tố cũng đều được lai ghép vào trong những ngữ dụ, mà chính sự diễn giải chứa đựng điều đó một cách rõ ràng nhất. Chẳng hề khi nào, điều gì chất chứa trong thực tại mà lại được nâng lên ở một tầm cỡ của sự thiết định, từ bất kể một điều gì đó là phân lập cho chính sự thoái trộn. Khi tiệm cận lúc thoái trộn, thời tính hiện hoạt trong cung cách tiệm-thoái của phân trùng định diễn này. Điều được quy cho là khả tất hữu thì luôn mang đến đối với chính bản thân nó mọi sự cố gắng coi như thỏa đáng (thỏa đáng trong mức độ luận lí).
Luận lí bản nhiên chỉ tập trung làm rõ tính chất ngụy trang của những không gian giao cấu vào trong chính bản chất của thực tại mánh khóe này. Trong một chừng mực mà ta nói về thực tại, chính như điều gì đó, mánh khóe nhất hẳn là có lý do của riêng ta, như thế ta mới có thể nói được như vậy. Luận lí chỉ tập trung làm rõ một điều, mà chính điều đó lại là căn nguyên để giải thích cho chính bản chất của sự mánh khóe ấy.
Nói luận lí bản nhiên chính là luận lí nguyên ủy đầu tiên. Tính bản nhiên góp vào như đem lại cho điều gì đó không thể chối cãi, hay cầu thị đối với một sự bổ túc thứ cấp nào đó. Luận lí luôn là điều gì đó hợp quy tắc, luận lí không chỉ là vậy, mà nó còn là điều kiện để tính bản nhiên có sự hướng định đến tính chất ngụy trang của những không gian, giao cấu vào chính bản chất của thực tại này.
Vì sao lại nói/đưa ra tính chất ngụy trang ở đây? Bởi vì, không có bất kì một cứ lý nào để đảm bảo cho mức độ rành mạch của luận lí, cho nên, ngụy trang là cổ điển đối với những phương cách chi phối điểm nhìn thoái thác đi sự tiệm cận đến điều chính đáng. Ngụy trang thừa hưởng được những điều chứa đựng cách thức lột xác của tính chủ định miên viễn theo nghĩa mang tính chính đáng. Cái được gọi là ngụy trang (hay mang tính chất của ngụy trang), cũng đều dễ dàng được chỉ định cho bất kể mỗi một cách thức nào, mà cách thức đó được có đường hướng đến một vật chủ đích đầy tiềm năng.
Giao cấu vào thực tại tức là thực tại thụ nạp vào trong chính nó những gì ngụy trang so với chính cống điều gì nào? Tất nhiên là ở đó, trong nó, sở hữu những định phối đối với phương cách điều hòa cho mọi cố thể, ở các phân vùng không gian trong thực tại đang được cấu nạp vào nó. Mánh khóe như cách để thể hiện tính sáng suốt của cảm quan chủ thể khi hiểu đúng về thực tại này. Nói đến mánh khóe ấy, như muốn nói đến không gì khác cách cư xử của những điều kiện thịnh hành, mang tính chủ động từ phía chủ thể chứa đựng sự chỉ định đối với ý chí hướng đến để có được hiểu biết nhiều hơn, sáng suốt hơn, nhưng mặc định của thực tại lại là điều bao gồm luôn tính chất mánh khóe đó nữa. Mánh khóe như một trong nhiều mặc định của chính thực tại. Luận lí đúng cách là luận lí có chỉ định vào trong từng bước đi đúng đắn. Luận lí như thế mới đẩy lên cao đến một mức độ hợp lý, của bản nhiên tính khi định hình tính chất ngụy trang, của những không gian giao cấu vào chính thực tại này (một thực tại mánh khóe tràn trề). Bởi trong cung cách của sự kiện (chính nó) là đối tượng luôn mang giảo hoạt tính trong mình rồi.
Mà tiến trình thì không có sự đặt định nào rõ ràng từ đó phân biệt một cách triệt để nhất giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Bản thân thực tại luôn mang tính tổ hợp và đồng bộ. Nó là cái không có thoái lui hay dự phóng đến, cũng cố nhiên không thể là điều gì mà tất cả đều đang là hết. Nó là chính nó như sự chứa đựng của những đa thể, mà chiều kích thời gian tất yếu phụ thuộc vào tính tương quan của những đa thể này.
Sự đặt định nào về phân chia như thế cũng vô lý và không chính đáng cho cách mà ta nhìn vào thực tại. Khi mà bản thân thực tại tràn trề những quá trình và đầy ứ những đa thể, như đang trong tồn hợp đương diễn chủ thể, có chăng là cách thức mà chúng ta nhìn về nó, qua biểu trưng hiện trình với các chiều kích mở ra trong không phận mỗi một tiềm tố đề xuất như thế? Phân biệt thành chiều kích khi tính tổ hợp đó, luôn được tạo dựng trong phương hướng phân phát cẩm nang đã dựng sẵn (tức là không nên phân biệt như thế). Có lý nào không, khi ta thực hiện điều chất chứa cho mọi cái sẽ gọi là ngã ngũ đối với chính tính cách điều hành đó, mà phủ quyết đi sự tự trình của các chiều kích mở ra trên chính mỗi không phận mình? Điều mà được cho là có lý thì cũng có thể như chính điều đó mà ta nương vào để tìm hiểu? Đặt định trong phương cách khi điều kiện nào có được cho là gì đi nữa thì cách thức thông diễn của ta về nó qua các chiều kích khác có chăng là vô lý? Khi mà phương thức để có được hiểu biết cho ta, không gì khác đi, chính điều gì đó chân chất nhất, lọt thỏm vào phân khu của những điều hiện hữu mang tính tồn hợp, như thế, luôn được coi như một việc làm nhằm chia tách nó ra thành những thứ cấp tính ấy? Đương nhiên, trong mỗi không phận được mở ra, theo cứ lý nào đó, mà sự nhìn nhận của ta về với nó luôn có sự định hình chặt chẽ, cũng không như là điều đáng được mong muốn cho chính cách thức mà ta thực hiện như y đối với những phương cách luận lý mang vào sự mở ra các chiều kích đối với nó thì sẽ như thế nào? Tính tồn hợp là một trong những mặc định của thực tại. Tồn hợp là điều kiện để dựng xây trong một tinh thần xây dựng chung không mang lại điều gì đó tư lợi, để biểu đạt về những cách thức ngự trị, đối với bất kỳ một thứ tư tưởng nào hay là cách thức mà nó hàm chứa trong nó, để đạt được những mục tiêu mà nó mong muốn thực hiện.
Vì là tồn hợp, do đó, tương tác giữa các không gian thành phần trong không gian chung cổ điển, làm thành hiệu ứng tiếp hợp chéo không gian, từ đó cho ra đời những không gian tiểu vi. Với cơ sở đi từ các trường sức không gian trong sự tương tác giữa các không gian (tất nhiên, không gian ở đây chỉ là không gian thành phần trong không gian chung cổ điển). Tương tác không gian là cách mà các không gian liên đới vào nhau, và cũng có thể đem lại hệ quả triệt tiêu những thành phần không gian tham gia vào tương tác. Tương tác là cách thức mong mỏi từ sự không gì trở nên có gì đó. Đôi khi, chính tương tác đã đem lại ở  sự quay về chứa đựng đầy rẫy những yếu tố định hình rõ ràng, cho tương tác giữa các không gian thành phần trong không gian chung cổ điển.
Hệ quả tích cực từ sự tương tác đó, không gì khác đi, chính là hiệu ứng tiếp hợp chéo không gian đi từ sự tương tác giữa các không gian thành phần trong không gian chung cổ điển. Hiệu ứng tiếp hợp chéo ấy, sẽ từ đó, mà cho ra đời các không gian tiểu vi. Chính những không gian này, làm cho vũ trụ được thao túng nên trên tính tất yếu gia bội (đầy đủ) mọi sự lưu động trong chính bản thân nó. Hiệu ứng đó, chứa đựng đầy tiềm năng, một tiềm năng không thể thoái thác đi bất kể trên một ngã đường nào. Hiệu ứng tiếp hợp chéo không gian là hiệu ứng được vây bủa bằng những sự trải nghiệm mang tính lưu xuất đồng loạt, để điều kiện hiện diện đối với mỗi đối tượng như thành phần chính quy cho thực tại (những không gian tiểu vi). Tính tự tại của các không gian tiểu vi đó, có cơ sở trên chính hiệu ứng tiếp hợp chéo ấy, mà cung cách tương tác luôn được nhìn nhận dưới khía cạnh hướng đến tích cực. Do đó, tiếp hợp như biểu kiến trong chính thành phần của mặc định thực tại này. Tiếp hợp là mặc định của thực tại ở cung cách mà sự khuấy động những điều được biểu hiện trong chính bản thân của nó.
Hiệu ứng tiếp hợp đó, mang sự trao đổi có đào thải những ngoại lực. Vì nó đào thải nên tính tích cực được dựng xây cho tiếp hợp, hiển nhiên, cũng sẽ làm nên (mang tính tất yếu) về phía sự thành hình những không gian tiểu vi. Tiếp hợp đó, mang những cung cách đối sánh với những gì được/bị đào thải đi. Gạn lọc ra điều gì được coi là cốt yếu nhất để tính khả vi của các không gian được tiếp hợp đó thành hình, như vậy, trình độ mà tiếp hợp có được hẳn nhiên luôn được thấy rõ trong tính khả vi đó. Tiếp hợp sẽ là cung cách mưu cầu mang bước tiến của những khả năng luôn coi là chính đáng. Khuynh hướng tiếp hợp bất kì luôn chứa đựng những khả năng như thế. Mặc định của thực tại biểu sinh qua tiếp hợp tính cũng là cách thức mà ở đó phác họa nên những ngẫu biến luôn được nhìn nhận trên chính tính ngẫu biến ấy dưới một cách hợp lý và đồng thời hữu lý.
Mỗi một sự diễn giải về thực tại là mỗi ấn định có chủ đích của bản thân cảm thức về phía những đối tượng đang được khả cấu, mà ở đây đối tượng (nào đó) luôn là ở trong thực tại. Ở đây, cảm thức sẽ được dự phần vào trong thực tại này mới là điều mà chúng ta cần có để triển khai. Triển khai trên chính ấn định mà mỗi một sự diễn giải về thực tại luôn được thông qua những ngữ dụ. Ấn định có chủ đích của bản thân cảm thức, dĩ nhiên, ý hướng tính sẽ dự phần mạnh mẽ vào công cuộc/quá trình này.
Diễn giải về thực tại phải nói rằng, không dễ dàng một tí nào cả. Đi từ những hệ thống có chăng là chỉ có thể hiểu được một phần nào đó của chính nó mà thôi. Và bản thân mỗi sự diễn giải về thực tại là mỗi ấn định có chủ đích của bản thân cảm thức. Bản thân cảm thức luôn dự phóng vào thế giới. Khi mà dự phóng đó, được xác lập nên những tiềm tố cho công cuộc định hình chủ thể trong thế giới thì mỗi ấn định đó, rõ ràng luôn có chỉ định mà trong chính mỗi diễn giải, sẽ bằng với những thái cách mà cảm thức hướng về phía thực tại (trong cách thức diễn giải khác đi của biểu sinh ngữ dụ thì hướng về đó ngang bằng với ấn định). Mỗi sự diễn giải nào về thực tại đều được thông qua cảm thức, mà từ đó, sẽ cấu nạp nên điều kiện để khơi thông những hiện trạng, luôn mang trong mình một mục đích nhất định. Cho dù, không là gì khác đi ngoài những tại vị của chính quy điều gì đó, theo mong mỏi của bản thân cảm thức chưa được thực hiện trọn vẹn sẽ rất có nguy cơ bị bóp méo đi. Cái để từ cảm thức dự phóng ra thực tại đó, sẽ trình hiện nên tính khả cấu. Khả cấu để tức thời có những suy nghĩ về đối tượng như chính đối tượng đó, tại vị trong những phân khu mà mau chóng được diễn đạt khác đi như những khả thể. Khả cấu được định xuất bởi sự ấn định của cảm thức. Khả cấu lưu hoạt trong thực tại nhờ vào xung năng quán tính, xuất phát từ hạn định chính cảm thức hướng đến những gì sẽ được giản quy thành mức độ ngưng kết. Khả cấu vì thế mà được xếp vào chính tính chất mặc định của thực tại này. Thực tại này là tự tồn của những khả thể. Khả thể sẽ đóng vai trò bổ túc cho nhau, chứ không có trường hợp phân định hay chia tách một cách rành mạch nào khác. Mặc định như xăm soi cho nó tất cả những gì, mà trong cơ cấu chung của điều kiện đủ để giải quyết nên bất cứ một điều gì đó, được cho là có lý, về việc biện minh rằng, nó đang tồn tại thì chính tính khả cấu góp vào đó như một thành phần xán lạn không gì bằng.
Cho nên, mọi tính chất đều tiền minh. Tính chất là tất hữu cho chính vấn đề đang được dự định vào những điều, coi như đó mang lại hiểu biết một cách minh thị nhất. Tính chất dĩ nhiên như thế. Điều được coi tiền minh thì có cho nó trong một phạm vi bao chứa cỡ nào đi nữa, cũng sẽ luôn ấn định sẵn đó trong đối tượng, hay cũng được ấn định trên chính tiềm lực hạn độ mang tính trực tiếp nhất.
Tiền minh là định đoạt cho mọi thông diễn về tính chất. Tiền minh mà có được nói đến như là tiền minh, tuy lọt ra khỏi thường nghiệm nhưng chưa bước vào trường vực của siêu nghiệm.  Điều căng thẳng, không ở chỗ lấy tiền minh, mà đối chiếu với chính nó như tính chất để kinh nghiệm không thể hiểu lấy, mà là sự căng thẳng được nói đến cho một dật ứng về chiều hướng, của mọi tính chất biểu sinh trong thực tại này.
Tính chất luôn được định đoạt cho những ngẫu sinh hạn định trên không gian cổ điển, chỉ điểm đến trung khu điều phối được/có huy động về tận biên vùng, được cho là mang lại biểu hiện sáng rõ về đối tượng. Đối tượng huy động và như chính tính chất tiền minh đó lại như một mặc định của thực tại này. Tiền minh mang sự chỉ dẫn của tất cả điều phối khi hiểu về tính chất dĩ nhiên, như thế, thì sẽ hoạch định cho chính nó vấn đề mà nó được coi là cần nhất. Mọi tính chất, nói như thế không chỉ tóm gọn trong một sự tổng quát, mà ở đây, tính bao hàm biểu lộ qua vùng biên còn bao chứa luôn cả chính sự tổng quát ấy. Tổng quát được đẩy đến tận cùng của tổng quát vì như tiền minh được hiểu là tiền minh. Do đó, tính chất không có sự phản phục ở trong nó, nghĩa là nó được biểu sinh như thế nào, tức là, quy tắc mà nó hoạt động luôn được đảm bảo cho chính nó có được ưu thế thắng mọi sự đả phá/chỉ trích nào, nhằm khêu chọc hay dựng hình thành bất cứ trước một sự chống đối tiêu cực nào. Tuy nhiên, không phải sự khêu chọc nào cũng đều là và sẽ đáp ứng cho chính nó. Chỉ với tính chất có được những dự trù, chỉ bản thân nó có mà thôi. Hay trong chính phong cách của chúng ta hiểu biết về tính chất cũng chỉ trong một chừng mực, mà sự độc lập hay độ lùi để đổ bộ vào vô cùng bị đẩy ra quá xa. Ưu thế thắng vượt nào của bất kì mỗi một cuộc đổ bộ cũng đều là dự phóng vào trong tính chất để hiểu về nó (hay có tri thức về nó). Trong cung cách biểu hiện của mọi sự mô phỏng, đối với tính chất tiền minh là như nhau cho mọi cái, và vì thế, trong mặc định của thực tại luôn chứa đựng bản thân cái được gọi là tiền minh.
Và trong khi tiền minh thì ngoại giới song hành cùng nội giới, phiếm định của ấn kí hằng hữu luôn bảo tồn mức độ hòa hợp đến tối đa đương lượng này. Song hành là điều kiện để mặc định có cơ sở biểu quyết nên chính sự tự trình của mình. Ngoại - nội giới mang bản chất song hành, như thế là tất nhiên cho mọi biểu quyết chính nó. Tính song hành luôn được khơi gợi cho lịch trình minh họa những thắng quyết khó có sự phủ nhận hay bài xích hoạt động của nó. Song hành là điều để nội giới cùng ngoại giới kiêu hãnh bước đi bên nhau. Do đó, mọi việc phân biệt thành chủ thể hay khách thể đều trở nên vô nghĩa. Tất cả đều đang là những khả thể. Ngay đối với chính diễn giải lấy đối tượng là chủ thể, trước đó, đều là cách tạm thời mang vác vào nó để có được những phương thức hướng trình nhằm thông suốt hơn mà thôi. Khả thể là biểu năng cho những sự tự trình chính quy thực tại, (nói một cách dứt khoát như thế). Từ đó, dẫn đến sự phiếm định ấn kí của những khả thể vào trong thực tại, luôn đảm bảo cho một đặc tính nữa của mặc định này là hằng hữu tự nhiên. Hằng hữu luôn bảo tồn mức độ hòa hợp, mức độ đó, hằng hữu sẽ đem đến cho mặc định của chính tiềm năng thực tại.
Mức độ hòa hợp luôn được đương lượng, mà từ đó, nó bổ túc cho tính song hành ngữ cảnh. Phiếm định như quy tắc không thay đổi hay những biểu hiện tất hữu. Ấn kí được phiếm định là điều khẳng định cho chính tiến trình tự hoạt xung. Tất cả tương liên cho tính phiếm định, mà trong mức độ xét đến như là ngang bằng với chính mặc định của thực tại. Mặc định đều được khẳng định, ít nhất là trên thành phần của nó, khó tính đến sự lưu vong của bất kì một chia rẽ/phân tách nào của nội giới với ngoại giới. Ấn kí đó, luôn hằng hữu mà vì là hằng hữu cho nên nó chính là mặc định của thực tại. Mức độ hòa hợp sẽ là khẳng quyết cho hằng hữu đó được hạn định về phía chính nó. Hòa hợp đi theo cách nào chăng nữa cũng luôn là hướng đích đến sự dự trù bị lưu vong? Tất nhiên không như thế, nhưng chỉ với chính điều gì mà ta có thể để phiếm định luôn bảo đảm cho ấn kí hằng hữu đó, được đổ bộ vào trong cung cách mà ta có thể hiểu về chính nó (như một định phần trong cơ cấu mặc định của thực tại). Đương lượng này được phiếm định ấn kí đến mức độ hòa hợp là bảo toàn cho tính mặc định ấy. Hằng hữu là khả tất tính chính quy, nhưng không được coi là chủ đạo cho mặc định, vì mặc định tương đương với tổng thể cơ cấu nên không thể quy chuẩn bất kì một căn tố nào được coi như là chủ đạo.
Vì vậy mà mọi giá trị thực tồn đều có giá trị ngang bằng nhau, ngay khi bản thân chúng được xem là thực hữu hay là không thực hữu. Do đó, khả hữu tính là điều kiện để dựng xây nên những khả thể đang lưu chuyển trong miên trường thực tại này. Và mặc định của thực tại, nghiễm nhiên bao hàm trong nó một tính khả hữu chân chính. Bất kể điều gì có được cho là giản quy đi nữa thì cũng không vì thế mà có những khả năng hiểu biết, về mọi giá trị của điều gì đó coi như điều đó là thực tồn. Giá trị thực tồn là giá trị tự nó tồn tại cho chính nó và bất kể sự tác động nào về phía nó, nó cũng là chính nó. Nó không là điều gì khác đi, trong công cuộc hiện hữu của thực tại này. Giá trị thực tồn là giá trị tự nhiên, có đó, khi không tính đến bất kể một yêu cầu hay dự định nào sẽ tiến đến trong vòng vay của mọi điều được cho là tồn tại. Thực tồn cho nên thực tại là tổng thể đối với tất cả cơ cấu làm nên chính nó. Thực tồn là vì thế mà thực tại được định vị một cách rõ ràng hơn. Thực tồn, do đó, cũng có ý nghĩa khả hữu đối với chính mọi công cuộc thiết lập nên bên trong bản thân thực tại. Bên trong thực tại là tồn hữu cho nên giá trị của chính những cái tồn hữu trong thực tại thì được quy cho là thực tồn. Giá trị đó, ngang bằng với những khả thể khi chính biểu hiện của các đối tượng coi như là khả hữu. Dù giá trị đó, có thực hữu hay là không thực hữu đi nữa thì nó cũng được coi như một bao quát tràn trề về mọi ý thức, không đi ra ngoài khỏi cái được coi như khả hữu. Khả hữu cho nên tất hữu sẽ vi phạm đến cơ cấu về phía những khả thể có dự tính nào đó một cách bất kì. Khả hữu là dự phóng cho những khả thể. Khả hữu là cơ sơ/căn tố đối với mọi giá trị thực tồn, là điều coi như hiển nhiên lạ kì. Không hẳn chỉ điểm cho bước phát xuất của dự tính có ứng xuất nên trong miên tục thực tại và nó như thể sẽ là mở ra những cương vực sinh tồn đáng chú ý cho/về lại đối với chính bản thân thực tại. Thực tại, vì được cho phép tự nó mở ra những cương vực như thế nên nó (thực tại chứa đựng những giá trị thực tồn này) luôn có sự hội thông đối với bất kể một chung quy nào, có cho phép điều kiện, như hạn định những phôi sinh định hình mang tính thủ bản của bất kể mọi quy luật nào, được triển khai ra trên chính điều kiện, mà khả hữu tính đều truyền hưởng cho cơ cấu có chứa đựng những tiềm phôi, nhằm tạo ra cộng hưởng một cách bền vững nhất. Sự chấn thương nào cũng đều là cách biểu hiện sai lệch đối với chính sự mô phạm của bất kì một bổ túc nào cho/về phía mọi giá trị thực tồn ấy, trong chính những điều kinh qua thực tại này. Và kinh qua thực tại đã tạo nên cơ trình không gì khác hơn như thế nữa.
Mỗi cơ trình đều mang hơi hướng bởi tụ độ ý chí. Có ý chí mà trong cung cách nhìn nhận về vị trí của chúng ta trong thế giới mới có điều kiện đạt được khả giải. Có ý chí mới đảm bảo cho mức độ lưu động chính những quá trình trong thực tại này. Ý chí như tiên khởi để lo liệu mọi thứ, ý chí là công cụ đồng thời cũng là phương thức đem lại hiệu quả của cầu mong (mục đích) sự đặt để có phương cách hướng đích mỗi quá trình. Cơ sở của mỗi quá trình (cơ trình) đều chịu sự truyền hưởng của ý chí, khi sự truyền hưởng đạt đến giới hạn cần cho điều gì đó, được thiết lập sau đó nữa, thì chính lúc ấy, mỗi cơ trình sẽ chịu sự chi phối một cách mạnh mẽ bởi ý chí. Ý chí thu hồi về mình những điều kiện, mà chính bản chất của điều kiện đã chi phối lên trên bản thân ý chí có được khẳng định về mỗi một điểm quy kết có chủ đích, của nó, trên chính những quá trình cơ sở chịu sự đồng phôi ngưng kết ấy. Ý chí hoạt xung qua tụ độ, tụ độ ý chí chính là thái cách cho chính mỗi một cơ trình. Cơ trình có minh bạch thì sự minh bạch đó, mới được nói đến như ý nghĩa mang lại được hay không, hẳn nhiên, cũng phải cần phụ thuộc rất nhiều và dường như là tất yếu vào chính căn tố bắc cầu từ tụ độ của ý chí. Cơ trình là chỉ điểm mà mỗi quá trình đặt trên nó những điều kiện biểu trưng cho chính nó những khởi nguyên, để tụ độ tham dự vào đạt được cái mà nó gọi là mong muốn, như chính chủ thể thu góp được điều tích cực trên chính những vấn đề có ở trong tay, khi tiến hành giải quyết nó trở nên ngã ngũ. Lúc mà điều kiện được lưu tâm đến, thì cơ trình cũng là đồng bộ khi tách biệt nào cũng chứa đựng cái nghẹn ngào cho bước kết luận (đưa ra) trong một phát ngôn tràn đầy sự tự tin chính đáng. Cơ trình là thực tại phân hạch nên qua quá trình mà khi được hiểu về nó, cụ thể, trong cách nhìn nhận đến phía căn tố đi ra từ tụ độ ý chí. Cho chính điều mà khi ta gọi nó bằng những hơi hướng thì cũng bằng lúc chúng ta kết lập nên tất cả vấn đề mong muốn cho điều kiện hạn định được thông suốt, do đó, bất kể một đệm xung tất yếu nào, cũng đều là hầu hết cho công cuộc có trong nó sự tán dương chính đáng nhất. Khi cơ trình mà ta đặt để về hơi hướng tụ độ biểu hiện qua những xung lực kích động (nên) khởi thành thì cơ trình sẽ chịu sự tước đoạt phủ quyết từ chính tiềm năng, được hạn định hóa trên/bởi tụ độ ý chí (không gì khác hơn chủ thể nữa).
Hiện thể của cơ trình chính là tính phông nền không gian cổ điển, là cơ cấu chung của tiềm năng khả cấu nên vô số những không gian thứ tính khác. Không gian cổ điển là bản nguyên đối với mọi cấp độ tồn sinh của bất kì mỗi một không gian nào đó, được khai căn từ chính nó/lấy nó làm gốc rễ. Không gian cổ điển, do đó, luôn đảm bảo cho nó có được tính phông nền thuần túy. Tính phông nền này, được hiểu với mức tương thông phóng tán sẽ điều hành nên những lộ trình cho sự kết lập (trước đó là kết lập, sau đó mới cũng có thể tái lập hay là tùy nó). Không gian cổ điển, bản thân nó, ngay tự bên trong (được hiểu như nội vi), chính xác, sẽ chứng thực nên những phác họa có quy trình biểu sinh trong miên tục. Phông nền không gian cổ điển là định mức cho những cái được gọi là thứ tính, nó cần có để hun đúc vào trong chính bản thân không gian cổ điển, có được cái gọi như là sẽ được triển khai. Bằng với cung cách định vị trên mỗi bước thấm nhập, giai đoạn vọt trào hoạt xung cho cơ cấu hóa nên tiềm năng khả cấu vô số những không gian thứ tính khác. Không gian thứ tính chỉ là không gian được cấp phát từ không gian cổ điển, tính phông nền không gian cổ điển phát tiết nên lố trình chung cuộc, bởi yếu tính bất kể điều gì cũng tiềm tố trong cơ cấu hóa khai sinh, trên lộ trình cơ cấu hóa khả năng phát tiết ấy. Yếu tố dựng xây trên cơ cấu bố cục nào cũng là bổ túc cho tính phông nền của không gian cổ điển cả. Khi chính những biểu năng tương tác nơi phông nền của không gian cổ điển làm nên sự quy chụp mọi biệt loại triển khai ra từ đó cấu nạp thành những không gian thứ tính. Trên mỗi cấp độ, nếu như được nhìn nhận cho chính những không gian thứ tính đó, thì mỗi không gian được cho là thứ tính, đều gọi tính chất thứ tính là biểu trưng cho những di mãn, bởi/xuất phát từ tính phông nền của không gian cổ điển. Cơ cấu chung có được từ bước tạo đà, bởi cơ cấu hóa khởi đi xây dựng trong tính cường sát mỗi biểu lộ tính nào, cũng tồn hợp trong phương thức biểu đạt của tính phông nền không gian cổ điển. Không gian cổ điển hình thành từ chính quá trình tiệm vị của những không gian thứ tính, luôn đang trong bước đường hồi quy về lại với những gì đã được trừu xuất ra nó, trên những hợp cảnh tự tại của chúng. Khó mà biểu đạt được tính phông nền, được hiện diện một cách rành mạch, nhưng mong muốn nào hướng đến sự định hình tính phông nền ấy lại luôn là bất khả cho sự điều hướng về phía đó.
Dưới một chiều hướng khác, khả năng kiến tạo có giới hạn mang phẩm tính hoạch định không gian, thích ứng với quá trình giải thể cấu trúc nên các không gian tương đồng. Ở đây, hẳn đã phải có sự mâu thuẫn lớn chăng? Khi mà kiến tạo được đặt cạnh giải thể mà nó xem như không có gì cả? Nhưng đối với sự đặt định của chính điều đó vào trong toàn bộ, như một tổng thể có cơ cấu từ thực tại, sẽ là tất hữu cho một ý nghĩa hẳn hoi. Ở đâu rồi đi chăng nữa thì muốn có cũng sẽ phải chịu sự kiến tạo (nên) từ bất kể một yếu tố nào, được đương lượng về phía chính quy của thực tại. Cũng có thể là từ vị trí của mọi sự ngẫu nhiên nào đó, mà kiến tạo luôn được cho với cái tên gần như đồng nghĩa với hình thành (nên) bản vị, tương thông với những dự định có ứng xuất, đối với chính điều kiện để nhằm vào đó hiểu rõ cho thực thể. Khi mà bất kể mỗi một khả năng nào, trong lúc kiến tạo, cũng đồng thời mang trong nó sự giới hạn hướng đến biệt lập những quy chuẩn riêng tư khó có thể thiếu đi sự vắng bóng, của bất kể mỗi một căn tố/phương thức nào khả lập nên, mà ta cho nó mang nghĩa như kiến tạo. Ở đây, trong vô số những biểu sinh khả tất tính, khai thông từ chính sự kiến tạo, cho nên, phẩm tính có được về sự dự trù đối với toàn bộ trong hoạch định không gian nào, cũng luôn cần đến yếu tố thích ứng đối với những quá trình. Chưa nói đến quá trình đó là gì, tạm thời như thế, để dòng diễn giải này sẽ biểu đạt trên chính những ngữ dụ có chiều rộng, chiều dài và kể cả chiều sâu một cách thông suốt, thì khi bước vào khả năng kiến tạo, ta mới có thể hiểu được một cách rõ ràng về chính nó như mong cầu nào về phía sự kiến tạo, cũng đều luôn mang một ý nghĩa, luôn khó có sự phản quyết là tất yếu. Kiến tạo nào chứ không phải tái tạo trên một quy mô mà tất cả dự tính thứ cấp tiến triển sau nó căn cứ vào đó, để mà nói đến vai trò của nó trong những cung cách biểu đạt là khác nhau. Thích ứng được nói đến như vậy, chính là đem đi để kiến tạo trong mức ứng đối có đồng bộ nhất với chính quá trình giải thể cấu trúc, nên các không gian tương đồng. Quá trình giải thể là tất hữu cho chính sự kiện tương đương được đem ra nhằm hướng đến những quy chuẩn như vậy. Điều để mà mỗi một biểu sinh nào thao túng cũng chất chứa trong nó những sự tái kết lập, trên mức đà tụt lùi so với những gì dự kiến, để đối ngẫu đó hình thành nên trong một mức độ tức thời nhất. Thích ứng như điều kiện tiên quyết gây ra một sức nhu động trên chính sự mặc định thực tại tự tồn này. Để rồi, tương tác chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện khác đi của thích ứng mà thôi.
Bất kể một sự nối kết hay tương tác nào cũng là một định hướng quy hồi, giữa ít nhất hay tối thiểu, hai không gian. Tương tác nào, rồi bắt buộc cũng phải luôn có đối tượng (cả đối tượng tác động và đối tượng chịu tác động). Giữa thực tại, là đầy ứ/tràn trề những nối kết và tương tác. Nối kết/tương tác quy định cho những sự liên thông với nhau. Tương tác chính là chuyển dịch một độ lùi ra xa để rồi khi đó, nó truyền hưởng cho chính những đối tượng thành phần của/trong bản thân nó. Nối kết có sức chứa đựng của nó được đẩy lên đến một mức độ căng tràn như tiềm tố tương hỗ được tiềm tại trong chính bản thân sự nối kết. Nối kết là một đặc cách của tương tác. Tương tác cấp cấu nên trong nó những phân trùng của sự nối kết. Tương tác nào, rồi cũng nhằm vào chính đối tượng, mà đối tượng đó, hẳn nhiên luôn là liên quan đến thực tại. Bản chất của bất kì mỗi một tương tác luôn luôn liên đới với chính quá trình tương tác được diễn ra trong định tính của nó (tức tương tác).
Định hướng quy hồi chính là cách thức mà đối tượng đặt trong quan hệ với một đối tượng khác. Định hướng trực chỉ cho một điều gì đó kinh qua thì sẽ dẫn dắt để đi đến kết luận cho rằng, chính những gì sẽ được đem đến/mang lại đều sẽ khả quy cho một hiệu quả nhất định. Điều mà nếu chúng ta nhắm đến hay bất chợt thao thức với những cung cách thổ lộ thì chính nó sẽ luôn có/vạch ra những quỹ đạo thịnh hành, trong mỗi cách mà chúng ta nhìn nhận nó như những gì liên tiến như thế. Chúng ta không thể cho một điều gì đó là hư mờ, khi chúng ta biết phản phục nó trên chính điều gì mà cứ ngỡ như là nó đã được tiệm vị đến, thì tiếp theo của định hướng là quy hồi như cách giải thích đối với riêng ta, hay là đã được uốn nắn bởi chính trong bản thân nó.
Định hướng quy hồi nào, cũng luôn cần có đối tượng để quá trình đó xảy ra. Và cũng không là một ngoại lệ, giữa đối tượng là không gian thì định hướng quy hồi cũng không tránh khỏi việc chúng ta đặt sự chú tâm, ở những quy cách mà ta có thể hiểu được về chính điều coi là định hướng đó. Tuy những đối tượng là không gian nhắm đặt trong khu vực lưu chuyển của định hướng quy hồi thì mỗi bước/quá trình định hướng ấy, luôn được thực hiện/xảy ra dưới điều kiện tối thiểu, ít nhất ra, là giữa hai không gian. Không gian là bất kể những gì tồn hợp, mà chính định hướng quy hồi đã làm cho sự tồn hợp, có sự câu nối vào trong những điều khoản hợp quy chính điều gì chẳng bao giờ có cho đó là ngăn cách dưới mọi biểu hiện của chúng.
Trong tiến trình phân mảnh không gian, sự sắp đặt riêng biệt của mỗi một thành tố phân mảnh không gian sẽ tạo nên động lực thúc đẩy một cách nhanh chóng quá trình cấu trúc nên mỗi một thế giới tương ứng. Động lực, điều tiên quyết cho mọi khả giải tạo nên điều gì đó, được coi là hướng đích một cách mới lạ. Sẽ không thể phủ nhận được rằng, động lực có đó, là chủ trương hoàn toàn vô nghĩa một cách thẳng thắn, cho/về sự kiện, mà trên tiến trình phân mảnh không gian có được như thế là sâu sắc nhất. Điều mà ta có thể đã từng nghĩ đến tiến trình phân mảnh có thể là ở một mức độ nào đó mà thôi. Nhưng dù sao đi nữa, thì chính tiến trình phân mảnh đó, mới đúng thực là điều kiện mà như ta mong muốn hiển trình về phía chính bản thân nó mà thôi. Cái đáng khâm phục nhất của tiến trình phân mảnh là luôn nhắm đến một đặc tính cộng hữu của tự tồn, mang cung cách đương biến cho mọi sự phát sinh nào đó đi ra từ nó. Cũng có thể định nghĩa, tiến trình phân mảnh không gian như chính mức độ mà không gian khả lập nên những tất tố, mà chính tất tố đó được không gian liên thông vào/về.
Khi chính những dữ liệu, mà sự lắp đặt riêng biệt của mỗi một thành tố phân mảnh không gian, được nhắc đến qua chính lối đi của tiến trình phân mảnh không gian đó, thì ta có thể nói rằng, tiến trình đó luôn luôn là định quy trong một sự tích hợp có trật tự, từ chính tiến trình phân mảnh của không gian (một không gian bất kì). Sắp đặt nào, cũng chứa đựng tính cơ cấu hóa của sự sắp đặt đó. Sắp đặt là điều kiện tối cần thiết để nương mang vào trong nó những khẳng quyết bất biến, để cho chính những biểu sinh có được sự lưu động trên chính định tính linh hoạt của nó. Nhưng dù sao đi nữa thì tiến trình phân mảnh ấy, cũng gieo rắc nên những nguyên chủng, mà động lực thúc đẩy về phía nào đó (bất kì), có từ nó là luôn luôn được tạo ra một cách nhanh chóng quá trình cấu trúc nên mỗi một thế giới tương ứng. Cấu trúc thế giới là cách để biểu đạt về chính hệ quả của tiến trình ấy. Bằng cách kêu gọi những ngưng trùng có trong chính tiền định ở bản thân nó, mà cơ cấu thế giới để tạo nên thế giới, luôn được nhìn nhận trên một tiềm độ giới hạn nhất định nào đó, mà sự giới hạn này, không phải lúc nào cũng là bó buộc mọi sự phóng tán ra ngoài những phạm vi của chính nó (tức sự phóng tán). Phóng tán cũng đành đặt để trên chính tiến trình phân mảnh (đến) được coi như là tương đương cho chính đều luôn đáng được tôn vinh là những sự phân định rạch ròi, dĩ nhiên, là rạch ròi cho mọi yếu tính (trong đó cơ cấu hóa cấu trúc thế giới là một tiến trình).
Thế nhưng, sự tiêu tán của hết thảy những phân vùng chủ đạo bên trong tự thân mỗi một không gian, chính là sự thôi thúc cho những hiện trạng biến thành mang giới hạn chung cuộc đối với mỗi không gian đang từng ngày được kiến lập nên nội tại tính của ngoại giới. Như một đương mức khả thành những sự kiện tự quy, được thuyên giảm trong mức độ định hướng của chính bản thân cảm thức, ẩn tàng dưới tấm thảm sâu kín nội biệt tính trong tâm hệ bản thể tôi. Tiêu tán, nghĩa là thế nào, không hẳn tiêu tán, ở đây, được hiểu theo nghĩa tiêu biến và chẳng còn một chút gì tồn tại cả? Tiêu tán là hiện tượng mà sự kết đọng nên bên trong mỗi một chủ định không mang tính cưỡng chế. Nhưng bất kì sự sở hữu nào, nhằm mang vác về phía hun đúc nên những mầm mống hay tiềm tố bất kể, đều khơi thông cho những hỗn kết chứa đựng đầy rẫy những xung lực. Tiêu tán còn mang nghĩa cho chính sự phân bổ, nghĩa là không có sự hư vô hóa được đặt định ra ở đây, mà tiêu tán tự bản thân, nó có ý nghĩa cho chính điều kiện/cơ sở hình thành nên nó. Tiêu tán hết thảy những phân vùng là điều được coi như chính đáng, với ý chí muốn phân bổ nên mỗi một khởi tố nào đó mà thôi. Tiêu tán không đồng nghĩa với những cưỡng chế; cho sự trị vì phương cách kết lập một cách quỵ lụy của bất kể một điều gì đó được coi như mong muốn huyền diệu. Phân vùng chủ đạo bên trong tự thân mỗi một không gian hẳn là những sự hạn định mang/bao chứa biên cách, mà giản quy nào cũng căn cứ trên những biên cách đó, để mà ra sức điều chỉnh sự ứng phó kịp thời, trước mọi cách thức giải quyết. Như chưa được đồng ý đối với bất kì một sự cấu tố nào, trong bất kể một điều gì đó có thể kể đến như chính phông vỡ vào điều gì đó, mang lại mong muốn là tiềm tại thì cũng khả nhiên cho tiếng cười được cất lên không một chút giấu giếm gì hết. Trong tự thân mỗi một không gian, có những phân vùng mà lí luận thật cặn kẽ để hiểu về biên vùng đó, là hoàn toàn hợp lí cho chính những quy trình, để bổ sung vào sự tiêu tán của hết thảy những phân vùng đó. Điều mà được cho là có lý nhất, luôn là điều mà được câu thông cho tất cả mọi viễn tượng chứa đựng một cách đầy tràn những sinh lực. Ủy thác đối với mọi căn tố nào, cho sự tiêu tán, cũng đều là sự thụt trào của những gì hay lan tỏa, từ quy củ, được phát xuất nên ngay chính điều được coi như đồng phôi trong mọi giao cấu với tự thân mỗi một không gian.
Bước tiếp để đi đến hệ quả cho sự tiêu tán, đó chính là thôi thúc đối với những hiện trạng mang lại điều, mà từ đó, kiến lập nên nội tại tính của ngoại giới. Nội tại tính là dự phần được tóm tắt trong muôn trùng những diễn giải, về chính điều được biết trước là bất khả. Nội tại tính, tất nhiên là một chân lý cố hữu, khi nội tại tính, đó là tính chất chủ đạo của không là gì ngoài điều gì được quy chuẩn hóa cho ngoại giới. Hạn độ nào mà nội tại tính được nhắc đến dưới mọi hình thức bất kỳ, gắn vào ngoại giới thì cũng đều luôn được cho là có ý nghĩa duy nhất. Nội tại tính, mang vác trong mình điều được kiến lập, mà không chỉ là sự đơn thuần được kiến lập nên một cách đơn giản mà thôi. Còn được thụ nạp vào trong chính những điều gì đó, quá đỗi là đầy đủ của mọi sức căng trương, luôn được tăng cường một cách tự động tính giải trình mọi sự khẳng định, đối với điều kết lập từ chính những gì đi đến hệ quả cho sự tiên tán được nhắc đến trước đó. Thôi thúc, có nói đến nó mới lột tả được những gì dựng xây nên công cuộc này mà thôi. Thôi thúc không cầm chân bất kể một đối tượng nào cả, khi chúng luôn có ý định phỏng cách vào bên trong chính mọi sự nhập tỏa về muôn phương hướng được định quy. Rao giảng về nội tại tính, cũng không thể bằng cách chúng ta sử dụng trực giác của mình, đột nhập vào bên trong ngoại giới, khi luôn chú ý đến nội tại tính của nó hẳn là một phương thức được cho khả giải nhất, trong công cuộc của những điều được hướng định, hay bất kì mỗi một điều gì đem phân minh/quy giảng cho nó (quy giảng chứ không phải quy giản). Khả giải để phân minh, vì thế, để phân minh ta luôn cần điều gì đó, mà sự tất minh xảy ra một khả tất hữu, đóng vai trò như một điều kiện xuyên suốt mọi quy trình đáng được hay luôn luôn giản cách vào trong chính những quan năng, để mọi biểu sinh cho chính những nấc thang trên tiến trình hướng đến nội tại tính ngoại giới. Nội tại tính, nó không là quá gay gắt cho những gì ẩn sau đang được tìm đến, qua những thử thách đầy chông gai với những lời nhận xét về nó. Nội tại tính không chỉ được hoạt xung mà còn ngưng trùng trên những gì mà nó coi như đó là thích hợp để biểu hiện. Dù cho sự biểu hiện đó, có được cho là một trong những biểu hiện ngầm nào đó, ở trong mọi sự kiện được phân tích về nội tại tính ngoại giới, như chính nó là căn tố để minh nhiên quy xét nên mọi định hình.
Như vậy, và khi xét trong một toàn phần thì nội tại tính ngoại giới, sẽ được định hình nên chính nội biệt tính chính bản thể tôi, đối với điều như là trong cung cách của những gì sâu thẳm cố hữu bên trong nó. Nội biệt tính bản thể tôi là ấn định cho mọi cái (nếu như không xét đến trong một sự cường soát như thế, hay toàn triệt, thì cũng như một phần lớn, mà cũng như vậy, mới dường như được xem là đầy đủ) bên trong, coi như đó là nội vi. Với chính những căn tố có được để đặt định mọi sự ngẫu ứng nào, đều cũng là sự phủ quyết đối với chính điều gì đó, mà nó có cho như nó là. Nội biệt tính có cho như nó đang là gì hay đương diễn gì không? Nội biệt, do đó, mà mỗi phân loại nào cũng đều được khả thành. Khi quy củ nào đó đi vào trật tự thì chính điều được coi như khởi thảo của trật tự đó, được liền mạch trong bước đi của nội tại tính, tiếp chuyển nên nội biệt tính chính tự bên trong bản thể tôi. Nội biệt tính, vì thế, mà phân lập nên những cương mục sinh tồn trong không gian, do đó, được thịnh hành chẳng khác gì là những gì có được cộng sinh vào chính miên tục của thực tại cả. Cương mục sinh tồn là hạn định cho chính nội biệt tính, xét đến như đó là hệ quả. Cương mục nào cũng khải lộ nên những biểu sinh, từ đó đi ra nội tại tính, nhưng cũng từ đó, trải qua vô số những tiếp diễn liên thông vào trong huyền nhiệm thực tại, để rồi vòng lại chính nội biệt tính như chính chu trình, mà sự kiện định hình nên nội biệt tính được đẩy lên đến một tầm cao mới. Nội biệt tính, không hẳn vì vậy, mà gây ra những điều kiện chuyên sâu, nó cũng chỉ là cương mục trong rất nhiều những biểu sinh, từ chính những gì mang tính hệ quả đi ra từ thực tại mà thôi (không phải ra như xét đến vị trí là không bao chứa). Nội biệt tính bao chứa những sự dự trù hay phân bổ nào đó về lại/đổ xô vào. Nội biệt tính xăm xoi nên điều gì đó, mà nó cho là cấp cho vô số những dữ kiện để định hình nên điều gì thật sự thú vị hơn rất nhiều. Bên trong hay bên ngoài, đến nó, được nói ở đây, không chỉ vào vị trí mà đối tượng được đứng, để chịu sự nhìn nhận về nó không đương mức ở, như là bản thể tôi đang vun vén trong mình từng ngày. Nội biệt tính phản phục nên để ngẫu sinh ra thành nội tại tính? Hay ngược lại, nội tại tính quy phục nội biệt tính? Ở trong chiều hướng nào, mỗi cách giải quyết cũng chỉ là mỗi một cách nhìn nhận mà thôi, nhưng xét đến trên tính mặc định của thực tại thì phân trùng nào mà cương mục biệt loại cũng đều chứa đựng những ý nghĩa (tất nhiên, mọi ý nghĩa đều luôn được biểu sinh một cách tràn trề).
Đa không gian luôn được đặt định như một hệ quả của công cuộc đem lại những hệ quả thực sự thông suốt, trong lộ trình diễn giải ý hướng tính về các khả năng giao cấu thành phần lưu vong của chính những tha thể trên vũ trụ cổ điển. Tha thể chính là những “alter ego” mà mọi sự biểu sinh của nó có thể nói là ngang bằng với chính đối tượng của nó, coi như đó là chủ thể. Tha thể dựa vào những phân vùng thiết định, do đó, hạn định nên bên trong không gian cổ điển những khả độ. Đa không gian như là chính viễn tượng mà cách/sự hiểu về tha thể có được dữ kiện về chúng được dồi dào hơn và như là chính khi đó, nó (đa không gian) dường như đã là một hiện trình cho những tha thể đó rồi. Bằng với sự chỉ dẫn trên lộ trình diễn giải về đa không gian thì cũng tương đương như thế, trong mọi cung cách diễn giải về những tha thể. Đa không gian là điều kiện cũng như hệ quả, để những khả thể tự biểu kiến lấy chính nó khi cho ra đời những tha thể. Ở đây, không nói về chủ thể thì nói qua tha thể, cũng đã chứa đựng trong nó cả chủ thể rồi. Tha thể chẳng khác gì là những chủ thể khả năng cả, do đó, tha thể được hiện diện như chính bản thân hữu tại thể trình xuất ra ở thế giới, tại đó. Đa không gian chính là hệ quả của lộ trình diễn giải đối với/về chính những chủ thể khả năng. Mặc định thực tại chính là đa không gian qua cách thức diễn giải đó. Mặc định còn là cách mà công cuộc diễn giải về chính bức tranh của những thành phần lưu vong trên vũ trụ cổ điển, không gì khác ngoài những tha thể. Chính xác, đa không gian trong tính liên đới với hệ quả cho ra đời những biểu sinh lưu vong, chính là căn tố chủ đạo của mặc định đích thân thực tại này. Mặc định thực tại, không thể được coi là khép lại, vì nó đã đầy tràn, mà mọi sự tham gia/nhập cuộc để nhìn nhận về nó, với tư cách là những người đồng thoại ở trong vai trò ngôi hai, cũng khó có thể thay đổi nó đi được theo hướng đối thoại mà sự tin tưởng ở chính nơi bản thân ta là hướng mặc định đó, đi theo những chủ kiến của mình. Hay là, trong cái cách mà mình đứng ở ngôi ba, xét đến biểu hiện một trong những khả năng hữu thể của mình được dẫn khởi qua mức độ tại vị chủ thể, thì cũng như, đứng ở vị trí an toàn để thưởng thức hay nhìn ngắm về phía cái mà được xem như quá đỗi trác tuyệt đến như thế, không gì khác ngoài sự mặc định chính quy của thực tại.
Nó là công cuộc được đem lại từ đó những hệ quả. Nhưng bất kì hệ quả nào cũng được cả sao? Dĩ nhiên, là đối với chính hệ quả mà ta mong muốn là cần được có nhất, ít ra là như thế. Khi chính diễn giải mang ý hướng tính về các khả năng giao cấu thành phần lưu vong của tha thể trên vũ trụ cổ điển. Vũ trụ cổ điển là điểm đồng phôi duy nhất, mà mọi sự ngưng trùng về nó, từ đó, khả dĩ đến những đặc cách đối với mọi phong thái, mà được kể đến như chính quy của phông nền thực tại này. Lộ trình diễn giải ý hướng tính về chất chứa những cấu nạp, mang tính khả năng luôn là cách thức nhìn nhận có ý nghĩa nhất về hệ hình đa không gian, mang bản chất là phông nền thực tại hạn độ trên chính những tha thể biểu sinh nơi thực tại. Vũ trụ cổ điển không phải là thực tại. Thế giới, có ở đâu đó, mà mang sự cấp ý nghĩa cho mọi biểu sinh, để từ đó, dật ứng nên tất cả mọi cấu hình thì đều vì, dường như tất cả là như thế luôn hướng đến khả năng giao cấu thành phần lưu vong chính những tha thể trên vũ trụ cổ điển. Đi từ bất kể điều gì, mà thành phần lưu vong đó, không được xem/coi như là điều đồng phôi, đem ra quy kết mang tính thẩm định chung. Bước sang lộ trình diễn giải tiếp theo, hẳn sẽ là hệ hình đa không gian được thể hiện một cách rõ ràng, hơn nữa, khi được đẩy đến trung tâm với những biểu sinh của những tha thể, đóng vai trò làm nội ứng trong vô vàn cung cách hướng định đến những phần cung ứng về phía thế giới, khác thế giới đang là như thế này, hay ngoài ra những giới hạn mà đường cong khép kín luôn khi nào cũng bao bọc, nơi chính bản thân vũ trụ cổ điển này. Mặc định của thực tại, chính vì vậy, mà luôn mong muốn được gia tăng không ngừng những khả năng cấp ý nghĩa cho chính nó. Hiệu ứng chuyển động của bất kì mỗi một biểu sinh nào đấy, cũng đều mang nghĩa là khải ứng nên với điều gì đó, coi như là tương đồng khi mà chính mặc định như thế, bởi mặc định, cũng là như thế đó. Không thể diễn giải trong những luận lý vòng quanh, để rồi ưng đưa cảm tính chủ quan đặt đâu đó chỗ nào cũng được, nghĩa là sự cấp phát ý nghĩa đối với những biểu sinh, từ phía tha thể được hạn định trên vũ trụ cổ điển, tất cả đều coi như đó là những gì hằng mong mỏi/ mong muốn. Biểu sinh được gia bội thành những nấc bậc, mà căn nguyên để dẫn khởi nên chính những khả năng cho hữu thể, biểu lộ qua khả thể thành những chủ thể và tha thể (gọi tóm lại, cả chủ thể và cả tha thể này là những chủ thể khả năng, như thể ở điểm nhìn này, chủ thể cổ điển sẽ mất đi) gói trọn trong bước định hình mang tất cả mọi hiển trình cho/ về tính quảng diễn khả cấu thực tại tự tồn này.
Phạm Tấn Xuân Cao
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầ...