EM TỪ ĐÂU ĐẾN
Thơ Huy Dung, NXB Văn học,
2008
Ông là
thầy thuốc giỏi, nhà thơ đích thực. Cả hai chức danh cao quý ấy, ông theo đuổi
một cách đam mê quyết liệt và để lại nhiều dấu ấn với những người được ông tận
tình cứu chữa và những ai đã từng đọc thơ ông. Hai trách nhiệm nặng nề (chăm lo
thể xác và nâng đỡ tinh thần), ông đã hoàn thành một cách xuất sắc.
Những
bài thơ về Hà Nội ông viết có những nét riêng khó lẫn: Bước chân đo rặng liễu
(bài Hà Nội, tr 6), để Bên em nhẹ bước đêm Hà Nội/ tưởng Chiếu dời
đô vọng gió ngàn/ mong buổi Thăng Long bằng trống hội/ được về lễ Tổ dịp ngàn
năm (Yêu Hà Nội, tr 105). Ước mơ của ông cũng là mơ ước của nhiều người! Rồi
ông tự hỏi: Em từ đâu đến rước chim về tổ/ mức chân thành đập mặc cảm tan tành/ bình minh rạng so dây đàn rực rỡ/ em đằm thắm chuốt rung tình ngút xanh. (Em
từ đâu đến, tr 42).
Cho đến
khi tóc đã bạc trắng trên đầu, những bài thơ về Hà Nội như vết dao cắt trong
tâm tưởng khiến người đọc rung cảm cùng ông. Hà Nội quê nội, nơi cho ông những
kỷ niệm, những bài thơ đầu đời. Với những từng trải nhiều lẽ hơn thiệt, thì Hà
Nội trong ông là một Hà Nội khác: Ơi Hà Nội tảo tần mà quyến rũ/ Hạn gặp mưa mừng
vui đến lệ trào.
Ai cũng
có một góc riêng tư, một phía khuất của đời mình cần giấu kín. Điều đó có thể
giãi bày hoặc không “dám tỏ” cùng ai. Nhưng với Huy Dung thì lại khác. Ông gửi
vào một “góc riêng tư” của mình vào thơ một cách thành thật, bất ngờ khiến người
đọc cảm thông và chia sẻ niềm hạnh phúc lẫn nỗi khổ đau mà ông từng nếm trải: Vết
thương em đâu có, để lành/ nay hai đứa đã già, chưa héo/ mà nếu có - còn đâu
sẹo cũ/ Gió mang đi tất cả xa bay/ Tôi vô duyên đặt bày hoài cổ/ em vô can
ai nợ gì ai/ Thôi tình phụ, đoái hoài chi nữa/ gom thư đốt nhẹ giữa lòng đau
(Một tình hờ mãi hờ tr 58-60).
Người
như thế là thành thật lắm, thơ như thế là thành thật lắm. Vì lẽ đó, đọc thơ Huy
Dung ta muốn đưa vai gánh vác cùng ông mọi nỗi niềm trắc ẩn. Và đây nữa: Tại vì
sao khoét sâu nỗi đau/ tại vì ai giọng khô cháy họng/ tại vì sao trói buộc
vào nhau/ tại vì ai kêu người khát vọng? (Vì tình yêu, tr
61-62)
Thì ra
cảm nhận tình yêu của một lão ông khác gì của một thời trai trẻ. Vẫn còn đó những
câu hỏi day dứt thánh thiện!
Danh y
Hải Thượng Lãn Ông đã từ bỏ “công hầu khanh tướng” mà lui về ở ẩn chốn Hương
Sơn nuôi nấng mẹ già và để lại cho đời những cuốn sách thuốc của một bậc Thánh
hiền để cứu đời, cứu người. Tình mẫu tử thiêng liêng lắm.
Thầy
thuốc Huy Dung tóc đã bạc trắng trên đầu, trước nỗi đau mất cha, mất mẹ đã thảng
thốt kêu lên: Cha ơi, mẹ ơi…/ Bên thi hài Cha con lặng gác/ đau
xót tim con nhịp đập dồn. Và người mẹ đã: Thay cha/ mẹ chống chọi trên đời/
Suốt ba mươi tư năm thêm nữa/ Bỗng môi tím bầm, thay nụ cười/ lặng lẽ mẹ
thăng đúng giờ sửu (Cha ơi, mẹ ơi, tr 107-110).
Mẹ sinh
thành những đứa con biết thủy biết chung. Cái điều này không mới nhưng không hề
cũ đối với các nhà thơ. Nếu ai đánh mất điều thiêng liêng ấy là tự đánh mất
mình, họ sẽ không có được những câu thơ ân tình: Trăng hồn Mẹ/ nay nương gió
núi về
Một người
Mẹ có hai gái, hai trai hy sinh vì Tổ Quốc: Mẹ đã đợi xuân đầu sau Bảy Lăm…
Bà Mẹ của nhà thơ Huy Dung cũng giống như bao bà Mẹ trên đất nước ta. Giấu nước
mắt vào lòng…: Gương Mẹ sáng hơn vằng vặc ánh trăng/ Trăng không ngừng thao thức,
cả khi lên lúc lặn/ Trăng mãi trăng. Dù tát cạn dòng Lam/ (nhưng tát mấy cho
vừa) không thể cạn/ nỗi đau đời Mẹ.
Phải sống,
phải yêu hết mình với đời, với người. Phải đối diện nỗi đau, buồn vui, cay đắng,
thầy thuốc - nhà thơ Huy Dung mới có những câu thơ xé lòng ấy.
Ông lại
có những câu thơ đầy suy tưởng vì lẽ đời, lẽ người sâu nặng…: Thơ thức lương
tâm cứu rỗi người/ Xua sầu, sưởi ấm trái tim côi/ Chắt chiu huyền diệu, làm
sao thiếu/ Ôm cả lứa đôi, cả cõi đời.
Tháng
8-2008
Trần Nhật Thu
Nguồn: Sức khỏe và Đời sống,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét