Thứ Ba, 31 tháng 3, 2020

Tội ác và trừng phạt 1

Tội ác và trừng phạt 1
Chuyện kể về chàng sinh viên nghèo Raxkônnikốp vì quá lạc lối mà đã giết chết hai chị em bà lão cầm đồ.
Những ngày sau đó, Raxkônnikốp rơi vào một bi kịch mới, khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Anh càng cố gắng che giấu tội lỗi thì càng tỏ ra lúng túng. Tình yêu sâu sắc, sự hy sinh cao cả và tấm lòng nhân hậu của cô gái Xônya cùng sự quan tâm, yêu thương giúp đỡ của mọi người đã thức tỉnh Raxkônnikốp. Chấm dứt những giằng xé nội tâm, anh đưa ra quyết định: thà bị giam cầm về thể xác còn hơn bị tù đày về tâm hồn...
Với nội dung tư tưởng sâu sắc, Tội ác và trừng phạt đã được đánh giá là một kiệt tác chứa chan tình yêu thương giữa con người với con người.
Chương 1
Vào một ngày đầu tháng bảy oi bức lạ thường, lúc xế chiều có một người trẻ tuổi rời gian gác xép thuê lại trong ngõ S., bước ra phố và chậm rãi đi về phía cầu K., dáng như tần ngần do dự.
Khi xuống thang gác, chàng đã may mắn tránh mặt được bà chủ trọ. Căn buồng xép của chàng kê sát dưới mái một toà nhà cao năm tầng và trông giống một cái tủ hơn là một gian phòng ở. Còn bà chủ - người cho chàng trọ, dọn cơm tháng và cho chàng mượn cả người dọn buồng - thì ở một căn nhà riêng phía dưới, cách buồng chàng một cầu thang, và mỗi lần ra phố thế nào chàng cũng phải đi ngang cánh cửa gian nhà bếp của bà chủ luôn luôn mở toang nhìn ra thang gác. Cứ mỗi lần đi ngang cánh cửa ấy người trẻ tuổi lại có một cảm giác sợ sệt bệnh tật khiến chàng xấu hổ và cau mặt. Chàng mắc nợ bà chủ trọ lút đầu lút cổ và sự gặp mặt bà ta lắm. Cũng chẳng phải chàng hèn nhát và khiếp nhược đến thế, trái lại nữa là đằng khác, nhưng ít lâu nay tâm thần chàng khích động và căng thẳng khác thường, gần như mắc chứng u uất. Chàng sống cô độc rụt sâu vào nội tâm và xa lánh mọi người, đến nỗi gặp ai chàng cũng sợ chứ chẳng riêng gì bà chủ trọ.
Chàng bị cảnh nghèo khó vùi đập, nhưng gần đây ngay cả tình cảnh túng bấn cũng không còn đè nén chàng nữa. Chàng đã bỏ hẳn mọi công việc và cũng chẳng buồn làm ăn gì cả. Thật ra chàng chẳng sợ mụ chủ nào hết, dù mụ có mưu mô gì để hại, chàng cũng mặc. Nhưng dừng chân trên thang gác, nghe những câu nói lải nhải đã nhàm tai về những chuyện vặt vãnh thường ngày chẳng có lý thú gì đối với mình, những câu đòi nợ dai dẳng, những lời doạ dẫm, than phiền, rồi chính mình lại phải kiếm cớ khất lần, xin lỗi, dối quanh; - không? Thà tìm cách lủi đi như một con mèo, rón rén xuống thang gác và chuồn thẳng một mạch, đừng để ai trông thấy.
Vả chăng lần nầy, khi bước ra phố chàng lại còn lấy làm lạ không hiểu sao mình lại sợ gặp cái mụ chủ nợ ấy đến thế.
"Ta đang mưu đồ một việc như vậy, mà đồng thời lại sợ những chuyện nhảm ấy ư - chàng nghĩ thầm, môi nở một nụ cười kỳ dị - thì… phải… tất cả đều nằm trong tay con người, thế mà nó cứ bỏ lỡ cơ hội, chỉ vì hèn nhát… thật hiển nhiên quá đi rồi. Kể cũng lạ không biết người ta sợ cái gì nhất nhỉ? Bước một bước mới, nói lên một lời mới do chính mình nghĩ ra đấy, họ sợ cái ấy hơn cả… Nhưng mà mình nói nhiều quá! Mình không làm gì chính cùng vì nói nhiều. Mà cũng có lẽ mình nói nhiều bởi vì mình chẳng làm gì cả. Chẳng qua tháng vừa rồi mình đâm ra nói nhiều vì cứ nằm lì suốt đêm ngày trong xó mà nghĩ đến… chuyện trên trời dưới đất. Nhưng bây giờ mình đi thế nầy đề làm gì? Chả nhẽ mình có thể làm việc ấy sao? Việc ấy liệu có phải là chuyện nghiêm chỉnh không? Chẳng nghiêm chỉnh gì đâu. Thế thôi, chẳng qua mình tưởng tượng ra để tự tiêu khiển: chuyện đùa ấy mà. Phải, có lẽ chỉ là chuyện đùa thôi cũng nên?"
Ngoài đường phố nóng như thiêu đốt, không khí ngột ngạt, người qua lại xô đẩy, chen chúc nhau, đâu đâu cũng thấy ngổn ngang những vôi, gạch, gỗ xây nhà, bụi bặm, và phảng phất cái mùi hôi hám của mùa hè rất quen thuộc đối với những người dân Petersburg nào không thuê nổi một ngôi biệt thự ở ngoại thành. Thần kinh của người trẻ tuổi đã khích động sẵn, lại thêm tất cả những thứ đó dồn dập vào một lúc, nên càng thêm nhức nhối khó chịu. Mùi xú uế xông ra nồng nặc từ các tiệm rượu nhan nhản ở khu phố nầy, và những gã say rượu gặp nhan nhản trên hè phố tuy đang giờ làm việc, càng tô cho màu sắc ảm đạm và dơ dáy của bức tranh thêm đậm đà. Một cảm giác ghê tởm đến cùng cực thoáng hiện một khoánh khắc trên nét mặt thanh tú của người trẻ tuổi. Chàng rất khôi ngô, có đôi mắt thẫm màu rất đẹp, tóc hung đậm, vóc người trên trung bình, mảnh dẻ và cân đối. Nhưng phút chốc chàng dường như đã ngập sâu vào tâm trạng đăm chiêu, hay nói cho đúng hơn, một trạng thái hầu như mê muội; và chàng bước đi, không còn trông thấy gì xung quanh nữa, mà cũng chẳng buồn để ý đến cái gì hết. Chỉ thấy chàng chốc chốc lại lẩm bẩm câu gì trong miệng, theo cái thói quen nói một mình mà chàng vừa tự thú nhận. Lúc ấy chàng cùng nhận thấy ý nghĩ của chàng đôi khi rối loạn và thẩ chất chàng đã suy nhược lắm rồi: đã hai ngày nay chàng hầu như không có miếng gì lót dạ.
Chàng ăn mặc tồi tàn đến nỗi giá phải người khác, dù đã dạn dày chăng nữa, cũng phải thấy ngượng khi bước ra phố giữa ban ngày trong những tấm giẻ rách như vậy. Song ở khu phố nầy thì dù có ăn mặc thế nào cũng khó lòng mà khiến ai ngạc nhiên. Ở đây rất gần khu Chợ Hàng Rơm, lại có nhiều tiệm rượu, dân cư phần lớn là thợ thuyền, chen chúc trong những phố xá và ngõ hẻm ở khu vực trung tâm Petersburg nầy, cho nên quang cảnh chung nhiều khi được tô điểm bằng những mẫu người lắm hình lắm vẻ đến nổi khó có thể ngạc nhiên khi gặp một bóng dáng quá kỳ quặc. Nhưng lòng người trẻ tuổi đã chứa chất một sự khinh miệt hằn học đến nỗi mặc dầu chàng vốn có một tính cả thẹn và tự ái đôi khi rất ngây thơ, chàng cũng chẳng thấy ngượng nghịu chút nào khi phải phô bày những mảnh giẻ rách của mình trên đường phố. Còn như gặp người quen hay bạn học cũ thì đó lại là chuyện khác; nói chung chàng không thích gặp những người nầy… Vừa lúc ấy, có một gã say rượu chẳng hiều tại sao và đi đâu mà lại ngất ngưởng trên một chiếc xe giàn to tướng thắng một con ngựa tải to tướng đang chạy qua phố; khi xe đến ngang tầm người trẻ tuổi, gã say rượu bỗng quát: "Ê, thằng cha đội mũ Đức kia?" rồi giơ tay chỉ chàng ngoác mồm cười rống lên. Người trẻ tuổi dừng phắt lại và lập cập đưa tay lên nắm lấy mũ. Chiếc mũ chàng đội là một chiếc mũ dạ hiệu Zimmermann(1) đã sờn hết tuyết và bạc phếch, loang lổ những vết bẩn và chi chít những lỗ thủng, vành mòn gần sát, méo xệch sang một bên, trông không còn ra cái hình thù gì nữa. Nhưng lúc bấy giờ chàng choáng người đi không phải vì xấu hổ mà vì một cảm giác gỉ khác hẳn, giống như kinh hãi.
- Mình đã biết mà - chàng lẩm bẩm trong cơn bối rối, - chính mình cũng đã nghĩ từ trước! Cái ấy mới tệ hại hơn cả! Chính những cái không đâu như thế, những cái vặt vãnh ngu xuần, tầm thường như thế lại có thể phá hỏng cả một ý đồ! Phải, cái mũ nầy dễ bị chú ý quá! Nó lố lăng, cho nên dễ bị chú ý… ăn mặc rách rưới thế nầy thì nhất định phải đội mũ lưỡi trai, một cái mũ khổ nào đấy cũng được, chứ không thể đội cái vật quái gở nầy. Chẳng thấy ai đội thứ mũ nầy cả, cách xa một dặm người cũng chú ý ngay, họ sẽ nhớ… Cái chính là về sau họ sẽ nhớ, thế là thành một tang vật. Lúc nầy, phải cố sao đừng để ai chú ý mới được.
Những cái vặt vãnh, những cái vặt vãnh lại chính là cái chủ yếu!… Chính những cái vặt vãnh nầy bao giờ cũng làm hỏng hết mọi việc.
Chàng không phải đi xa lắm. Chàng lại còn biết rõ từ cổng nhà trọ đến đấy bao nhiêu bước: đúng bảy trăm ba mươi bước. Trước kia trong khi mơ tưởng mông lung chàng đã có lần đếm. Dạo ấy chính chàng cũng chưa tin là thật và chỉ dùng những mộng tưởng liều lĩnh quái gở nhưng đầy sức cảm dỗ ấy để tự làm cho mình nôn nao, day dứt Nhưng từ dạo ấy đến nay đã được một tháng, chàng đã bắt đầu có một cách nhìn khác, và tuy những khi nói chuyện một mình chàng vẫn tự đay nghiến là bất lực và thiếu quả quyết, chàng dà dần dần quen xem cái mộng tưởng "quái gở" kia như một mưu đồ thật sự, mặc dầu trong thâm tâm chàng vẫn chưa dám tự tin. Bây giờ chàng đang đi "duyệt thử lại" việc đã mưu đồ, và cứ mỗi bước tâm trạng bứt rứt của chàng lại càng tăng thêm.
Tim như ngừng đập chân tay run lẩy bẩy, chàng đến gần toà nhà cao lớn một mặt trông ra con kênh đào, một mặt trông ra phố X… Toà nhà ngăn ra nhiều gian nhỏ làm nơi trú ngụ cho đủ các hạng người: thợ may, thợ khoá, đầu bếp; ở đấy có những người Đức thuộc đủ các loại, những cô gái mãi dâm, những viên thư lại… Qua hai cái cổng dẫn vào hai khoảng sân trước và sau nhà, người ra kẻ vào tấp nập. Trong nhà có ba hay bốn người gác cổng trông nom. Người trẻ tuổi rất hài lòng vì đã không chạm trán phải người nào trong bọn họ. Vừa lọt vào cổng, chàng liền rẽ ngoặt sang phải, lấm lét bước lên cầu thang. Thang gác phụ nầy chật hẹp và tối tăm, nhưng chàng đã biết rõ và đã nghiên cứu cặn kẽ hết những điều đó, nên rất hài lòng: tối thế nầy thì dù có con mắt tò mò nào dòm dõi cũng không ngại. Bây giờ mà mình còn sợ sệt thế nầy, thì giả sử khi đến đây để làm việc ấy thật, cơ sự còn sẽ ra sao?" - Chàng bất giác nghĩ thầm khi bước lên tầng thứ tư. Đến đây chàng phải dừng lại vì gặp phải mấy người cựu binh làm nghề khuân vác đang khiêng bàn ghế đồ đạc trong một gian nhà ra ngoài.
Chàng biết đây là gian của một gia đình công chức người Đức. "Thế nghĩa là lão người Đức kia dọn nhà đi và như vậy trong một thời gian nào đấy ở tầng thứ tư nầy, cuối thang gác nầy, chỉ có gian của mụ già là còn người ở. Như thế rất tốt, nhỡ khi có cần đến…" - Chàng lại nghĩ thầm, rồi đến giật chuông trước cửa mụ già. Cái chuông nhỏ khẽ rung lên rè rè, nghe như tiếng sắt tây chứ không phải tiếng động. Trong những gian phòng chật chội của loại nhà nầy hầu như bao giờ cũng dùng rặt một loại chuông ấy. Chàng đã quên bẵng cái âm thanh rè rè của chiếc chuông, và bây giờ cái âm thanh đặc biệt ấy bỗng như nhắc chàng nhớ lại một điều gì mà chàng chợt thấy hiện rõ mồn một trước mắt… Chàng bỗng rùng mình, vì lần nầy thần kinh chàng đã quá bạc nhược.
Một lát sau, cánh cửa mở hé ra thành một khe hở rất nhỏ; mụ già dòm khách qua khe hở với một vẻ nghi kỵ rõ rệt, chỉ thấy đôi mắt mụ long lanh trong bóng tối. Nhưng thấy ngoài hành lang đông người, mụ dạn dĩ lên và mở hẳn cửa ra. Người trẻ tuổi bước qua ngưỡng cửa, đặt chân vào gian phòng ngoài tối mờ mờ có một bức vách mỏng ngăn cách với một gian bếp chật chội.
Mụ già lặng lẽ đứng trước mặt chàng và nhìn chàng như dò hỏi. Đó là một mụ già khô đét, người bé loắt choắt, tuổi trạc sáu mươi, đôi mắt sắc và ác, cái mũi nhọn hoắt. Đầu mụ để trần, mớ tóc màu gai hơi bạc xức dầu trơn nhầy nhụa. Trên cái cổ mảnh và cao, trông như cái cẳng gà, quấn một thứ giẻ bằng nỉ mỏng, và tuy tiết trời nồng nực, trên vai mụ cũng vắt vẻo một chiếc khăn choàng bằng lông thú xơ xác đã ngả sang màu vàng.

Mụ già ho khục khặc và đằng hắng luôn mồm. Trong khóe mắt của người trẻ tuổi khi nhìn mụ chắc. phải có một cái gì khác thường, vì thấy mắt mụ lại thoáng lộ vẻ nghi kỵ như cũ.
- Tôi là Raxkonikov, sinh viên. Tháng trước tôi có đến nhà bà một lần, - người trẻ tuổi vội nói lắp bắp và khẽ nghiêng minh chào, chàng vừa sực nhớ ra rằng mình cần phải nhã nhặn.
- Tôi nhớ cậu ạ, tôi nhớ rõ là cậu đã có lần đến đây. - Mụ già nói rõ từng tiếng, đôi mắt dò hỏi vẫn nhln chàng xoi mói.
- Thưa bà… lần nầy tôi đến cũng vì việc ấy… - Raxkonikov nói tiếp, hơi lúng túng và ngạc nhiên vì cái vẻ nghi kỵ của mụ già." Chắc mụ tá bao giờ cũng vẫn thế, chẳng qua lần trưởc mình không để ý đấy thôi" - chàng nghĩ thầm với một cảm giác khó chịu.
Mụ già im lặng một lát như suy nghĩ điều gì, rồi tránh sang một bên nhường lối cho khách và chỉ cửa buồng nói:
- Mời cậu vào nhà.
Người trẻ tuổi bước vào một gian phòng nhỏ hẹp, tường dán giấy vàng, cửa sổ có chăng màn nhiễu, trên bậu đặt mấy chậu hoa dương hải đường. Ánh mặt trời lặn chiếu vào phòng sáng rực. "Thế nghĩa là đến lúc ấy ánh nắng cũng sẽ chiếu sáng như thế nầy…". Ý nghĩa ấy bất giác vụt qua óc Raxkonikov.
Chàng đưa mắt rất nhanh nhìn khắp gian phòng một lượt đề xem xẻt và ghi nhớ thật kỹ cách bày biện. Nhưng trong phòng chẳng có gì đặc biệt. Đồ đạc đều làm bằng gồ màu vàng và đã cũ lắm, gồm một chiếc đi-văng lưng rất rộng bằng gỗ uốn, một cái bàn hình bầu dục đặt trước đi-văng, một chiếc bàn trang điểm với một tấm gương móc lên khoảng tường giữa hai khung cửa sổ mấy chiếc ghế đặt dọc tường và vài ba bức tranh rẻ tiền đóng khung gỗ vàng, vẽ những cô gái Đức cho chim đậu trên tay, đồ đạc trong phòng chỉ có thể. Ở một góc phòng, trước một bức tượng thánh nhỏ, leo lét một ngọn đèn thờ. Mọi vật đều sạch sẽ tinh tươm, bàn ghế và sàn nhà đều được đánh xi bóng lộn. "Bàn tay mụ Lizaveta đây" - người trẻ tuổi nghĩ thầm. Khắp gian nhà không tìm đâu lấy được một hạt bụi. "Chỉ có mấy mụ đàn ba goá già nua và độc ác mới có cái nề nếp sạch sẽ như thế nầy" - Chàng tự nhủ tiếp và tò mò liếc mắt về phía bức màn vải hoa trên khung cửa dẫn vào căn buồng nhỏ thứ hai, nơi đặt giường ngù của hai mụ già và một chiếc tủ ngăn. Chàng chưa lần nào ghé mắt vào đấy. Cả gian nhà ở chỉ có hai căn buồng nầy.
- Cậu cần hỏi việc gì? - mụ già nói, giọng nghiêm nghị, trong khi bước vào phòng đứng trước mặt chàng như lúc nãy, đề có thể nhìn thẳng vào mặt chàng.
- Tôi mang cái nầy lại cầm. Đây ạ! - Và chàng móc túi lấy ra một chiếc đồng hồ quả quít mỏng bằng bạc, mặt sau có chạm một quả địa cầu. Dây chuyền đeo đồng hồ đánh bằng thép.
- Nhưng chuyến cầm lần trước đã hết hạn rồi. Cậu hẹn một tháng: đến nay đã quá mất ba ngày.
- Tôi sẽ trả thêm cho bà một tháng lãi nữa. Bà nán đợi cho ít lâu.
- Cái đó còn tuỳ tôi, cậu ạ, nán đợi hay đem bán ngay bây giờ là tuỳ tôi.
- Cái đồng hồ nầy liệu có được nhiều tiền không, bà Aliona Ivanovna?
- Cậu cứ đem đến đây rặt những của rẻ thối không đáng giá một xu. Lần trước cậu đem cầm chiếc nhẫn tôi đưa cậu hai tờ(2), chứ thật ra đến hàng thợ bạc mà mua thì dễ chỉ đến một rúp rưỡi.
- Bà ứng cho tôi bốn rúp, tôi sẽ chuộc lại, chả đấy là vật kỷ niệm của cha tôi. Tôi sắp lĩnh được món tiền.
- Một rúp rưỡi, tiền lãi trừ trước, cậu không ưng thì thôi vậy.
- Một rúp rưỡi? - người trẻ tuổi thốt lên.
- Tùy cậu đấy, - mụ già nói đoạn trao trả chiếc đồng hồ lại. Người trẻ tuổi cầm lấy, lòng căm uất đến nỗi toan bỏ đi ngay. Nhưng chàng chợt nghĩ lại, sực nhớ rằng mình chẳng còn biết đi đâu nữa; vả chăng chàng đến đây còn có mục đích khác.
- Bà đưa tiền đây, - người trẻ tuổi nói, giọng cộc cằn
Mụ già lục túi tìm chùm chìa khoá và đi sang buồng bên, sau bức màn. Đứng lại một mình giữa căn phòng, người trẻ tuổi tò mò lắng tai nghe ngóng và nhẩm suy tính. Bên kia có tiếng mụ già mở tủ ngăn. "Chắc là ngăn trên cùng - chàng phỏng đoán - Mụ ta bỏ chìa khoá ở túi bên phải… Mấy chiếc đều móc vào cái khâu bằng thép thành một chùm. Có một chiếc to gấp ba mấy chiếc kia, đầu khoá răng cưa, chắc hẳn không phải chìa khoá mở tủ ngăn… Thế nghĩa là còn có một cái tráp hay một cái rương gì đấy… kể cũng lạ. Chìa khoá rương đều như thế cả… Nhưng sao ta lại có những ý nghĩ hèn hạ đến thế…"
Mụ già trở ra.
- Đây cậu ạ: mỗi tháng trừ lãi mỗi rúp một hào, tôi trừ trước một tháng lãi, vị chi mỗi rúp rưỡi trừ một hào rưỡi. Thế với lại trừ thêm vào chỗ hai rúp tháng trước của cậu hai hào nữa, vị chi cả thảy là ba hào rưỡi. Vậy bây giờ tôi đưa cậu một rúp mười lăm cô-pếch tiền cầm đồng hồ. Đấy cậu cấm lấy!
- Ơ! Thế ra bây giờ chỉ còn một rúp mười làm cô-pếch thôi ư?
- Đúng thế đấy ạ.
Người trẻ tuổi không cãi lại, lắng lặng cầm lấy tiền. Chàng nhìn mụ già và chần chừ chưa đi vội, như còn muốn nói gì hay làm gì nữa, nhưng cụ thể là cái gì thì dường như chàng cũng không rõ.
- Bà Aliona Ivanovna ạ, có lẽ nay mai tôi lại sẽ mang lại một cái nữa… bằng bạc… đẹp lắm… một chiếc hộp đựng thuốc lá… khi nào tôi lấy ở bạn tôi về… - chàng đâm luống uống và im bặt.
- Thôi đến luc ấy hẵng hay cậu ạ.
- Chào bà… Thế bà lúc nào cũng ở nhà một mình à? Bà em đi vắng à? - chàng cố lấy giọng thật ung dung hỏi mụ già khi bước ra phòng ngoài.
- Cậu hỏi mụ em nhà tôi có việc gì thế?
- Thì… cũng chẳng có gì đâu. Tôi chỉ hỏi thế thôi. Chắc bà lại tưởng… Thôi chào bà Aliona Ivanovna.
Raxkonikov ra về, tâm thần mỗi lúc một thêm bối rối. Khi xuống thang gác, chàng còn dừng lại mấy lần như chợt có điều gì làm cho chàng choáng cả người đi. Và cuối cùng, khi đã ra phố hàng thốt lên: "Trời ơi! Ghê tởm quá! Mà có lẽ nào, lẽ nào ta lại không, chỉ là chuyện nhám, phi lý hết sức? - chàng ngần ngừ nói thêm. - Chả nhẽ một việc khủng khiếp như vậy mà ta có thể nghĩ đến? Lòng ta có thể chứa đựng những điều nhơ nhuốc như thế ư? Tệ hơn cả là nó bẩn thỉu, xấu xa, kinh tởm hết sức!… Thế mà suốt một tháng ròng ta có thể…"
Nhưng những lời nói, những tiếng kêu chàng thốt ra không sao biểu lộ hết nỗi xúc động trong lòng chàng.
Cái cảm giác ghê tởm cùng cực đã bắt đầu đè nén, dày vò chàng ngay từ khi đang đi đến nhà mụ già, bây giờ đã mãnh liệt và rõ ràng đến nỗi chàng không còn biết trốn vào đâu cho thoát cơn ám ảnh nầy. Chàng bước trên vỉa hè như người say rượu, không trông thấy người qua đường và cứ xô phải họ, mãi đến phố sau chàng mới định thần lại. Đưa mắt nhìn quanh, chàng nhận thấy mình đang đứng trước một tiệm rượu dọn trong một gian nhà hầm có mấy bậc thang từ trên vỉa hè dẫn xuống cửa ra vào. Vừa lúc ấy có hai gã say rượu từ trong tiệm dìu nhau hước ra, mồm chửi bới lảm nhảm. Raxkonikov không nghĩ ngợi gì lâu. Chàng lập tức bước xuống mấy bậc thềm. Xưa nay chàng chưa lần nào vào quán rượu, nhưng bây giờ chàng thấy chóng mặt và thêm vào đấy lại khát bỏng cả họng. Chàng đang thèm uống một cốc bia lạnh, và hơn nữa chàng chợt có ý nghĩ rằng mình đột nhiên bạc nhược hẳn đi như thế nầy là vì đói. Chàng đến ngồi ở một góc tối và bẩn, cạnh một cái bàn nhớp nháp, gọi bia và khao khát nốc cạn cốc thứ nhất. Lập tức mọi vật đều sáng tỏ ra, và trí óc chàng cũng trở nên minh mẫn. "Tất cả những cái đó đều là chuyện nhảm, - chàng nói, lòng khấp khởi hy vọng, - chẳng việc gì mình phải bứt rứt! Chẳng qua là một sự rối loạn về cơ thể. Chỉ cần uống cốc lia. cắn miếng bánh - thế là trong một thoáng trí óc đã lại minh mẫn, ý định đã lại vứng vàng! Xì! toàn chuyện không đâu!" Nhưng tuy chàng nhổ nước bọt một cách khinh bỉ như vậy, khoé mắt chàng cùng đã vui hẳn lên, dường như chàng vừa đột nhiên thoát khỏi một ách gì khủng khiếp. Chàng đưa mắt thân mật nhìn những người ngồi trong tiệm. Nhưng ngay trong phút ấy chàng cũng mơ hồ cảm thấy tâm trạng lạc quan nầy có một cái gì bệnh tật.
Bấy giờ trong tiệm rượu chỉ còn lác đác mấy người khách. Ngoài hai người say rượu chàng đã gặp trên bậc thang, sau họ còn có cả một tốp khoảng năm người ra về, lôi theo một cô gái điếm, vừa đi vừa kéo phong cầm - Họ đi khuất, quán rượu im lặng và rộng rãi hẳn ra. Chỉ còn lại môt người hơi ngà ngà say ngồi trước mặt cốc bia, dáng dấp như một người tiểu thương, bạn hắn là một người to béo phục phịch mặc áo xibirca dài, để bộ râu hoa râm; say tuý luý, hắn nằm ngủ trên chiếc ghế dài và thỉnh thoảng, như chợt tỉnh giấc, lại bẻ ngón tay kèu răng rắc, vươn vai và nhấc lưng lên dây mấy cái, nhưng vẫn không ngồi dậy, mồm khẽ ê a hát một bài nhám nhí nào đấy, vừa ngâm nga vừa cố nhớ lại những câu thơ như:
Suốt năm hú hí với nhà tôi
Suốt năm hú… hú h…í hí …
Hoặc sau một lát lại sực tỉnh, hát:
Đang đi trên phố Podiatsexkaya
Tôi bỗng gặp người năm xưa…
Nhưng chẳng ai buồn chia sẽ hạnh phúc của hắn, thậm chí bạn hắn còn tỏ thái độ thù địch và nghi ngờ đối với những cơn cảm hứng nầy trong tiệm còn có một người trông vẻ như một viên công chức về hưu. Hắn ngồi riêng ra một xó, trước mặt để một be rượu, chốc chốc lại nhấp từng ngụm nhỏ và dạo mắt nhìn quanh. Hình như hắn cũng đang có chuyện gì bứt rứt.

Chú thích:
(1) Zimmermann, một hiệu mũ dạ nổi tiếng của Đức
(2) Ý nói hai đồng rúp tiền giấy.
Chương 2
Raxkonikov thường tránh những nơi đông người và như ta đã biết, vốn không muốn tiếp xúc với bất cứ ai, nhất là gần đây. Nhưng bây giờ chàng lại cảm thấy có một cái gì thu hút chàng đến với người đời. Dường như có một cái gì thu hút chàng đến với người đời. Dường như có một cái gì mới mẻ chợt diễn ra trong lòng Raxkonikov: chàng thấy thèm được chuyện trò với người khác. Trong suốt tháng qua, tâm trạng lo âu, đăm chiêu bứt rứt âm thầm đã làm chàng quá mệt mỏi, đến đỗi nay chàng chỉ muốn hít thở - dù chỉ trong một phút - bất kỳ một thứ không khí nào khác; và chàng la cà trong quán rượu một cách thích thú, không nề hà cảnh bẩn thỉu.
Lão chủ quán thì ở gian trong, nhưng cũng hay ra phòng khách. Trước tiên, người ta thấy đôi ủng có bẻ ve cố đỏ bảnh bao đánh xi bóng nhoáng của lão hiện ra trên bậc thang, rồi đến cả người lão lù lù bước xuống.
Lão mặc một cái áo dài đuôi tôm gấp nếp và một chiếc gi-lê xa tanh đen cáu ghét đến phát sợ, không thắt cà vạt. Mặt lão bóng nhoáng như một ổ khoá sắt bôi dầu kỹ. Sau quầy hàng có một đứa bé độ mười lăm tuổi và đứa nữa bé hơn, chuyên bưng thức ăn đó nhắm cho khách. Trên quầy bày nào dưa chuột thái nhỏ, nào bánh mì đen sấy khô, nào cà thái ra từng miếng nhỏ: những thứ đó toả ra một mùi rất khó ngửi, không khí ngột ngạt không sao chịu nổi và nồng nặc hơi rượu, đến nỗi tưởng chừng như chỉ thở trong năm phút cũng có thể say được.
Đôi khi có thể gặp những người hoàn toàn không quen biết nhưng ngay từ khi mới nhác trông và tuy chưa trao đổi với nhau một lời nào: ta cũng đă có thiện cảm với họ. Dó chính là cảm tưởng của Raxkonikov đối với người khách hàng ngồi cách chàng một quãng xa xa, trông giống như một công chức về hưu. Về sau, có nhiều lần Raxkonikov nhớ lại cái cảm giác ban đầu ấy và cũng cho đó là do một linh cảm. Raxkonikov chăm chú nhìn người công chức, dĩ nhiên cũng vì hắn ta nhìn Raxkonikov chằm chặp, rõ ràng là muốn bắt chuyện với chàng. Còn đối với những khách hàng khác, kể cả lão chủ, người công chức hình như đã quen lắm rồi - hắn nhìn họ với một vẻ chán chường khó chịu lẫn một tý ngạo mạn nữa - như đốl với những người hạ lưu ít học thức: chẳng ai hơi đâu đi nói chuyện với hạng người đó. Hắn ta trạc ngoại ngũ tuần, người tầm thước, vạm vỡ, tóc hoa râm, đầu hói, da mặt vàng bủng, thậm chí ngả sang màu lá úa, sưng phị ra vì nghiện ngập, đôi mi húp híp nứt rả hai kẽ hờ để lộ đôi mắt ti hí đó ngầu nhưng sáng và tinh nhanh. Trông hắn ta có một cái gì rất kỳ lạ. Cái nhìn của hắn dường như chan chứa nhiệt tình, và có lẽ cũng không thiếu ý nhị hay trí thông minh: nhưng trong cái nhìn đó cũng thấy lóe lên những ánh điên rồ. Hắn vận một chiếc áo lễ phục cũ màu đen đã rách mướp, chỉ còn đính hờ mỗi một chiếc cúc mà hắn cài lại cần thận, tỏ ra cũng còn chú ý đến phép lịch sự. Ngực áo sơ mi nhàu nát bẩn thỉu thòi ra ngoài chiếc áo gi-lê xa-tanh Nam-kinh. Râu hắn cạo nhẵn như mọi người công chức khác, nhưng nay đã mọc xanh lún phún. Quá nhiên dáng dấp của hắn phảng phất cái vẻ chừng chạc của một người công chức. Nhưng hắn ta lại thẫn thờ, lo lắng, luôn tay vỗ tóc, thỉnh thoảng lại giơ cả hai tay lên ôm lấy đầu, hai khuỷu tay áo đã sờn chống xuống chiếc bàn nhầy nhợp. Cuối cùng hắn nhìn thẳng vào mặt Raxkonikov và nói to, giọng răn rỏi:
- Thưa tiên sinh, ngài cho phép tôi thưa chuyện đứng đắn? Bởi vì, tuy trông ngài không có gì là sang trọng, song kinh nghiệm cũng cho tôi biết rằng ngài là người có học thức và không hay uống rượu. Bình sinh tôi bao giờ cũng kính trọng người có học vấn mà lại có đức hạnh, hơn nữa tôi là tư vấn danh dự (1). Tôi tên là Marmelazov, tư vấn danh dự - Ngài cho phép tôi hỏi: ngài đã từng đảm nhiệm công vụ gì.
- Không, tôi đang học… - người tuổi trẻ trả lời, hơi ngạc nhiên với lối nói đặc biệt cầu kỳ và cách hòi chuyện đột ngột như ném thẳng vào mặt người ta.
Tuy lòng ham muốn được tiếp xúc với người đời vừa mới chớm nẩy ra chốc lát trong lòng chàng, nhưng mới thoáng nghe hắn ta nói, cái cảm giác chán ghét khó chịu thường ngày đối với những người lạ động chạm (hay chỉ muốn động chạm thôi) đến cả nhân mình đã lại nổi dậy.
- À vậy ra ngài là sinh viên, hoặc là cựu sinh viên? - người công chức reo lên - Tôi đoán đúng. Kinh nghiệm, thưa ngài, chính là nhờ kinh nghiệm lâu năm đấy! - Và để tỏ ý tán thưởng hắn ta đưa ngón tay chỉ lên trán - Ngài vốn là sinh viên hoặc đã từng lui tới giảng đường. Nhưng ngài cho phép…
Hắn ta lảo đảo đứng dậy, cầm lấy chai, cốc đến ngồi bên cạnh người trẻ tuổi. Hắn đã say, nhưng nói năng mạnh dạn và láu lỉnh, chỉ thỉnh thoảng mới có đôi chỗ hơi nhịu và kéo dài lằng nhằng. Hắn vồ lấy Raxkonikov một cách khao khát tựa hồ như suốt một tháng nay chính hắn cũng chưa được nói chuyện với một bóng người nào.
- Thưa ngài - hắn vào đề một cách gần như long trọng - nghèo nàn không phải là thói xấu xa: đó là một chân lý. Tôi còn biết rằng say rượu không phải là một đức hạnh: đó lại càng là một chân lý. Nhưng sự khốn cùng, thưa ngài, khốn cùng chính là một sự xấu xa đấy ạ. Trong cảnh nghèo nàn ngài còn có thể giữ được bản tính cao thượng của tâm hồn, nhưng trong cảnh khốn cùng thì không bao giờ và không ai có thể giữ được. Khi ngài ở trong cảnh khốn cùng, người ta sẽ đuổi ngài, không phải đuổi bằng gậy nữa, thưa ngài, người ta sẽ quét ngài ra khỏi xã hội loài người bằng một cái chổi để cho càng thêm nhục nhã. Thật đúng, vì nếu lâm vào cảnh khốn cùng thì tôi chính là người đầu tiên sẽ tự sỉ vả tôi. Rồi sau đó là rượu! Thưa ngài, cách đây một tháng, vợ tôi bị ông Lebeziatnikov đánh, mà vợ tôi nào có giống tôi cho cam, chắc ngài cung hiểu điều đó? Ngài cho phép tôi hỏi thêm một điều nữa, chẳng qua vi tò mò thôi - ngài đã bao giờ ngủ đêm trên sông Nêva, trên những chiếc thuyền chở rơm chưa?
- Chưa, chưa có lần nào - Raxkonikov đáp. - Sao kia ạ?
- Ấy tôi thì tôi đã ngủ, năm đêm nay rồi đấy.
Hắn ta rót đầy cốc, uống cạn và trầm ngâm suy nghĩ. Trên quần áo và ngay cả trên tóc hắn nữa quả nhiên có những cọng rơm bám rải rác. Rất có thể đã năm hôm nay hắn không thay quần áo, cũng không tắm rửa gì. Nhất là hai bàn tay hắn, thôi thì bẩn nhầy nhụa, đỏ ối, móng đen kịt.
Câu chuyện của hắn hình như thu hút được sự chú ý tuy uể oải của mọi người xung quanh. Mấy đứa trẻ sau quầy hàng bắt đầu cười khúc khích. Lão chủ, chắc là giữ ý, từ trên gian gác đi xuống để nghe "anh chàng vui nhộn"; lão ngồi cách xa Marmelazov, ngáp dài một cách uc oải nhưng quan trọng. Chắc hẳn ở đây người ta đã quen biết Marmelazov từ lâu, và cái khuynh hướng nói năng kiểu cách của hắn chắc cũng đã thoát thai từ thói quen nói chuyện thường xuyên với những người không quen biết trong tiệm rượu. Thói quen đó đã biến thành một nhu cầu ở một số người say, và nhất là ở những kẻ bị kiểm chế và ngược đãi ở nhà. Vì lẽ đó nên họ cố tranh thủ sự đồng tình, và nếu được, cả sự nể vì nữa trong đám bạn nghiện.
- Nầy, "anh chàng vui nhộn"! - lão chủ nói to lên - Thế tại sao đằng ấy không làm việc? Đằng ấy là công chức sao không đến sở mà làm?
- Thưa ông, tại sau tôi không làm việc ư? - Marmelazov chỉ hướng về Raxkonikov mà trả lời, làm như thế chính chàng hỏi hắn. - Tại sao tôi không làm việc ư? Làm như thể tôi không đau lòng vì phải co mình nằm không! Tôi không dứt ruột hay sao, khi ông Lebeziatnikov cách đây một tháng đã dám thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh vợ tôi. Xin lỗi ông bạn trẻ, đã có lần nào… hừm, nói giả dụ như thế, ông đã có lần nào hỏi vay tiền một cách vô hy vọng chưa?
- Có nhưng mà vó hy vọng là thế nào?
- Nghĩa là toàn hoàn vô hy vọng ấy mà! Vay mà biết trước rằng mình không thể trông mong gì hết. Đấy, chắc ông cũng biết rõ, nói giả dụ một người nào đó, một công dân tối hữu dụng và đầy thiện ý, sẽ không đời nào cho ông vay tiền. Mà tại sao họ lại cho tôi vay mới được chứ? Họ biết chắc rằng tôi sẽ không trả kia mà: Vì thương hại chăng? Nhưng ông Lebeziatnikov, con người thức thời luôn theo sát các tư tưởng mới, vừa nói với tôi rằng ở thời đại ta ngay lòng thương hại cũng bị khoa học cấm đoán, và ở nước Anh, xứ sở của chính trị kinh tế học, người ta đã thực hiện điều đó. Vậy, xin hỏi, tại sao họ lại cho vay được? Ấy thế là tuy biết trước họ sẽ không cho vay, ông vẫn cất bước lên đường và…
- Nhưng đi như thế để làm gì? - Raxkonikov nói chen vào.
- Thế nếu người ta không còn một ai để đến và cũng không biết đi đâu nữa thì biết làm thế nào? Phàm đã là người ta phải có một nơi nào để mà đến chứ. Bởi vì cũng có lúc nhất thiết phải ra đi, dù là đi đâu. Khi đứa con gái độc nhất của tôi lần đầu tiên phải ra đi với một tấm thẻ vàng(2), tôi cũng đã phải đi… vì con gái tôi hiện sống với tấm thẻ vàng đấy ạ! - hắn ta vừa nói thêm vừa nhìn chàng thanh niên vẻ hơi ngại ngùng - Chẳng làm sao cả, thưa ông, chẳng làm sao cả! - hắn vội vàng tuyên bố, vẻ thản nhiên, khi nghe thấy hai đứa bé sau quầy hàng phì cười và chính lão chủ cũng cười mỉm. - Chẳng làm sao cả! Những cái lắc đầu đó không làm tôi nao núng tý nào - Bởi vì ai nấy đều đã biết chuyện ấy, và tất cả những diều gì bí mật rồi cùng đều trở nên hiển nhiên cả, tôi cũng không khinh miệt thái độ đó mà chỉ cam tâm chịu đựng thôi. Thôi kệ họ, kệ họ… "Đây con người"(3). Xin ông cho phép, ông bạn trẻ, ông có thể… Không, phải nói cho mạnh và nổi bật hơn: không phải là "ông có thể"… Không phải, "ông có dám" nhìn thẳng vào mặt tôi mà khẳng định rằng tôi không phải là một con lợn không?
Chàng thanh niên lặng thinh không đáp.
- Vậy thì - Nhà hùng biện ung dung nói tiếp, giọng lần nầy lại càng chững chạc và trang trọng một cách có dụng công, sau khi đợi cho những tiếng cười vừa nổi lên trong phòng tắt hẳn - Vậy cứ cho rằng tôi là một con lợn, còn nàng là một bậc mệnh phụ. Tôi là hình ảnh của loài thú vật, còn Katerina Ivanovna, vợ tôi, là một nhân vật có học thức và bẩm sinh là con của một sĩ quan tham mưu. Cứ cho rằng tôi là một thằng hèn, còn nàng thì có một tâm hồn thanh cao, và được giáo dục thêm những tình cảm tôn quý. Tuy vậy… Ôi giá nàng thương hại tôi? Thưa ông, bởi vì mỗi người tất phải có một nơi nào người ta thương hại mình chứ, phải không, thưa ông? Mà Katerina Ivanovna tuy là người quảng đại song cũng không được công bằng… và tuy tôi cũng hiểu rằng nàng có túm lấy mớ tóc xù của tôi thì cũng chỉ vì thương hại thôi… vì tôi có thể nhắc lại mà không bối rối rằng nàng vẫn thường túm lấy tóc tôi, ông bạn trẻ ạ - hắn ta nhấn mạnh một cách càng trang trọng khi lại nghe tiếng cười khúc khích, - Nhưng - trời ơi giá có bao giờ, dù chỉ một lần thôi, - nàng… Nhưng không, không! Toàn là chuyện hão huyền hết, sao tôi lại còn nói đến làm gì? Không có gì đáng nói cả, vì mọi điều mong muốn đều đã được thực hiện khá nhiều lần, đã nhiều lần tôi được thương hại nhưng, nhưng mà tính tôi vốn thế, và tôi bẩm sinh là một con vật.

- Còn phải nói! - Lão chủ quán vừa ngáp vừa buông một lời nhận xét.
Marmelazov giáng mạnh nắm đấm xuống bàn, vẻ cương quyết.
- Tính tôi vốn thế? Ông có biết không, thưa ông, ông có biết rằng ngay cả đến bít tất của nàng tôi cũng đem uống rượu không? Không phải là giầy đâu nhé, vì nếu thế thì cũng còn tạm gọi được là, thường tình, mà là bít tất kia, bít tất của nàng kia? Nướng vào tiệm rượu! Lại chiếc khăn quàng cổ lông cừu tơ của nàng nữa! Khăn của người ta tặng nàng thuở trước, vốn là của riêng nàng, chứ không phải của tôi. Cái xó của gia đình tôi ở lạnh lắm. Mùa đông năm nay, nàng lại cảm hàn và bắt đầu ho ra máu. Chúng tôi có ba cháu nhỏ, Katerina từ sáng đến chiều cứ quần quật nào là chải đầu kỳ cọ tắm rửa cho chúng, vì từ thuở bé, nàng đã quen sạch sẽ. Nàng yếu phổi và đang bị bệnh lao đe doạ, mà tôi cũng biết thế. Chả nhẽ tôi lại không thấy được điều đó hay sao! Mà càng có rượu vào tôi lại càng thấy rõ. Và tôi uống rượu cũng chính là đế cố tìm thấy niềm đồng cảm và nỗi sầu muộn trong chất men. Tôi uống vì muốn đau khổ thêm bội phần.
Hắn gục đầu xuống bàn, vẻ tuyệt vọng.
- Anh bạn trẻ ơi - hắn ngửng đầu lên nói tiếp - Tôi tưởng như đọc được một nét sầu muộn trên gương mặt anh. Ngay từ khi anh mới vào tôi đã thấy rõ như vậy cho nên tôi đã bắt chuyện với anh ngay tức khắc. Kể cho anh nghe câu chuyện đời tôi, tôi không hề muốn tự bêu xấu tôi trước mặt những kẻ vô công rồi nghề kia, vì họ cũng đã biết hết từ trước rồi, mà là muốn tìm thấy một con người nhạy cảm và có học. Anh cũng nên biết rằng vợ tôi đã được dạy dỗ ở một học viện trong trấn dành riêng cho các thiếu nữ con nhà quý phải, và trong buổi lễ tốt nghiệp, nàng đã cầm chiếc khăn san, nhảy trước mặt quan tổng trấn và các vị quan khách khác, vì thế nàng đã được thưởng một huy chương vàng và một bằng khen - Tấm huy chương thì… Tấm huy chương thì đã bán đi rồi… từ lâu rồi… hừm… bằng khen thì đến nay vẫn còn nằm trong hòm của nàng và gần đây nàng còn đem ra cho mụ chủ nhà xem. Tuy giữa nàng với mụ chủ nhà luôn luôn có những chuyện xích mích cãi vã tối ư thường xuyên nhưng nàng lại thích kể lể - với bất kỳ ai - về những ngày hạnh phúc đã qua mà nàng vẫn tự hào. Tôi không hề trách nàng, không hề, bởi vì tất cả những kỷ niệm của nàng nay chỉ còn có thể, những cái khác thì đã tan thành tro bụi. Đúng. Đúng, nàng là một người nóng nảy, kiêu hãnh và cương nghị. Nàng tự lau lấy sàn nhà, ăn bánh mì đen, nhưng không thể để cho ái khinh mình. Chính vì vậy mà nàng không thể chịu được thói thô bạo của ỏng Lebeziatnikov, và khi ông ta giở thói vũ phu đánh nàng, nàng đã nằm liệt giường, vì bị đòn thì ít mà bị xúc phạm thì nhiều hơn. Khi tôi cưới nàng thì nàng đã là một quả phụ có ba con nhỏ. Đời chồng trước, nàng lấy một viên sĩ quan bộ binh mà nàng yêu. Nàng đã trốn nhà đi với hắn ta. Nàng yêu hắn tha thiết nhưng hắn lại bê tha cờ bạc, bị đưa ra toà và ít lâu sau thì chết. Càng về sau hắn ta càng hay đánh nàng. Tuy nàng không thể tha thứ cho hắn - điều đó tôi có đủ tài liệu để biết chắc - nhưng mỗi khi nhớ đến hắn, nàng không sao cầm được nước mắt và vẫn thường nhắc đến hắn để răn tôi. Tôi cũng vui lòng, rất vui lòng, vì như vậy, ít nhất trong tưởng tượng, nàng cũng có thể hình dung là ngày xưa mình sung sướng lắm. Hắn ta để lại cho nàng ba đứa con nhỏ ở một huyện xa xôi hẻo lánh mà hồi đó tôi cũng ở đấy, và trong một tình trạng cùng khổ tuyệt vọng đến nỗi chính tôi, một người đã từng lăn lộn khắp đó đây, cũng không sao tả nổi. Họ hàng của nàng đều từ bỏ nàng. Mà nàng thì lại kiêu ngạo, kiêu ngạo quá đỗi… Và thưa ông, thế là tôi, một anh chàng goá vợ có một đứa con gái mười bốn tuổi với đời vợ trước, tôi đã đến xin hỏi nàng làm vợ, vì tôi không thể khoanh tay đứng nhìn nỗi khổ đau đó. Một người đàn bà có học thức và cao quý như vậy mà lại thuận lòng kết hôn với tôi! Chỉ riêng việc ấy thôi cũng đủ để ông thấy rõ nàng đã lâm vào một cảnh cơ cực đến thế nào? Ấy thế mà nàng cũng đã lấy tôi! Nàng khóc nức nở, nàng vò đầu bứt tai, nhưng nàng đã lấy tôi! Vì nàng không còn biết đi đâu nữa. Ông có hiểu không, thưa ông, ông có hiểu không còn biết đi đâu nghĩa là thế nào không? Không! Cái ấy, ông chưa hiểu được… Suốt một năm tôi đã một lòng một dạ làm tròn nhiệm vụ một cách trong sạch và không sờ đến cái nầy. - hắn chạm ngón tay vào chai rượu - Vì tôi vốn có lương tâm. Nhưng ngay việc đó cũng không làm cho nàng hài lòng. Rồi thì tôi mất việc, không phải lỗi tại tôi mà vì công sở giảm biên chế nhân sự, thế là tôi lại đâm ra rượu chè. Sau khi lang thang khắp nơi và chịu đựng muôn vàn khổ cực, chúng tôi đã dừng lại ở nơi kinh thành tráng lệ với muôn ngàn lâu đài rực rỡ nầy, thấm thoát đã được một năm rưỡi, và ở đây tôi lại tìm được một việc làm. Tìm được rồi lại mất, ông ạ, lần nầy thì chính là lỗi tại tôi, vì cái thói nghiện ngập tai hại của tôi. Bây giờ thì chúng tôi trọ trong một góc nhà của mụ Amalya Ivanovna Lippevekzen; còn như lấy gì mà sinh sống, lấy gì mà trả tiền nhà thì chính tôi cũng không biết nữa. Ngoài chúng tôi, cũng còn nhiều người khác trọ ở đấy - một cảnh hỗn loạn ghê tởm… hừm… thế đấy… Trong thời gian đó thì đứa con gái vợ trước của tôi dần dần lớn lên; nó phải chịu đựng cái cảnh dì ghẻ con chồng ra sao thì thôi, tôi cũng không kể làm gì nữa. Vì tuy Katerina Ivanovna rất cao thượng, nàng vẫn là một người đàn bà hay giận dữ, nóng tính và cũng biết cách hành hạ… Đúng thế! Nhưng thôi, nhắc đến những chuyện đó làm gì. Chắc ông cũng rõ rằng cứ cách ấy thì Sonya chẳng còn được học hành tý gì.
Cách đây bốn năm tôi đã thử dạy nó học địa lý và lịch sử thế giới; nhưng vì kiến thức của bản thân tôi cũng không lấy gì làm vững chắc, vả lại tài liệu khả dĩ dùng được cũng không có, vì sách vở thì… hừm… chúng tôi còn đâu nữa, cho nên việc dạy dỗ đành phải dẹp lại. Chúng tôi chỉ học đến đoạn vua Ba Tư là Cyrux. Về sau, khi đền tuổi trưởng thành nó có đọc thêm được một vài quyển sách có nội dung tiểu thuyết và gần đây nó lại đọc thêm được quyển Sinh lý học của Liuyx do ông Lebeziatnikov giới thiệu cho - ông có biết không, nó thích quyển đó lắm và còn đọc cho chúng tôi nghe một vài đoạn. Đấy, tất cả học vấn của nó chỉ có thể. Thưa ông, bây giờ tôi - cả nhân tôi - xin hỏi nhỏ ông một câu: theo ông, một người con gái nghèo, lương thiện, nếu cũng làm một công việc lương thiện thì liệu kiếm được bao nhiêu tiền? Không được mười lăm cô-pếch một ngày đâu ông ạ; nếu cô ta lương thiện và không có tài cán gì đặc biệt, ấy là nói đã làm bở hơi tai ra rồi đấy. Rồi cả cái ông uỷ viên hội đồng thành phố Klovstok Ivan Ivanovich nữa - ông có nghe nói không - cho đến nay ông ta vẫn chưa trả công may nửa tá sơ mi vải Hà Lan, lại còn mắng nhiếc xua đuổi nữa: ông ta dậm chân dậm cẳng, chửi bới tục tằn, lấy cớ là cái cổ áo may không đúng kích thước và khâu lệch. Thế rồi bọn trẻ con đói ở nhà… Rồi Katerina Ivanovna nữa, cứ đi đi lại lại trong phòng, tay vặn vào nhau, gò má nổi lên những đám đo đỏ - thường người lao vẫn hay thế. Ý chừng bà muốn nói "Đồ ăn hại, mày sống trong nhà ta, mày ăn uống no nê, lại được sưởi ấm". Nhưng con tôi có được ãn gì, uống gì cho cam vì chính mấy đứa bé cũng không được lấy một mẩu bánh từ ba hôm rồi - Còn tôi thì tôi nằm dài, tôi còn biết làm sao! Tôi nằm dài, say khướt và nghe thấy tiếng Sonya nói con tôi rất lành, giọng nói nhỏ nhẻ… mái tóc nó hung hung vàng, khuôn mặt thanh thanh bao giờ cũng xanh xao và gày gò. Con tôi nói: "Katerina Ivanovna, có thật là tôi phải quyết định làm cái việc đó không?". Mà trước đó con mụ Zazya Frantxovna, một con mụ độc ác mà sở cảnh sát đã quá quen thuộc, có đến hỏi thăm hỏi dò mụ chủ nhà ba lần rồi. Katerina Ivanovna cười nhạt đáp: "Còn gì nữa, còn giữ làm gì? Quý báu lắm đấy?". Đừng vội ông ạ, ông ạ, đừng vội buộc tội cho nàng. Không phải nàng nói câu đó khi đang tỉnh táo đâu, mà chỉ vì bị khích động dữ dội, vì bệnh tật, vì bị những tiếng khóc của bầy trẻ đói ám ảnh, vả chăng nàng nói như vậy cũng để sỉ vả chứ không phải nàng chủ ý muốn như vậy. Tính Katerina Ivanovna vốn thế, ngay khi bọn trẻ con vì đói mà khóc, nàng cùng thẳng tay đánh chúng luôn. Rồi quãng sáu giờ, tôi thấy Sonya dậy, quàng khăn, khoác áo ngoài ra đi, và độ chín giờ thì trở về. Con tôi vào nhà, đi thẳng đến trước mặt Katerina Ivanovna và lẳng lặng đặt ba mươi rúp trên bàn trước mặt nàng. Nó không hé miệng nói lấy nửa lời, không nhìn ai cả: nó chỉ cầm cái khăn trùm lớn màu lục - chả là chúng tôi có một cái khăn trùm bằng dạ mịn dùng chung - trùm lên đầu che kín cả mặt rồi nằm vật ra giường, quay mặt vào tường, đôi vai bé nhỏ và toàn thân run lên từng đợt… Còn tôi, tôi vẫn nằm đó, say khướt. Rồi tôi thấy, anh bạn trẻ ơi, tôi thấy Katerina Ivanovna, cũng không nói nửa lời, đến cạnh giường Sonyeska quỳ bên chân con tôi suốt cả buổi tối, chốc chốc lại hôn chân nó, không chịu đứng dậy, rồi con tôi và vợ tôi ngủ với nhau, ôm nhau ngủ… cả hai… đúng thế… còn tôi, tôi vẫn nằm đó… say bí tỉ.
Marmelazov im bặt, tưởng như nghẹn đi. Rồi đột nhiên hắn hối hả rót rượu ra uống và đằng hắng một tiếng.
- Từ đó, thưa ông - hắn nói tiếp sau một lát im lặng - từ đó, do một sự ngẫu nhiên bất hạnh và do lời tố giác của những kẻ xấu bụng - chính mụ Zarya Frantxovna đã tích cực góp phần vào việc nầy, vì đâu như chúng tôi đã không kinh trọng mụ đúng mức thì phải, - từ đó, con gái tôi, Sofia Xemionovna buộc phải lĩnh thẻ vàng và tất nhiên là không được chung sống với chúng tôi nữa vì cả mụ chủ nhà Amalya Ivanovna người trước đây đã giúp mụ Zazya Frantxovna cả ông Lebeziatnikov đều không muốn thế lắm… Chính vì Sonya mà hắn đã sinh sự với Katerina Ivanovna. Trước đây, cũng chính hắn đã đeo đuổi Sonyeska thì nay hắn lại tỏ vẻ tự ái: "Sao! Một người có học thức như tôi mà lại cùng sống chung dưới một mái nhà với cái hạng đàn bà ấy à!". Katerina không để cho hắn nói nữa, bênh vực ngay Sonya… và thế là hết. Từ đó Sonyeska chỉ đến thăm chúng tôi vào những buổi chiều tối, nó đỡ đần, an ủi Katerina và đưa về một ít tiền do nó kiếm được. Nó thuê lại căn buồng trong của bác thợ may Kapernaumov. Bác ta thọt và nói lắp, cả cái gia đình đông đúc của bác ta cũng đều nói lắp cả. Vợ bác ta cũng nói lắp. Cả nhà bác ta sống chung trong một căn buồng còn Sonya thì ở buồng cạnh, cách nhau một bức vách… Hừm… vâng!… họ là những người nghèo khổ vô cùng, và lại nói lắp nữa… Đúng thế… Thế rồi, một buổi sớm nọ, tôi dậy, khoác bộ quấn áo rách vào, đưa hai tay lên cầu trời rồi đến yết kiến ngài Ivan Aphanaxievich. Anh có biết ngài Ivan Aphanaxievich không? Không à? Thật rõ hoài! Một con người nhà trời đấy! Đúng là một hòn sáp trước mặt đức Chúa; ngài cứ chẩy ra như sáp! Ngài còn ứa cả nước mắt ra nữa sau khi vui lòng nghe hết câu chuyện của tôi. "Ngài Marmelazov, anh đã phụ lòng mong đợi của tôi một lần rồi đây. Nay tôi lại đứng Raxkonikov lấy tư cách cả nhân mà đảm nhận cho anh một lần nữa - chính ông ta nói thế - anh nhớ lấy. Thôi anh về đi". Tôi cúi hôn nắm bụi dưới gót chân ngài - Ấy là nói trong tưởng tượng thôi - vì thật ra ngài cũng không đế cho tôi làm thế vì ngài là con người có học thức và có những tư tưởng tối tân về chính trị. Tôi trở về và khi tôi tuyên bố là đã có việc làm và sẽ nhận tiền lương thì trời ơi thật khó lòng mà tưởng tượng được!

Marmelazov lại ngừng bặt vì quá xúc động. Lúc ấy cả một lũ người say rượu lảo đảo bước vào quán. Cạnh cửa ra vào, âm thanh của một chiếc phong cầm quay và giọng hát yếu ớt của một đứa bé lên bảy vang lên trong điệu "Khutorok". Gian phòng ồn ào hẳn lên.
Lão chủ và mấy thằng bé săn đón những khách mới đến. Marmelazov không chú ý đến họ, vẫn kể tiếp.
Hắn đã có vẻ mệt lắm, nhưng càng say hắn lại càng lắm lời. Hắn linh hoạt lên, và thậm chí mặt hắn còn như tươi rói lên nữa khi hắn nhớ đến những thắng lợi gần đây trên đường hoan lộ của hắn. Raxkonikov vẫn chăm chú ngồi nghe.
- Chuyện đó, thưa ông, xảy ra cách đây đã năm tuần… Đúng… Khi Katerina và Sonyeska biết tin như vậy thì trời ơi, cứ như là thiên đường đã rộng mở đón tôi. Mới hồi nào đây, tôi còn nằm dài như một con vật và chỉ được nghe chửi! Thế mà nay, họ bước rón rén, mắng khẽ bọn trẻ con "Suỵt… Xemion Zakharovich đi làm về mệt… Để cho bố nghỉ…" Họ pha cà-phê cho tôi dùng trước khi đi làm; họ làm kem sữa cho tôi ăn! Họ đã bắt đầu tìm được sữa tươi làm kem cho tôi đấy anh bạn ạ! Tôi cũng không hiểu họ làm thế nào mà xoay ra được mười một rúp năm mươi cô-pếch để tậu cho tôi một bộ phẩm phục cùng khả ái: nào là ủng, nào là diều cổ áo sơ mi bằng trúc bâu tuyệt đẹp, cả một bộ cánh tươm tất như vậy mà chỉ hết mười một rúp năm mươi cô-pếch! Ngày đầu tiên tôi đi làm về thì chao ôi, Katerina Ivanovna đã dọn bữa ăn lên, một bữa hai món: có canh nầy, và cả thịt lợn xào rau thơm nữa, một món mà trước kia tôi chưa hề được biết qua. Còn nàng thì trông khác hẳn; mà áo dài thì có đâu! Không có lấy một chiếc nào? Thế nhưng nàng cũng đã biết cách phục sức như sắp đi thăm viếng ai mà không phải gặp chăng hay chớ đâu nhé; ấy, có những người như thế đấy, không có gì họ cũng làm được thành đủ lệ bộ: tóc chải cẩn thận, một cái cổ áo trắng nhỏ dính lên áo, một chiếc măng-sét đeo vào cổ tay; thế là nàng đã biến thành một người khác hẳn, trẻ ra, đẹp ra. Sonyeska, con gái yêu của tôi thì chỉ đưa tiền về nhà thôi vì, trong lúc nầy - nó nói thế - về nhà luôn không tiện, có chăng cũng đế đến chiều tối hẵng về để cho người ta khỏi trông thấy. Anh nghe ra chưa? Thế đấy! Một hôm, tôi đi làm về, ăn trưa xong đi nằm nghỉ thì anh bạn nầy, anh có tin được không, vợ tôi ngồi thì thầm trò chuyện với mụ Amalya Ivanovna! Hai giờ liền! Thế mà tuần trước đó, hai người vừa cãi nhau ra trò, bây giờ lại chính nàng mời mụ ta sang uống cà phê. Nàng không thể cầm lòng được nữa. "Bây giờ thì Xemion Zakharovich đã có việc làm ở sở và được lĩnh lương. Nhà tôi đã thân hành đến tìm ngài Ivan Aphanaxyevich, chính ngài đã ra đón và dặn mọi người khác hãy đợi đấy đã, rồi cầm tay nhà ôi đưa vào buồng làm việc qua mặt mọi người. Anh nghe ra chưa, anh bạn? "Xemion Zakharovich, - Ngài nói - tuy đã vì nhu nhược, nhẹ dạ mà đi theo con đường hư hỏng, nhưng tôi rất nhớ đến công lao của anh và cũng bởi vì anh đã có lời hứa với tôi, vả lại ở đây không có anh thì công việc cứ hỏng bét đấy, anh nghe chưa nên tôi tin ở anh, tin ở lời hứa danh dự của anh". Tất cả những chuyện đó anh ạ, đều do nàng bịa đặt ra hết, không phải vì nhẹ dạ, chỉ muốn khoa trương. Không! Chính nàng tin như vậy, nàng tìm thấy nguồn an ủi trong những áo ảnh do chính nàng tưởng tượng ra, thật thế! Và tôi cũng không chê trách nàng, không chê trách chút nào. Rồi cách đây sáu hôm, khi tôi mang món tiền lương đầu tiên của tôi về nhà - hai mươi ba rúp, bốn mươi cô-pếch - nàng đã âu yếm nói với tôi: "Anh của em ngoan quá! Lúc ấy chỉ có mình chúng tôi thôi đấy nhé? Thử hỏi tôi thì có chút gì là đáng yêu không chứ, và có ra dáng tấm chồng nữa không thể mà nàng đã phải bẹo má tôi mà âu yếm "Anh của em ngoan quá?"
Marmelazov ngừng bặt. Hắn cũng muốn mỉm cười, nhưng cằm hắn run bắn lên. Tuy vậy hắn cũng kìm lại được. Cái quán rượu nầy, rồi cái dáng dấp sa đoạ bê tha của Marmelazov, rồi câu chuyện nằm đêm ngủ dưới thuyền rơm của hắn, rồi chai rượu, với cả cái tình thương bệnh tật của hắn đối với vợ, với gia đình, tất cả những thứ đó đã làm cho Raxkonikov hoang mang. Chàng chăm chú nghe, nhưng với một cảm giác đau đớn, chàng tiếc là đã ghé vào đây.
- Ông ạ. Ông ạ! - Marmelazov vừa trấn tĩnh lại, nói tiếp - Vâng, thưa ông, có lẽ đối với ông cùng như đối với mọi người khác đó chỉ là một chuyện khôi hài, và chắc tôi đã làm phiền lòng ông vì câu chuyện ngớ ngấn với những chi tiết khốn khổ của đời tư tôi đây, nhưng đối với tôi thì đó không phải là câu chuyện cười. Vì tôi có đủ sức thể nghiệm tất cả những cảm xúc đó… Thế là suốt cả cái ngày hoan lạc đó của đời tôi và cho đến cà buổi tối, trí tưởng tượng của tôi như được chắp cánh bay cao: rồi tôi sẽ thu xếp chu tất mọi việc trong gia đình, tôi sẽ may mặc cho bọn trẻ, rồi vợ tôi sẽ yên lòng, tôi sẽ cứu vãn danh dự cho đứa con gái yêu quý độc nhất của tôi rồi đưa nó về sống êm ấm trong lòng gia đình… rồi nhiều, nhiều chuyện khác nữa… Thưa ông, người ta có quyền mơ ước lắm. Vậy mà, thưa ông, - Marmelazov bỗng như rùng mình, ngửng đầu và nhìn thẳng vào mắt Raxkonikov, vậy mà ngay ngày hôm sau, sau những giấc mơ đẹp để ấy thế là cách đây đúng năm hôm, buổi chiều, tôi đã bày mưu xảo trá đánh cắp chìa khoá hòm của Katerina Ivanovna, và như một tên kẻ trộm trong đêm tối, tôi đã cuỗm tất cả số tiền lương còn lại - tôi cũng không nhớ là bao nhiêu - và đấy ông xem, nhẵn sạch! Năm hôm nay tôi không bước chân về nhà, người nhà đang đi tìm tôi, còn như việc làm thì thế là cũng đi đứt, còn bộ phẩm phục của tôi thì hiện đang nằm trong tiệm rượu đầu cầu Ai Cập, tôi đã đổi lấy bộ quần áo nầy… Và thế là hết.
Marmelazov nện quả đấm lên trán, nghiến răng, nhắm mắt lại rồi chống mạnh khuỷu tay lên bàn. Nhưng một phút sau, vẻ mặt hắn ta chợt thay đổi. Hắn nhìn Raxkonikov, cố làm ra vẻ ranh mãnh và trơ tráo, cười ha hả, nói:
- Và hôm nay, tôi lại tìm đến Sonya, xin tiền uống rượu? Hê! hê! hê!
- Thế cô ta cũng cho à? - một người trong bọn mới đến hỏi rất to, rồi cất tiếng cười rộ.
- Be rượu nầy chính là mua bằng tiền của nó - Marmelazov hướng riêng về Raxkonikov nói rành rọt. Nó đã tự tay đem đến cho tôi ba mươi cô-pếch, số tiền cuối cùng của nó - tôi trông rõ mà… Nó không nói nửa lời, chỉ lặng lẽ nhìn tôi… Thế đấy, ở trên kia, chứ không phải dưới cõi trần nầy, người ta ái ngại, khóc thương cho con người chứ không trách móc họ không hề trách móc. Như thế lại càng đau hơn, không trách móc lại càng đau hơn! Ba mươi cô-pếch, đúng thế đấy ạ! Thế mà bây giờ con tôi lại đang cần tiền, có phải không nào? Bây giờ nó đang cần phải giữ gìn cho sạch sẽ. Muốn sạch sẽ thì phải tốn tiền, mà đây lại là một thứ sạch sẽ đặc biệt, ông ạ, ông có biết không? Mua phấn mua kem nầy không thì còn làm ăn gì được? Phải có váy ngắn hồ cứng nầy, phải có đôi giầy nầy, mà giầy phải cho thật lịch sự để có thể phô bày được đôi chân mỗi khi bước qua vũng nước… Ông đã hiểu chưa, thưa ông, ông có hiểu cái thứ sạch sẽ ấy nó thế nào không? Thế mà tôi, bố đẻ của nó, tôi đã lấy cả ba mươi cô-pếch ấy để đi uống rượu?… Tôi uống, và uống hết nhẵn! Vậy thì có ai lại đi thương hại một người như tôi không? Có ai không? Bây giờ, thưa ông, ông có thương hại tôi không ông nói đi, có hay không Hê! hê! hê!
Hắn định rót rượu ra uống nữa nhưng chai đã cạn ráo.
- Thương hại anh mà làm gì? - lão chủ quán đã đến ngồi gần hai người từ lúc nào, quát to lên.
Có tiếng cười rộ, thậm chỉ còn chen cả tiếng chửi rủa. Chỉ trông cái dáng điệu của người công chức về hưu kia thôi người ta cùng đã cười, đã chửi rồi, cả những người có nghe lẫn những người không nghe câu chuyện vừa qua.
"Thương hại tôi! Tại sao lại thương hại tôi à! - Marmelazov bỗng rống lên, đứng dậy đang tay ra phía trước với một vẻ hưng phấn và quả quyết dường như chỉ đợi có mấy tiếng ấy - Ngươi nói tại sao lại thương hại ta phải không? Đúng. Ta không có gì đáng thương hại cả, phải treo ta lên, đóng đinh vào câu rút chứ không phải thương hại. Nhưng cứ treo ta lên, lão thẩm phán kia ơi, treo ta lên, nhưng treo ta lên rồi thì hãy thương hại lấy ta. Và ta sẽ đích thân đến để nhà ngươi treo ta lên, vì không phải ta khát khao hoan lạc, mà ta thèm muốn đau khổ và nước mắt. Lão lái buôn kia, ngươi tưởng cút rượu của ngươi làm dịu được lòng ta chăng? Không, chính là ta muốn tìm nỗi đau khổ ở đáy chai rượu nầy, ta muốn tìm đau khổ và nước mắt. Ta đã uống và ta đã tìm được. Chỉ có đấng vẫn hằng thương xót và thông hiểu được vạn vật, chúng sinh, chỉ có Người mới sẽ thương hại chúng ta. Người là Đấng Vô song, Người là Đấng phán xử tối cao. Rồi ngày ấy Người sẽ đến và sẽ phán hỏi: Đâu rồi, người con gái đã bán mình để nuôi người dì ghẻ phế lao và ác nghiệt, nuôi mấy đứa con của kẻ khác? Đâu rồi, người con gái đã rủ lòng thương hại người bố phàm trần nghiện rượu, ăn hại mà không hề ghê sợ cái tính thô bỉ thú vật của hắn: Và Người sẽ phán: "Lại đây con! Ta đã tha thứ cho con một lần rồi, nay ta lại tha thứ tội lỗi cho con vì con đã rộng lòng yêu thương" (4) và Người sẽ tha thứ cho Sonya yêu quý của ta. Người sẽ tha, ta biết trước rằng Người sẽ tha, lòng ta đã cảm thấy thế ngay từ lúc nãy, khi ta còn ở đằng nhà con ta. Người sẽ phán xử mọi người và sẽ tha tội tất cả, người hiền cũng như kẻ ác, người khôn ngoan cũng như kẻ lầm lạc kém hèn. Xong đâu đó, Người sẽ cao giọng phán dạy chúng ta: "Các ngươi nữa, hãy ra đây. Ra đây, những linh hồn yếu đuối đắm mình trong rượu chè, những linh hồn nhơ nhuốc và tất cả chúng ta sẽ đến dưới chân người, không hổ thẹn. Người sẽ nói: "Bay là những con lợn! Bay là hình tượng của thú vật và mang trên mình dấu ấn của thú vật; nhưng cũng hây cứ đến đây? Những bậc đại hiền, những linh hồn khôn ngoan sẽ can: "Lạy Chúa, sao Người lại thu nhận những kẻ nầy?". Và Người sẽ phán: "Ta thu nhận chúng, hỡi các bậc đại hiền, ta thu nhận chúng, hỡi những linh hồn khôn ngoan, vì trong cả bọn chúng không hề có đứa nào tự thấy xứng đáng được thu nhận cả…" Người sẽ đưa bàn tay ra và chúng ta sẽ sụp xuống lạy Người… Chúng ta sẽ khóc… Rồi chúng ta sẽ hiểu hết được mọi sự! Lúc bấy giờ chúng ta sẽ hiểu hết… và mọi người rồi cũng sẽ hiểu… cả Katerina Ivanovna nữa, nàng cũng sẽ hiểu… Lạy Đấng Chúa Cứu thế, mong sao chóng đến ngày trị vì của Người!
Hắn buông người rơi phịch xuống ghế, kiệt sức, rũ rượi, không còn nhìn ai nữa, dường như đã quên tất cả mọi vật xung quanh và chìm sâu trong suy tưởng, lời nói của hắn đã gây một ấn tượng nào đấy khắp gian phòng im lặng một lát, nhưng chẳng mấy chốc tiếng cười tiếng chửi rủa lại vang lên.
- Hắn lý sự!
- Chỉ nói nhảm!
- Thế mà cũng đòi làm công chức!
Và cứ thế.
- Ta đi thôi, ông ạ - Marmelazov bỗng ngửng mặt lên, nói với Raxkonikov, - Ông đưa tôi về nhà hộ, nhà Kozen… trong sân ấy, và đến lúc phải trở về với Katerina Ivanovna.
Raxkonikov đã muốn bỏ đi từ lâu; vả lại chính chàng cũng đã định dìu giúp Marmelazov về nhà. Đôi chân của Marmelazov tỏ ra yếu hơn miệng lưỡi của hắn nhiều, nên hắn phải dựa hẳn vào người chàng thanh niên mà đi. Chỉ cách có hai, ba trăm bước là đến nhà hắn. Càng gần về đến nhà lão say rượu lại càng thấy bối rối và sợ hãi.
- Bây giờ không phải tôi sợ Katerina Ivanovna - hắn thì thào trong cơn xúc động - cũng không phải tôi sợ nàng túm lấy tóc tôi. Tóc à? Tóc là cái gì! Chuyện nhảm hết. Tôi nói thế đấy! Thà nàng cứ túm lấy tóc tôi cũng còn hơn. Không phải tôi sợ cái đó mà tôi sợ… tôi tôi sợ mắt nàng, vâng… đôi mắt của nàng… Tôi cũng sợ cả những đám da đỏ trên gò má nàng… và cả… hơi thở của nàng nữa. Anh đã thấy những người ho lao, những khi xúc động ho thở như thế nào chưa? Tôi sợ cả tiếng khóc của mấy đứa bé… vì nếu Sonya không cho chúng nó ăn gì thì… tôi chẳng biết… chẳng biết làm thế nào nữa! Tôi cũng chẳng sợ bị đánh đòn: vì, ông ạ, chính đòn vọt không những không làm cho tôi đau đớn, mà lại còn đem lại cho tôi một niềm khoái lạc nữa… Vì chính tôi, nếu không bị đánh đòn thì tôi cũng không biết làm thế nào được, thế mà lại hay đấy! Nàng cứ đánh tôi đi, cho khuây khoả… Cứ thế mà lại hay. Chúng ta đến nơi rồi đấy. Nhà lão Kozen, một tay thợ khoá giàu người Đức… Dẫn tôi vào!
Hai người đi qua sân và lên tầng gác tư. Càng lên, cầu thang càng tối. Lúc ấy đã gần mười một giờ. Tuy vào tiết nầy đêm Petersburg cũng chẳng ra đêm nữa nhưng trên cầu thang vẫn tối om.
Cuối thang gác, ở phía trên cùng, một cánh cửa ám khói mở ra. Một mẩu nến soi sáng một căn buồng tồi tàn dài độ mười bước, đứng ngoài cửa có thể trông suốt hết cả căn buồng. Đồ đạc ngổn ngang, bừa bộn, đâu cũng la liệt đủ các thứ quần áo rách của trẻ con.
Một tấm vải giường thủng treo chắn ngang góc buồng trong cùng. Có lẽ có một chiếc giường đặt sau tấm màn ấy. Trong buồng vẻn vẹn chỉ có hai chiếc ghế, một chiếc đi văng lót vải sơn đã tróc gần hết, một cái bàn làm bếp cũ kỹ bằng gỗ thông để mộc không trải khăn bàn, trên rìa có một cái chân nến bằng sắt, trên có gắn một mẩu nến mỡ bò cháy gần hết. Té ra Marmelazov ở một căn buồng chứ không phải ở trong một "góc nhà", nhưng là một căn buồng trên lối ra vào. Cánh cửa thông sang các buồng khác - hay các chuồng khác thuộc căn nhà của mụ Amalya Lippevekzen - đang mở he hé. Từ căn buồng trong ấy đưa ra những tiếng cười nói ầm ĩ. Chắc là họ đang đánh bài và uống trà. Thỉnh thoảng lại vọng ra những câu hết sức cục cằn.
Raxkonikov nhận ngay ra được Katerina Ivanovna, một người đàn bà gầy gò, mảnh khảnh, người khá cao và cân đối, bộ tóc hung xẫm còn rất óng ả, gò má quả nhiên đỏ ửng. Bà ta đi đi lại lại trong căn buồng nhỏ hẹp, tay khoanh trước ngực, môi mím lại, thở nấc lên từng đợt không đều, Mắt bà sáng long lanh như đang lên cơn sốt, nhưng cái nhìn thì sắc và bất động. Ánh nến lù mù sắp tắt chiếu chập chờn lên bộ mặt hốc hác và thảng thốt: trông càng thêm thiểu não.
Raxkonikov đoán bà ta quãng độ ba mươi, và quả thật chẳng xứng đôi với Marmelazov tí nào. Katerina Ivanovna không chú ý đến hai người vừa vào. Hình như bà ta đang ở trong một trạng thái hôn mê, không nghe, không thấy gì hết. Gian phòng ngột ngạt nhưng bà ta không mở cửa sổ; mùi hôi thối từ cầu thang xông lên, nhưng cửa ra cầu thang vẫn bỏ ngỏ, từ các buồng trong khói thuốc lá cứ ùn ùn bay ra làm cho bà phát ho lên, nhưng bà vẫn không ra đóng cửa lại. Đứa con gái út, độ lên sáu, ngồi bó gối dưới đất, đầu gục vào đi văng mà ngủ. Thằng anh, lớn hơn một tuổi, đang đứng khóc trong xó, người run bắn lên, có lẽ nó vừa bị đánh.
Đứa con gái lớn, quãng lên chín, cao và gầy như que diêm, mặc chiếc sơ mi đã rách mướp, cái áo choàng bằng dạ cũ, có lẽ may cách đây đã hai năm vì bây giờ con bé mặc ngắn cũn cỡn lên đến quá đầu gối choàng lên đôi vai nhỏ bé. Nó đứng cạnh thằng em, cánh tay dài, khô đét như que củi ôm chặt lấy thằng bé, hình như nó đang cố dỗ em, nói thì thàm cái gì với thằng lé, cố saa cho nó đừng khóc nấc lên lần nữa, mặt sợ sệt theo dõi từng bước đi của mẹ nó, đôi mắt rất to, tối xẫm, nổi bật trên khuôn mặt gầy choắt và sợ hãi trông lại càng to hơn. Marmelazov không vào. Hắn quỳ ở ngoài cửa và đẩy Raxkonikov vào trước. Thấy có người lạ, Katerina Ivanovna lơ đãng dừng lại rước mặt chàng, rồi sực tỉnh và như muốn tự hỏi người lạ mặt nầy vào đây có việc gì, chắc bà ta nghĩ ngay rằng chàng chỉ đi qua buồng nầy để vào nhà trong, nên không để ý đến chàng nữa. Bà đi ra đóng cửa cầu thang lại, nhưng trông thấy chồng quỳ ngay ở lối vào, bà kêu lên một tiếng:
- À! Mày đã về đây rồi - Bà nổi khùng quát - Đồ quỷ sứ! Đồ quái vật! Thế tiền đâu! Còn gì trong túi không! Đưa xem nào! Quần áo ở đâu thế nầy? Thế còn quần áo mặc đâu? Tiền đâu? Nói đi!
Bà ta xông vào lục soát Marmelazov. Hắn ngoan ngoan và nhẫn nhục khuỳnh ngay hai tay ra hai bên để cho việc lục soát được dễ dàng. Không còn lấy một đồng xu dính túi.
- Thế tiền đâu? - bà ta gào lên - Ôi! Trời ơi Có thể nào hắn ta đã uống hết rồi? Còn đến những mươi hai rúp trong hòm kia mà - Đột nhiên bà ta điên cuồng túm lấy tóc lôi hắn vào nhà; Marmelazov ngoan ngoãn lê gối vào theo vợ.
Đây là một khoái lạc đối với tôi! Không phải là đau khổ đâu mà là khoái lạc đấy ông ạ - hắn kêu to lên trong khi bị day tóc, đầu lại có lần cộc xuống sàn nhà một cái. Con bé ngủ dưới đất thức giấc và khóc thét lên, thằng bé đứng trong góc sợ hãi run bần bật, kêu rú lên và ôm quắp lấy chị nó như lên cơn động kinh. Đứa con gái lớn còn ngái ngủ cũng run cầm cập.
- Mày đã uống rượu hết nhẵn, cái gì cũng đem uống hết - Người đàn bà đáng thương gào lên trong cơn tuyệt vọng. - Quần áo của ai ở đâu thế nầy! Chúng nó đang đói, chúng nó đang đói! - nàng vừa vặn hai tay vào nhau vừa chỉ bọn trẻ con - cái kiếp khốn khổ nầy! Còn anh, anh không biết thẹn ư - nàng quay sang Raxkonikov - Ra mày ở tiệm rượu về à! Ra mày cũng uống với hắn à? Uống với hắn à! Xéo ngay!
Người trẻ tuổi hấp tấp lùi ra không nói một lời.
Lúc ấy, cánh cửa phòng đã mở toang và vài người tò mò ló đầu vào nhìn, họ trâng trâng bộ mặt xấc xược, đầu đội mũ chụp vải, mồm ngậm tẩu hoặc hút thuốc lá cuốn phì phèo. Có người khoác cả áo choàng ngủ không cài cúc, hoặc những bộ đồ mỏng dính đến sỗ sàng, có người còn cầm bài ở tay. Họ cười hả hê nhất là khi nghe Marmelazov kêu khoái lạc trong khi bị túm tóc. Họ lại còn ùa cả vào phòng nữa. Rồi một tiếng kêu the thé rợn người vang lên: đó là mụ Amalya Lippevekzen vào dàn xếp trật tự theo kiểu của mụ, chửi bới và đòi đuổi - đến hàng trăm lần rồi - người đàn bà đáng thương ra khỏi nhà ngay ngày hôm sau.
Khi đi ra, Raxkonikov vừa kịp thọc tay vào túi vốc mấy đồng tiền đồng mà lúc nãy lão chủ vừa phụ lại cho chàng và kín đáo đặt lén bậu cửa sổ. Nhưng khi ra ngoàì cầu thang, chàng lại thay đổi ý định và toan quay trở lại.
"Mình đến là vớ vẩn - chàng nghĩ thầm. - ở đây đã có Sonya. Còn bản thân ta thì lại đang cần tiền".
Nhưng suy đi tính lại thấy không thể lấy tiền lại được nữa, mà dù có lấy được thì cũng chẳng nên lấy lại, chàng khoát tay một cái và trở về nhà. "Sonya còn cần mua kem phấn, - chàng lại mim cười chua chát nghĩ tiếp trong khi bước trên đường phố. - Cái thứ sạch sẽ đó cần phải tốn tiền. Hừ! Có thể là Sonyeska hôm nay cũng phá sản… vì đi săn con mồi sộp… cái kỹ nghệ vàng… cũng phiêu lưu lắm… thế là ngày mai, cả gia đình họ cạn khô nếu không có mấy đồng tiền của ta…
Chà, Sonya! Họ đã đào được một mạch nước thật ra trò! Họ cứ tha hồ múc! Họ cũng đã quen rồi. Lúc đầu họ còn khóc đôi chút, nhưng rồi cũng quen đi. Con người vốn đê tiện, cái gì rồi cũng quen được.
Raxkonikov trở nên tư lự.
- Được rồi, nếu tôi nói sai - chàng bất giác nói to lên, - nghĩa là nếu quả thật con người không đê tiện tôi muốn nói cả loài người nói chung, thì tất cả những cái khác đều là định kiến, rặt là những chuyện lo sợ không đâu, không còn gì ngăn cản ta nữa, và chính phải như thế mới được.
Chú thích:
(1) Một viên chức cấp thấp thời Sa hoàng
(2) Thẻ của gái mãi dâm
(3) Câu nói của Poncius Pilatus khi dẫn Jesus Raxkonikov trước đám đông để bêu riếu.
(4) Câu của Jesus nói với Magadalena, một người đã sống phóng đãng (Phúc âm)
Chương 3
Sáng hôm sau, Raxkonikov dậy muộn; chàng không thấy hồi sức tí nào sau giấc ngủ đầy những cơn ác mộng. Chàng đâm ra cau có bực bội, và hằn học nhìn căn buồng lụp xụp của chàng. Đó là một cái chuồng nhỏ xíu, dài độ sáu bước, giấy dán tường đã ngả màu vàng, phủ đầy bụi lặm, nhiều nơi đã long ra, trông thảm hại quá chừng. Nhà thấp đến nỗi người nào hơi cao một chút bước vào là đã thấy rờn rợn, cứ lo cộc đầu vào trần. Đồ đạc thật xứng đáng với nơi bày biện: buồng có ba cái ghế dựa cũ kỹ, ọp ẹp, trong góc đặt một cái bàn gỗ sơn, trên có mấy quyển sách và mấy quyền vở, cứ trông lớp bụi bặm phủ lên cùng đã biết lâu nay không hề có ai sờ tay đến, và cuối cùng là một chiếc ghế sofa to công kềnh vốn phủ vải hoa, nhưng nay đã rách bươm, kê dọc sát tường, choán gần nửa căn buồng.
Đó là giường ngủ của Raxkonikov. Chàng thường ngủ trên chiếc sofa ấy để nguyên cả quần áo, không trải vải lót giường, mình đắp tấm áo choàng cũ kỹ của sinh viên làm chăn: đầu thì kê lê một cái gối nhỏ, bao nhiêu quần áo, cả sạch lẫn bán, đều nhét cả xuống gối để kê đầu cho cao. Trước ghế sofa đặt một chiếc bàn nhỏ.
Kể cũng khó mà ăn ở cực khổ và bẩn thỉu hơn thế, nhưng với tâm trạng lúc bấy giờ chàng lại thấy thích thú với cảnh nầy. Chàng đã hoàn toàn xa lánh mọi người như con rùa co mình vào trong mai, và chỉ cần trông thấy mặt người đầy tớ gái cứ thỉnh thoảng lại ghé vào dọn buồng chàng cũng đã điên tiết lên rồi.
Tâm trạng ấy hay có ở những người mắc chứng thiên chấp, khi quá tập trung suy nghĩ vào một vấn đề gì. Từ hai tuần nay, bà chủ nhà không cho chàng ăn, và tuy phải nhịn đói, mãi đến hôm nay chàng vẫn chưa buồn đến phân trần với bà ta. Naxtaxia, người nấu bếp và là người ở độc nhất của bà chú nhà lại có phần thích thú về cái tâm trạng đó của ông khách trọ, và chị ta cũng không vào buồng dể dọn dẹp quét tước nữa, hoạ chăng mỗi tuần một lần chị ta mới tình cờ vào khua chổi mấy cái. Sáng hôm nay, chính chị ta vào đánh thức chàng.
- Thôi dậy! Ngủ gì mà ngủ lắm thế! - chị ta vừa khom mình trên người chàng vừa kêu lên - Chín giờ hơn rồi. Tôi đem nước trà lên cho cậu đây, cậu có uống không? Cậu đói mềm rồi còn gì?
Người khách trọ mở mắt, khẽ giật mình và nhận ra Naxtaxia.
- Trà của bà chủ đấy à? - Chàng từ từ nhổm dậy trên ghế sofa, chậm rãi cất tiếng hỏi, vẻ mặt phờ phạc.
- Của bà chủ nào?
Chị ta đặt xuống trước mặt chàng cái ấm trà riêng của chị đã nứt rạn, đựng đầy nước trà loãng, và hai miếng đường vàng ệnh.
- Nầy, Naxtaxia, chị cầm hộ lấy cái nầy - chàng nói sau khi lục túi lấy ra một nắm xu (chả là chàng vẫn đề nguyên cả quần áo mà ngủ). Chị đi mua cho tôi một đĩa bánh. Đến cả hàng thịt mua cho một ít xúc xích, hay thứ gì cũng được, loại rẻ ấy.
- Bánh thì tôi đem đến cho cậu ngay; nhưng cậu ăn canh bắp cải có phải hơn xúc xích không? Canh nấu hôm qua, ngọt lắm… Tôi để phần cho cậu, nhưng cậu lại về muộn quá. Canh ngọt lắm đấy.
Sau khi bưng canh lên và chàng đã dậy ăn, Naxtaxia đến ngồi cạnh chàng tán gẫu. Chị ta là hạng đàn bà nông thôn, lại thuộc loại đàn bà nông thôn lắm lời.
- Nầy, bà Praxkopia Paplovna định đến sở cảnh sát kiện cậu đấy, - chị nói.
Mặt Raxkonikov cau hẳn lại.
- Đến sở cảnh sát à? Mụ ta muốn gì?
- Cậu không trả tiền nhà mà cũng không chịu dọn đi! Thế đấy chứ còn gì nữa?
- Hừ, thật quỷ quái, chỉ còn thiếu có thể - chàng nghiến răng lẩm bấm - Đúng vào lúc nầy thì thật là… trái khoáy… cho mình… Mụ ấy ngốc quá - chàng nói to lên - Được, hôm nay tôi sẽ đến nói chuyện với mụ.
- Nói là ngốc. Ừ thì bà ta ngốc, như tôi ấy thôi. Nhưng còn cậu, khôn ngoan thế, sao cứ nằm khoèo ở nhà, chả thấy làm gi? Trước đây cậu nói là cậu đi dạy trẻ học, sao bây giờ cậu không làm gì nữa cả?
- Tôi có làm… - Raxkonikov xẵng giọng miễn cưỡng đáp:
- Làm gì?
- Một công việc…
- Việc gì?
- Tôi suy nghĩ, - chàng nghiêm nghị trả lời sau một lát im lặng.
Naxtaxia rũ ra cười. Tính chị ta hay cười, và khi cười thì không bật ra thành tiếng mà cả người cứ lắc lư và rung lên từng đợt mãi đến buồn nôn lên mới thôi.
- Suy nghĩ như vậy có ra tiền không? - Mãi hồi lâu chị mới nói ra được mấy tiếng.
- Không dày không dép thì đi dạy thế quái nào được. Mà tôi cũng nhổ toẹt vào!
- Ấy xin cậu, muốn uống nước giếng thì đừng có nhổ toẹt xuống giếng! (1)
- Dạy học họ trả cho được mấy đồng tiền đồng. Ăn thua gì mà dạy? - Chàng khó chịu càu nhàu nói tiếp như đang đáp lại những ý nghĩ của chính mình.
- Thế cậu muốn một lúc hót ngay được cả một vốn liếng đấy hẳn?
Raxkonikov nhìn chị một cách khác thường.
- Đúng, cả một vốn liếng - chàng nói sau một lát im lặng, giọng rắn rỏi.
- Nầy, từ từ chừ, cậu làm tôi sợ quá, trông cậu đến khiếp. Có phải đi mua bánh nữa không?
- Tùy chị!
- À nầy, thế mà tôi quên mất! Cậu có một lá thư đến hôm qua khi cậu đi vắng.
- Thư à? Của tôi? Ai gửi?
- Ai gửi thì tôi biết đâu đấy! Tôi phải trả cho người đưa thư ba cô-pếch! Cậu hoàn lại tôi chứ?
- Chóng lên, đem đây, tôi van chị. Đem đây! - Raxkonikov xúc động quát lên. - Trời ơi!
Một lát sau, bức thư được mang đến. Đúng rồi, thư của mẹ chàng, từ quận R, gửi đến. Chàng cầm bức thư, mặt tái mét: đã từ lâu, chàng không nhận được thư mẹ, nhưng lúc ấy còn có cái gì khác nữa bỗng nhói lên trong tim chàng.
- Thôi, ra đi, Naxtaxia tôi van chị, đây ba cô-pếch của chị đấy, nhưng tôi xin chị, chị ra chóng lên.
Lá thư run lẩy bẩy trong tay chàng, chàng không muốn bóc thư trước mặt người ở, chàng muốn một mình diện đối diện với lá thư nầy. Naxtaxia vừa ra khỏi, chàng đưa ngay lá thư lên môt hôn; rồi ngắm nhìn hồi lâu những nét chữ đề địa chỉ trên phong bì, nét chữ quen thuộc, thân yêu, thanh thanh và hơi nghiêng của mẹ chàng, người xưa kia đã dạy cho chàng biết viết. Chàng chần chừ chưa bóc vội, như còn lo ngại điều gì.
Nhưng rồi cuối cùng chàng cũng bóc thư ra. Lá thư dày, xếp làm hai tập, hai tờ giấy lớn chi chít những chữ nhỏ lăn tăn.
"Rodia yêu quý - mẹ chàng viết - thế là đã hơn hai tháng rồi, m không nói chuyện gì với con qua thư từ điều đó chính mẹ cũng khổ tâm, nhiều đêm thao thức không ngủ được. Nhưng chắc con cũng không trách mẹ về sự vắng bặt tin tức bất đắc dĩ đó. Con cũng biết mẹ thương con đến ngần nào. Mẹ với Dunia chỉ còn có con nữa mà thỏi, con là tất cả, con là niềm hy vọng, là hoài bão của mẹ của em. Con có biết chăng tâm trạng của mẹ khi nghe tin con đã bỏ học cách đây mấy tháng vì thiếu tiền, rồi con lại thôi dạy học và thôi các việc khác nữa. Với số lương quả phụ một trăm hai mươi rúp hàng năm của mẹ, mẹ biết làm thế nào mà chu cấp cho con được? Con cũng biết là món tiền mười lăm rúp mẹ gửi cho con cách đây bốn tháng cùng phải giật tạm của bác Vaxili Ivanovich Vakhrusin, người vẫn bán hàng cho nhà ta, trừ vào khoản lương ấy. Bác ấy là một người tốt, trước là bạn của bố. Nhưng mẹ phải để cho bác ấy lĩnh dần khoản phụ cấp thay mẹ để trừ cho hết nợ - và cũng đến nay mới vừa hết, - cho nên suốt thời gian gần đây mẹ không gửi tiền cho con được. Nhưng đến nay, nhờ ơn Chúa, có lẽ mẹ sẽ gửi cho con được một ít tiền; với lại, mẹ cũng nói ngay với con là chúng mình còn có thể vui mừng vì gặp vận may nữa kia đấy. Trước hết, Rodia yêu quý, con có đoán được không: em con đã về sống với mẹ được tháng rưỡi nay rồi, và từ nay hai mẹ con sẽ không còn phải xa nhau nữa. Ơn Chúa, những nỗi đau khổ của em con đã qua, nhưng mẹ cũng muốn kể lại hết đầu đuôi câu chuyện để con hiểu rõ những điều mà cho đến nay mẹ và em vẫn phải giấu con. Cách đây hai tháng, khi nghe phong thanh Dunia bị gia đình Xvidrigailov ngược đãi, con đã biên thư xin mẹ nói rõ sự tình, nhưng mẹ biết trả lời thế nào được. Nếu hồi đó mẹ nói hết sự thật ra, chắc con sẽ bỏ hết công việc học hành để về nhà - dù phải đi bộ - vì mẹ cũng biết rõ tính cách và tình cảm của con: chắc chắn con sẽ không chịu để cho ai làm nhục em con. Chính mẹ dạo ấy cùng thật tuyệt vọng, nhưng biết làm thế nào? Với lại chinh mẹ cũng chưa rõ hết sự thực. Gay nhất là năm ngoái, khi vào làm gia sư trong nhà Xvidrigailov, Duneska đã lĩnh trước một trăm rúp với điều kiện là sẽ trừ dần vào lương tháng; vì thế em con không thể bỏ việc trước khi thanh toán xong khoản nợ kia. Em con đã nhận số tiền đó, Rodia yêu quý bây giờ thì mẹ có thể nói rõ hết với con phần chính cũng là để có thể gửi cho con sáu mươi rúp mà năm ngoái con rất cần. Mẹ và em đã nói dối con rằng đó là tiền của Dunia dành dụm từ trước; nhưng không phải thế đâu - Bây giờ mẹ có thể nói hết sự thật cho con nghe vì nhờ ơn Chúa, sự thể đã biến chuyển đột ngột rồi, nay đã khả quan hơn, với lại cũng để con thấy Dunia thương con biết ngần nào và để con hiểu rõ hơn tấm lòng vô giá của em con. Quả tình lúc đầu ông Xvidrigailov đã đối xử thô bạo với em con, ông ta lại còn vô lễ và nhạo báng em con trong bữa ăn… Nhưng thôi mẹ không muốn sa vào những chi tiết đáng buồn đó làm con bực mình vô ích, vì bây giờ mọi việc đều đã qua. Tóm lại, tuy bà Marfa Petrovna - vợ ông Xvidrigailov - và cả nhà bà ta đều tó ra nhân từ và cao thượng, nhưng cuộc sống trong gia đình ấy đối với em Dunia cũng thật gay go: nhất là khi ông Xvidrigailov - quen cái thói cũ hồi ông còn tại ngũ - chịu sự khống chế của tửu thần. Nhưng rồi sự thể xảy ra thế nào? Con thử tưởng tượng con người ngông cuồng ấy, ngoài thì tỏ ra thô bạo, khinh khỉnh vớì Dunia, nhưng trong lại đem lòng yêu trộm em con từ lâu. Có thể là ông ta hổ thẹn và kinh hoảng khi thấy mình đã có tuổi, lại làm chủ một gia đình, mà lại sa vào những mơ ước vẩn vơ như vậy, nên ông ta bất giác đâm ra cáu gắt giận dữ với Dunia.
Cũng có thể ông ta lấy cái thái độ thô lỗ và nhạo báng của ông để che mắt thế gian. Nhưng cuối cùng, cầm lòng không đặng, ông ta đã dám thổ lộ với Dunia những lời đề nghị bỉ ổi và trắng trợn, hứa hẹn đủ điều, thậm chí lại còn rủ em con bỏ việc trốn với ông ta sang ở làng khác hoặc ra nước ngoài. Chắc con cũng tưởng tượng được em con như thế nào. Bỏ việc ra về ngay thì không xong, không phải chỉ vì món nợ, mà còn vì muốn tránh gây phiền muộn cho bà Marfa Petrovna: ra đi như vậy sẽ làm cho bà ta sinh nghi, do đó có thể gieo mối bất hoà trong gia đình người ta. Vả lại chính Dunia cũng sẽ không sao tránh khỏi tai tiếng, làm như thế thật không ổn. Lại thêm những lý do nầy nọ giữ chân Dunia lại thành thử em con không trông mong gì ra khỏi cái nhà ghê tởm đó trước sáu tuần lễ.
Con chắc cũng đã biết rõ em con thông minh và cương nghị như thế nào: Duneska rất giỏi chịu đựng, và trong những hoàn cảnh gay go nhất, em con cũng có đủ nghị lực để đứng vững. Để mẹ khỏi lo lắng, Dunia cũng không cho mẹ biết một tí gì về chuyện đó cả, tuy hai mẹ con vẫn thường trao đổi thư từ với nhau. Nhưng câu chuyện kết cục thật không ngờ. Một hôm, bà Marfa Petrovna tình cờ bắt gặp chồng bà đang khẩn khoản van nài Dunia ở trong vườn, thế là bà ta hiểu lầm và quy tội tất cho Dunia, cho rằng đầu đuôi tại em con gây ra hết.
Thế là một cảnh khủng khiếp đã diễn ra trong vườn giữa ba người; bà Marfa Petrovna, không còn muốn nghe phải trái gì nữa, đã dám đánh Dunia và lăng mạ em con suốt một tiếng đồng hồ, rồi cuối cùng ra lệnh cho người nhà vơ vén đồ đạc quần áo của Dunia vứt bừa lên xe và đưa em con về trả mẹ ở phố. Lúc ấy trời đổ trận mưa rào, thế là Dunia nhục nhã, ê chề phải đi mười bảy verxta trên một chiếc xe ngựa chở hàng không mui với một lão mu-gich. Đấy, bây giờ con thử nghĩ mà xem, làm sao mẹ có thể trả lời được thư con cách đây hai tháng? Mẹ còn biết trả lời thế nào được? Mẹ thật là tuyệt vọng; kể cho con nghe câu chuyện đó thì mẹ không dám, vì con sẽ khổ sở, buồn phiền và phẫn uất! Mà nói cho cùng, con cũng biết làm thế nào được? Không khéo quẫn chí lại làm điều gì liều lĩnh thì khốn to! Vả lại Duneska cũng cấm mẹ nói; còn như viết thư cho con mà chỉ nói toàn những chuyện vớ vẩn đâu đâu trong khi sầu não trĩu nặng trong lòng thì mẹ không tài nào viết được. Ròng rã một tháng trời trong khắp thành phố người ta cứ đem chuyện nầy ra kháo nhau, đến nỗi hai mẹ con không thể đi lễ nhà thờ được nữa, vì đến đâu người ta cũng xì xào bàn tán, nhìn ngó mình một cách khinh bỉ, thậm chỉ lại còn nói to những lời chê bai dè bỉu ngay trước mặt hai mẹ con. Bạn bè quen biết đều ngoảnh mặt đi, không ai thèm chào hai mẹ con nữa, mẹ lại biết chắc rằng những tay đi chiêu hàng của các hiệu buôn và một vài viên chức còn muốn làm nhục hai mẹ con một cách bỉ ổi hơn nữa: họ bôi nhựa đường be bét trước cồng nhà, làm ông chủ nhà phải yêu cầu hai mẹ con dọn đi ở chỗ khác. Tất cả những chuyện đó đều do bàn tay của bà Marfa Petrovna gây ra cả; bà ta đã có đủ thì giờ đi đến từng nhà trong phố để vu cáo bôi nhọ Dunia. Ở phố nầy ai bà cũng quen, mà suốt trong tháng ấy bà ta lại hay ra phố, tính bà ta lại hay chuyện và thích kể lể về việc nhà, nhất là gặp ai cũng than phiền về ông chồng, thật là một thói rất xấu; thế là chỉ trong một thời gian rất ngắn, bà ta đã tung câu chuyện nầy ra không phải chỉ trong phố mà còn khắp cả huyện nữa. Mẹ sinh ốm; Duneska vốn cứng rắn hơn mẹ. Nếu con biết em con đã chịu đựng tất cả những cảnh đó như thế nào! Lại còn an ủi khích lệ mẹ nữa. Thật là một vị thiên thần! Nhưng, nhờ lượng Chúa bao dung, nỗi đau khổ của hai mẹ con đã chấm dứt. Ông Xvidrigailov ăn năn nghĩ lại, và chắc lả thương tình Dunia, ông ta đã đưa ra trước bà Marfa Petrovna một chứng cớ đầy đủ tỏ ra lòng ngay thật của Dunia: đó là bức thư mà Dunia đã buộc lòng phải viết cho ông ta, từ trước khi bà Marfa Petrovna bắt gặp hai người ngoài vườn, để cự tuyệt những cuộc bày tỏ riêng tư và những cuộc hẹn hò lén lút mà ông ta cứ van nài; lá thư đó vẫn ở trong tay ông Xvidrigailov sau khi Duneska ra khỏi nhà. Trong thư, Dunia đã giận dữ, kịch liệt trách cứ thái độ cư xử hèn hạ của ông ta đối với bà Marfa Petrovna. Dunia đã nêu rõ cương vị chủ gia đình của ông ta và cuối cùng vạch cho ông ta thấy rõ mình bỉ ổi để tiện đến nhường nào khi giầy vò hành hạ một thiếu nữ vốn đã nghèo khổ và không nơi nương tựa. Tóm lại, Rodia yêu quý, lời lẽ trong thư cao thượng và cảm động đến nỗi khi đọc mẹ đã phải phát khóc và mãi cho đến bây giờ, mỗi khi đọc lại, mẹ cũng không sao cầm được nước mắt. Hơn nữa, để minh oan cho Dunia, những người tôi tớ nhà Xvidrigailov đã đưa thêm bằng chứng tỏ ra họ còn thấy và biết nhiều hơn là ông Xvidrigailov tưởng - xưa nay vẫn thường như vậy. Bà Marfa Petrovna kinh hoàng rụng rời và lại "bị một đòn trí mạng nữa" bà ta nói thế - nhưng mặt khác bà không còn nghi ngờ chút gì về lòng ngay thật của Dunia, và ngay ngày hôm sau, hôm chủ nhật, bà ta đến thẳng nhà thờ, quỳ xuống khóc lóc cầu xin Đức Mẹ ban cho nghị lực để chịu đựng cơn thử thách mới và làm tròn bổn phận. Ở nhà thờ ra, bà đi thẳng một mạch đến gặp mẹ và em, không ghé vào nhà ai cả; bà ta kể hết sự tình, khóc lóc thảm thiết và chân thành hối hận ôm hôn Dunia, van xin em con tha lỗi cho bà. Ngay sáng hôm ấy, từ nhà ta ra, bà không chần chừ đi khắp những nơi quen biết trong thành và ngoại thành, hết lời ca ngợi tâm hồn thanh cao, tư cách đứng đắn của Dunia, vừa nói vừa khóc sướt mướt. Thế cũng chưa đủ, bà ta còn đem ra đọc cho mọi người nghe lá thư cửa Duneska viết cho ông Xvidrigailov lại còn cho sao ra nhiều bản nữa, theo mẹ làm thế cũng đã hơi quá. Như vậy bà ta phải dành ra mấy ngày liền để di khắp các nơi quen biết không thì người nầy lại ty nạnh người kia, thành thử nhà nào cũng sắp sẵn từ trước đợi bà Marfa Petrovna đến; mọi người đều biết trước bà ta sẽ đọc bức thư bất hủ vào lúc nào, ở nhà nào, bèn tụ tập lại nghe, ngay cả những người đã được nghe nhiều lần trước sau ở nhà họ rồi ở nhà bạn bè cũng vậy. Ý mẹ thì làm như thế cũng thật quá đáng, nhưng tính bà Marfa Petrovna vốn thế. Dù sao, bà cũng đã hoàn toàn khôi phục được danh dự cho Duneska và câu chuyện bỉ ổi nầy được đổ cả vào đầu ông chồng, thủ phạm chính trong vụ nầy, một cách không sao xoá nhoà được nữa. Quá tình người ta đối xử với cái lão rồ dại ấy như vậy cũng quá khắc nghiệt, làm mẹ cũng có phần ái ngại cho lão. Thế rồi, có mấy gia đình lập tức mời Duneska đến dạy học cho con cái, nhưng em con đều từ chối. Nói chung mọi người bỗng nhiên đều tỏ lòng rất kính nể em con. Nhưng cái chính là tất cả những việc đó đã dọn đường cho sự kiện bất ngờ hiện nay có thể nói là đang xoay chuyển số phận chúng ta.
Rodia yêu quý, mẹ phải vội vàng báo cho con biết ngay là đã có người đi hỏi Dunia và em con đã nhận lời tuy công việc có tiến hành mà chưa có ý kiến của con, nhưng chắc con cũng không bất bình với mẹ và em bởi vì - nhìn qua sự việc con cũng sẽ thấy - mẹ và em không thế nấn ná chờ đợi con trả lời được. Vả lại, con ở xa chắc khó có thể xét đoán công việc cho thật đúng đắn. Đầu đuôi như thế nầy. Anh ấy nay đã lên đến chức tư vấn hội thẩm, tên là Piotr Petrovich Lugin và có họ hàng xa với bà Marfa Petrovna: chính bà ta đã đóng góp nhiều vào việc nầy. Đầu tiên anh ấy đã tỏ ý muốn làm quen với nhà ta, và đã được tiếp đãi chu đáo đã dùng cà phê với nhà và ngay hôm sau có gửi lại một lá thư rất lễ độ ngỏ lời dạm hỏi, đề nghị nhà ta trả lời sớm và dứt khoát. Anh ấy là một người chí thú khá bận, nay đang có việc phải đi ngay Petersburg, thành thử mỗi phút đối với anh đều rất quý. Dĩ nhiên, lúc đầu mẹ và em đều sửng sốt vì câu chuyện xảy ra quá chóng vánh và đột ngột. Mẹ và em đã cùng nhau suy nghĩ và cân nhắc suốt cả ngày hôm ấy. Anh ta là người cẩn trọng và có địa vị chắc chắn, có chân ở hai nơi và cũng đã có một số vốn riêng. Quả tình anh ta cũng đã bốn mươi lăm tuổi rồi, nhưng bề ngoài trông vẫn dễ ưa và cũng còn có thể được cảm tình trong nữ giới; ngoài ra anh ta là một người rất chững chạc, đứng đắn, duy chỉ có hơi lầm lỳ và có vẻ khinh người. Nhưng có thể đó chỉ là cảm giác ban đầu thôi. Và, Rodia yêu quý ạ, mẹ cũng báo trước là khi con gặp anh ta ở Petersburg - chỉ nay mai thôi - con cũng đừng nhận xét anh ta vội vàng và nóng nảy quá, như tính của con xưa nay vẫn thế, nếu thoạt mới gặp con thấy anh ta có một điểm gì không hợp ý con, là mẹ cũng nói phòng xa thế thôi, chứ mẹ chắc thế nào anh ta cũng gây được thiện cảm của con. Với lại, phàm muốn hiểu ai, thì phải tiếp xúc với người ta một cách từ tốn và thận trọng mới khỏi sa vào những định kiến sai lầm mà sau nầy sẽ rất khó uốn nắn và tẩy bỏ. Vả chăng ít nhất cũng có nhiều dấu hiệu chứng tỏ Piotr Petrovich là một người rất đáng tôn trọng. Hôm đến nhà lần đầu, anh ta tự xưng là một người thiết thực, nhưng trên nhiều điềm cũng tán thành "những quan niệm của các thế hệ mới ở ta" - như anh ta nói - vả lại là kẻ thù của mọi định kiến. Anh ta còn nói nhiều nữa, bởi vì xem ra, anh ta cũng thích phô trương, và lại rất thích người khác nghe mình, nhưng đó cũng không hẳn là một thói xấu. Dĩ nhiên, mẹ cùng không hiểu rõ những điều anh ta nói cho lắm, nhưng Dunia giải thích h cho mẹ hiểu là anh ta tuy học vấn không cao nhưng lại thông minh và hình như cũng đôn hậu. Rodia, con cũng biết tính em con đấy. Nó là một, đứa có nghị lực, có lương tri, kiên nhẫn và cao thượng, tuy tâm hồn vốn bồng bột, mẹ đã nghiệm thấy rõ như vậy. Đành rằng đây chẳng phải là chuyện yêu đương gì giữa hai người, về phía Dunia cũng như về phía anh ta; nhưng Dunia vốn là một đứa con gái thông minh, cao thượng như một vị thiên thần, tự xác định cho mình bổn phận đem lại hạnh phúc cho chồng nên về phía anh ta, anh ta cũng quan tâm săn sóc đến hạnh phúc của vợ, mà điều đó thì hiện nay mẹ và em hầu như không có lý do gì để nghi ngờ cả, tuy cũng phải thừa nhận là câu chuyện ngã ngũ hơi nhanh chóng. Với lại: anh ta vốn là người căn cơ chín chắn cũng phải hiểu rằng Duneska sống càng có hạnh phúc bên mình thì hạnh phúc làm chồng của mình lại càng thêm vững chấc. Còn nói đến một vài điểm chênh lệch trong tính tình, trong những thói quen riêng tây và cả đến một đôi chỗ bất đồng về tư tưởng điều mà ngay cả trong những cuộc hôn nhân tâm đầu ý hợp nhất cũng nhrng tránh khỏi thì Dunia nói với mẹ là sẽ tự nó điều hoà được, không có gì đáng lo ngại cả, nó sẽ có thể chịu đựng được nhiều, quý hồ những mối quan hệ giữa hai người sau nầy sẽ trung thực và công bằng.
Hình thức bên ngoài thường hay lừa người ta thật. Như anh ấy chẳng hạn, lúc đầu mẹ trông cũng hơi cộc cằn, nhưng cái đó có thể chính là do tâm hồn thẳng thắn cương trực của anh ta; chắc chắn là như vậy. Như hỏm anh ấy đến thăm nhà ta lần thứ hai chẳng hạn, sau khi lời cầu hôn của anh ta được chấp nhận, trong câu chuyện anh ta có nói rằng ngay từ trước khi quen biết Dunia, anh ta đã có ý định sẽ cưới một cô vợ thật thà lương thiện, nhưng không có của hồi môn, và nhất định phải là người đã từng chịu cảnh khốn cùng vì anh ta nói - người chồng không được nhờ cậy chút gì của vợ, mà tốt hơn nhiều là người vợ nên coi chồng như ân nhân của mình. Mẹ cũng cần thêm là anh ta nói năng dịu dàng và dễ nghe hơn chứ không như mẹ viết đâu vì mẹ cũng quên những lời cụ thể anh ấy dùng rồi, mà chỉ nhớ cái ý thôi; với lại anh ta cũng không có ý định nói cạnh nói khoé gì, chẳng qua chỉ buột miệng lỡ lời trong khi đang mải say sưa với cáu chuyện, nên sau đó anh ta cũng cô ý sửa chữa và nói khéo lại; nhưng dù sao mẹ cũng thấy thế là hơi cục cằn, về sau mẹ có nói lại với Dunia như vậy. Nhưng Dunia lại bực mình trả lời rằng "lời nói chưa phải là hành động", cái đó thì tất nhiên là đúng. Trước khi quyết định, Duneska đã thức thâu đêm; tưởng là mẹ đã ngủ, em con dậy, đi đi lại lại hàng giờ trong buồng, cuối cùng em con quỳ trước hình Đức Mẹ thành tâm cầu nguyện mãi; đến sáng hôm sau, em con nói với mẹ là đã quyết định dứt khoát.
Mẹ đã nói với con là Piotr Petrovich sắp đi Petersburg vì có nhiều việc cần, anh ta có ý định mở một phòng bào chữa ở trên ấy. Anh ta làm nghề trạng sư đã lâu năm và mới đây vừa thắng một vự kiện quan trọng. Lần nầy anh ta đi Petersburg vì có một việc quan trọng phải đến Viện nguyên lão. Cho nên, Rodia yêu quý, anh ta có thể giúp con được khá nhiều đấy, có thể giúp về mọi phương diện nữa là khác; Dunia và mẹ đều nghĩ rằng từ nay con đã có thể bắt đầu xây dựng sự nghiệp sau nầy và có thể coi như tương lai của con đã được xác định rõ ràng. Ôi! Ước gì việc ấy sẽ thực hiện! Được như vậy thì quả không thể nào nói khác hơn đó là một ân sủng mà Thượng để toàn năng đã trực tiếp ban cho nhà ta. Dunia chỉ ước mơ như vậy.
Mẹ và em cũng đã đánh bạo nói xa gần với Piotr Petrovich về vấn đề ấy. Anh ta trả lời một cách thận trọng, nói rằng lẽ tất nhiên anh ta cùng không thể thiếu được một người thư ký, cho nên thà tốn tiền thù lao cho một người nhà còn hơn là cho một người dưng, cốt là ai đó phải có khả năng làm tròn phận sự, làm như con không có khả năng ấy nhưng ngay sau đó anh ta lại tỏ ý lo ngại là con sẽ bận học mà không có đủ thì giờ để làm việc với anh ta, lần nầy câu chuyện mới chỉ đến đảy, nhưng ngoài việc nầy ra, bây giờ Dunia không còn nghĩ đến việc gì khác nữa. Từ mấy hôm nay rồi, nó háo hức xây dựng cả một viễn cảnh tương lai về con, nó nghĩ con rồi sẽ có thể trở thành người giup việc, hơn nữa, người cộng tác của Piotr Petrovich trong công việc tư pháp huống hồ con lại là sinh viên trường luật nữa. Còn mẹ, Rodia yêu quý, mẹ cũng hoàn toàn đồng ý với Dunia và cũng chia sẻ những dự kiến, những hy vọng của em con, rất tin là có thể thực hiện được. Tuy gần đây Piotr Petrovich có ý tránh nói việc nầy điều đó cũng dề hiểu thôi, vì anh ta chưa quen con nhưng Dunia vẫn tin chắc rằng nó có thể dùng ảnh hưởng tốt của nó đối với người chồng tương lai mà thực hiện một điều mong muốn; em con tin chắc như vậy - Tất nhiên, trước mặt Piotr Petrovich, mẹ và em đều tuyệt đối không bao giờ đề hở cho anh ta biết những ước mơ đó, nhất là chuyện sau nầy con sẽ trở thành người cộng tác với anh ta. Anh ta là một người thiết thực, có thể anh ta sẽ nghe những chuyện đó một cách lãnh đạm vì tất cả những chuyện đó đối với anh ta chỉ là những mơ ước viển vông mà thôi. Mẹ cũng như Dunia chưa hề hở câu nào tỏ ra hy vọng anh ta sẽ giúp mẹ và em con cấp tiền cho con theo học hết đại học. Sở dĩ mẹ và em chưa nói đến trước hết là vì việc ấy rồi tất nhiên sẽ đến và chắc chắn - không cần nhiều lời vô ích - anh ta sẽ tự nguyện giúp con chá nhẽ anh ta lại từ chối Dunia điều nầy nhất là vì rồi đây, con sẽ có thể trở thành cánh tay phải của anh ta, và tiền anh ta cấp cho con sẽ không phải là một ân huệ gì, mà chỉ là một cách trả công xứng đáng với việc làm của con. Duneska muốn thu xếp như vậy, mẹ cũng hoàn toàn đồng ý với em. Sau nữa, mẹ và em không nói chuyện đó với anh ta vì mẹ muốn rằng trong cuộc gặp gỡ nay mai, anh ta cũng phải đối xử với con như người ngang hàng. Khi Dunia hân hoan nói đến con, anh ta đã trả lời là muốn xét đoán người nào thì phải chính tận mắt trông thấy người đó, và anh ta tự dành cho mình cái quyển xây dựng một ý niệm về con sau khi đã gặp con tận mặt.
Rodia rất yêu quý của mẹ, vì một vài lý do cũng không có gì dính dáng đến Piotr Petrovich, mà chi là những lý do hoàn toàn riêng tư, có lẽ chỉ là chuyện lẩm cẩm của bà già thôi, mẹ thấy rằng cưới xin xong, có lẽ mẹ cứ ở riêng như bây giờ hay hơn, chứ không về ở với hai vợ chồng. Mẹ tin chắc rằng anh ta, vốn là người cao thượng và tế nhị, thế nào cũng mời mẹ về ở để khỏi xa con gái, và sở dĩ đến bây giờ anh ta chưa nói chính cũng vì dù không nói ra thì đó cũng đã là việc tất nhiên rồi; nhưng mẹ sẽ từ chối. Trong cuộc sống mẹ đã từng nghiệm thấy rằng chàng rể thường không ưa gì mẹ vợ. Không những mẹ không muốn làm phiền ai một chút nào, mà hơn nữa mẹ cũng muốn sống hoàn toàn tự lập, quý hồ đủ ăn và có những đứa con yêu quý như con và Duneska. Nếu có thể, mẹ ở một chỗ nào gần cả hai con. Rodia yêu quý ạ, mẹ đã dành tin đáng mừng nhất để viết vào cuối bức thư nầy: có lẽ chỉ nay mai, ba mẹ con ta sẽ lại được sum họp và sẽ được ôm hôn nhau sau ba năm xa cách. Mẹ và Dunia đã quyết định dứt khoát là sẽ đến Petersburg, cụ thể ngày nào thì mẹ chưa rõ, nhưng dù sao cũng rất gần, rất gần đây thôi, cũng có thể chỉ một tuần lễ nữa. Mọi việc còn tuỳ ở cách xếp đặt của Piotr Petrovich; hễ tạm ổn định được ở trên đó anh ta sẽ báo tin ngay cho mẹ và em. Vì một vài lý do nào đó, đnh ta định tổ chức lễ thành hôn càng sớm càng tốt và nếu có điều kiện sẽ tiến hành trong cữ ăn mặn nầy, nhược bằng không được, vì thời gian cấp bách quá, thì sẽ tổ chức ngay sau ngày lễ Đức Mẹ lên trời. Ôi, sung sướng biết bao, khi mẹ sẽ được ôm chặt con vào lòng Dunia mừng cuống lên vì sắp được gặp con, em đã có lần nói đùa là chỉ riêng có thể thôi, cũng đủ khiến cho nó thuận lòng lấy Piotr Petrovich rồi. Thát là một vị thiên thần. Nó không viết gì thêm vào lá thư nầy, nhưng nó nhắc mẹ viết cho con là nó có nhiều, rất nhiều chuyện muốn nói, nhiều đến nỗi không thể dùng bút thay lời, vì chỉ một vài dòng chữ thì không nói được gì cả, chỉ thêm bực mình thôi; nó uỷ cho mẹ ôm con thật chặt và gửi con ngàn vạn cái hôn. Tuy mẹ con ta sắp được sum họp, nhưng ít hôm nữa còn được bao nhiêu tiền, mẹ cũng sẽ cứ gửi cho con.
Từ khi mọi người biết Dunia sẽ kết hôn cùng Piotr
Petrovich, tín dụng của mẹ bỗng nhiên tăng lên. Mẹ biết chắc là bác Aphanaxi Ivanovich sẽ thuận cho mẹ vay trước - rồi trừ vào khoản phụ cấp - đến bảy mươi nhăm rúp, và thế là mẹ sẽ gửi cho con được hăm nhăm, hoặc ba mươi rúp nữa là khác: Mẹ có thể gửi cho con nhiều hơn nhưng cũng còn phải lo tiền đi đường, tuy Piotr Petrovich đã có nhã ý chịu một phần phí tổn, cụ thể là anh ta đề nghị để anh chuyển hành lý và cái hòm to của hai mẹ con hình như anh ấy nhờ người quen tải hộ thế nào đấy, nhưng còn vé tàu, rồi chân ướt chân ráo mới đến Petersburg, mẹ và em không thể không có đồng xu nào trong túi được. Với lại, Dunia và mẹ đã tính toán kỹ từng ly từng tý, thấy rằng cuộc hành trình không tốn lắm đâu. Từ nhà ra ga xe lửa chỉ có chín mươi verxta: hai mẹ con đã thương lượng để cùng đi với một bác nông dân đánh xe ngựa, và từ đó, hai mẹ con sẽ lên tàu đi hạng ba. Cho nên mẹ có lẽ sẽ gửi cho con không phải hai mươi lăm, mà ba mươi rúp.
Nhưng thôi, mẹ viết cũng đã tạm đủ: hai tờ giấy đặc rồi, mà cũng vừa hết giấy: cả một câu chuyện dài, bao nhiêu là sự việc chồng chất! Bây giờ, Rodia rất yêu quý, mẹ ôm hôn con, chờ đợi ngày sum họp sắp đến và cầu Chúa ban phước cho con. Con hãy yêu thương lấy Dunia, em con, hãy yêu thương nó như nó vẫn yêu thương con.
Con hãy nhớ là em con yêu con vô cùng, yêu hơn cả bản thân mình. Em con là một vị thiên thần, còn con, Rodia, con là tất cả, là tất cả niềm hy vọng của mẹ và em. Miễn sao con sung sướng là mẹ và em cũng được sung sướng rồi. Rodia ạ, con có còn cầu nguyện Chuá như trước không, con còn lòng tin vào tình bác ái của Chúa Cứu thế và tạo thế nữa không? Trong thâm tâm, mẹ cứ sợ những tư tưởng vô đạo, hiện nay rất thịnh hành, đã xâm nhập vào tâm hồn con. Nếu quả vậy con hãy nhớ như hồi còn thơ ấu, hồi bố con còn sống, con ngồi trên lòng mẹ bập bẹ những lời cầu nguyện; dạo ấy, chúng ta thật sung sướng biết bao nhiêu!
Thôi từ biệt con nhé, tạm biệt thì đúng hơn. Ôm con thật chặt và gửi con nghìn vạn cái hôn.
Trọn đời yêu con, Punkheria Raxkonikova".
Ngay từ khi Raxkonikov mới giở thư ra đọc và cùng như gần suốt thời gian đọc thư, nước mắt cứ tuôn đàm đìa trên má chàng. Nhưng đọc xong, mặt chàng tái mét, run giật lên, một nụ cười gượng gạo, cay đắng, hằn học in lên đôi môi mếu xệch của chàng. Nằm ngả đầu lên chiếc gối lép kẹp, bẩn thỉu, chàng suy nghĩ hồi lâu. Tim chàng đập mạnh, những ý nghĩ rối loạn cứ quay cuồng trong đầu. Cuối cùng chàng cảm thấy ngột ngạt khó chịu trong căn buồng vắng chật chội của chàng như ngồi trong tủ hay trong hòm. Tầm mắt và ý nghĩ của chàng cần không gian thoáng rộng. Chàng vớ lấy mũ đi ra ngoài, lần nầy không sợ gặp ai ở cầu thang nữa: chàng đã quên khuấy việc đó. Chàng băng qua đạỉ lộ V., hướng về phía đảo Vaxili, tưởng như có việc gì khẩn cấp đang chờ đợi chàng ở đó, nhưng theo thói quen, chàng cắm cúi đi, không chú ý gì dọc đường, mồm nói lẩm bẩm và thậm chí thỉnh thoảng lại nói to lên làm những người đi đường hết sức ngạc nhiên. Nhiều người tưởng chàng là một gã say rượu.
Chú thích:
(1) Tục ngữ Nga.
Chương 4
Lá thư của mẹ đã làm cho chàng vô cùng xúc động.
Nhưng về điểm chủ yếu, điểm chính của bức thư thì ngay trong khl đọc, chàng cũng không còn máy may nghi ngờ gì nữa. Về căn bản, vấn đề đã xem như được giái quyết, và giải quyết dứt khoát trong đầu chàng:
"Mình mà còn sống thì nhất định cuộc hôn nhân nầy sẽ không thành, và ngài Lugin kia phải xéo!".
"Bởi vì sự việc đã quá hiển nhiên rồi - chàng lầu bầu trong miệng, mỉm một nụ cười cay độc như thể đắc thắng trước với dự kiến của mình - không đâu, mẹ ạ, không đâu, Dunia ạ, các bà không lừa được, tôi đâu!
Lại còn kiếm cách bào chữa về việc đã không hỏi ý kiến mình, đã quyêt định công việc mà không có mình? Rõ khéo! Các bà tưởng thế là từ nay không có cách gì để cắt đứt được nữa đấy hắn; được, để rồi mà xem có cách hay không có cách. Lý do bào chữa mới hay làm sao:
"Piotr Petrovich là một người bận rộn, bận rộn đến nỗi chỉ dùng được xe chở hàng để cưới vợ, chứ không có cách gì khác hơn, thiếu chút nữa đã cưới ngay trên xe lửa cũng nên". Không đâu. Dunia, anh thấy suốt, và cũng biết thừa cô định nói với anh những gì mà nhiều thế, anh biết cô đã nghĩ gì trong suốt cái đêm cô đi đi lại lại trong buồng, cô đã cầu nguyện những gì trước tượng Đức Mẹ Kazan trong buồng ngủ của mẹ. Trèo lên núi Golgotha(1) thì gay thật đấy em ạ! Hừm… Ra cô đã quyết định đứt khoát như thế đấy, cô Avdotia Romanovna ạ: cô thuận lấy một con người có óc thực tế giàu lý trí, một người có vốn riêng nói là "đã" có vốn riêng rồi, cho nó chững chạc và oai vệ hơn, có hai nơi làm việc, chia sẽ quan niệm của các thế hệ mới ở ta như mẹ mình viết và "hình như" cũng đôn hậu, như bản thân Dunia nhận xét. Cái "hình như" nghe mới tuyệt chứ! Mà chính Dunia lại kết hôn với cái "hình như" đó? Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!
"Mà kể cũng kỳ, trong thư không biết tại sao bà cụ cứ ám chỉ đến những "thế hệ mới" làm gì nhỉ? Phải chăng chỉ là để xác định tính cách của anh chàng, hay có mục đích gì xa xôi hơn, gây thiện cảm của mình đối với Lugin chẳng hạn! Ô! Các bà thật ranh mãnh! Cũng cần phải làm sáng tỏ một điều nầy nữa: không biết hai bà đã cởi mở với nhau đến mức độ nào trong suốt ngày đôm hôm ấy và suốt cả thời gian sau. Các bà ấy đã nói với nhau tất cả "những lời lẽ" cần nói rồi hay sao: hay họ đã hiểu rằng họ cùng có một tâm tư như nhau, đến nỗi không còn gì cần phải nói nữa và mọi lời lẽ đều thừa. Có thể như vậy một phần: cứ đọc thư cũng biết, là cụ thấy anh chàng hình như hơi cục cằn, "hơi" một chút thôi, thế là ba cụ thật thà hạ lời nhận xét với Dunia. Lẽ dĩ nhiên cô nàng phật ý, và trả lời có vẻ "bực mình". Cũng phải? Ai mà không tức giận khi câu chuyện chẳng cần đến những câu hỏi ngây thơ như vậy, cũng đã dễ hiểu qua rồi, khi đã quyết định rằng không có gì phải nói nữa! Mà sao bà cụ lại còn viết cho mình là: "Hãy yêu lấy Dunia, Rodia ạ, vì em đã yêu con hơn cả bản thân mình? Phải chăng đó là lương tâm cắn rứt khiến bà cụ ân hận vì đã đành tâm hy sinh con gái mình cho con trai? "Con là niềm hy vọng của mẹ và em, con là tất cả!" Ô! Bà cụ thật…"
Nỗi tức giận mỗi một sôi sục trong lòng chàng, và giá lúc ấy gặp Lugin có lẽ chàng sẽ giết hắn.
"Hừ đúng thế, chàng lẩm bẩm nói tỉếp, miên man với những ý nghĩ quay cuồng trong óc, đúng là "phải từ tốn và thận trọng mới biết rõ được" nhưng ông Lugin thì rõ quá rồi! Trước hết ông ta là "một người chí thức" và "hình như" cũng đôn hậu đấy", có phải chuyện đùa đâu! Ông ta tự đảm nhiệm mọi khoản phí tổn chuyên chở một cái rương lớn. Thế mà còn chưa tốt ư? Còn hai bà, "cô vị hôn thê" và bà mẹ, thì thuê một lão mu-gich với một chiếc xe chở hàng lợp chiếu (hồi ở quê ta cũng đã từng đi như thế rồi) Có hề gì đâu? Chỉ có chín mươi verxta thôi mà, và từ đó "hai mẹ con có thể yên chí lên tàu đi hạng ba" khoảng một nghìn verxta nữa.
Cũng biết điều đấy chứ: có sao xào vậy! Nhưng còn ông, thưa ông Lugin, ông nghĩ sao? Dù sao đó cũng là vợ chưa cưới của ông kia mà? Và ông cũng biết thừa là bà mẹ phải vay trước lương quả phụ của mình để lấy tiền chi phí vào cuộc hành trình đó kia mà! Rõ ràng ông coi việc nầy như một cuộc kinh doanh, một chuyến buôn chung trong đó hai bên đều có lợi và mỗỉ bên phải đóng một cổ phần ngang nhau, thế thì chi phí cũng phải chia đều; bánh và muối thì chung, nhưng thuốc lá thì riêng, như trong câu tục ngữ. Vả chăng trong chuyến nầy, nhà kinh doanh cũng đã ăn bớt của các bà được ít nhiều rồi: tiền chuyên chở hành lý rẻ hơn lộ phí tàu xe, mà có thể ông cũng không mất xu nào về khoản nầy nữa! Cả bà không thấy ra, hay họ cố tình làm ngơ. Vì xem ra cả hai bà đều tỏ ý hài lòng, hài lòng lắm. Mà đó chỉ mới là hoa đầu mùa thôi đấy, còn những quả chín sau nầy nữa kia! Ở đây điều quan trọng hơn hết không phải là sự bủn xỉn, tính hám lợi mà chính là cái giọng điệu. Đó cũng sẽ là cái giọng điệu sau nầy khi đã hoàn thành việc cưới xin: đó là một lời sấm truyền! Mà sao bà cụ lại nảy ra những ý định chơi ngông như vậy được nhỉ? Có được bao nhiêu tiền mà dám đi Petersburg. "Trong túi chỉ có ba rúp hay chỉ có "hai tờ" như… mụ già kia nói… Hừm… Rồi bà cụ trông mong vào cái gì mà sinh sống ở Petersburg". Vì qua một vài triệu chứng nào đó, bà cụ cũng đã đoán là cưới xin xong cụ sẽ không thể sống chung với Dunia được dù chỉ trong thời gian đầu kia mà? Chắc là con người khả ái ấy đã lỡ lời để lộ tâm địa của hắn ra, tuy thế bà cụ vẫn cứ muốn dối mình, nói "nhưng mà mẹ sẽ từ chối".
Bà cụ còn chờ đợi cái gì, còn biết trông mong vào ai nữa kia chứ? Vào số một trăm hai mươi rúp tiền lương quà phụ hẳn? Nhưng lại còn phải khấu trừ vào khoản tạm vay của Aphanaxi Ivanovich! Rồi từ hồi suốt mùa đông bà cụ sẽ cặm cụi ngồi đan khăn trùm, găng tay, chỉ tổ làm hỏng đôi mắt già thôi. Nhưng chàng biết thừa là những thứ khăn khiếc ấy cũng chỉ thêm được hai mươi rúp một năm là cùng. Thế nghĩa là cuối cùng hai bà vẫn trông mong vào tấm lòng hào hiệp của ông Lugin: "Chính anh ấy sẽ yêu cầu mẹ nhận". Cụ cứ mà tin vào! Những tâm hồn cao thượng tuyệt vời theo kiểu Sinle thường vẫn hay thế đấy; đến phút cuối cùng, họ vẫn cứ thích cắm lông công vào mình quạ, họ chỉ trông mong vào cái tốt mà không nhìn thấy cái xấu, và tuy đã thấy trước mặt trái chiếc huân chương, họ không đời nào dám gọi đích danh ra. Chỉ nghĩ đến chuyện ấy thôi họ cũng đã quá khổ tâm rồi; họ dang cả hai tay ra bưng bít sự thật cho đến khi con người họ tô vẽ dở mặt hẳn hoi, họ mới chịu. À, không hiểu cái lão Lugin kia có được tấm huân chương huân chiếc nào không? Chắc hắn ta có huân chương Anna, và ta có thể cam đoan là khi nào đánh chén với những tay thầu khoán hay lái buôn, hắn ta vẫn trương tấm huân chương lên khuy áo. Chắc đến lễ cưới hắn cùng sẽ đeo. Mà thôi, kệ mẹ hắn?… Ừ thì thôi, về phần bà cụ thì xin Chúa phù hộ! Bà cụ vốn thế rồi không bàn đến nữa, nhưng còn Dunia? Dunia thân yêu của anh, anh biết rõ em lắm. Hồi ấy, khi gặp nhau lần cuối cùng, em đã hai mươi tuổi rồi còn gì? Anh đã hiểu được tính tình của em. Trong thư, bà cụ nói là Dunia "có thể chịu đựng nhiều". Điều đó thì anh đã rõ.
Anh đã biết rõ từ hai năm rưỡi nay, và từ hai năm rưỡi nay anh chỉ nghi đến điều đó. Chính thế, chỉ nghĩ đến việc "Dunia có thể chịu đựng nhiều. Dunia đã từng chịu được một tay như Xvidrigailov thì tất cả những hậu quả ê chề như vậy tất nhiên phải giỏi chịu đựng lắm. Và bây giờ Dunia bà cụ lại tưởng tượng là cũng có thể chịu đựng được một ông Lugin, con người đã thuyết lý rằng nên lấy những người dàn bà bị lâm vào cảnh khốn cùng và phải chịu ơn chồng, mà lại thuyết lý ngay trong buòi gặp gỡ đầu tiên. Được, thôi cứ cho là hắn "lỡ lời" tuy hắn ta vốn là hay chủ lý (nghĩa là có thể hắn ta chẳng lờ lời tí nào cả, mà chẳng qua chỉ vì muốn giãi bày cái tâm địa của hắn ra cho thật nhanh mà thôi). Nhưng còn Dunia thì sao? Nó biết thừa tâm địa thằng cha ấy, để mà lại cam tâm sống với hắn? Nó thà ăn bánh mì đen, thà uống nước lã, chứ không đời nào chịu bán linh hồn. Nó không đời nào từ bỏ tự do tinh thần của nó để đổi lấy một sự tiện nghi nào, ngay để đổi lấy cả công quốc Slezwig - Holstein nó cũng không thèm, huống chi là lấy Lugin. Không, ta biết Dunia không phải thế và ngay cho đến nay nhất định em ta vẫn không thay đôi gì… Làm sao được?
Ở nhà Xvidrigailov khổ lắm! Suốt đời, vì hai trăm rúp mà cứ phải lang thang hết huyện nầy huyện nọ làm nghề gia sư cùng khổ! Nhưng ta biết em ta thà chịu làm kiếp tôi mọi cho một tên chủ đồn diễn, thà cam chịu số phận của một người Estonia dưới ách của người Đức Ostsee (2) còn hơn là để cho tâm hồn và tình cảm mình bị nhơ bẩn, hèn hạ đi - bằng cách suốt đời trao thân cho một con người mà nó không hề kính trọng, không hề có chút thiện cảm, chỉ vì lợi ích riêng của bản thân. Và dù cho bản thân ông Lugin có là vàng thoi ngọc tảng đi chăng nữa thì cũng không bao giờ em ta chịu làm nàng hầu hợp pháp của hắn. Thế thì tại sao bây giờ lại chịu? Vì cái lẽ bí ẩn gì thế? Điều bí quyết ở đâu? Vấn đề đã quá rõ: nếu vì bản thân mình, vì muốn yên ấm cho cá nhân mình hay để cứu sống cả tính mạng mình nữa, nhất định em ta sẽ không bán mình, nhưng nếu vì một người khác, đúng thế, em ta sẽ bán mình. Vì hạnh phúc của một người thân yêu quý, em ta sẽ bán mình. Đấy, tất cả mọi điều bí ẩn chính là ở đấy: nó bán mình vì hạnh phúc của anh, của mẹ. Bán tất! Ồ! Khi cần, chúng ta phải biết nén ngay cả tính tự trọng lại. Rồi nào là tự do, yên hàn, cả đến lương tâm nữa, tất, tất cả đều đem ra chợ tầm tầm hết. Cuộc đời ta cứ việc mà đi tong! Miễn sao những người thân thích của ta được sung sướng! Mà đã hết đâu. Rồi ta tự sáng lập ra một khoa quỷ biện riêng, ta sẽ học hỏi các giáo sĩ dòng Tên (3) và có lẽ ta sẽ được yên lòng trong một thờỉ gian, ta sẽ tự thuyết phục là sự thể phải thế, ắt phải thế mới thực hiện được mục đích tốt đẹp kia.
Chúng ta đang ở trong tình thế như vậy đó, vấn đề đã sáng rõ như ban ngày. Chính Rodion Romanovich Raxkonikov chứ chẳng còn ai khác vào đây nữa, chính hắn là nhân vật chủ yếu trong câu chuyện nầy. Còn gì nữa? Phải đảm bảo nào là hạnh phúc nào là tiền đồ cho hắn, chu cấp cho hắn học đến đại học, xoay cho hắn một chân cộng tác viên trong một phòng giấy trạng sư, rồi hắn sẽ trở nên giàu có, hiển hách, sẽ được mọi người kính trọng, và có lẽ rốt đời lại còn nổi tiếng nữa là khác? Còn bà mẹ? Thì đã có Rodia, thằng Rodia yêu quý đứa con đầu lòng: đứa con nuông chiều của bà đấy thôi. Và lẽ nào lại không hy sinh ngay cả đứa con gái như thế kia cho thằng con trai đầu lòng yêu quý nầy được. Ôi! Những tấm lòng thân yêu và bất công của tôi ơi! Còn sao nữa: dù có phải chịu nhận lấy số phận của Sonya ta chắc họ cũng chẳng, từ kia mà: Sonya, Sonya Marmelazovna, Sonya vĩnh hằng, hễ còn trời đất là Sonya vẫn còn mãi mãi. Sonya, Dunia, hai người đã lường hết được tâm lớn lao của sự hy sinh nầy chưa. Hy sinh như vậy có đúng không? Hai người đã lượng sức mình chưa, đã cân nhắc hơn thiệt chưa? Có hợp lý không? Dunia, em có thấy không, số phận của Sonya không hèn kém hơn tí nào so với số phận em phải chung sống với ông Lugin? Mẹ nói "đây chẳng phải chuyện yêu đương gì". Thế thì sao, nếu không những không có tình yêu, mà cả lòng mến phục cũng không có nốt, trái lại chưa chi đã có sự khinh bỉ, ghê tởm, chán ghét thì thế nào? Lúc bấy giờ rồi cũng lại phải quan tâm "giữ gìn sự sạch sẽ" như Sonya chứ gì? Không phải thế sao? Em có hiểu không, em có hiểu rõ cái thứ sạch sẽ có nghĩa là thế nào không? Em có hiểu chăng cái sạch sẽ của một ông Lugin cũng hệt như cái sạch sẽ của Sonya thôi; có thể nó còn tệ hơn, hèn hạ hơn, bỉ ổi hơn nữa là đằng khác, vì với em dù sao đó cũng là một sự tính toán để sống cho thoải mái hơn, còn với Sonya thì tất cả chung quy chỉ cốt làm sao cho khỏi chết đói! "Thứ sạch sẽ" đó, Dunia ạ, thứ sạch sẽ đó đắt tiền lắm đấy! Rồi sau nầy, nếu không chịu đựng nổi nữa, em có ân hận không. Rồi nào là đau buồn tủi cực, nào là những lời nguyền rủa, những giọt nước mắt mà em phải âm thầm giấu giếm đi vì em có phải là bà Marfa Pavlovna đâu. Còn mẹ, rồi mẹ sẽ ra sao? Bây giờ mà mẹ đã lo lắng khổ sở rồi thì sau nầy khi thấy rõ tất cả, mẹ sẽ như thế nào? Còn tôi?… Nhưng các người coi tôi là thư người gì? Dunia… anh không thể nhận hy sinh của em, mẹ ơi, con không muốn thế! Không được, tôi mà còn sống thì cuộc hôn nhân ấy nhất định không thành? Tôi không đời nào chịu thế!"
Raxkonikov bỗng sực tỉnh và ngừng lầm bẩm.
"Cuộc hôn nhân ấy nhất định sẽ không thành? Nhưng mày, mày làm được những gì để cho nó không thành? Mày cấm hẳn? Mày có quyền gì mà cấm? Về phía mày, mày có thể hứa hẹn gì với họ để có quyền cấm họ? Tất cả cuộc sống của mày ư, tất cả tương lai của mày ư, mày sẽ đem hiến dâng cho họ khi nào mày tốt nghiệp và tìm được tiệc làm chăng? Chuyện ấy nghe nhàm lắm rồi! Vả chăng đó là chuyện tương lai, chứ còn hiện tại thì thế nào? Vì trong trường hợp nầy phải làm một cái gì ngay từ bây giờ kia, hiểu chưa? Thế bây giờ mày làm gì nào? Mày sống bám vào mẹ và em, chứ còn gì nữa! Thì những món tiền ấy, mẹ và em mày đã phải xoay xở bằng cách vay vào số lương quả phụ hàng năm và lấy ở số tiền công của nhà Xvidrigailov đấy thôi? Mày có cách gì dể cho họ đỡ khổ với bọn Xvidrigailov Aphanaxi Ivanovich Vakhrusin, hỡi nhà triệu phú tương lai kia? Mày tưởng mày là một vị thần Zeus có thể xếp đặt số phận của họ đấy hẳn? Trong mười năm nữa ấy à? Nhưng mười năm nữa thì mẹ mày sẽ có đủ thì giờ, để loà cả đôi mắt vì đan khăn, và có thể cũng vì khóc quá nhiều, mẹ mày sẽ héo hon đi vì nhịn đói, còn em mày? Thử nghĩ mà xem, sau mười năm nó sẽ ra sao, mà ngay trong mười năm ấy nữa, nó sẽ phải sống thế nào? Thế nào, mày đã đoán ra chưa".
Chàng tự dằn vặt mình với những câu hỏi như vậy trong lòng không khỏi có một cảm giác khoái lạc.
Vả chăng, đối với chàng, những câu hỏi ấy không có gì là mới mẻ đột ngột cả, đã cũ lắm rồi, đã được nghiền đi ngẫm lại chán đi rồi. Trước đây chàng đã bị nó quấy rầy, cắn rứt từ lâu lắm rồi. Nỗi u uất ấy đã nảy sinh, bành trướng, tích tụ lại trong lòng chàng, nhưng gần đây nó đã chín muồi và ùn ùn cô đặc lại thành một câu hỏi khủng khiếp, man rợ, quái đản, cứ dày vò trái tim và khối óc của chàng, tàn nhẫn thúc bách chàng giải đáp. Và giờ đây, bức thư của mẹ chàng bỗng giáng xuống chàng như một tiếng sét. Bây giờ quả không còn là lúc u sầu đau khổ một cách bị động, tự nhủ rằng mọi bài toán đều nan giải, bây giờ phải quyết định làm một việc gì đây, ngay tức khắc, càng sớm càng tốt. Bất nhược ra sao cũng phải quyết định một cái gì, hay là…
"Hay từ bỏ hẳn cuộc sống! - chàng bỗng nổi xung gào to lên, - số phận ra sao cũng ngoan ngoãn nhận lấy vĩnh viễn bóp nghẹt tất cả trong ta, từ bỏ mọi quyền hành động. quyền sống, quyền yêu!"
"Ông có hiểu không, thưa ông, ông có hiểu không biết đi đâu nữa nghĩa là thế nào không - chàng bất giác lặp lại câu hỏi của Marmelazov hôm qua, "vì phàm đã là người tất phải có một nơi nào để mà đi đến chứ!"
Chàng bỗng rùng mình, một ý nghĩ hiện lên trong óc chàng: vẫn ý nghĩ ấy. Ý nghĩ hôm qua. Nhưng chàng rùng mình không phải vì ý nghĩ đó, lại hiện ra. Chàng biết rõ, chàng "linh cảm" thấy thế nào nó cũng "sẽ hiện ra" và chàng đã đợi sẵn, vả chăng đây cũng chẳng phải là ý nghĩ hôm qua nữa. Có chỗ khác là một tháng trước đây và cả tối hôm qua cũng thế, nó chỉ mới là mộng tưởng, nhưng nay… nay nó không còn là mộng tưởng nữa, nó xuất hiện với một hình dạng mới, đầy vẻ hăm doạ, hoàn toàn xa lạ đối với chàng, và chàng bỗng nhận thức được, điều đó… Trong đầu chàng, máu dồn lên rần rật, mắt chàng hoa lên. Chàng vội vã nhìn quanh, tìm một vật gì. Chàng muốn ngồi xuống, chàng tìm một cái ghế, lúc bấy giờ chàng đang đi trên đại lộ K… Cách đây chừng một trãm bước có một chiếc ghế dài. Chàng đi thật nhanh đến phía ấy, nhưng giữa đường một biến cố nhỏ đã xảy ra, thu hút hết sự chú ý của chàng trong vòng mấy phút.
Trong khi đưa mắt tìm ghế ngồi, chàng chợt trông thấy một người con gái đi trước mặt chàng, cách độ vài chục bước. Lúc đầu chàng không mảy may chú ý đến người kia, cũng như đối với mọi vật khác bây giờ vẫn loáng thoáng trước mặt chàng. Có nhiều lần, trên đường về nhà chẳng hạn, chàng quên bẵng cả những con đường vừa mới đi qua, và chàng cũng đã quen đi như thế.
Nhưng ở người con gái đang đi trước mặt kia có một cả gì kỳ lạ đập ngay vào mặt khiến chàng dần dần cứ phải chú ý đến cô ta hơn, lúc đầu còn miễn cưỡng và dường như bực mình nữa, nhưng rồi mỗi lúc một tập trung hơn. Chàng bỗng thấy lòng háo hức muốn biết cụ thể cái gì làm cho người con gái kia có vẻ kỳ lạ như vậy Trước hết, trông cô ta chắc còn ít tuổi lắm.
Trời nắng chang chang thế nầy mà cô ta đi đầu trần, không che ô, không đeo găng, tay đung đưa trông rất lố lăng. Cô ta mặc chiếc áo dài bằng hàng mỏng, mà ngay chiếc áo cũng vận xộc xệch lạ thường, cúc chỉ gài hờ, thân sau thì bị rách ở ngay dưới thắt lưng: cả một mảng áo bị xé toạc còn dính lủng lẳng. Một chiếc khăn trùm nhỏ tụt xuống cái cổ để trần, nhưng cũng xô lệch hẳn ra một bên. Hơn nữa, cô ta lại đi bước thấp bước cao, chân nam đá chân chiêu, thậm chí cả người còn ngả nghiêng đủ bốn phía nữa là khác. Cuộc gặp gỡ đó cuối cùng đã thức tỉnh hết sức chú ý của Raxkonikov.
Chàng bắt kịp người thiếu nữ vừa khi cô ta bước gần tới ghế; nhưng vừa đến nơi, cô ta cứ thế: buông người rơi phịch xuống một đầu ghế, đầu ngả vào lưng tựa, và nhắm mắt lại, có lẽ vì đã mệt lả. Mới thoạt trông, chàng cũng biết ngay là cô ta đang say mềm. Cảnh tượng thật là kỳ lạ và quái gở. Thậm chí chàng đâm ngờ, không biết mình có trông nhầm không. Trước mặt chàng là một khuôn mặt thanh thanh, trẻ măng, có lẽ chỉ đến mười lăm, mười sáu tuổi là cùng, xung quanh loà xoà mấy món tóc vàng, một khuôn mặt xinh xắn, nhưng lại đỏ bừng và trông như sưng phị. Cô thiếu nữ hình như chẳng còn, biết gì nữa; cô ta ngồi vắt chéo chân một cách hớ hênh, cứ nhìn cũng biết cô ta hầu như không có ý thức là mình đang ở ngoài phố.
Raxkonikov không ngồi xuống, cũng không muốn bỏ đi, mà cứ phân vân đứng yên trước mặt cô ta. Phố nầy xưa nay vẫn vắng; lúc ấy vào quãng hơn một giờ trưa, lại nắng như thế kia, nên hầu như không có ai qua đường: Thế nhưng, cách đây chừng mười lăm bước, cũng đã có một người đàn ông đang đứng trên vỉa hè, cứ nhìn qua, cũng đủ biết là hắn ta đang muốn lại gần cô thiếu nữ với một ý định nào đó. Có thể hắn ta cũng đã thấy cô thiếu nữ từ xa và đi theo cô ta, nhưng vì có Raxkonikov nên hắn còn ngần ngại. Hắn ném về phía chàng những cái nhìn hằn học, song cũng cố giấu khong cho chàng thấy hắn nhìn như vậy và sốt ruột đợi cho người thanh niên rách rưới đáng ghét kia rút đi, nhường chỗ cho hắn. Tình thế thật đã rõ? Người đàn ông kia trạc ba mươi, dáng người phốp pháp đẫy đã, mặt mày hồng hào trắng trẻo, môi đỏ, mép lún phún tí ria, ăn mặc rất bảnh bao. Raxkonikov tức giận đến cực độ: chàng chợt nảy ra ý: tìm cách làm cho gã ăn diện kia bẽ mặt một mẻ. Chàng rời cô thiếu nữ một lát và tiến về phía hắn, tay nắm chặt, quát lớn:
- Nầy, ông kia, Xvidrigailov! Ông lảng vảng làm gì ở đấy? - chàng cười gằn;, bọt sùi cả ra mép vì tức giận.
Thế là nghĩa lý gì? - Gã kia cau mày, cất tiếng hỏi nghiêmn ghị, tỏ ý ngạc nhiên, một cách trịch thượng.
- Xéo ngay đi, chỉ có thế thôi! - Mày dám láo à? Đồ chó má…
Hắn vung roi lên, Raxkonikov vung hai quả đấm lao đến, thậm chí cũng không kịp nghĩ là gã kia người to béo như vậy tất có thể hạ một lúc hai người sức vóc như chàng. Nhưng ngay lúc ấy, có ai ở phía sau giữ lấy chàng lại: một viên cảnh sát…
- Nầy! Các ông kia, không được đánh nhau ở nơi công cộng. Các ông muốn gì? Ông là ai? - Viên cảnh sát nghiêm khắc hỏi Raxkonikov sau khi ngắm nghía bộ y phục rách rưới của chàng.
Raxkonikov chăm chú nhìn viên cảnh sát. Hắn có gương mặt thật thà mà rắn rỏi của một người lính, râu mép và râu má màu tiêu muối, đôi mắt khá thông minh.
- Chính tôi đang cần gặp ông đấy! - Chàng nắm tay viên cảnh sát reo lên - Tôi là một cựu sinh viên. Tôi là Raxkonikov… - chàng quay về phía gã kia nói tiếp - còn ông, mời ông lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông xem cái nầy…
Và chàng nắm tay người cảnh sát lôi về phía chiếc ghế.
- Đây ông xem, cô ta say mềm; lúc nãy cô ta đi giữa đại lộ, cũng không rõ con cái nhà ai, thuộc hạng người nào; nhưng trông không phải là gái chuyên nghiệp. Điều rõ nhất là cô ta đã bị phục rượu và bị lợi dụng… lần đầu tiên… Ông hiểu chứ? Rồi người ta cứ thế đẩy cô ra đường? Ông cứ nhìn chiếc áo bị xé rách và xem cách mặc áo thì rõ; không phải tự cô ta mặc lấy mà do người khác mặc vào, do những bàn tay vụng về của một người đàn ông. Đấy, cứ nhìn thì thấy. Bây giờ ông nhìn kia xem, cái gã bảnh bao suýt nữa đánh nhau với tôi kia, tôi không quen biết hắn, cũng chỉ mới gặp lần đầu; nhưng trên đường đi hắn ta cũng đã để ý đến cô nầy; hắn thấy cô ta say mềm không biết gì nữa, liền nảy ý muốn đến kéo cô ta đi đâu đấy trong lúc cô ta đang mê man như vậy… Chắc chắn như thế đấy, tôi không lầm đâu ông cứ tin lời tôi. Chính mắt tôi trông thấy hắn hau háu theo dõi cô ta; song vì có tôi nên hắn chưa dám làm gì, và đến bây giờ hắn vẫn đang chờ cho tôi đi khỏi. Đấy ông xem, bây giờ hắn lại đứng xa ra một tí giả vờ cuốn thuốc lá! Làm sao đừng để cho hắn lôi cô gái nầy đi? Làm thế nào đưa cô ta về nhà? Ông thứ nghĩ xem?
Người cảnh sát hiểu ngay sự tình và suy nghĩ một lát. Gã to léo kia thì dễ hiểu quá rồi; nhưng còn cô con gái? Người lính già cúi xuống nhìn cho kỹ hơn, và gương mặt để lộ một niềm thương xót chân thành. Bác lắc đầu nói:
- Khổ thân quá! Hãy còn như con nít ấy. Người ta đã lừa dối, lợi dụng cô ấy. Đúng, đúng thế. Cô ơi, cô có nghe không - bác cất tiếng gọi - nhà cô ở đâu?
Cô bé mở đôi mắt mệt mỏi, ngây dại, sững sờ nhìn những người đang hỏi cô rồi khoát tay như muốn xua đuổi.
- Nầy đây, - Raxkonikov thọc tay vào túi, vốc ra được độ hai mươi cô-pếch còn lại và nói - nầy, ông gọi một chiếc xe và bảo người đánh xe đưa cô ta về nhà. Làm sao biết được địa chỉ của cô ta bây giờ!
- Cô ơi, cô! - người cảnh sát cầm tiền xông lại gọi. - Tôi sẽ gọi ngay một chiếc xe và tự tôi sẽ đưa cô về. Cô muốn đi đâu bây giờ? Hở? Nhà cô ở đâu?
- Yên!… cứ quấy người ta? - cô bé lầm bẩm rồi lại khoát tay.
- Ồ, ồ? Thế không tốt đâu? Cô không thấy thẹn à không biết xấu hồ à? - Bác ta lại lắc đầu, vừa thương hại vừa bực mình, rồi quay về phía Raxkonikov nói - Rắc rối đấy! - đoạn lại đưa mắt nhìn kỹ chàng từ đầu đến chân, chắc bác ta lấy làm lạ sao chàng rách rưới như thế mà lại có tiền đem cho không.
- Anh gặp cô ta có xa đây không? - Bác hỏi.
- Thì tôi đã nói cô ta đi trước mặt tôi, láo đảo trên đường phố kia, vừa đến ghế là cô ta cứ thế gieo phịch người xuống.
- Trời ơi! Nghĩ đến phong hoá thời bấy giờ mà xấu hổ! Nhóc như thế kia mà đã say rượu! Bị người ta lừa phinh rồi, không sai vào đâu nữa! Xem, cái áo rách thế kia… Thời buổi đồi bại quá chừng! Có lẽ cũng con nhà tử tế nhưng nghèo túng… Cảnh ấy bây giờ cũng nhiều lắm. Xem ra cùng là con nhà được nuông chiều, trông như một tiểu thư ấy.
Bác lại cúi xuống nhìn cô gái. Có thể là bác cũng có những đứa con gái như thế, những đứa con gái "trông như những tiểu thư được nuông chiều được giáo dục tử tế nhưng lệch lạc, bị tiêm nhiễm đủ các thói kiểu cách thời thượng.
Raxkonikov băn khoăn nói:
- Cái chính là đừng để cô ta rơi vào tay cái thằng đểu cáng kia. Hắn sẽ làm nhục cô ta lần nữa! Hắn muốn gì thì đã rõ quá đi rồi; hắn vẫn chưa chịu di, quân chó đểu!
Raxkonikov vừa nói to lên vừa đưa ngón tay chỉ thẳng vào gã ăn diện kia. Gã nầy nghe thấy thế, sắp sửa lại nổi đoá lên, nhưng rồi nghĩ sao lại thôi và chỉ khinh khỉnh đưa mắt nhìn chàng. Đoạn hắn thong thả đi xa ra mươi bước nữa rồi dừng lại.
- Không để rơi vào tay nó thì dễ thôi - người hạ sĩ quan cảnh sát trầm ngâm đáp - Miễn là cô ta chịu nói rõ địa chí của cô, không thì… Cô ơi, cô! - bác ta lại cúi xuống gọi.
Người con gái bỗng mở choàng mắt, nhìn chăm chú, dường như đã hiểu ra, cô vụt đứng dậy đi ngược lại hướng lúc nãy cô vừa mới đến, tay vẫn như muốn xua đuổi ai, mồm làu bàu:
- Hừ, cái đồ trơ trẽn, cứ bám lấy người ta!
Cô ta đi nhanh, nhưng bước chân vẫn lảo đảo. Gã công tử bảnh bao kia lại lẽo đẽo theo sau, không rời mắt, nhưng lại đi ở lề đường bên kia.
- Anh cứ yên chí, tôi không để cho nó làm bậy đâu! - Người linh già râu ria quả quyết nói và theo hút hai người kia.
- Thời buổi đâu đồi bại quá chừng! - Bác ta lại thở dài nói to lên. Ngay lúc đó, Raxkonikov bỗng cảm thấy như bị tiêm một mũi thuốc gì quái lạ; thoáng một cái ý nghĩ của chàng như đảo ngược hẳn lại, chàng gọi với theo người lính già.
- Nầy, khoan hẵng!
Bác ta quay lại.
- Thôi, ông cứ để mặc họ! Dính đến họ làm gì? Cứ để cho hắn giải trí một tí đã sao? - Chàng trỏ gã công tử - Việc gì đến ông?
Người cảnh sát trố mắt nhìn chàng, không hiểu ra làm sao nữa. Raxkonikov cười phá lên.
- Xì! - người cảnh sát khoát tay một cái rồi lại bám sát gã công tử và cô con gái. Chắc ông ta cho Raxkonikov là một thằng điên hay là một thứ gì còn tệ hơn nữa.
Còn lại một mình, Raxkonikov bực bội lẩm bẩm.
- Thế là lão cầm đi của mình mất hai mươi cô-pếch.
"Thôi lão cũng cứ lấy tiền của tên kia nữa đi, rồi tha cô gái ra cho nó, thế là xong… Mà sao ta lại dây vào chuyện nầy làm gì? Muốn cứu giúp à? Ta thì cứu giúp gì? Ta có quyền gì mà cứu giúp? Thiên hạ cứ ăn tươi nuốt sống nhau đi, chẳng can gì đến ta cả! Mà sao ta lại dám vung hai mươi cô-pếch ấy đi? Có phải tiền của ta đâu?". Tuy nói năng lạ kỳ như vậy, chàng cũng vẫn thấy rất khổ tâm. Chàng ngồi xuống chiếc ghế bỏ không và suy nghĩ lan man… Vả chăng lúc nầy chàng thật khó lòng nghĩ đến một điều gì cụ thể. Chàng ao ước được mê man đi, được quên hết tất cả đề rồi thức dậy và làm lại một cuộc đời mới mẻ hoàn toàn.
Nhìn sang đầu ghế bó trống, chàng lẩm bẩm:
- Tội nghiệp cô bé. Cô ta sẽ tính lại, khóc lóc, rồi mẹ cô sẽ rõ chuyện - Thế là, đánh đập xỉ vả cô ta cho kỳ đau đớn nhục nhã, có thể còn đuổi cô ra khỏi nhà nữa… Cho là không bị đuổi chăng thì cũng có một mụ Darya Frantxovna nào đó đánh hơi được câu chuyện, thế là cô bé sẽ lăn lóc hết tay nầy sang tay khác… Rồi ngay sau đó là vào nhà thương bước đường tất nhiên xưa nay của các cô gái sống quá nết na bên cạnh mẹ nhưng lại giấu mẹ đi ăn mảnh rồi sau đó… sau đó lại vào nhà thương… rượu chè… tiệm xá… rồi lại nhà thương… hai ba năm sau thì chỉ còn là một người tàn phế. Ấy mới mười tám, mười chín tuổi mà đã đi đến cái nước ấy… thế là xong! Ta lại chưa thấy khối những trường hợp như thế sao? Nhưng làm sao họ lại đến nỗi như vậy. Ồ! Thôi, phớt di! Sự đời là phải thế! Họ bảo mỗi năm tất phải có một tỷ lệ phần trăm nào đấy đến khi đi đâu không rõ, chắc là cho về nhà ma… để kẻ khác dễ thở và để khỏi vướng chân họ. Một tỷ lệ phần trăm! Họ dùng chữ tài thật. Nghe mà yên tâm hẳn lại, ra vẻ khoa học lắm đã nói "phần trăm" thì không còn phải lo lắng gì nữa. Ồ giá là một chữ khác thì… có lẽ sẽ đáng lo ngại hơn. Mà ví như Duneska vì một lý do nào đó, bị rơi vào cái số tỷ lệ phần trăm nầy thì sẽ ra sao?… Không rơi vào số nầy thì lại rơi vào số khác?
"Nhưng mình đang đi đâu thế nầy? - chàng chợt nghĩ - Lạ thật. Mình ra đi có mục đích kia mà. Đọc thư xong là mình ra đi… Ờ, nhớ ra rồi, phải đến nhà Razumikhin ở đảo Vaxili. Nhưng để làm gì mới được chứ. Mà sao tự dưng mình lại nẩy ra cái ý đến nhà Razumikhin. Kể cũng lạ!".
Chàng cũng tự lấy làm lạ với mình. Razumikhin là một người bạn học cũ của hàng ở Đại học. Điều đáng chú ý là hồi còn đi học, Raxkonikov hầu như không có bạn bè; chàng tránh mọi người, không đến nhà ai mà cũng không thích tiếp ai. Vả lại chẳng bao lâu mọi người cũng xa lánh chàng. Chàng không bao giờ tham gia vào những cuộc hội họp, những buổi chuyện trò, những cuộc vui chung của bạn bè. Chàng ra sức miệt mài học tập không hề nương nhẹ mình, bạn bè kính nể chàng cũng vì thế, nhưng không ai mến chàng.
Chàng rất nghèo, kiêu ngạo đến khinh người và ít cởi mở lúc nào trông chàng cũng như đang nghiền ngẫm một chuyện gì thầm kín. Một số bạn cùng lớp nhận thấy chàng có một lối nhìn khinh khỉnh, kể cả đối với họn họ, coi họ như trẻ con, dường như tự cho mình hơn hẳn họ về trí thông minh, về trình độ hiểu biết, và về các quan niệm tư tưởng, và xem những niềm tin tưởng, những hứng thú của họ như một cái gì thấp kém.
Tuy vậy, không rõ vì sao, chàng cùng đã kết thân với Razumikhin, nói đúng ra thì không phải là kết thân, nhưng đối với anh nầy chàng cởi mở thẳng thắn hơn với mọi người khác. Vả chăng, với Razumikhin thì cũng không thể nào đối xử khác thế được. Anh là một chàng thanh niên cực kỳ vui tính và cởi mở xuề xoà, tất bụng đến gần như ngây ngô. Nhưng cái bề ngoài ngây ngô ấy lại che giấu một trí tuệ sâu sắc và một tâm hồn biết tự trọng. Các bạn thân nhất đều biết rõ điều đó, và mọi người đều yêu mến anh. Anh không khờ khạo tí nào, tuy đôi khi quả thật có ngây thơ. Hình thức bên ngoài của anh chàng khá tiêu biểu: cao, gầy, râu bao giờ cũng cạo dối nham nhở, tóc đen láy. Thỉnh thoảng anh cũng nổi cơn phá quấy và xưa nay vẫn có tiếng là khỏe như vâm. Có một bận, đang đêm, trong khi rong chơi với bạn bè, anh đã đánh ngã một viên cảnh sát cao gần hai thước. Anh có tài uống rượu liền tù tì bao nhiêu cũng hết, song cũng có thể nhịn hẳn không uống qua lấy một giọt, thỉnh thoảng anh ta cũng vui chơi phóng đãng quá mức, nhưng cũng có thể hoàn toàn kiềm chế mình. Ở Razumikhin còn một điều đáng chú ý nữa là dù có thất bại ê chề anh cũng không hề nao núng, dù hoàn cảnh bị đát đến đâu anh cũng không sờn lòng. Chỗ nào anh cũng ở được, dù là trên nóc nhà cũng xong; những cơn rét xé da xé thịt, những trận đói cồn ruột cồn gan anh đều chịu được hết. Anh ta rất nghêo, và nhất thiết tự mình làm lấy đủ mọi công việc để kiếm tiền sinh sống. Anh ta biết số đầu mối có thể xoay được tiền, tất nhiên là bằng cách làm lụng. Có lần anh ta đã sống suốt một mùa đông mà không đốt lò sưởi quả quyết rằng như vậy lại đâm ra dễ chịu hơn, vì lạnh ngủ ngon hơn. Lúc nầy anh đang phải bỏ học, nhưng anh tin là chỉ bỏ học trong một thời gian ngắn thôi, và anh hối hả cố gắng hết sức xoay chuyển tình thế để có thể tiếp tục theo học. Đã hơn bốn tháng nay, Raxkonikov không đến nhà anh và Razumỉkhin cũng không biết chàng ở đâu nữa. Cách đây hai tháng, có lần hai người tình cờ gặp nhau ngoài phố, song Raxkonikov đã quay mặt đi và bước sang vỉa hè bên kia để anh ta khỏi trông thấy. Tuy đã nhận ra chàng mười mươi, Razumikhin cũng cứ làm lơ bước thẳng vì không muốn làm phiền bạn!
Chú thích:
(1) Tên ngọn núi dùng làm pháp trường đóng đinh Chúa Jesus trên giá chữ thập.
(2) Miền duyên hải Baltic thuộc Đức.
(3) Một dòng giáo sĩ công giáo, nổi tiếng vì những thủ đoạn vô liêm sỉ che giấu dưới những lối biện luận xảo trá (Jesuistes)
Chương 5
"Quả nhiên cách đây ít lâu mình có lần định nhờ Razumikhin tìm hộ việc làm, kiếm chỗ dạy học hay một công việc gì khác… - Raxkonikov suy nghĩ, - nhưng bây giờ thì liệư hắn ta có thể giúp được gì cho mình? Cứ thử cho là Razumikhin sẽ kiếm được chỗ dạy học, hay chia xẻ với mình đồng cô-pếch cuối cùng, nếu hắn ta còn được một đồng cô-pếch, thành thử có thể mua được đôi giầy và vả lại bộ quần áo cho tươm tươm mà đi dạy… hừm… ừ thế rồi sao nữa? Ta sẽ làm gì với mấy đồng cô-pếch ấy? Chả nhẽ bây giờ mà ta lại cần đến thứ đó? Thật đấy, đến nhà Razumikhin thì buồn cười thật…
Vấn đề tại sao bây giờ lại đến nhà Razumikhin khiến chàng bứt rứt hơn là chính chàng có thể tưởng; Chàng lo lắng tìm tòi một ý nghĩa gì chẳng lành trong cái hành động có vẻ như hết sức bình thường ấy.
"Sao thế nhỉ, lẽ nào ta lại mong cậy vào mỗi một mình Razumikhin để thu xếp mọi việc và tìm lối thoát cho tất cả?" - Raxkonikov ngạc nhiên tự hỏi.
Chàng bóp trán suy nghĩ, và lạ thay, sau một hồi lâu băn khoăn như vậy, bỗng nhiên một ý nghĩ hết sức kỳ lạ từ đâu vụt hiện lên trong óc chàng.
"Hừm, đến Razumikhin, - chàng bỗng thết lên, hoàn toàn điềm tính, như nói đến một điều đã quyết định dứt khoát. - Thì ta sẽ đến Razumikhin, lẽ tất nhiên là như thế, nhưng bây giờ thì khoan hẵng… Ta sẽ đến Razumikhin một ngày sau việc ấy, khi nào việc ấy đã làm xong và sự tình đã khác hẳn…
Rồi Raxkonikov bỗng sực tỉnh lại.
"Sau việc ấy, - chàng nhổm dậy thét lên, - Thế ra việc ấy sẽ xảy ra? Sẽ xảy ra thật hay sao?".
Chàng rời chiếc ghế dài, bỏ đi như chạy trốn; chàng cũng định quay trở về, nhưng nghĩ đến chuyện về phòng, chàng bỗng thấy ghê tởm quá. Chính ở đấy, trong căn phòng của chàng, ở cái xó tối, trong cái tủ khủng khiếp ấy tất cả cái đó chín muồi đã hơn một tháng nay. Chàng bỏ ý định về nhà, nhắm mắt bước thẳng.
Người chàng đã run run vì bứt rứt, bây giờ lại chuyền sang rung mạnh như trong cơn sốt; thậm chí chàng còn thấy ớn lạnh nữa; trời nóng bức như thế nầy mà chàng cảm thấy rét. Hầu như bất giác tuân theo một sự thôi thúc khẩn thiết nào ở bên trong, chàng bắt đầu gượng gạo nhìn kỹ tất cả những gì chàng trông thấy trên đường đi, dường như để tìm cách khuây khoả, nhưng làm như vậy cũng chẳng ăn thua gì mấy; cứ mỗi chốc chàng lại chìm vào tâm trạng đăm chiêu như cũ. Rồi đến khi chàng giật mình, ngẩng đầu lên nhìn quanh, chàng lại quên ngay, không nhớ mình vừa nghĩ gì, và thậm chí mình đang đi qua những chỗ nào cũng không nhớ nốt. Chàng cứ thế đi hết đảo Vaxili ra nhánh Neva con, qua cầu và rẽ vào các đảo nhỏ (1). Những khóm cây xanh rờn và quang cảnh tươi mát ở khu nầy thoạt tiên thoa dịu đôi mắt mệt mỏi của Raxkonikov đã quen với bụi bặm của phố phường, với vôi vữa và từng những toà nhà đồ sộ như muốn xô lấn, đè bẹp người ta.
Ở đây không khí không ngột ngạt, hôi hám lại không có tiệm rượu. Nhưng chẳng mấy chốc những cảm giác mới mẻ, dễ chịu nầy đã lại khiến chàng thấy nhức nhối, bực tức thỉnh thoảng chàng dừng chân trước một ngôi biệt thự đỏm dáng ẩn sau khu vườn xanh tốt, nhìn vào cổng sắt và thấy xa xa những người đàn bà ăn mặc sang trọng đứng trên các bao lơn và các sân thượng, những đứa trẻ chạy tung tăng trong vườn. Chàng chú ý đến hoa nhiều nhất; chàng nhìn chúng lâu hơn cả.
Chốc chốc chàng lại gặp những cỗ xe ngựa sang trọng, những người cưỡi ngựa rong chơi, nam có nữ có; chàng tò mò nhìn theo họ và họ chưa đi khuất chàng đã quên bẵng họ đi. Có lần chàng đứng lại đếm tiền; còn được khoảng ba mươi cô-pếch. "Hai mươi cô-pếch đưa cho viên cảnh sát, ba cô-pếch cho Naxtaxia về bức thư… - thế tức là hôm qua mình cho Marmelazov bốn mươi bảy hay năm mươi cô-pếch gì đấy" - chàng nghĩ thầm, tính toán một lúc để làm gì không rõ, nhưng chỉ một lát sau chàng đã quên bẵng đi không hiểu mình rút tiền trong túi ra để làm gì nữa. Chàng nhớ lại điều đó khi đi ngang một cửa hàng bán thức ăn, một thứ quán ăn bình dân thì đúng hơn. Lúc đó chàng mới nhớ ra rằng mình đang thèm ăn. Bước vào quán, chàng uống một cốc vodka, và mua chiếc bánh rán thịt ăn mấy miếng, phần còn lại chàng cầm theo ăn nốt dọc đường.
Đã lâu lắm chàng không. uống vodka, nên vừa uống vào đã thấy công hiệu ngay, tuy trước sau chỉ có một cốc nhỏ. Chân chàng bỗng nặng trĩu, và chàng bắt đầu thấy buồn ngủ không sao cưỡng được. Chàng quay trở về nhưng đi đến đảo Petrovxki, chàng phải đừng lại vì đã hoàn toàn kiệt sức. Chàng rẽ sang bên đường, đi vào giữa các bụi cây, gieo mình xuống thảm cỏ và lập tức ngủ thiếp đi. Những giấc mơ của một người bệnh thường rõ nét khác thường và giống hiện thực một cách lạ lùng. Đôi khi thấy hiện lên một quang cảnh kỳ quái, nhưng khung cảnh và toàn bộ quá trình diễn biến trong giấc chiêm bao có vẻ thật và đầy những chi tiết tinh vi, bất ngờ nhưng lại phù hợp với toàn bộ quang cảnh một cách tinh xảo đến nỗi giá người chiêm bao kia đang thức thì không tài nào nghĩ ra được, dù người đó có là một nghệ sĩ như Puskin hay Turgenev chăng nữa. Những giấc chiêm bao bệnh tật như vậy bao giờ cũng khắc sâu vào trí nhớ và gây một ấn tượng rất mạnh trong cơ thể, đã rối loạn và sẵn bị kích thích mạnh.
Raxkonikov thấy một giấc chiêm bao khủng khiếp.
Chàng mơ thấy lại thời thơ ấu, khi gia đình chàng còn ngụ ở cái tỉnh lỵ nhỏ hồi nào. Dạo ấy chàng lên bảy. Một ngày hè vào lúc xế chiều, bố chàng đưa chàng đi chơi ở ngoại thành. Tiết trời u ám, không khí ngột ngạt; khung cảnh nơi ấy in hệt như trong ký ức của chàng; thậm chí còn đậm nét hơn nữa là khác. Cái thị trấn nhỏ hiện rõ ra quanh chàng như nằm trên lòng bàn tay. Xung quanh không có lấy một bóng cây, chỉ xa xa mãi tít ở tận chân trời, mới thấy một khóm rừng vẽ thành một vệt sâm sẫm. Cạnh khu vườn cuối cùng của thị trấn có một quán rượu lớn xưa nay vẫn gây cho chàng một ấn tượng hết sức khó chịu, thậm chí còn làm chàng kinh hãi, mỗi khi chàng đi dạo với bố ngang qua đấy. Ở đấy lúc nào cùng có một đám đông người hò hét, cười ha hả, chửi bới nhau; họ cất giọng khàn khàn hát những bài nghe mà ghê cả người, và rất hay đánh nhau; xung quanh quán lúc nào cũng có những gã say rượu mặt mày khủng khiếp vật vờ qua lại… Gặp họ, chàng nép sát vào bố và cả thân hình chàng run bắn lên. Cạnh quán rượu có một con đường tắt lúc nào cũng bụi bặm, và bụi trên đường lúc nào cũng đen xỉn. Con đường quanh co đi ngang qua quán rượu, được chừng ba trăm bước thì ngoặt sang phải và chạy vòng quanh khu nghĩa địa của tỉnh lỵ. Giữa nghĩa địa có một ngôi nhà thờ bằng đá, mái vòm xanh; cứ mỗi năm hai lần cậu bé Raxkonikov lại theo bố mẹ đến đây xem lễ cầu hồn cho bà nội cậu đã mất từ lâu mà cậu chưa bao giờ được thấy mặt. Mỗi lần như vậy, bao giờ họ cũng mang theo chiếc bánh cúng giỗ đựng trong chiếc đĩa trắng bọc khăn bông; bánh làm bằng bột gạo trộn đường, có nhân bằng nho khô giắt vào bột thành hình chữ thập.
Raxkonikov rất thích ngôi nhà thờ nầy và những bức tượng cổ kính trong nhà thờ, phần lớn không có khung, thích cả vị linh mục già có cái đầu lắc lư. Cạnh ngôi mộ của bà chàng với phiến đá phẳng phiu, còn có một nấm mộ nho nhỏ của em trai chàng, chết từ hồi mới được sáu tháng; Raxkonikov cũng không hề biết và không thể nhớ gì về đứa em nầy; chàng chỉ nghe nói là mình có đứa em trai nhỏ, và cứ mỗi lần đến nghĩa địa, chàng lại thành kính làm dấu chữ thập trước nấm mồ nhỏ và cúi xuống hôn nó.
Và giờ đây, Raxkonikov mư thấy mình đang đi với bố trên con đường dẫn đến nghĩa địa; đi ngang quán rượu, Raxkonikov cầm tay bố và sợ hãi đưa mắt nhìn ngôi quán. Một việc khác thường khiến cậu bé chú ý, lần nầy hình như đang có một trò vui gì ở đây thì phải; cả một đám đông gồm những người đàn bà thị dân ăn mặc như ngày hội, những cặp vợ chồng nông dân và cả một lũ người du thủ du thực. Ai nấy đều say khướt, lè nhè cất tiếng hát nghêu ngao. Bên thềm quán rượu có một chiếc xe giàn đỗ lại. Chiếc xe trông rất kỳ dị.
Đó là loại xe giàn to thường vẫn thắng những con ngựa tái to béo, dùng để chở những thùng rượu và những kiện hàng. Raxkonikov vẫn thích nhìn những con ngựa tải to lớn, bờm dài, chân to, ung dung bước đều đặn, kéo theo cả một đống tướng hàng hoá, không chút mệt nhọc, tưởng chừng chở nặng như vậy chúng lại thấy thoải mái hơn là đi không. Nhưng bấy giờ thì lạ thay, con ngựa thắng vào chiếc xe giàn to tướng lại là một con ngựa lang bé choắt, gầy đét, giống như những con ngựa nhà quê mà Raxkonikov đã nhiều lần thấy kéo xe chở củi hay chở rơm rạ gì đấy. Mỗi khi bánh xe lún xuống bùn hay sỉa vào rãnh, những người mu-gich bao giờ cũng lấy roi đánh chúng rõ đau, đôi khi lại còn quật vào mõm, vào mắt chúng, và Raxkonikov thấy thương xót cho chúng quá chừng, đến nỗi suýt oà lên khóc, và mỗi lần như vậy mẹ chàng lại phải đưa chàng vào nhà, không cho ngồi ở cửa sổ nữa.
Lúc ấy ngoài phố bỗng ồn ào hẳn lên: những người mu-gich to béo mặc áo sơ-mi xanh hay đỏ, áo khoác vắt vai, tay cầm đàn balalaika, luôn mồm reo hò, hát xướng, từ trong quán rượu bước ra. Một người còn trẻ, cổ béo phị, cái mặt thịt đỏ mọng như củ cà rốt, hô to: "Ngồi lên, ngồi cả lên!" nhưng lập tức aỉ nấy đều cười rộ và la ó ầm ỹ.
- Ngựa khổ nầy thì chở gì?
- Chà, Mikonka, cậu điên rồi hay sao: xe nầy mà thắng ngựa nầy à! Con nầy chắc phải đến hai chục tuổi rồi anh em ạ!
- Ngồi lên tớ chở cả lũ cho mà xem? - Mikonka lại quát - Hắn lên xe trước, cầm lấy cương và vươn thẳng người đứng ở phía trước thùng xe. - Thằng Matvey vừa đánh con ngựa tía đi đấy - hắn đứng trên xe nói - còn con nầy thì chỉ làm khổ tớ thôi; tớ muốn giết quách nó đi cho rảnh, nuôi nó chỉ tổ tốn thóc. Nào, ngồi lên! Tớ cho nó phi nước đại cho mà xem? - Nói đoạn hắn cầm lấy roi, khoái trá sửa soạn quất con ngựa lang.
- Thì ngồi nào! - đám đông cười rộ - Nó phi nước đại cơ đấy ghê chưa?
- Dễ đến mười năm nay nó chưa phi lần nào đâu.
- Rồi nó phi cho mà xem! - Đừng có nương nhẹ nó làm gì, anh em ạ, mỗi người cầm sẵn lấy một con roi.
- Phải đấy? Đánh khỏe vào!
Mọi người vừa leo lên xe Mikonka vừa bông đùa và cười ha hả. Đã có sáu người lên, nhưng vẫn còn thừa chỗ, họ lôi lên xe một mụ đàn bà to béo mặt đò gay, mình mặc chic áo vải hoa, đầu đội mũ chụp dính cườm, chân đi ủng, mồm vừa cắn hạt dẻ vừa cười hềnh hệch.
Đám đông đứng quanh cũng cười, mà họ cười cũng phải: một con ngựa còm như thế lại kéo chiếc xe chở nặng trịch thế kia mà bảo là phi nước đại thì ai mà nhịn cười được? Hai gã trai trẻ đứng trên xe lập tức cầm lấy roi để giúp Mikonka. Có tiếng quát "Nào!", thế là con ngựa còm rướn cổ ra kéo, nhưng không những nó không phi nước đại, mà ngay như lê bước một nó cũng khó nhọc lắm mới lê nổi: chân nó cào đất, nó rúm người lại vì ba cây roi quất xuống tới tấp như mưa rào. Tiếng cười trên xe và trong đám đông lại càng thêm giòn dã, nhưng Mikonka thì nổi cáu lên và giận dữ quất roi vào con ngựa mỗi lúc một dồn dập, như thể yên trí rằng nó sẽ phi nước đại thật.
Trong đám đông có một gã thanh niên cũng cao hứng lên, nói:
- Cho tôi lên xe mấy anh em?
- Ngồi lên, ngồi hết lên! - Mikonka quát, - chở hết cho mà xem. Tớ sẽ đánh khỏe vào! - Hắn vừa nói vừa ra sức quất roi vào ngựa. Trong cơn giận điên cuồng hắn không còn biết lấy gì đánh cho con ngựa đau hơn nữa.
Raxkonikov kêu lên:
- Ba ơi, ba ơi, họ làm gì thế kia hở ba! Họ đánh con ngựa thương quá!
- Ta đi thôi, ta đi thôi! - cha chàng nói, - chúng say rượu đấy, cái lũ ngốc, chúng đang bày trò nghịch nhảm đấy, thôi ta đi, con đừng nhìn làm gì.
Nói đoạn, ông toan dắt con đi. Nhưng cậu bé giật tay ra, hoảng hốt chạy về phía con ngựa. Nhưng con ngựa đáng thương bây giờ đã kiệt sức rồi. Nó thớ hổn hền, đứng lại, rồi lại cố kéo, loạng choạng suýt ngã.
- Đánh cho kỳ chết! - Mikonka quát, - có thế thôi. Tớ đánh chết cho mà xem.
- Sao thế hả, mày không phải là người có đạo hẳn, đồ quỷ! - Một ông già đứng trong đám đông nói to.
- Có đời thuở nhà ai một con ngựa khổ như thế lại bắt kéo ngần ấy người, - một người khác chêm vào.
- Nó chết mất! - một người nữa nói.
- Kệ tao! Ngựa của tao kia mà! Tao muốn làm gì nó thì tao cứ làm. Ngồi nữa lên! Ngồi nữa lên! Tớ nhất định phải bắt nó phi nước đại mới nghe…
Bỗng có tiếng cười rộ lên át hết mọi tiếng khác: con ngựa gầy còm, tuy đã kiệt sức, nhưng không chịu nổi những nhát roi quất mỗi lúc một dồn dập, đã lồng lên hất chân đá hậu. Ngay cả ông già hồi nãy cũng phải mỉm cười. Quả tình cũng khó lòng mà nhịn cười được: con ngựa đứng đã không vững mà lại còn đòi lồng lên nữa!
Hai gã thanh niên trong đám đông kiếm thêm được hai cây roi nữa và từ hai phía chạy lại đánh vào hai bên sườn con ngựa.
- Đánh vào mõm ấy, quật vào mắt ấy! - Mikonka quát - Hát lên một bài anh em ơi! - Một người đứng trên xe hô lên, và ai nấy đều cất giọng hướng ứng. Một bài hát thô tục vang lên, tiếng trống ếch đệm theo, và hễ đến điệp khúc lạt có tiếng huýt. Mụ đàn bà to béo cắn hạt dẻ tanh tách và cười hềnh hệch.
Raxkonikov chạy đến cạnh con ngựa, cậu cứ chạy về phía trước; cậu thấy họ đánh vào mắt nó, nhằm đúng vào mắt mà đánh. Cậu khóc. Lòng cậu bé se lại, nước mắt trào ra. Một nhát roi xoang cả vào mặt cậu, cậu không thấy đau, cậu vò đầu bứt tai, cậu kêu gào, đâm bổ về phía ông già đầu râu tóc bạc đang lắc đầu ra dáng bất bình. Một người đàn bà nhà quê nắm lấy tay Raxkonikov toan dắt đi: nhưng cậu giật phắt tay ra vả lại chạy đến cạnh con ngựa. Bây giờ con vật khốn khổ đã kiệt sức lắm rồi, nhưng nó còn lồng lên lần nữa.
- Chà, con quỷ! - Mikonka điên tiết quát lên. Hắn vứt cây roi đi cúi xuống rút từ gầm xe ra một cái vồ dài và to, hai tay cầm lấy đầu vồ và giơ cao lên trên đầu con ngựa.
- Hắn đánh vỡ đầu con ngựa mất! - xung quanh có tiếng xôn xao.
- Hắn giết nó chết mất!
- Ngựa của tao! - Mikonka quát và lấy hết sức lực dáng vồ xuống, nghe đánh ình một tiếng nặng trịch.
- Đánh, đánh cho chết đi? Sao lại đứng đực ra thế! - trong đám đông có tiếng giục.
Mikonka lại giơ cao vồ lên lần nữa và giáng một vồ thứ hai lên lưng con ngựa khốn khổ. Nó khuỵ hẳn hai chân sau xuống, nhưng lại nhỏm dậy và thu hết tàn lực kéo bên nầy bên nọ cho cỗ xe nhích tới; nhưng sáu cây roi từ khắp bốn phía thi nhau quất vào nó, và cái vồ lại giơ cao lên nện đều đặn vào người nó lần thứ ba, rồi lần thứ tư. Mikonka điên tiết lên vì không đánh chết tươi được con ngựa bằng một nhát vồ.
- Sống dai thật! - xung quanh có tiếng ai kêu lên.
- Bây giờ thì thể nào nó cũng gục thôi, anh em ạ, thế là hết kiếp! - một người trong đám đông nói, giọng sành sỏi - Lấy rìu mà bồ chứ! Phải giết cho chết ngay đi chứ, - một người khác nói.
- Chà cái lũ muỗi nhép? Xê ra? - Mikonka nổi khùng lên quát. Hắn vứt cái vồ đi, khom người xuống rút từ gầm xe ra một thanh sắt. - Coi chừng đây! - Hắn quát, đoạn lấy hết sức giáng mạnh xuống mình con ngựa khốn nạn. Con vật lảo đảo khuỵu chân xuống; nó định rướn mình lên, kéo xe, nhưng thanh sắt đã lại giáng mạnh lên lưng, và nó ngã khuỵu xuống đất, tưởng chừng như có ai bỗng cắt đứt cả bốn chân nó một lượt.
- Phải giết cho chết hẳn đi! - Mikonka thét lên và như điên như dại nhảy xuống đất.
Mấy gã thanh niên nữa, cũng say rượu, mặt đỏ gay bạ gì vơ nấy - roi, gậy vồ - xông vào con ngựa đang hấp hối. Mikonka đứng một bên nện mãi thanh sắt vào lưng con ngựa.
Con vật khốn nạn rướn cổ, thở hắt ra một tiếng nặng nhọc và tắt nghỉ.
- Thế là hết kiếp! - trong đám đông có tiếng kêu.
- Ai bảo không chịu phi!
- Ngựa của tao! - Mikonka quát, tay lăm lăm cầm thanh sắt, mắt đỏ ngầu. Hắn đứng tần ngần như thể lấy làm tiếc rằng bây giờ không biết đánh vào ai nữa.
- Quả thật mày không phải là người có đạo! - bấy giờ trong đám đông đã có mấy người cùng lên tiếng trách móc.
Cậu bé đáng thương không còn tự chủ được nữa. Cậu kêu rú lên, len qua đám dông chạy lại ôm; lấy cái mõm rớm máu của con ngựa chết và hôn lên mắt, lên môi con vật… Rồi cậu bỗng nhảy chồm lên xông vào Mikonka, vung hai quả đấm bé nhỏ nện vào người hắn. Vừa lúc ấy cha cậu, nãy giờ vẫn ra sức đuổi theo, đã giữ cậu lại được và bế ra ngoài.
- Tà đi thôi? Tá đi thôi! - ông nói - ta về thôi!
- Ba ơi! Tại saa con ngựa tội nghiệp ấy có tội tình gì… mà chúng giết chết! - Raxkonikov vừa khóc vừa nói, nhưng cổ cậu nghẽn lại và lời nói cứ bật từ lồng ngực tức anh ách của cậu ra thành từng tiếng thét đứt quãng…
- Đồ say rượu ấy mà, chúng nó bày trò nghịch nhảm,: không việc gì đến ta, thôi ta về đi? - cha cậu nói. Raxkonikov dang tay ôm chầm lấy cha. Ngực cậu cứ nghẹt lại, tức tối. Raxkonikov muốn thở lại cho đều muốn kêu lên một tiếng, và bừng tỉnh…
Chàng tỉnh giấc, mồ hôi đầm đìa: tóc cũng ướt đẫm, thở hổn hển. Chàng hoảng hốt choàng dậy:
- May quá, đây chỉ là một giấc mơ! - chàng vừa nói vừa ngồi dậy tựa lưng vào gốc cây và thở hắt ra. - Nhưng làm sao thế nầy? Mình bắt đầu lên cơn sốt chắc: chiêm bao gì mà gớm guốc thế?
Người chàng mỏi như dần, trong tâm trí thì thấy tối tăm, mờ mịt. Chàng chống khuỷu tay tên hai đầu gối, và đưa hai bàn tay lên vuốt đầu.
- Trời ơi! - chàng thốt lên. - lẽ nào, lẽ nào ta sẽ lấy một cái rìu thật, sẽ bỏ lên đầu mụ ta, sẽ bửa đôi sọ mụ ta ra… sẽ dẫm lên vũng máu nhớp nháp, nóng hầm hập của mụ, sẽ bẻ gãy ổ khoá và giơ hai bàn tay run lẩy bẩy ra lấy trộm; rồi mình mấy bê bết những máu, nấp vào một nơi, tay cầm cái rìu… Trời ơi, có thể thế được chăng?
Chàng run bắn lên như tàu lá khi tự nhủ như vậy.
- Nhưng mình nghĩ gì thế nầy! - chàng nói tiếp, đầu lại gục xuống và dường như vô cùng kinh ngạc, - mình đã biết là mình không thể nào làm được như thế, thì sao mãi đến nay cứ tự giầy vò mãi làm gì? Ngay như hôm qua, khi mình đi… duyệt thử lại việc ấy, hôm qua mình đã hiểu rõ như ban ngày rằng mình sẽ không thể nào chịu nổi… Thế mà bây giờ, sao mình lại thế? Sao mãi cho đến nay mình vẫn còn hồ nghi? Hôm qua khi xuống thang gác, chính mình đã nói rằng như thế là khốn nạn, ghê tởm, hèn hạ vô cùng…, và trong khi đang thức chỉ nghĩ đến việc ấy thôi mình cũng đã lợm mửa và hoảng hốt lên rồi kia mà… - Không, không thể được, không thể được! Hẵng cứ cho rằng trong những điều suy tính của mình không còn chút gì đáng phân vân đi nữa; cứ cho rằng tất cả những điều mình đã quyết định, trong tháng nay đều rõ như ban ngày, chính xác như số học. Trời ơi? Dù có thế chăng nữa mình cũng không thể làm được! Mình không chịu nổi, không sao chịu nổi! Thế thì tại sao cho đến bây giờ…
Chàng đứng dậy, bàng hoàng nhìn quanh như ngạc nhiên không hiểu tại sao mình lại đến đây, rồi đi lên cầu T. Mặt chàng tái nhợt, mắt chàng sáng quắc lên, chân tay chàng rã rời ra, nhưng chàng chợt cảm thấy dễ thở hơn. Chàng có cảm giác như vừa vứt bỏ được cái gánh nặng khủng khiếp đã trĩu lên chàng bấy lâu, và lòng chàng bỗng thấy thanh thoát và yên tĩnh. "Lạy Chúa! - chàng lầm rầm cầu nguyện, - hãy chỉ đường cho tôi, tôi sẽ từ bỏ cái… mơ ước đáng nguyền rủa ấy!".
Đi qua cầu, chàng bình tĩnh nhìn con sông Neva, nhìn vầng thái dương đỏ rực đang khuất bóng. Tuy có suy nhược, chàng hầu như không cảm thấy người mệt mỏi. Tưởng chừng như cái ung nhọt đã tấy lên trong tim chàng trong suốt tháng nay bỗng vỡ tung ra. Tự do! Tự do! Bây giờ chàng đã thoát ra khỏi ma lực của những bùa mê, những pháp thuật quái đản ấy.
Về sau, khi nhớ lại quãng thời gian nầy và tất cả những việc đã xảy đến với chàng trong mấy ngày hôm ấy cặn kẽ từng phút một, từng chi tiết một, từng nét một, có một điều khiến cho chàng kinh ngạc đến mức mê tín, một điều thật ra không lấy gì làm phi thường cho lắm, nhưng về sau chàng cứ cảm thấy như đã tiền định số phận chàng: chàng không sao hiểu nổi và tự cắt nghĩa được cho mình, là tại sao trong khi đang mệt mỏi rã rời ra như vậy, lẽ ra phải về nhà bằng con đường gần nhất, thẳng nhất, thì chàng lại đi qua quảng trường Chợ hàng Rơm, mặc dầu không hề có lấy một lý do nào để đi qua đấy cả. Lối nầy cũng không xa lắm, nhưng đi như vậy rõ ràng là mua thêm đường mà đi, và hoàn toàn vô ích. Dĩ nhiên, đã hàng chục lần chàng đi về nhà mà không nhớ mình đã đi qua những phố nào. Nhưng chàng vẫn băn khoăn tự hỏi không biết tại sao một cuộc gặp gờ quan trọng, có tính chất quyết định đối với chàng như vậy mà đồng thời lại hoàn toàn ngẫu nhiên như vậy ở khu Chợ hàng Rơm nầy lại diễn ra đúng vào giờ phút ấy của cuộc đời chàng, đúng vào lúc tâm trạng chàng đang như vậy và đúng vào những hoàn cảnh cho phép cuộc gập gỡ ấy có thể có tác dụng quyết định dứt khoát nhất đối với cả vận mệnh của chàng? Cứ như thế nó cố ý rình đợi chàng ở đây?
Lúc chàng đi ngang khu Chợ hàng Rơm là vào khoảng chín giờ. Tất cả những người lái buôn lớn nhỏ đều đã đóng cửa hiệu hay thu dọn bàn ghế hàng họ để về nhà, và khách hàng của họ cũng thế. Cạnh mấy cái quán ăn bẩn thỉu dọn ở các căn nhà hầm trong những khoảng sân nhớp nhúa và hôi hám của những dãy nhà bao quanh quảng trường, và nhất là cạnh các tiệm rượu, chen chúc những đám người rách rưới những kẻ cầu bơ cầu bất đi kiếm ăn bằng đủ các nghề nghiệp. Raxkonikov đặc biệt ưa thích những chỗ nầy, cùng như tất cả những ngõ hẻm ở quanh đấy, những khi chàng lang thang đi ra phố không chủ đích. Ở đây những mảnh giẻ rách chàng mặc không hề bị ai chú ý và tỏ vẻ khinh thị dù bộ dạng có ra sao cũng không làm ai khó chịu. Sát góc ngã K… có hai vợ chồng một lão tiểu thương bày hai cái bàn bán chỉ, sợi, dây gai, khăn vải hoa v.v… Họ cũng đã dọn dẹp để về nhà, nhưng còn ngồi nán lại nói chuyện với một người quen vừa đi ngang. Người đó là Lizaveta Ivanovna, hay như ngưởi ta thường gọi - mụ Lizaveta, em gái mụ Aliona Ivanovna, quả phụ của một lão công chức bậc bảy, chính cái mụ chủ hiệu cầm đồ mà hôm qua Raxkonikov vừa đến gặp để cầm cái đồng hồ và "duyệt thử" lại việc ấy… Chàng đã từ lâu biết rõ về mụ Lizaveta nầy, và chính mụ cũng có biết chàng đôi chút.
Đó là một mụ đàn bà ba mươi lăm tuổi, người cao lỏng khỏng, vụng về, nhút nhát và hiền lành, gần như là một người ngớ ngẩn. Mụ ở với chị ruột như một người đày tớ làm quần quật suốt ngày đêm, đứng trước mụ chị thì run cầm cập và thậm chí còn bị mụ ta đánh đập nữa là khác. Lúc bấy giờ Lizaveta Ivanovna đang đứng nghe hai vợ chồng lão tiểu thương nói, vẻ đăm chiêu tư lự. Hai vợ chồng kia thì đang nói gì với mụ không biết mà có vẻ hăng hái lắm. Raxkonikov chợt trông thấy mụ ta, một cảm giác kỳ lạ, tương tự như một nỗi kinh ngạc đến cùng cực, bỗng tràn vào lòng chàng, tuy trong cuộc gặp gỡ nầy chẳng có gì đáng lấy làm lạ cả.
- Bà Lizaveta Ivanovna ạ, bà định liệu lấy thì hơn - lão tiểu thương nói to. - Mai khoảng bảy giờ bà đến nhé; khoảng ấy họ cũng sẽ đến đây đấy.
- Mai à? - mụ Lizaveta nói, giọng kéo dài, vẻ tư lự như còn phân vân điều gì.
- Chà, bà sợ Aliona Ivanovna đến thế kia à! - mụ vợ nói, giọng lanh lảnh mụ ta vốn là người rất lém lỉnh. - Tôi trông bà cứ như đứa con nít ấy. Mà nào có phải chị ruột cho cam, chỉ là cùng cha khác mẹ thôi, ấy thế mà bà ấy bắt nạt bà đến là dữ.
- Mà lần nầy bà chớ nói gì với bà Aliona Ivanovna đấy nhé - ông chồng ngắt lời, - đấy tôi khuyên bà như thế đấy, bà cứ đến đây, đừng xin phép gì cả. Món nầy hời lắm. Sau rồi chính bà chị cũng hài lòng cho mà xem.
- Hay tôi đến vậy nhé?
- Bảy giờ tối mai; họ cũng sẽ đến; bà cứ định liệu lấy.
- Rồi chúng tôi sẽ đốt ấm lò, - mụ vợ nói thêm.
- Được tôi sẽ đến, - mụ Lizaveta nói, vẻ vẫn còn phân vân, đoạn chậm rãi bước đi.
Đến đây Raxkonikov đã đi quá nên không còn nghe gì nữa. Chàng đi qua im lặng, kín đáo, cố sao không để lọt mất một câu nào. Cảm giác ngạc nhiên của chàng lúc ban đầu nhường chỗ cho lòng kinh hãi, chàng ngỡ như có một tảng băng luồn qua xương sống.
Chàng vừa biết được, biết một cách đột ngột và bất ngờ, rằng ngày mai, vào lúc bảy giờ tối, mụ Lizaveta, em gái mụ chủ hiệu và là người độc nhất cùng ở một căn nhà với mụ ta, sẽ đi vắng, và như thế nghĩa là lúc bảy giờ tối mụ chủ sẽ ở nhà một mình.
Chỉ còn mấy bước nữa là Raxkonikov về đến nhà. Chàng bước vào buồng như một người vừa mới bị tuyên án từ hình. Chàng không suy luận gì hết và hoàn toàn không có khả năng suy luận, nhưng cả con người chàng đã chợt cảm thấy mình không còn tự do lý trí nữa mà cũng không còn chút nghị lực nào, rằng mọi việc bỗng nhiên đã được quyết định dứt khoát.
Dĩ nhiên, ví thử chàng có chờ đợi cơ hội thuận tiện suốt mấy năm liền, thì cũng không thể trông mong một dịp nào tốt hơn để thực hiện ý định như cái dịp nầy vừa hiện ra lúc nầy. Dù sao cũng khó lòng mà biết được trước đúng một hôm, và biết chắc chắn, không cần phải làm việc gì mạo hiểm, không cần phải hỏi han và tìm tòi gì, rằng ngày mai đúng vào giờ ấy, mụ già mà mình định ám hại sẽ ở nhà một mình.
Chú thích:
(1) Các đảo nhỏ trên sông Neva là nơi dân Petersburg khá giả sống qua muà hè trong những dinh thự xây rải rác trong các lùm cây. Ở đầu mũi lớn Vaxili sông Neva chia ra làm hai nhánh, một to, một nhỏ.
Chương 6
Về sau Raxkonikov tình cờ được biết cụ thể hai vợ chồng lão tiểu thương mời mụ Lizaveta đến để làm gì.
Công việc họ bàn tính với nhau hết sức tầm thường, chẳng có gì đặc biệt cả. Số là có một gia đình mới dọn đến, vì cảnh sa sút phải bán một số áo quần và đồ dùng của phụ nữ. Đem ra chợ bán thì không được giá, cho nên họ muốn tìm người mua lại. Mụ Lizaveta vẫn thường làm những việc chạy hàng, mua đi bán lại như thế và khách hàng mụ cũng khá đông, vì mụ buôn bán rất thật thà và bao giờ cũng trả giá phải chăng, mụ đã nói bao nhiêu là mua bấy nhiêu, không mặc cả gì nữa. Nói chung thì mụ vốn ít lời và, như trên kia đã nói tính mụ vốn hiền lành và nhút nhát.
Nhưng gần đây Raxkonikov đã trở nên mê tín. Tâm trạng mê tín ấy mãi về sau nầy còn để lại những dấu vết hầu như không sao xoá nhoà được. Về sau, chàng cứ có khuynh hướng xem tất cả những việc xảy ra xung quanh vụ nầy như có một cái gì huyền bí, kỳ dị, dường như có những ảnh hưởng và những sự tình cờ đặc biệt can dự vào việc nầy. Từ dạo mùa dông, một sinh viên quen chàng tên là Pokorev, trước khi lên đường đi Kharkov, nhân một buổi chuyện trò có cho chàng biết địa chỉ mụ già Aliona Ivanovna để nhỡ khi chàng có cần cầm cố gì chăng. Trong một thời gian khá lâu chàng không đến đấy vì đang có chỗ dạy học, còn tạm sống được. Cách đây một tháng rưỡi chàng nhớ đến địa chỉ nầy, chàng có hai món có thể đem cầm được: chiếc đồng hồ cũ của cha chàng và chiếc nhẫn vàng nhỏ có giát mấy viên ngọc gì đo đỏ mà em chàng tặng chàng làm kỷ niệm khi chia tay. Chàng quyết định đem cầm chiếc nhẫn, khi đã tìm ra chỗ ở mụ già, mới thoạt trông thấy mụ chàng đã có một cảm giác ghê tởm không sao nén nổi tuy chưa biết gì lắm về mụ ta. Chàng cầm của mụ hai "tờ" và dọc đường về chàng ghé vào một quán rượu tồi tàn. Chàng gọi trà, ngồi xuống cạnh bàn và suy nghĩ mông lung. Một ý nghĩ kỳ dị nảy nở trong óc chàng, như một con gà con sẵn sàng chui ra khỏi vỏ, và khiến chàng hết sức bận tâm.
Hầu như ngay sát cạnh bàn chàng có một người sinh viên lạ mặt cùng ngồi với một viên sĩ quan trẻ tuổi, Họ vừa đánh bi-a xong và đang ngồi uống trà.
Bỗng nhiên Raxkonikov nghe người sinh viên nói chuyện với viên sĩ quan về mụ chủ hiệu cầm đồ.
Aliona Ivanovna, quả phụ của một viên thư lại bậc bảy, và cho hắn biết địa chỉ mụ ta. Chỉ riêng điều đó thôi Raxkonikov cũng đã lấy làm lạ: chàng vừa ở nhà mụ ấy ra, thế mà vừa đúng người ta lại nói chuyện về mụ ấy.
Dĩ nhiên đó là một sự tình cờ, nhưng bây giờ chàng không sao tẩy gột được một ấn tượng rất khác thường, và đến đây dường như người ta lại muốn tô đậm nét thêm ấn tượng đó: người sinh viên bỗng dưng bắt đầu nói cho bạn biết những chuyện ti mỉ về mụ Aliona Ivanovna ấy.
- Mụ ấy khá lắm, - người sinh viên nói, - đến mụ thì bao giờ cũng có tiền. Giàu sụ n
hư một lão Do thái, mụ có thể đưa ra một lúc năm nghìn, nhưng cũng không coi khinh những đồ cầm chỉ đáng giá một rúp. Bọn chúng tớ đã có rất nhiều tay đến đấy. Có điều là mụ ta ghê gớm lắm.
Rồi hắn bắt đầu kể lể những là mụ ta độc ác ra sao, tính khí bất thường ra sao, những là chỉ cần quá hạn chuộc có một ngày cũng đã mất toi đồ cầm rồi. Mụ ta chỉ ứng cho được một phần tư giá tiền, đồ cầm, lấy lãi hàng tháng đến năm phân hay nhiều khi đến bảy phân nữa là khác v.v… Người sinh viên lại còn cao hứng lên nói ba hoa rằng mụ ta có một mụ em gái tên là Lizaveta, và mụ già bé loắt choắt, xấu như hủi ấy luôn tay đánh đập và hành hạ em gái như tôi mọi, xem như đứa con nít, mặc dầu mụ Lizaveta ít ra cũng cao đến thước bảy.
- Cũng là một của lạ đấy! - người sinh viên cười lớn.
Họ bắt đầu bàn tán về mụ Lizaveta. Người sinh viên có vẻ đặc biệt khoái trá khi nói đến mụ ta và cười luôn mồm, còn viên sĩ quan thì nghe rất chăm chú và bảo bạn nhắn mụ Lizaveta ấy đến vá đồ lót cho mình.
Raxkonikov không bỏ qua lấy một câu nào và biết được đủ mọi chuyện: mụ Lizaveta là em cùng cha khác mẹ của mụ già kia, năm nay đã ba mươi lăm tuổi. Mụ làm quần quật suốt ngày đêm cho chị, nấu nướng, giặt giũ khâu áo quần đem bán, đi lau sàn thuê cho người ta, bao nhiêu tiền công kiếm được đều đưa cả cho chị. Mụ không bao giờ dám nhận công việc gì của ai giao nếu không được mụ già cho phép. Mụ già nay đã làm xong di chúc, và mụ Lizaveta cũng có biết việc đó.
Theo tờ di chúc nầy thì mụ em không được hưởng lấy một xu nhỏ ngoài mấy thứ bàn ghế và đồ dùng lặt vặt; còn tiền bạc thì đều cúng cho một tu viện ở trấn N… để làm tiền phí tổn cầu nguyện thường xuyên cho vong linh mụ già. Mụ Lizaveta thuộc hạng tiểu thị dân chứ không phải thuộc giới viên chức. Đó là một mụ gái già xấu xí, người cao lêu đêu, đôi chân vòng kiềng dài ngoẵng, lúc nào cũng đi đôi giầy vẹt gót, ăn ở khá sạch sẽ. Nhưng điều làm cho người sinh viên ngạc nhiên và buồn cười hơn cả là mụ Lizaveta lúc nào cũng có mang.
- Thế sao cậu bảo mụ ta xấu xí lắm kia mà? - viên sĩ quan nhận xét.
- Ừ, nước da thì đen xạm như một thằng lính cải trang, nhưng cậu phải biết là mụ ta trông không đến nỗi. Khuôn mặt và đôi mắt mụ trông cũng phúc hậu. Rất phúc hậu nữa là khác. Chứng cớ là nhiều người ưa mụ lắm. Mụ ta hiền lành, dịu dàng, dễ tính, bảo gì mụ cũng nghe. Với lại mụ cười trông cũng khá xinh.
- Thế ra cậu cũng ưa mụ ta hẳn? - viên sĩ quan bật cười nói.
- Cái kỳ quặc của mụ cũng có chỗ hay hay. Thôi, để tớ nói cái nầy cho mà nghe. Tớ sẵn lòng giết phăng mụ già kia để cướp lấy của cải, và tớ cam đoan với cậu là lương tâm tớ sẽ không mảy may cắn rứt, - người sinh viên hăm hở nói thêm.
Viên sĩ quan lại cười phá lên. Raxkonikov giật mình. Thật là kỳ quặc…
- Nầy, cậu cho phép tớ hỏi một việc nghiêm chỉnh nhé, - người sinh viên hăng lên nói - vừa rồi cố nhiên là tớ nói đùa, nhưng cậu thử nghĩ mà xem: một đằng là một mụ già đần độn, vô nghĩa, độc ác, bệnh tật, chẳng có ích gì cho ai cả, trái lại còn có hại cho mọi người, sống cũng chẳng biết để làm gì, mà dù cứ để mặc cho mụ sống thì chỉ nay mai mụ cùng sẽ chết già chết bệnh, cậu hiểu không, cậu hiểu không nào?
- Ờ thì hiểu, - viên sĩ quan đáp, mắt chăm chú nhìn người bạn đang say sưa nói.
- Cậu nghe tiếp nhé. Mặt khác là những sức lực trẻ trung, cường tráng phải điêu đứng vì vô kế sinh nhai, mà những thứ ấy lại có hàng nghìn, và nơi nào cũng có! Hàng trăm, hàng nghìn việc tốt có thể khai trương và chỉnh đốn được nếu dùng số tiền mà mụ già dành cho tu viện có lẽ hàng trăm, hàng nghìn kiếp sống có thể được đưa vào con đường ngay thẳng; có thể cứu hàng chục gia đình thoát cảnh bần cùng, tan vỡ, truỵ lạc, chết chóc, thoát khỏi nhà thương bố thí chữa bệnh hoa liễu, - và muốn thế chỉ cần lấy số tiền của mụ ấy. Hãy giết mụ ấy đi, và đoạt lấy số của ấy để suốt đời phụng sự nhân loại và sự nghiệp chung: cậu nghĩ sao, hàng nghìn việc thiện há lại chẳng chuộc được một tội ác cỏn con duy nhất ấy sao? Chỉ hy sinh một tính mạng mà cứu được hàng nghìn sinh linh ra khỏi cảnh thối nát và tan rã. Một cái chết đổi lấy hàng trăm cái sống - đúng là một vấn đề số học chứ gì nữa! Vả lại trên cán cân của xã hội có nghĩa lý gì tính mạng của con mụ già ho lao, đần độn và độc ác ấy? Không hơn tinh mạng một con rận, một con gián, không bằng nữa là khác, vì mụ ta có hại hơn. Mụ ta hút máu hút mủ người khác; hôm nọ mụ ta nổi cơn ác khí lên cắn gần đứt ngón tay mụ Lizaveta đấy!
- Cố nhiên là mụ ta chẳng đáng được sống, - viên sĩ quan nói, - nhưng ở đây còn phải kể đến thiên nhiên.
- Chà, anh bạn, thiên nhiên thì người ta vẫn phải sửa chữa, uốn nắn đấy thôi, nếu không thì đành chết ngột trong đống thành kiến mất. Không làm như thế thì không thể nào cỏ lấy một vĩ nhân được. Người ta cứ nói: "Bổn phận, lương tâm", - tớ không có đả phá bổn phận, lương tâm gì đâu, - nhưng vấn đề là chúng ta quan niệm nó như thế nào? Khoan, để tớ hỏi cậu một câu nữa. Cậu nghe đây!
- Không, cậu khoan hẵng; để tớ hỏi cậu cái nầy.
- Nào thì hỏi đi.
- Nãy giờ cậu thuyết lý nghe hùng hồn lắm; bây giờ cậu thử nói cho tớ nghe xem: liệu cậu có thể "tự tay" giết mụ già hay không?
- Dĩ nhiên là không! Tớ nói là nói trên nguyên tắc công bình… Vấn đề ở đây không phải là cả nhân tớ…
- Thế còn theo tớ, nếu cậu đã không dám làm thì việc nầy cũng chẳng có gì dính líu đến cái công bình ấy! Ta chơi ván nữa đi!
Raxkonikov bồi hồi xúc động đến cực điểm. Dĩ nhiên đây là một trong những câu chuyện và những ý nghĩ hết sức thông thường, quen thuộc của lớp thanh mên lúc bấy giờ mà chàng đã được nghe nhiều lần, duy cách suy luận và đề tài có khác mà thôi. Nhưng tại sao vừa đúng vào lúc nầy chàng lại được nghe câu chuyện ấy và những ý nghĩ ấy, trong khi ngay trong đầu óc chàng cũng vừa nảy ra… "chính những ý nghĩ ấy". Và tại sao vừa đúng vào lúc nầy, khi chàng vừa ra khỏi nhà mụ già, mang theo mầm mống phôi thai của ý định kia, thì lại gặp ngay một người nói chuyện về mụ ấy? Đối với chàng sự tình cờ nầy bao giờ cũng vẫn có vẻ kỳ quái. Câu chuyện vô nghĩa nơi hàng quán ấy đã có một ảnh hưởng phi thường đối với chàng trong quá trình phát triển của sự việc về sau: hình như đây qua có một cái gì tiền định, một chỉ thị của số mệnh.
Từ Chợ hàng Rơm trở về, chàng buông mình rơi phịch xuống đi-văng và suốt một tiếng đồng hồ ngồi yên không nhúc nhích. Trong khi đó trời sập tối; chàng không có nến, mà cũng không hề thoáng nảy ra ý nghĩ thắp nến lên làm gì. Chàng không bao giờ nhớ lại được trong thời gian ấy chàng có nghĩ gì không. Cuối cùng, chàng lại thấy gây gây sốt như hồi hôm, chàng rùng mình và khoái trá nghĩ ra rằng trên chiếc đi-văng nầy còn có thể nằm được. Chỉ lát sau một giấc ngủ nặng như chì đã trùm lên chàng, dường như đè bẹp chàng xuống.
Chàng ngủ rất lâu và không mộng mị gì cả. Mười giờ sáng hôm sau, Naxtaxia đưa nước trà và bánh mì vào cho chàng, phải lay mãi chàng mới dậy. Lần nầy trà cũng lại loãng thếch và cũng pha trong chiếc ấm riêng của Naxtaxia.
- Cha chả là ngủ! - chị ta bực mình kêu lên, - cứ ngủ mãi thôi!
Chàng khó nhọc nhỏm dậy. Đầu chàng nhức buốt; chàng đứng xuống đất, đi một vòng quanh buồng rồi lại rơi phịch xuống đi-văng.
- Lại ngủ! - Naxtaxia kêu lên, - nhưng cậu ốm hay sao thế?
Chàng lặng thinh không đáp.
- Có muốn uống nước trà không?
- Thôi khoan hẵng, - chàng khó nhọc nói, đoạn nhắm mắt và nằm quay mặt vào tường.
- Dễ ốm thật rồi, - Naxtaxia nói đoạn quay ra.
Đến hai giờ trưa chị ta lại vào, và bưng liễn xúp. Chàng vẫn nằm như lúc nãy. Ấm nước trà vẫn còn nguyên. Naxtaxia giận dỗi lay chàng rất mạnh.
- Sao cậu cứ ngủ tràn ra thế! - chị ta ngán ngấm nhìn chàng quát. Chàng nhổm người lên rồi ngồi dậy, nhưng không nói gì với Naxtaxia, chỉ thẫn thờ nhìn xuống đất.
- Ốm hay sao vậy? - Naxtaxia hỏi, nhưng chàng vẫn lặng thinh.
- Cậu ra ngoài phố một chút thì hơn, - chị ta nói sau một lát im lặng, - đi ra một chút cho thoáng. Cậu ăn dăm miếng chứ?
- Sau hẵng hay, - chàng đáp, giọng yếu ớt, - thôi chị ra đi! - Đoạn chàng khoát tay một cái.
Naxtaxia đứng một lát nữa, ái ngại nhìn chàng rồi bỏ ra ngoài.
Mấy phút sau, chàng ngước mắt lên và nhìn hồi lâu ấm trà với liễn xúp. Rồi chàng với lấy khoanh bánh mì, cầm thìa và bắt đầu ăn.
Chàng ăn chẳng thấy ngon miệng chút nào, chỉ nhắp ba bốn thìa, như cái máy. Đầu đã đỡ nhứx. Ăn xong chàng lại gieo mình xuống đi-văng, nhưng không ngủ được nữa; chàng nằm sấp không động đậy, mặt úp vào gối. Chàng cứ mơ mộng liên miên, và những hình ảnh kỳ lạ cứ chập chờn nối tiếp theo nhau: chàng mơ thấy mình đang ở Ai Cập trên đất châu Phi, trong một khóm cây mọc giữa sa mạc. Đoàn lữ hành đang nghỉ ngơi, mấy con lạc đã nằm yên dưới bóng những cây cọ mọc um tùm quanh đấy, đoàn người đang ăn trưa. Còn chàng thì đang uống nước ở con suối chảy róc rách ngay sát bên cạnh. Khi trời mát rượi, và giòng nước trong xanh kỳ diệu cứ chảy róc rách trên lớp sỏi ngũ sắc, trên làn cát trắng tinh óng ánh lên từng chỗ như có lẫn bụi vàng… Bỗng có tiếng chuông đồng hồ vọng lại.
Chàng giật mình tỉnh dậy, ngẩng đầu lên nhìn ra cửa sổ ngẫm chừng xem sớm muộn ra sao bỗng hoàn toàn tỉnh táo đứng phắt dậy như có ai nhấc bổng chàng lên khỏi đi-văng. Chàng rón rén đến mở hé cánh cửa trông ra cầu thang và bắt đầu nghe ngóng. Trống ngực chàng đập dữ dội Nhưng ngoài cầu thang im phăng phắc, như thế mọi người đều đang ngủ. Nghĩ rằng mình đã có thể ngủ li bì như vậy suốt từ hôm qua, chưa làm gì, chưa chuẩn bị gì cả, chàng thấy nó kỳ quái và vô lý quá. Thế mà, có lẽ vừa rồi chuông đồng hồ vừa đánh sáu giờ cũng nên… và chàng bỗng hối hả cuống quýt lên, không còn chút gì ngái ngủ, đờ đẫn như lúc nãy nữa. Vả chăng công việc sửa soạn cũng không có gì phiền phức. Chàng tập trung hết sức chú ý đề nhận rõ mọi việc và không quên lãng điều gì. Trống ngực chàng cứ đập thình thịch, mạnh đến nỗi chàng thấy khó thở. Trước hết cần phải làm cái quai rìu và khâu nó vào áo khoác, - việc nầy chỉ mất một phút.
Chàng lục đống áo quần nhét dưới gối tìm một chiếc sơ mi cũ đã rách bươm, từ lâu không giặt, xé ra một mảnh dài khoảng ba tấc và rộng khoảng năm phân.
Chàng gấp đôi mảnh giẻ lại, cởi chiếc áo rộng mùa hè bằng vải dày cộp đang mặc trên người đó là chiếc áo ngoài duy nhất của chàng và bắt đầu khâu hai đầu mảnh giẻ rách vào nách áo bên trái phía trong. Trong khi khâu, hai tay chàng run bắn lên, nhưng chàng vẫn trấn tĩnh được, và khi chàng mặc vào, bên ngoài không hề trông thấy đường chỉ. Kim chỉ chàng đã mua sẵn từ lâu và gói giấy cất trong ngăn kéo bàn. Cái quai vải ấy là một sáng kiến rất tinh xảo do chàng tự nghĩ ra: nó dùng đề đeo chiếc rìu. Vì ra đường không thể nào cầm rìu ở tay được, giấu dưới vạt áo thì vẫn phải lấy tay mà giữ, e người ta để ý mất. Còn như bây giờ có cái quai ấy rồi thì chỉ cần luồn cái cán rìu vào là nó sẽ nằm yên dưới nách áo, suốt dọc đường không phải lo lắng gì nữa. Thọc tay vào túi áo, chàng lại có thể giữ đầu cán rìu cho nó khỏi lúc lắc; cái áo khoác lại rộng thùng thình như cái bị, nên nhìn bên ngoài không thể nào nhận thấy chàng đang giữ một vật gì qua lần vải túi. Cái quai rìu nầy chàng cũng đã nghĩ ra từ hai tuần trước.
Xong đâu đấy, chàng thò mấy ngón tay vào cái khe hở nhỏ giữa chiếc đi-văng "Thổ nhĩ kỳ" của chàng và sàn gỗ, mọi moi ở góc trái một lúc và kéo ra cái "đồ cầm" đã soạn sẵn từ lâu và dấu ở đấy. Cái "đồ cầm" nầy chẳng phải là đồ cầm gì cả; đó chỉ là một miếng gỗ mỏng bào trơn kích thước vừa đúng như một chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bạc. Mảnh gỗ nầy một hôm đang đi chơi chàng tình cờ bắt được trong một cái sân kế bên một xưởng thợ. Về sau chàng ghép thêm một miếng sắt mỏng và trơn nhỏ hơn mảnh gỗ kia một chút - có lẽ là một mảnh sắt vụn ở một đồ dùng gì rời ra, - mà chàng nhặt được ở ngoài đường, cũng vào hôm ấy. Chàng ghép miếng sắt ấy vào miếng gỗ và lấy chỉ buộc lại thật chặt; rồi chàng lấy một tờ giấy trắng thật sạch gói lại cẩn thận, trông rất đẹp mắt, và chằng giây rõ kỹ cho thật khó mở. Như vậy là đề làm xao lãng sự chú ý của mụ già và khi mụ ta đang hí hoáy tháo nút dây có thể chọn lúc thuận tiện. Miếng sắt mỏng ghép vào là để cho thêm nặng, sợ mụ già mới nhấc gói "đồ cầm" lên đã có thể biết ngay nó bằng gỗ. Tất cả những thứ ấy chàng cất dưới đi-văng chờ đến khi cần. Chàng vừa cầm cái gói lên thì bỗng nhiên ở bên ngoài có ai kêu:
- Sáu giờ từ lâu rồi còn gì!
- Trời ơi! lâu rồi ư?
Chàng nhảy chồm ra cửa, nghe ngóng một lúc, vơ lấy mũ và bước xuống ba mươi bậc thang gác một cách thận trọng, lặng lẽ, như một con mèo. Bây giờ còn phải làm cái việc quan trọng nhất: lấy trộm cái rìu trong nhà bếp. Về vấn đề phải dùng rìu thì chàng đã giải quyết từ lâu. Chàng còn có một con dao xếp; nhưng chàng không dám tin vào con dao và nhất là không dám tin ở sức mình, cho nên chàng đã dứt khoát chọn cái rìu.
Nhân thể cũng xin nhận xét qua một đặc điểm chung cho tất cả những điều mà chàng đã quyết định dứt khoát trong việc nầy. Những quyết định ấy có một thuộc tính kỳ dị: nó càng dứt khoát thì chàng lại càng thấy ngay là nó quái gở, vô lý. Tuy trong tâm khám có sự dằng co ray rứt dữ dội, suốt thời gian ấy chàng chưa bao giờ, dù chỉ một giây lát, có thể tin rằng những ý định của mình có thể thực hiện được.
Và dù đến một lúc nào đó mọi việc đều đã được suy tính kỹ càng từng ly từng tí và đã được quyết định dứt khoát không còn nghi ngại phân vân gì nữa, thì có lẽ chàng cũng vẫn từ bỏ hết những ý định ấy như một cái gì điên rồ, quái gở và không thể có được. Thế nhưng những điều chưa giải quyết và những nỗi ngờ vực vẫn còn cả mớ. Còn như làm thế nào để lấy được cái rìu thì đó là một điều vặt vãnh không hề khiến chàng lo ngại, bởi vì không còn có gì dễ hơn nữa. Số là Naxtaxia, nhất là đến tối, cứ vắng nhà luôn: chị ta cứ chạy sang nhà hàng xóm hay sang cửa hiệu bên cạnh, cửa bếp để mở toang. Cũng chỉ vì thế mà bà chủ tiếng bấc tiếng chì với chị. Như vậy chỉ cần chọn lúc lẻn vào bếp và lấy cái rìu rồi một giờ sau khi mọi việc đã xong xuôi trở vào để lại chỗ cũ. Nhưng cũng có những chỗ phân vân: ví thử một giờ sau chàng đem rìu trả lại thì vừa đúng khi Naxtaxia đã trở về. Lẽ dĩ nhiên phải đi thẳng lên buồng đợi khi chị ta lại đi ra ngoài. Thế nhưng nếu lúc ấy chị ta lại tìm đến rìu và kêu toáng lên thì tất người ta sẽ sinh nghi hay ít nhất cũng là một dịp để người ta sinh nghi.
Nhưng đó vẫn là những điều vặt vãnh mà chàng chẳng thèm nghĩ đến nữa, vả chăng cũng không có thì giờ mà nghĩ. Chàng nghĩ đến cái chính, còn những điều vặt vãnh thì chàng gác lại cho đến khi nào chàng đã quyết định dứt khoát. Nhưng điều nầy thì lại có vẻ như không sao thực hiện được. Hoặc ít nhất là chàng cảm thấy thế. Chẳng hạn, chàng không thể nào tưởng tượng được rằng đến một lúc nào đó chàng sẽ nghĩ xong, sẽ đứng dậy và đi đến đấy… Ngay như chuyến đi "duyệt thử" vừa qua tức là chuyến đến thăm với ý định xem xét địa điểm lần cuối cùng chàng cũng chỉ "thử làm" qua thôi, chứ không phải định làm thật. Chàng chỉ tự nhủ "Nào, ta sẽ đi xem thử một chuyến, chứ cứ "mơ tưởng" mãi thế nầy sao?" - rồi lập tức không sao chịu được nữa, chàng đã vứt bỏ hết, tự mình thấy ghê tởm mình. Thế nhưng trong khi đó hình như chàng đã phân tích và giải quyết xong xuôi mặt luân lý của vấn đề: biện luận của chàng đã được mài sắc lên như lưỡi dao cạo và trong thâm tâm chàng đã không tìm thấy những lời phản bác có ý thức nữa. Rồi ngày vừa qua, cái ngày đã đến một cách bất ngờ như vậy và đã quyết định ngay mọi sự trong một lúc, đã tác động đến chàng một cách gần như máy móc: cứ như thể có ai cầm tay chàng lôi đi một cách không sao cưỡng nổi, một cách mù quáng, với một sức mạnh siêu tự nhiên, không để cho chàng cãi lại. Cứ như thể chàng đã bị vướng vạt áo vào guồng máy, và guồng máy cứ thế mà cuốn luôn cả người chàng vào. Lúc đầu - kể cũng đã lâu lắm, - có một vấn đề khiến chảng bận tâm: tại sao tất cả các vụ án mạng đều bị khám phá một cách dễ dàng và dấu vết của hầu hết các thủ phạm đều hiện ra một cách lộ liễu như vậy? Chàng dần dà đi đến những kết luận phong phú và kỳ lạ, và theo ý chàng thì như thế không hẳn là vì thủ phạm không có điều kiện vật chất để che giấu tội ác: nguyên nhân chủ yếu nằm ngay trong tâm lý thủ phạm; bản thân kẻ giết người, hầu như bất cứ kẻ nào cũng vậy, khi nhúng tay vào tội ác thì nghị lực và lý trí suy sụp hẳn đi, nhường chỗ cho một sự nhẹ dạ kỳ quặc như của trẻ con, mà lại đúng vào lúc cần minh mẫn và thận trọng hơn cả. Chàng nghiệm ra rằng tình trạng rối trí và mất nghị lực đó xâm nhập người ta như một cơn bệnh, phát triển dần và lên đến cực điểm trước khi người ta nhúng tay vào tội ác ít lâu; nó giữ nguyên mức độ ấy trong khi diễn ra tội ác và tiếp tục kéo dài một thời gian sau, dài ngắn tuỳ từng người; rồi cũng qua đi như bất cứ một cơn bệnh nào. Còn vấn đề phải chăng bệnh tật đẻ ra tội ác, hay chính tội ác, do ban chất đặc biệt của nó, bao giờ cùng đi đối với một tình trạng giống như bệnh tật, thì chàng càm thấy mình chưa đủ sức giải quyết.
Đi đến những kết luận ấy, chàng tin chắc rằng riêng với chàng, trong việc nầy sẽ không có những sự đảo lộn bệnh tật như thế, rằng chàng sẽ giữ vững được lý trí và nghị lực suốt trong thời gian thực hiện ý định, chỉ vì một lý do duy nhất là việc chàng định làm "không phải là tội ác"… Ta hãy bỏ qua cả cái quá trình đã đưa chàng đến quyết định cuối cùng; cứ thế nầy chúng ta cũng đã đi vượt lên trước nhiều quá rồi… Chỉ xin nói thêm rằng những trở ngại thực tế, thuần tuý vật chất nói chung chỉ đóng một vai trò hết sức thứ yếu "Chỉ cần giữ vững được nghị lực và, lý trí, là sẽ lần lượt khắc phục được tất cả khi cần phải nghiên cứu chi ly việc nầy…" nhưng chàng vẫn chưa bắt tay vào việc, chàng vẫn không tin chút nào rằng mình đã quyết định dứt khoát, và khi giờ đã điểm, mọi việc đâm ra có vẻ lạ lùng, hú họa và hầu như bất ngờ nữa là khác.
Một việc hết sức nhỏ nhặt đã dồn chàng vào thế bí ngay từ khi chàng chưa xuống hết cầu thang. Xuống đến ngang căn nhà bếp của bà chủ trọ cửa bao giờ cũng mở toang, chàng thận trọng liếc mắt nhìn vào xem thử trong khi Naxtaxia đi vắng bà chủ có vào đấy không, và nếu không vào thì cửa phòng bà ta có đóng kỹ không, nhỡ may bà ta có nhìn ra khi chàng vào bếp lấy rìu chăng. Nhưng chàng kinh ngạc biết chừng nào khi chợt thấy rằng lần nầy không những Naxtaxia ở nhà, đang ngồi trong bếp, mà lại còn đang làm việc nữa: chị ta đang lấy áo quần đựng trong giỏ giặt ra treo lên dây. Trông thấy chàng, Naxtaxia ngừng tay, quay lại nhìn theo chàng trong khi chàng đi qua. Chàng nhìn lảng đi nơi khác và cứ đi ngang như thể không trông thấy gì. Nhưng thế là việc hỏng bét: không có rìu! Chàng choáng hẳn người đi "Mình căn cứ vào đâu, - chàng ngẫm nghĩ khi xuống đến cổng - mình căn cứ vào đâu mà trù tính rằng đúng vào lúc ấy chị ta sẽ đi vắng" "Tại sao, tại sao, tại sao mình lại tin chắc như thế?" Chàng lặng người đi thậm chí còn thấy nhục nữa. Chàng muốn tự bêu riếu cho hả giận… Một nỗi hằn học u mê, thú vật sôi sục trong người chàng.
Chàng ngần ngừ dừng chân dưới vòm cổng. Đi ra phố lấy lệ thì chàng thấy khó chịu quá; trở về buồng lại càng khó chịu hơn. "Thế là lỡ mất một dịp may không còn bao giờ tìm lại được nữa?" - Chàng lẩm bẩm trong khi đứng tần ngần dưới cổng, ngay trước căn buồng tối om của người gác cũng đang mở cửa. Bỗng chàng giật mình. Trong căn buồng của người gác cổng cách chàng hai bước, dưới một chiếc ghế dài đặt ở bên phải, một ánh thép loang loáng lọt vào mắt chàng… Chàng đưa mắt nhìn quanh - không có bóng người nào.
Chàng rón rén đến gần căn buồng, bước xuống hai bậc thang và cất tiếng yếu ớt gọi người gác cổng "Đúng thế, đi vắng rồi? Chắc đi đâu gần đây thôi, có lẽ ra quán, vì cửa vẫn mở toang". Chàng nhảy chồm về phía cái rìu đặt dưới gầm ghế giữa hai thanh củi và rút nó ra. Chàng lập tức đút cán rìu vào cái quai vải, đút hai tay vào túi áo và ra khỏi buồng. Không ai trông thấy cả! "Lý trí không được việc thì ma quỷ làm thay" - chàng nghĩ thầm, miệng nhoẻn một nụ cười quái gở.
Việc vừa xảy ra khiến chàng phấn khởi lạ thường. Chàng đi dọc đường, im lặng và khoan thai, không hấp tấp đề khỏi bị nghi ngờ. Chàng ít nhìn những người qua đường, thậm chí còn cố gắng không nhìn chút nào vào mặt họ và làm sao đừng ai để ý tới mình.
Đến đây chàng sực nhớ tới cái mũ dạ. "Trời ơi! Tiền đã có từ ba hôm nay, thế mà cũng không đổi lấy được một cái mũ cát két?". Một câu chửi rủa từ trong lòng chàng vụt thốt ra.
Tình cờ liếc mắt nhìn vào một cửa hiệu, chàng thấy chiếc đồng hồ treo tường chỉ bảy giờ mười phút.
Vừa phải đi nhanh lên cho kịp lại vừa phải đi vòng sang phía bên kia rồi quay trở lại cho khỏi lộ hướng…
Trước kia, những khi tưởng tượng đến những việc nầy, cũng có lúc chàng nghĩ rằng mình sẽ sợ lắm! Nhưng đến bây giờ thì chàng chẳng thấy sợ mấy, không sợ chút nào nữa là khác. Thậm chí lúc nầy chàng còn nghĩ đến những chuyện ở đâu đâu, có điều là những ý nghĩ ấy mới hiện lên đã vụt biến mất. Đi ngang công viên Yuxupov chàng lại còn nghĩ khá kỹ đến việc xây những vòi phun nước thật cao: những vòi phun như thế sẽ làm cho không khí ở các quảng trường mát mẻ biết chừng nào! Chàng dần dần đi đến chỗ nghĩ rằng giá mở rộng công viên mùa hè ra khắp quảng trường Chiến thắng hoặc hơn nữa, nối liền nó với công viên Mikhailovxki, thì đó sẽ là một công trình đẹp đẽ và hết sức có ích cho thành phố. Đến đây chàng bỗng lưu tâm đến một vấn đề: tại sao trong tất cả các thành phố lớn người ta lại cứ ở vào những khu vực chẳng có vườn hoa, chẳng có vòi phun nước, ở những nơi bẩn thỉu hôi hám đầy rẫy những rác rưởi thối tha. Như thế không phải chỉ vì hoàn cảnh ép buộc, mà còn có một khuynh hướng đặc biệt gì đây nữa. Chàng nhớ lại những buổi đi dạo ở khu Chợ hàng Rơm, và phút chốc trở về với hiện tại. "Nhảm nhí quá, - chàng nghĩ thầm. - Không, thà đừng nghĩ gì hết còn hơn".
"Chắc hẳn ý nghĩ của những kẻ bị đưa ra pháp trường cũng bấu víu vào tất cả những đồ vật gặp trên đường đi như thế" - ý nghĩ ấy thoáng nẩy trong óc chàng, nhưng chỉ vụt qua như một tia chớp, chính chàng hối hả dập tắt nó đi. - Nhưng đã gần đến nơi rồi, kia là toà nhà, kia là cái cổng. Bỗng đâu đây có một tiếng chuông đồng hồ đơn độc: "Sao, bảy giờ rưỡi rồi Chả nhẽ; chắc cái đồng hồ ấy chạy nhanh quá!".
May thay cho chàng, khi đến cổng mọi việc lại diễn ra một cách êm thấm. Hơn nữa, dường như cố ý, vừa lúc ấy trước mặt có một chiếc xe giàn chở rạ to tướng đi vào cổng, che chàng khuất hẳn trong suốt thời gian chàng đi qua vòm cổng, và chiếc xe vừa vào đến sân chàng đã vụt lách mình sang phải. Ở bên kia chiếc xe chở rạ nghe có tiếng mấy người quát tháo, cãi vã, nhưng không ai trông thấy chàng và không thấy ai đi ngược lại phía chàng cả. Lúc bấy giờ trong số các cửa sổ trông ra khoảng sân rộng thênh thang ấy có nhiều cửa sổ đang mở, nhưng chàng không ngẩng đầu lên - chàng không đủ sức. Thang gác dẫn lên buồng mụ già gần ngang cạnh cổng, chỉ rẽ sang phải là đến. Chàng đã bước lên cầu thang…
Chàng thở lại cho đều đặn và lấy tay áp vào lồng ngực đang đánh thình thình, nhân thể nắn lại cây rìu một lần nữa rồi thận trọng và im lặng bước lên thang gác, phút phút lại lắng tai nghe ngóng. Nhưng ngay ở cầu thang lúc nầy cũng vắng tanh: các cửa phòng đều đóng kín, chàng không gập người nào cả. Ở gác hai quả có một phòng bỏ trống cứ mở toang, trong có một tốp thợ sơn đang làm việc, nhưng họ không nhìn ra. Chàng dừng lại nghĩ ngợi một lát rồi tiếp tục đi. "Dĩ nhiên giá không có họ ở đây thì tốt hơn; nhưng… họ cách phòng kia những hai tầng. Nhưng đây đã đến gác tư rồi, đây là, cánh cửa ấy, và đây là gian phòng đối diện bỏ trống. Ở gác ba, gian buồng nằm ngay dưới buồng mụ già cũng bỏ trống: tấm thép ghim vào cửa đã cất đi, như vậy nghĩa là họ đã dọn nhà đi nơi khác!"
Raxkonikov thấy nghẹt thở. Một ý nghĩ vụt thoáng qua óc chàng: "Hay ta về quách?".
Nhưng chàng không tự trả lời và bắt đầu lắng tai nghe xem trong phòng mụ già có động tĩnh gì không: trong phòng vẫn im phăng phắc. Chàng lại hướng về phía dưới cầu thang lắng nghe hồi lâu, thật chăm chú… Rồi chàng đưa mắt nhìn quanh một lần cuối cùng, xốc lại áo khoác và một lần nữa nắn lại cây rìu giắt vào quai vải. "Mặt mình có tái… quá không? - chàng nghĩ - mình có hồi hộp quá không? Mụ ấy đa nghi lắm… hay là đợi một lát nữa cho tim bớt…?".
Nhưng tim chàng không hề bớt đập. Trái lại, như cố tình, nó càng đập mạnh hơn, mạnh hơn lên mãi…
Chàng không ghìm được nữa, chậm rãi giơ tay lên cầm dây chuông và giật một cái. Nửa phút sau chàng lại giật lần nữa, mạnh hơn một chút.
Không có tiếng thưa: Giật chuông nữa cũng vô ích: mà lại không tự nhiên. Dĩ nhiên mụ già đang ở nhà, nhưng tính mụ vốn đa nghi, và chắc hẳn mụ chỉ có một mình. Chàng biết được ít nhiều những thói quen của mụ… và một lần nữa chàng áp tai vào cánh cửa. Không biết vì giác quan của chàng đã trở nên nhạy bén đến thế cũng khó lòng mà giả thiết như vậy hay vì những tiếng động ấy nghe quá rõ, nhưng chàng chợt nghe dường như có tiếng một bàn tay thận trọng nắm lấy quả nắm và như có cả tiếng áo dài chạm sột soạt vào cánh cửa. Có ai lặng lẽ đứng sát ngay ở ổ khoá và cũng như chàng, đang áp tai vào cánh cửa nghe ngóng từ bên trong…
Chàng cố ý cựa quậy và lẩm bẩm một câu gì đề mụ già khỏi nghĩ là chàng có ý lén lút; rồi chàng kéo chuông lần nữa, nhưng kéo khẽ, từ tốn và không lộ vẻ gì sốt ruột. Về sau nhớ lại những giây phút nầy, chàng thấy nó đã vĩnh viễn khắc sâu vào trí nhớ của chàng thành từng nét rõ mồn một; chàng không hiểu nổi làm sao chàng lại có thể xảo quyệt đến thế, nhất là trong khi trí thông minh của chàng cứ mờ đi từng lúc, còn thân thể thì hầu như đã mất hết khả năng cảm giác… Một lát sau nghe có tiếng rút chốt cài cửa…
7.
Cũng như lần trước, cánh cửa hé mở ra thành một khe hở nhỏ xíu, và từ trong bóng tối, hai con mắt sắc lại ngờ vực soi mói chàng. Đến đây Raxkonikov mất bình tĩnh và suýt phạm một sai lầm lớn.
Sợ mụ già đâm hoảng vì thấy chỉ có mình mụ với chàng, và không dám trông mong rằng dáng vẻ của mình sẽ làm cho mụ yên tâm, chàng nắm lấy cánh cửa kéo về phía mình đề cho mụ già không thể nghĩ đến chuyện đóng lại nữa. Thấy thế, mụ ta không kéo cánh cửa trở lại, nhưng cũng không buông quả nắm ra, thành thử suýt bị chàng lôi ra ngoài cầu thang cùng với cánh cửa. Còn Raxkonikov thấy mụ già đứng chắn ngang cửa không cho chàng vào, liền bước thẳng về phía mụ ta. Mụ ta hoảng sợ nhảy lùi lại, toan nói gì nhưng dường như líu lưỡi lại không nói được, chỉ giương to mắt nhìn chàng.
- Chào bà Aliona Ivanovna, - chàng lên tiếng, cố nói cho thật ung dung, nhưng giọng nói không chịu tuân theo ý chàng, cứ run lên và đứt từng quãng, - Tôi đem… một thứ… đến cầm… thôi tốt hơn ta hãy vào trong kia… cho sáng… - Nói đoạn chàng cứ để mụ đứng, đấy đi xồng xộc vào phòng, không đợi mời mọc gì cả. Mụ già tất tả chạy theo chàng; lưỡi mụ đã đỡ líu lại.
- Trời? Ông muốn gì?… Ông là ai?… Ông hỏi có việc gì?
- Xin lỗi bà… tôi là chỗ quen biết đây mà… Raxkonikov… đây, tôi mang đồ lại cầm như đã hứa lần trước… - Chàng đưa gói giấy ra cho mụ. Mụ già liếc nhìn qua gói giấy rồi lập tức đưa mắt nhìn thẳng vào mắt người khách đường đột. Mụ nhìn chăm chú, đôi mắt hằn học và hồ nghi. Một phút trôi qua; chàng còn có cảm giác là trong đôi mắt mụ có một vẻ gì như giễu cợt tựa hồ mụ đã đoán biết được mọi việc. Chàng cảm thấy mình bối rối, gần như hoảng sợ, hoảng sợ đến nỗi nếu mụ cứ lặng thinh nhìn chàng như thế chừng nửa phút nữa thì chàng sẽ bỏ chạy mất.
- Ơ kìa, sao bà lại cứ nhìn tôi như thể không nhận ra ấy? - chàng bỗng lên tiếng, giọng cũng có vẻ hằn học. - Bà có bằng lòng thì lấy, không thì thôi, tôi đi chỗ khác, tôi đang vội đây.
Chính chàng cùng không nghĩ là mình sẽ nói như thế; mấy câu ấy cứ thế tự nó tuôn ra.
Mụ già trấn tĩnh lại, và hình như giọng nói quả quyết của ông khách đã làm cho mụ yên tâm.
- Ồ, thế như cậu đến bất thình lình quá - cái gì thế - mụ nhìn gói giấy hỏi.
- Chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bạc, lần trước tôi đã nói qua.
Mụ chìa tay ra.
- Nhưng sao cậu xanh thế? Tay cậu run kìa? Cậu sợ hay sao?
- Sốt - chàng đáp xẵng - Không có gì ăn thì gì mà chả xanh… - chàng phều phào nói thêm.
Sức lực chàng lại tiêu tan đâu mất hết. Nhưng câu trả lời có vẻ có lý; mụ già cầm lấy gói giấy.
- Đó là chiếc hộp thuốc lá… bằng bạc… bà xem thử.
- Xem chừng cứ như không phải bằng bạc… Chà, buộc gì mà kỹ quá thế?
Trong khi hí hoáy tháo nút dây và quay mặt về phía ánh sáng, cạnh cửa sổ, các cửa sổ trong phòng mụ đều đóng kín, tuy khí trời ngột ngạt mụ để chàng đứng đấy và quay lưng về phía chàng trong vài giây. Chàng mở cúc áo khoác và tháo cái rìu ra khỏi quai, nhưng chưa rút hẳn ra ngoài, chỉ cầm ở tay phải dưới lấn áo khoác Hai tay chàng bủn rủn, chính chàng cảm thấy chúng mỗi lúc một tê dại và cứng đờ ra. Chàng sợ sẽ buột tay đánh rơi cây rìu… bỗng chàng thấy đầu óc choáng váng lên.
- Chà, buộc gì mà rắc rối thế! - mự già bực bội kêu lên và nhích về phía chàng.
Không thể bỏ lỡ lấy một giây nào nữa. Chàng rút hẳn rìu ra, cầm cả hai tay giơ cao lên, người như tê dại hẳn đi, và, hầu như không phải ra sức, như một cái máy, chàng bổ sống rìu xuống đầu mụ. Chàng dường như đã kiệt sức. Nhưng ngay sau khi chàng bổ rìu xuống rồi thì sức lực vụt trở lại, cũng như mọi khi, đầu mụ già để trần. Mái tóc thưa lốm đốm bạc xức dầu nhầy nhụa tết thành bím đuôi chuột và cài một miếng lược sừng gãy nhô lên ở phía trên gáy. Nhát rìu trúng ngay giữa đỉnh sọ, một phần cũng vì người mụ vốn thấp bé. Mụ ta kêu lên một tiếng, nhưng rất khẽ, và bỗng ngồi thụp hẳn xuống sàn nhà, tuy cũng còn đủ thì giờ đưa hai tay lên đầu.
Một tay mụ hãy còn giữ gói "đồ cầm". Raxkonikov liền lấy hết sức giáng sống rìu xuống một lần nữa, rồi một lần thứ ba, cũng đều nhằm đúng vào đỉnh sọ.
Máu tuôn ra như từ một cái cốc đổ, và cái thân hình ngã sấp xuống. Chàng lùi lại một bước để cho mụ ngã và lập tức cúi xuống sát mặt mụ. Mụ già đã chết. Hai con ngươi mở trừng trừng như muốn vọt ra khỏi hốc mắt, cái trán và khắp khuôn mặt đều nhăn nheo và co rúm lại.
Chàng đặt rìu xuống sàn, bên cạnh xác chết, và lập tức thọc tay vào túi áo bên phải của mụ, cố cho máu đừng dây vào tay. Túi áo bên phải là tút đựng chìa khoá của mụ: lần trước chàng thấy mụ rút chìa khóa ở đấy ra; chàng hoàn toàn tính táo, không hề cảm thấy choáng váng hay chóng mặt gì nữa, nhưng tay chàng vẫn run. Về sau chàng nhớ lại là lúc ấy chàng rất chăm chú, thận trọng, luôn có ý tứ giữ cho tay đừng dây máu… Chàng rút chìa khoá ra được ngay; cũng như trước, bao nhiêu chìa khoá đều xâu thành chùm vào một cái khâu bằng thép. Chàng lập tức cầm chùm chìa khoá chạy sang buồng ngủ. Đó là một căn buồng rất nhỏ, với một chiếc trang thờ to tướng bày đầy tượng thánh. Sát bức tường đối diện kê một cái giường lớn rất sạch trải chiếc chăn bông, áo chăn làm bằng nhiều mảnh lụa vụn khâu lại. Ở tường bên kê một chiếc tủ ngăn. Thật là kỳ lạ: ngay khi chàng vừa mới bắt đầu thò chìa khoá vào ngăn tủ, vừa nghe thấy tiếng lách cách của chùm chìa khoá chạm vào nhau, chàng bỗng thấy rùng mình. Chàng lại nảy ra ý muốn vứt hết và bỏ đi. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua trong giây lát: bây giờ mà bỏ đi thì đã muộn. Chàng còn đang cười nhạt chế nhạo mình, thì bỗng nhiên một ý nghĩ hãi hùng khác lại đập mạnh vào dầu chàng. Chàng bỗng mường tượng như mụ già hãy còn sống và có thể tỉnh dậy. Chàng bỏ chùm chìa khoá vào cái tủ ngăn ở đấy, chạy trở ra phòng ngoài, nơi cái xác đang nằm sóng soài cầm lấy rìu và một lần nữa giơ cao lên trên người mụ già, nhưng không bồ xuống. Không còn hồ nghi gì nữa, mụ chết thật rồi. Cúi xuống nhìn sát hơn nữa vào xác chết, chàng thấy rất rõ ràng cái sọ đã bị bổ toác ra, xương đỉnh đầu còn lệch đi một chút nửa là khác. Chàng toan lấy ngón tay sờ thử, nhưng rồi lại rụt tay về. Không sờ cũng đã đủ rõ chán. Trong khi đó máu đã chảy loang ra thành một vũng. Chàng chợt thấy trên cổ mụ già có sợi dây; chàng kéo ra, nhưng sợi dây bền lắm không sao giật đứt được; hơn nữa nó lại thấm máu. Chàng thứ kéo sợi dây qua đầu, nhưng có cái gì vướng chặt không kéo được. Chàng sốt ruột toan giơ rìu lên chặt đứt sợi dây ngay trên người mụ già, nhưng rồi không dám, và sau mấy phút hì hục vất vả làm dây bẩn cả tay lẫn rìu, chàng cưa đứt được sợi dây, không cần chạm vào người mụ già, và lấy nó ra; quả chàng không nhầm: đó là một sợi dây đeo bóp đựng tiền. Ở đầu dây có hai cái thánh giá, một bằng gỗ huyền bá, một bằng đồng, ngoài ra còn có một bức tượng nhỏ tráng men. Bên cạnh các thứ đó là một cái bóp nhô bằng da lộc cáu ghét có khoá bấm bằng thép. Cái bóp nhét tiền chật cứng;
Raxkonikov đút nó vào túi, không mở ra xem, còn hai cái thánh giá thì chàng vứt lên ngực mụ già, và vẫn không quên cầm lấy chiếc rìu, chàng lại chạy trở vào buồng ngủ.
Chàng vội vã cuống cuồng lên, bắt đầu hí hoáy mở khoá. Nhưng không hiểu sao mở mãi chẳng ra: chìa khoá không vặn được. Không phải vì tay chàng run mạnh đến thế, nhưng chàng cứ lầm lẫn mãi: chẳng hạn có khi chàng cũng thấy là chìa nầy không phải, thế nhưng cứ đút vào. Chàng chợt nhớ lại và suy ra rằng cái chìa khoá to, đầu có răng cưa chắc hắn không phải chìa mở tủ ngăn lần trước chàng cũng đã nghĩ như thế mà phải dùng để mở một cái tráp nào đấy, và cái tráp ấy mới chính là nơi mụ già cất giấu tất cả của cải của mụ. Chàng rời chiếc tủ ngăn và lập tức bò xuống gầm giường, vì biết rằng các bà già thường cất tráp ở đấy Quá nhiên dưới gầm giường có một cái rương khá to chiều dài đến hơn bảy tấc, nắp khum lên, bọc da để đỏ nẹp từng hàng đinh thép. Cái chìa khoá răng cưa vừa khớp với ổ khóa. Chàng mở ra. Phía trên, dưới một tấm vải trắng, có một, chiếc áo choàng lông thỏ lót vải đỏ dưới nữa có một chiếc áo dài lụa, rồi đến một tấm khăn san. Có thể tưởng chừng như cái rương đựng toàn quần áo. Trước hết Raxkonikov chùi hai bàn tay vấy máu lên lần vải đỏ lót áo lông. "Vải đỏ, thế thì chùi máu vào đây, sẽ khó thấy hơn" - chàng suy nghĩ, rồi bỗng sực tỉnh: "Trời ơi! Ta điên rồi hay sao thế nầy" - chàng kinh hãi nghĩ thầm.
Nhưng chàng vừa nhấc mấy thứ quần áo lên thì từ dưới chiếc áo lông buột ra một cái đồng hồ vàng. Chàng lập tức xáo hết lên. Quả nhiên, giữa các lớp áo quần đều có những đồ bằng vàng - chắc đều là những đồ cầm không chuộc lại, - vòng, xuyến, trâm, dây chuyền, hoa tai và nhiều thứ khác. Có cái đựng trong hộp, có cái chỉ gói giấy báo, nhưng gói rất cẩn thận bằng hai lần giấy, ngoài lại buộc dây rất kỹ. Không chần chừ lấy một giây, chàng bắt đầu đút hết thứ nầy đến thứ khác, vào túi quần và túi áo khoác, không chọn lựa không mở ra xem. Nhưng chàng chưa có thì giờ bỏ túi được bao nhiêu…
Bỗng nghe có tiếng chân bước ở phòng ngoài, nơi có xác mụ già. Chàng ngừng tay và lịm đi. Nhưng mọi vật vẫn im lặng, chắc chàng mê sảng. Chợt chàng nghe rõ một tiếng kêu khe khẽ, hay dường như có ai kêu lên một tiếng ấm ức rồi ngưng bặt. Xung quanh lại im phăng phắc trong khoảng một hai phút. Chàng ngồi xổm bên cạnh chiếc rương và chờ đợi, hơi thở rối loạn, nhưng bỗng nhiên chàng vụt chồm dậy, vơ lấy rìu và chạy ra.
Mụ Lizaveta đang đứng ở giữa phòng, tay cầm một gói vải lớn, sững sờ nhìn xác mụ chị, mặt trắng nhợt như tờ giấy và dường như không có đủ sức để kêu lên nữa. Trông thấy chàng chạy ra, mụ run lên cầm cập và mặt mụ như rúm ró lại; mụ giơ tay lên bưng lấy miệng, nhưng vẫn không kêu, rồi từ từ đi thụt lùi về phía góc phòng, lặng lẽ giương mắt nhìn chàng trừng trừng, như thể không còn đủ hơi sức mà kêu nữa. Raxkonikov cầm rìu lao tới; môi mụ mếu xệch đi như môi của trẻ nhỏ khi kinh hãi nhìn chăm chăm vào vật gì đang làm chúng sợ và sắp sửa khóc oà lên. Người đàn bà khốn nạn kia ngờ nghệch và hoáng hốt đến nỗi thậm chí cũng không còn đủ trí khôn để đưa hai tay lên ngang mặt mà đỡ, mặc dầu đó là cứ chỉ tự nhiên và tất yếu nhất trong giây phút nầy, vì cây rìu đang giơ lên ngay phía trên mặt, mụ chỉ hơi nhấc tay trái lên cách mặt một quãng và từ từ giơ về phỉa trước như để ẩy chàng ra. Lưỡi rìu dáng thẳng xuống sọ và bổ đứt cả phần phía trên trán, gần sát đến đỉnh đầu. Thế là mụ ngã nhào xuống; Raxkonikov hoàn toàn rối trí. Chàng vớ lấy cái tay nải của mụ, rồi lại bỏ xuống và chạy ra phòng ngoài.
Chàng mỗi lúc một thêm hoảng hốt, nhất là sau vụ giết người thứ hai hoàn toàn bất ngờ nầy. Chàng muốn trốn khỏi nơi nầy cho thật nhanh. Và ví thử lúc ấy chàng có đủ sức nhìn và suy luận một cách đúng đắn hơn, ví thử chàng có thể thấy hết được cái tình cảnh khó khăn, tuyệt vọng, quái gở và vô lý của mình, hiểu rõ mình còn phải làm bao nhiêu việc gian phi nữa mới có thể thoát ra khỏi nơi nầy và lần về đến nhà, thì rất có thể là chàng đã bỏ hết đây và lập tức đi tự thú, và như vậy cũng không phải vì lo sợ cho bản thân mình, mà chỉ vì kinh hãi và ghê tởm trước việc mình vừa làm. Nỗi ghê tởm mỗi lúc một trỗi dậy và dâng lên dữ dội trong lòng chàng. Bây giờ không còn có gì trên đời có thể bắt chàng trở vào chỗ cái rương, thậm chí trở vào trong hai gian phòng kia cũng vậy.
Nhưng một tâm trạng lơ đãng, hầu như mơ mộng, dần dần xâm chiếm lấy chàng: có những lúc chàng như quên hẳn mình đi, hay nói cho đúng hơn, quên mất điều chủ yếu, và cứ để tâm vào những chuyện vụn vặt.
Tuy vậy, khi liếc nhìn vào gian bếp và trông thấy một xô nước đặt trên chiếc ghế dài, chàng cũng nghĩ đến việc rửa tay và rửa rìu. Hai tay chàng nhầy nhụa những máu. Chàng thả cây rìu vào xô nước, cầm lấy miếng xà phòng đựng trong cái đĩa va đặt trên bậu cửa sổ và bắt đầu rửa tay ngay trong xô. Rửa tay xong, chàng lấy cái rìu ra, rửa lưỡi rìu, và một hồi lâu, trong khoảng ba phút đồng hồ, chùi cọ những vết máu trên cán rìu, có lúc còn lấy cả xà phòng xát thứ nữa. Đoạn chàng lấy những thứ áo quần phơi trên sợi dây căng qua giàn bếp lau tay và rìu, rồi đưa cây rìu ra đứng cạnh cửa sổ xem xét hồi lâu. Vết máu đã chùi sạch, chỉ có cái cán hơi ướt. Chàng cẩn thận bỏ rìu vào cái quai khâu dưới áo choàng, rồi trong ánh sáng mờ mờ lọt vào gian bếp, chàng xem xét chiếc áo khoác, cái quần, đôi ủng.
Mới thoáng trông thì nhìn bên ngoài chẳng thấy gì cả; chỉ có một vệt máu dính ở ủng. Chàng nhúng ướt một mảnh giẻ và lau sạch chiếc ủng. Vả chăng chàng cũng biết là không thể xem thật kỹ được, và có lẽ còn một dấu vết gì rõ rệt mà chàng không để ý. Chàng phân vân đứng ở giữa phòng. Một ý nghĩ đen tối, day dứt đấy lên trong lòng chàng: chàng nghĩ rằng mình đang phát điên và lúc nầy đã không đủ sức suy luận, không đủ sức tự vệ nữa, và có lẽ những việc chàng đang làm đây lại chính là những việc không nên làm… "Trời ơi! Phải trốn đi, trốn đi!" - chàng lẩm bẩm rồi lao ra phòng trước. Nhưng đến đây chàng đã phải một phen kinh hoảng mà dĩ nhiên chàng chưa có lần nào trải qua.
Chàng đứng ngẩn người ra nhìn và không còn dám tin ở mắt mình nữa: cánh cửa ngoài mở ra thang gác, chính cánh cửa mà chàng đã bước vào lúc nãy sau khi giật chuông, bây giờ đang để ngó, thậm chí còn hở đến một gang tay nữa là khác: không khoá, không cài then; nó đã bị để ngỏ như thế suốt cả thời gian, suốt cả thời gian ấy! Mụ già vào xong không đóng cửa lại, chắc là để đề phòng chuyện bất trắc. Nhưng trời ơi! Sau đó còn có mụ Lizaveta vào nữa kia mà? Làm sao chàng lại không nghĩ ra rằng mụ phải có lối nào mà vào? Chả nhẽ mụ lại đi xuyên qua tường được!
Chàng nhảy chồm ra cửa và móc chốt lại.
- Nhưng mình lại lẩn thần rồi! Phải bỏ đi mới đúng, phải đi…
Chàng nhấc chốt lên, mở cửa và lắng nghe những tiếng động ở ngoài cầu thang.
Chàng nghe ngóng hồi lâu, xa xa đâu ở phía dưới, có lẽ ở ngoài cổng, có tiếng hai người đang cãi cọ chửi bới lẫn nhau rất to, giọng the thé. "Họ nói những gì thế…" Chàng kiên nhẫn chờ một lát. Cuối cùng tiếng léo nhéo im bặt như bị cắt ngang: họ bỏ đi rồi. Chàng đã muốn đi ra, nhưng bỗng ở tầng dưới có tiếng cánh cửa mở ra thang gác đánh sầm một cái, và có ai bắt đầu bước xuống cầu thang, mồm ê a hát một câu gì không rõ. "Sao họ lại cứ làm ồn suốt đi thế!" - chàng thoáng nghĩ. Chàng khép cửa lại và đứng chờ… Cuối cùng mọi vật đều im phăn phắc, không còn ai đi lại gì nữa, chàng đã đặt một chán ra ngoài thì bỗng nghe có tiếng chân bước.
Tiếng chân bước nghe rất xa, mãi tận cuối cầu thang thì phải, nhưng chàng nhớ rất rõ ràng lúc ấy không hiểu tại sao vừa nghe tiếng bước đầu tiên chàng đã nghĩ ngay rằng chắc chắn người ta đang đi lên đây, lên buồng mụ già ở tầng bốn. Tại sao? Những tiếng động ấy có gì đặc biệt, đáng chú ý chăng? Những tiếng chân bước ấy nặng nề, đều đặn, thong thả. Và đây, hắn đã lên đến gác hai, và vẫn còn lên nữa, tiếng chân mỗi lúc một rô thêm, có thể nghe thấy tiếng thở hen suyễn nặng nhọc của hắn, hắn đã bắt đầu đi qua gác ba…
Hắn đã đến đây! Và Raxkonikov chợt thấy như mình cứ đờ ra, chàng có một cảm giác y hệt như trong giấc chiêm bao, khi mơ thấy có người đuổi đến gần để giết mình, còn mình thì như chôn chặt xuống đất và không sao cựa tay được nữa.
Và mãi cho đến khi người khách lạ bắt đầu leo lên gác tư, chàng mới cuống cuồng lên đóng cửa lại và nhanh nhẹn rời gian phòng ngoài lùi vào trong nhà. Rồi chàng cầm lấy cái móc cửa và nhẹ nhàng cài lại, không một tiếng động. Bản năng đã giúp chàng. Xong đâu đấy, chàng nín thở nép người vào sát cánh cửa. Người khách bất đắc dĩ cùng đã đứng ngoài cửa. Bấy giờ hai người đang đứng sát vào nhau như chàng với mụ già lúc nãy, khi cánh cửa còn ngăn cách họ, và chàng thì lắng tai nghe ngóng.
Người khách thở hắt ra mấy tiếng nặng nhọc."Chắc phải là một người to béo" - Raxkonikov nghĩ thầm tay xiết chặt cán rìu. Quả nhiên, cứ như trong một giấc chiêm bao, chàng nghe thấy khách cầm lấy dây chuông giật mạnh.
Cái tiếng rè rè như sắt tây của chiếc chuông vừa vang lên thì chàng chợt có cảm giác như trong phòng xôn xao hẳn lên. Trong mấy giây chàng còn lắng tai nghe ngóng thật sự nữa là khác. Người lạ mặt kéo chuông lần nữa, đợi thêm một lát rồi bỗng nhiên sốt ruột ra sức giật quả nắm cửa. Raxkonikov kinh hoàng nhìn cái chốt cửa đang lật bật trong khâu cài và sững sờ đợi lúc cái chốt bật hẳn ra ngoài. Quả nhiên có thể tưởng đâu nó sắp bật đến nơi: người đứng ngoài cửa giật mạnh lắm. Đầu chàng dường như lại choáng váng lên. "Mình ngã xuống đất" - chàng thoáng nghĩ, nhưng người kia đã lên tiếng, khiến chàng lập tức định thần lại.
- Chà hai con mẹ nầy làm gì trong ấy, ngủ tiệt hay có ai bóp chết ngoẻo rồi? Đồ quỷ sứ! - hắn gầm lên, tiếng nghe như trong thùng phát ra. - Ê, Aliona Ivanovna, mụ phù thuỷ già! Lizaveta Ivanovna, nàng giai nhân tuyệt thế! Mở ra chứ? Chà, hai con mẹ chết tiệt ngủ rồi hay sao thế không biết?
Hắn phát khùng lên, lấy hết sức lực kéo chuông hàng chục lần nữa. Chắc hẳn đây phải là một người quen biết lâu ngày và có quyền thế đối với nhà nầy.
Ngay lúc ấy bỗng nghe có bước mau, vội vã, trên thang gác, cách đấy không xa. Lại thêm một người nữa mới đến, lúc đầu Raxkonikov nghe vẫn chưa hiểu ra điều đó.
- Chả nhẽ không có ai ở nhà à? - người mới đến cất tiếng oang oang vui vẻ hỏi người kia lúc bấy giờ đang kéo chuông. - Chào bác Koch!
"Cứ nghe giọng nói thì chắc chắn hắn còn trẻ lắm" - Raxkonikov chợt nghĩ.
- Có ma nó biết, lay đến vỡ ổ khoá ra mà vẫn không thưa, - Koch đáp. - Thế tại sao ông lại biết tôi?
- Ơ kìa? Thì hôm kia ở tiệm "Gambrinus" tôi vừa thắng bác ba ván bi-a liền đấy thôi.
- À - à - à - Thế sao, không có nhà à? Lạ thật. Mà cũng vô lý hết sức. Mụ già ấy thì đi đâu mới được chứ? Tôi đang có việc cần gặp mụ.
- Tôi cũng thế ông ạ!
- Thôi, biết làm thế nào được? Đành phải về vậy.
- Chà. À! Thế mà tôi cứ tính chuyện đến lấy ít tiền! - người trẻ tuổi phàn nàn.
- Đành phải về thật, nhưng đã thế sao lại đi hẹn với người ta? Chính con mụ ấy hẹn giờ hẹn ngày với tôi đấy chứ. Tôi phải đi vòng khá xa mới ghé lại đây được. Nhưng tôi vẫn không hiểu mụ già ấy đi đâu thế? Ngồi ru rú ở nhà suốt năm đến mốc thếch cả người ra, lại đau chân nữa, thế mà nay bỗng dưng lại đi dạo đâu vắng mới lạ chứ.
- Hay thử hỏi lão gác cổng xem.
- Hỏi gì?
- Hỏi xem mụ đi đâu và bao giờ về?
- Hừm, đồ quỷ… hỏi, nhưng mà mụ ấy có đi đâu được kia chứ… - Và một lần nữa hắn lại kéo quả đấm cửa. - Mẹ kiếp, thôi đành về vậy.
- Khoan đã, - người trẻ tuổi bỗng kêu lên, - bác thừ nhìn xem: hễ kéo là cánh cửa hơi bật ra một tí, bác thấy không?
- Thì sao?
- Thế nghĩa là cửa không khoá, mà, chỉ cài chốt thôi, chỉ móc lại thôi mà! Bác có nghe thấy không cái móc kêu lạch cạch đấy.
- Thế thì sao?
- Sao bác lại không hiểu nhỉ? Thế nghĩa là vẫn có người ở nhà. Nếu cả hai mụ đều đi vắng cả thì phải khoá bằng chìa ở bên ngoài, chứ sao lại móc cửa ở bên trong được. Thế nhưng đây thì móc cửa lại cứ kêu cành cạch thế kia kìa, bác có nghe thấy không? Mà muốn móc cửa từ phía trong thì phải ở trong nhà chứ, bác hiểu ra chưa? Thế nghĩa là hai con mụ ở nhà mà vẫn không chịu mở cửa!
- Ờ mà thật! - Koch ngạc nhiên kêu lên - Thế thì hai con mụ làm gì ở trong ấy? - và hắn lại giận dữ kéo cửa.
- Khoan! - người trẻ tuổi lại nói, - đừng kéo nữa? Có cái gì không ổn đây rồi… bác kéo chuông, giật cửa như thế mà vẫn không mở: thế nghĩa là hai mụ phải chết giấc đi ở trong ấy hay là…
- Hay là thế nào?
- Bây giờ thế nầy nhé: ta xuống gọi bác gác cổng lên để cho bác ấy đánh thức hai mụ dậy.
- Phải đấy?
Cả hai người cùng đi xuống.
- Khoan đã! Bác cứ đứng đây một chút, tôi sẽ xuống gọi cho.
- Đứng đây làm gì?
- Nhỡ ra có chuyện gì…
- Có lẽ…
- Tôi đang học để ra làm dự thẩm! Ở đây rõ ràng có một cái gì không ổn, r - rõ r - ràng là như thế - người trẻ tuổi hăm hớ nói to, đoạn chạy vội xuống thang gác.
Koch đứng lại, khẽ kéo chuông một lần nữa. Cái chuông kêu lên một tiếng. Sau đó hắn lại im lặng vặn quả nắm, có - vè như đang suy nghĩ và xem xét điều gì, kéo cánh cửa rồi lại buông ra để nghiệm lại một lần nữa, cho chắc bụng rằng cửa chỉ móc lại chứ không khóa. Rồi hắn vừa thở phì phò vừa khom người xuống dòm vào lỗ khóa; nhưng khóa đã đút vào Ồ từ phía trong, cho nên hắn không thể trông thấy gì hết.
Raxkonikov đứng yên, tay lăm lăm cầm cán rìu. Chàng như đang mê sảng. Chàng còn sắp sẵn để đánh nhau với hai người lạ khi họ vào nữa. Trong khi họ gọi cửa và nói chuyện với nhau, đã mấy lần chàng chợt nẩy ra ý chấm dứt quách cho xong và đứng sau cửa lên tiếng quát họ. Có khi chàng muốn chửi bới, trêu tức họ trong khi họ chưa mở được cửa.
"Nhanh lên thôi chứ!" - ý nghĩ ấy vụt thoáng qua óc chàng.
- Mà sao hắn đi lâu thế, đồ quỷ.
Thời gian trôi qua, một phút, rồi một phút nữa - vẫn không thấy ai lên. Koch bắt đầu bứt rứt cựa quậy.
- Quái thật?… - Hắn bỗng sốt ruốt kêu lên rồi bỏ mặc đấy đi xuống nốt, chân bước vội vã và nện ủng thình thình trên thang gác. Tiếng bước xa dần rồi im hẳn.
- Trời ơi, biết làm gì đây?
Raxkonikov nhấc chốt, hé mở cửa ra. Xung quanh không có lấy một tiếng động. Và bỗng nhiên chàng bước ra, đầu óc tuyệt nhiên không còn nghĩ ngợi gì nữa hết, đóng cửa lại thật chặt và đi xuống cầu thang.
Chàng vừa xuống được ba bậc thang thì bỗng phía dưới có tiếng động mạnh. Biết nấp vào đâu bây giờ?
Xung quanh không có chỗ nào có thể ẩn được. Chàng chạy lùi lại, quay trở vào phòng.
- Ê quân chết tiệt! Bắt lấy nó!
Ở phía dưới có ai vừa quát tháo vừa từ trong một căn phòng nào đó nhảy xổ ra rồi đâm bổ xuống thang gác, miệng thét thất thanh:
- Mitka? Mitka! Mitka! Mitka! Mitka! Quỷ bắt mày đi thằng nỡm!
Tiếng quát tháo chuyển sang tiếng rú the thé rồi im hẳn; những tiếng sau cùng nghe rõ là từ sâu vọng lên. Xung quanh lại im lặng. Nhưng ngay lúc ấy một tốp người vừa ầm ầm leo lên thang gác vừa nói chuyện ồn ào, tiếng nghe đồn dập. Họ có khoảng ba hay bốn người. Chàng phân biệt được giọng nói oang oang của người trẻ tuổi. "Chính họ đấy rồi!".
Hoàn toàn tuyệt vọng, chàng đi thẳng xuống phía họ, ra sao thì ra? Họ chặn chàng lại thì hỏng bét, mà họ không chặn nữa, thì cũng thế: họ sẽ nhớ. Hai bên đã sắp chạm trán nhau: giữa chàng với họ chỉ còn một cầu thang nữa, - và bỗng nhiên, lối thoát hiện ra cách chàng vài bậc thang, về bên phải, có một gian phòng bỏ trống cửa mở toang, chính gian phòng ở gác hai nơi bọn thợ sơn đang làm việc lúc nãy, nhưng bây giờ thì họ đã bỏ đi đâu, như cố ý vậy. Chắc hẳn vừa rồi chính họ vừa quát tháo vừa chạy xuống dưới sân.
Sàn nhà vừa mới sơn xong, ở giữa phòng có một cái thùng, một hộp sơn có cắm cái chồi sơn. Trong nháy mắt chàng đã chui tọt vào cửa và nấp vào sau bức tường, và cũng vừa kịp: mấy người kia bấy giờ đã lên đến gác hai ngay trước cửa phòng. Nhưng họ vẫn tiếp tục lên gác tư, vừa đi vừa nói bô bô. Chàng đợi một lát, rón rén ra khỏi phòng và chạy xuống.
Trên thang gác không có lấy một bóng người! Ở dưới cổng cũng thế. Chàng đi nhanh qua vòm cổng và rẽ ngoặt sang trái.
Chàng biết lắm, chàng biết rất rõ rằng lúc nầy đây họ đã vào phòng, rằng họ rất kinh ngạc khi thấy cánh cửa lúc nãy còn móc chốt mà nay đã mở, rằng họ đã trông thấy hai xác chết và chỉ một phút nữa là họ sẽ đoán ngay ra được rằng vừa rồi kẻ sát nhân đang ở trong phòng và vừa mới kịp lén đi, có lẽ họ cùng đoán được rằng chàng đứng trong gian phòng bỏ trống trong khi họ đi lên. Thế nhưng chàng không sao dám rảo bước đi thật nhanh, tuy từ đấy đến chỗ ngoặt đầu tiên còn phải đi đến trăm bước nữa. Hay là ta lẻn vào một cái cổng nào đấy, nấp vào một cầu thang mà đợi? Không được, hỏng bét? Vứt quách cái rìu đi chăng? Hay là gọi chiếc xe ngựa? Không được, hỏng bét, hỏng bét!"
Cuối cùng, chàng đã đến chỗ rẽ vào một ngõ hẻm. Chàng bước vào ngõ, người như chết dở; đến đây chàng gần như đã thoát nạn rồi, và chàng cũng hiểu như thế bây giờ thì khó bị nghi ngờ hơn, hơn nữa người qua lại rất đông, và chàng mất hút vào đây như một hạt cát.
Nhưng những phút khổ ải vừa qua đã làm cho chàng kiệt sức đến nỗi hầu như không nhích chân được nữa.
Mồ hôi đổ hột chảy ròng ròng trên mặt chàng; cổ chàng ướt dầm. "Thằng cha kia say bí tí" - có ai quát chàng khi chàng rẽ ra kênh đào.
Bây giờ chàng cứ mê man đi, càng đi trí óc càng tối sầm lại. Tuy vậy chàng cũng nhớ là khi rẽ ra kênh đào chàng thấy ở đấy vắng quá sợ dễ bị chú ý, nên toan quay trở vào ngõ. Tuy đã suýt ngã khuỵu xuống, chàng vẫn đi vòng một quãng xa để về nhà từ một hướng khác hẳn.
Ngay đến khi chàng đi vào cổng nhà mình, Raxkonikov cũng vẫn chưa tỉnh hẳn. Dù sao chàng lên đến thang gác rồi mới sực nhớ đến cái rìu. Bây giờ còn phải làm một việc rất quan trọng: trả cái rìu về chỗ cũ, và phải làm sao cho thật kín đáo. Dĩ nhiên chàng không còn đủ sức suy tính rằng có lẽ đừng để cái rìu lại chỗ cũ, mà tốt hơn nhiều là nên vứt nó vào một cái sân nào khác, để đến sau nầy rồi vứt cũng được Nhưng mọi việc đều êm thấm. Cửa phòng người gác cổng đang đứng, nhưng không khoá, thế tức là hắn ta có lẽ đang ở nhà. Nhưng chàng mất khả năng suy nghĩ đến nỗi cứ đi thẳng tới và mở cửa ra. Ví thử người gác cổng hỏi chàng: "Ông cần gì?" thì có lẽ chàng sẽ cứ thế cầm cái rìu đưa thẳng cho hắn ta. Nhưng người gác cổng lại vắng nhà, và chàng có đủ thì giờ để đặt cây rìu ở chỗ cũ, dưới chiếc ghế dài; chàng lại còn lấy thanh củi chặn lên như cũ nữa. Trên đường trở về buồng, chàng không gặp lấy một bóng người nào; phòng bà chủ đóng kín. Về đến buồng mình, chàng cứ để nguyên quần áo gieo mình xuống đi-văng. Chàng không ngủ, nhưng cứ thiêm thiếp mê man. Bấy giờ giá có ai đi vào buồng, chàng sẽ lập tức nhảy chồm dậy và kêu rú lên.
Những mảng ý nghĩ đứt đoạn và rối ren cứ loáng thoáng trong đầu chàng; nhưng chàng không thể cầm giữ lấy một ý nào, không thể dõi theo một ý nào, dù có cố sức cũng không được.
Chương 7
Chàng nằm như thế rất lâu. Có những khi chàng như tỉnh giấc, và những khi ấy, chàng nhận thấy đêm đã xuống từ lâu, nhưng không hề có ý muốn dậy.
Cuối cùng chàng thấy trời đã sáng hẳn(1). Chàng nằm im trên đi-văng, tâm trí còn bàng hoàng vì cơn mê vừa qua. Từ dưới phố vọng lên những tiếng quát tháo kinh khủng nhói cả tai. Vả chăng đêm nào cũng vậy, khoảng hơn hai giờ sáng ở dưới cửa sổ lại nghe thấy những tiếng quát tháo như thế. Và giờ đây chính những tiếng quát ấy đã đánh thức chàng dậy. "À! Lũ say rượu đã kéo nhau ra về rồi đây" - chàng nghĩ thầm, - hơn hai giờ sáng rồi, chàng bỗng choàng dậy, như có ai nhấc bổng chàng lên khỏi đi-văng. - Sao, hơn hai giờ sáng rồi ư? Chàng ngồi dậy và chợt nghĩ ra. Trong nháy mắt, chàng sực nhớ lại tất cả những việc đã qua.
Phút đầu chàng ngỡ mình phát điên. Khắp người chàng thấy lạnh toát ra, chắc cũng vì cơn sốt đã bắt đầu nổi lên từ lâu, trong khi chàng ngủ. Song bây giờ chàng run lên cầm cập, mạnh đến nỗi răng đánh vào nhau như muốn bật tung ra, toàn thân chàng choáng váng hẳn đi. Chàng mở hé cánh cửa và bắt đầu nghe ngóng: trong nhà im phăng phắc, mọi vật đều ngủ say.
Chàng ngỡ ngàng đưa mắt nhìn xuống người mình và nhìn mọi vật xung quanh, lòng băn khoăn không sao hiểu nổi: làm thế nào mà hôm qua, khi vào buồng, chàng lại không cài cửa lại và không những cứ để nguyên cả áo quần gieo mình xuống đi-văng, mà ngay cả mũ cũng không cất nữa. Khi chàng nằm xuống nó đã buột ra và nay còn nằm trên sàn nhà, ngay cạnh gối. "Nếu có ai vào họ sẽ nghĩ ra sao đây? Hẳn là họ sẽ nghĩ rằng ta say, nhưng…". Chàng nhảy nhồm ra cửa sổ. Ở đây có đủ ánh sáng, chàng hối hả xem xét người mình suốt từ đầu đến chân: áo quần có còn vết gì không? Nhưng cứ thế nầy thì không thể xem xét gì được: người chàng cứ run lên lẩy bẩy. Chàng lần lượt cởi hết áo quần ra xem lại thật kỹ. Chàng lật đi lật lại xem từng đường may, từng mụn vá, và vẫn chưa yên tâm, chàng xem lại từng cái một đến ba lần liền. Nhưng hình như không có gì cả không thấy một dấu vết nào; chỉ có một chỗ gấu quần xổ tung ra, xơ vải thấm đầy máu đông đặc. Chàng lấy con dao xếp lớn xén hết chỗ xơ đi. Ngoài ra hình như không còn gì nữa. Bỗng chàng sực nhớ ra rằng cái bóp tiền và những đồ đạc lấy trong hòm mụ già ra cho đến nay vẫn nằm trong túi chàng. Mãi cho đến nay mà chàng vẫn chưa nghĩ đến việc rút nó ra và đem giấu đi?
Ngay bây giờ, trong khi xem xét áo quần, chàng vẫn không nhớ ra. Thế là thế nào? Trong một nhoáng chàng lôi hết ra ngoài và vứt cả lên bàn. Chàng lại còn lộn cả các túi áo ra cho chắc bụng để không còn sót lại một cái gì nữa, xong chàng vò tất cả các thứ đó bỏ vào một góc phòng, nơi giấy dán tường bong ra và rách một lỗ.
Chàng nhét hết các thứ vào cái lỗ ấy, dưới làn giấy dán tường. "Ổn rồi! Không còn thấy vết tích đâu nữa, cả cái bóp cũng thế!" - chàng mừng rỡ nghĩ thầm trong khi đứng dậy nhìn đờ đẫn vào cài góc và cái lô giấy rách bây giờ cộm hẳn lên. Chợt cả người chàng run bắn lên vì kinh hãi: "Trời ơi, - chàng tuyệt vọng thều thào - mình làm sao thế nầy? Thế mà gọi là giấu kín ư? Đời thuở ai lại đi giấu như thế?". Quả tình chàng quên không tính đến các thứ nầy; chàng tưởng là mình sẽ lấy tiền thôi, cho nên không chuẩn bị trước chỗ cất giấu.
"Nhưng bây giờ, thì ta mừng cái gì mới được chứ? - chàng nghĩ thầm. - Có ai lại đi giấu như thế bao giờ? Đúng là mình mất hẳn trí khôn rồi!"
Chàng bải hoải ngồi xuống đi-văng và lập tức lại run lên cầm cập. Như một cái máy, chàng kéo chiếc áo khoác mùa đông cũ kỹ của sinh viên vắt trên chiếc ghế đặt bên cạnh, một chiếc áo hãy còn ấm, nhưng đã rách bươm ra, đắp lên người, và cơn mê sảng lại ập vào người chàng. Chàng thiếp đi.
Chỉ độ năm phút sau chàng lại choàng dậy và lập tức hoáng hốt vồ lấy đống quần áo. "Làm sao mình lại có thể ngủ trong khi chưa làm xong gì cả! Đúng thế, đúng thế rồi: mình vẫn chưa tháo cái quai ở nách áo ra. quên bẵng đi mất, một việc như thế mà lại quên được! Một tang vật rành rành ra như thế?". Chàng giật đứt cái quai và hối hả xé vụn nó ra từng manh rồi nhét vào đống quần áo dưới gối. "Dù sao cũng không ai ngờ vực những mảnh gì nầy; hình như thế, hình như thế đấy!" - Chàng đứng ở giữa phòng nhắc đi nhắc lại, và với một sức chú ý căng thẳng đến nỗi nhức cả mắt, chàng lại xem xét xung quanh, trên sàn nhà cũng như khắp các nơi khác, xem mình có còn quên gì nữa không. Chàng biết chắc rằng mình đang mất hết, ngay cả trí nhớ, ngay cả khả năng suy luận đơn giản nhất cũng thế, và bắt đầu lo lắng ray rứt không sao chịu nổi.
Sao, chẳng lẽ hình phạt đã bắt đầu, chẳng lẽ giờ hành hình đã điểm?… Kia rồi, kia rồi, mình biết ngay mà? Quả nhiên những mảnh xơ chàng xén ở gấu quần còn vứt bừa ra sàn nhà ngay chính giữa phòng, ai vào cũng có thể trông thấy ngay được! "Mình làm sao thế nầy nữa!" - Chàng lại kêu lên như người mất trí.
Đến đây chàng nẩy ra một ý nghĩ kỳ lạ: có thể là áo quần chàng chỗ nào cũng bê bết những máu, có lẽ còn có nhiều vết máu lắm, chẳng qua chàng không trông thấy, không nhận ra đấy thôi, vì đầu óc chàng đã suy nhược, rối loạn, trí khôn đã mờ đi. Bỗng chàng sực nhớ ra rằng trên cái bóp tiền cũng phải có máu, vì khi ta đút túi cái hộp hãy còn ướt!" Chàng lập tức lộn túi quần ra. Quả nhiên trên lần vải lót túi có những vết máu? "Thế nghĩa là ta chưa mất hẳn trí khôn, thế nghĩa là ta hãy còn khả năng suy luận, còn trí nhớ, mới có thể nghĩ ra được điều đó chứ? - chàng đắc chí nghĩ thầm và hớn hở hít mạnh không khí vào căng cả lồng ngực, - chẳng qua vì sốt nên bị suy nhược, mê sảng trong chốc lát thôi". Chàng liền xé miếng vải lót túi quần bên trái ra. Vừa lúc ấy một tia năng chiếu vào chiếc ủng bên trái của chàng: ở đầu chiếc bít tất thòi ra ngoài mõm giầy hình như có những vết bẩn. Chàng cởi chiếc bít tất ra: "Đúng là có vết! Mũi bít tất nhơm nhớp những máu; chắc là chàng đã sơ ý bước vào vũng máu… "Nhưng bây giờ biết làm thế nào? Biết giấu chiếc bít tất, cái mảnh xơ, cái treo túi nầy đi đâu?".
Chàng vơ cả một nắm và đứng sững ra ở giữa phòng.
"Bỏ vào lò sưởi chăng?" Nhưng đó là nơi họ sẽ bới tìm trước tiên. Đốt! Nhưng lấy gì mà đốt? Đến diêm cũng không có nữa kia mà. Không, tốt hơn là hãy đem một chỗ nào mà vứt. Phải rồi? Vứt đi thì hơn! - chàng nhắc đi nhắc lại và ngồi xuống đi-văng, - mà phải đi vứt ngay bây giờ, không chậm trễ!" Nhưng đầu chàng lại cứ trĩu xuống gối; ngực chàng lại rung lên từng cơn không sao cưỡng nổi; chàng kéo áo khoác lên đắp.
Và mãi hồi lâu, đến mấy tiếng liền, chàng cứ chập chờn với ý nghĩ "phải đi ngay bây giờ, không lần lữa gì nữa, phải đến một chỗ nào mà vứt hết các thứ nầy cho mất tang đi, nhanh lên, nhanh lên!" Đã mấy lần chàng choàng người lên, muốn đứng dậy mà không được. Một tiếng đập cửa rất mạnh thức chàng tỉnh hẳn.
- Kìa mở ra chứ, chết rồi hay sao thế? Cứ ngủ li bì mãi! - Naxtaxia vừa kêu vừa nện quả đấm vào cửa, - ngủ suốt mấy ngày liền? Đúng hệt như con chó! Mở ra nào. Mười giờ rồi.
- Có lẽ đi đâu vắng cũng nên? - một giọng đàn ông nói.
Chà giọng lão gác cổng… Lão muốn gì thế? Chàng choàng dậy ngồi trên đi-văng. Tim chàng đập mạnh đến đau cả ngực.
- Thế thì ai chốt cửa lại? - Naxtaxia cãi, - chà lại sinh ra cái trò chốt với cài! Sợ người ta rinh mình đi mất chắc? Mở ra nào, đồ ngốc, dậy đi!
Họ muốn gì? Tại sao lão gác cổng lại lên đây? Họ biết hết rồi. Kháng cự hay là chịu mở cửa? Mẹ chúng nó…
Chàng nhỏm dậy, chồm về phía trước và nhấc then cửa lên. Phòng chàng chật đến nỗi có thể cứ ngồi ở giường cùng mở được cửa.
Đúng như chàng đoán, lão gác cổng đang đứng trước cửa với Naxtaxia.
Naxtaxia nhìn chàng một cách khác thường. Chàng đưa mắt thách thức và tuyệt vọng nhìn lão gác cổng.
Lão im lặng, đưa cho chàng một tờ giấy xám gấp làm đôi, niêm bằng thứ xi gắn cổ chai.
- Trát ở sở gửi đến, - lão vừa trao giấy vừa nói.
- Sở nào?…
- Sở cảnh sát, giấy đòi anh lên sở cảnh sát.
- Sở cảnh sát à!… Việc gì thế?
- Tôi làm thế nào mà biết được. Họ đòi thì đi thôi. - Lão chăm chú nhìn chàng, đảo mắt quanh phòng một lượt rồi quay ra.
- Cậu ốm thật rồi hay sao thế? - Naxtaxia hỏi, mắt vẫn nhìn chàng đăm đăm. Lão gác cổng cũng ngoái đầu lại một lát. - Sốt từ hôm qua, - Naxtaxia nói thêm. Chàng không đáp, tay vẫn cầm tờ giấy, không bóc ra.
- Thôi đừng dậy nữa! - Naxtaxia ái ngại nói tiếp khi thấy chàng thả chân xuống sàn. - Ốm thì đừng đi nữa, chẳng có gì gấp đâu, tay cậu cầm cái gì thế? - chàng nhìn xuống: tay phải chàng đang nắm mớ vải xớ cắt ở gấu quần, chiếc bít tất, miếng rẻo túi quần.
Vừa qua chàng đã cầm nguyên cả các thứ đó mà ngủ. Mãi về sau, khi nghĩ lại, chàng mới nhớ rằng trong cơn sốt đã có lần chàng thức giấc, nửa mê nửa tỉnh, nắm mở giẻ thật chặt và cứ thế mà ngủ lại.
- Xem cậu ta nhặt được mở giẻ ở đâu mà ngủ cũng không rời ra, như thể của quý ấy… - Nói đoạn Naxtaxia cười rũ ra từng cơn như thường lệ. Trong nháy mắt chàng đút hết nắm giẻ xuống dưới vạt áo và trừng trừng giương mắt nhìn chị ta. Tuy lúc ấy chàng rất ít khả năng suy nghĩ tỉnh táo, Raxkonikov cũng cảm thấy rằng thái độ của những kẻ đi bắt người hẳn không như thế. "Nhưng còn… sở cảnh sát".
- Uống nước chè nhé? Có muốn uống không? Tôi sẽ đem lại, hãy còn đấy!
- Không… tôi đi đây! Tôi đi ngay dây, - chàng đứng dậy lẩm bẩm.
- Nhưng liệu có xuống nổi thang gác không đã nào?
- Tôi cứ đi…
- Ừ muốn đi thì đi.
Naxtaxia theo sau người gác cổng lui ra. Chàng lập tức lao người ra chỗ sáng xem lại chiếc bít tất và miếng rẻo: "Có vết, nhưng không rõ lắm; bùn lấm bê bết, lại chà xát mãi nên màu cùng bạc đi. Không biết trước thì không thấy gì đâu. Thế nghĩa là Naxtaxia đứng xa không thể nhìn thấy gì được. Lạy Chúa!". Chàng lập cập bóc phong bì ra đọc. Chàng đọc hồi lâu và mãi cuối cùng mới hiểu ra. Đó là một tờ trát thông thường của quan cảnh sát yêu cầu đến trình tại phòng giấy quận trưởng vào lúc chín giờ rưỡi ngày hôm nay.
"Chuyện quái gì thế nhỉ? Mình có việc gì dính dáng đến cảnh sát đâu? Mà tại sao lại đúng vào hôm nay? - chàng ngầm nghĩ, lòng bàn khoăn ray rứt. - Trời ơi, sao cho chóng xong đi" Chàng quỳ xuống toan cầu nguyện, nhưng rồi lại bật cười - không phải cười lời cầu nguyện mà cười bản thân mình. Chàng bắt đầu hối hả mặc áo. Ra sao thì ra, đã hỏng thì cho hỏng nốt, cần gì! Cứ đi chiếc tất vào? - chàng chợt nghĩ, - càng trát bụi vào, càng mất đâu. Nhưng vừa luồn chiếc bít tất vào chàng đã kinh tởm và khiếp sợ rút nó ra. Rồi nhớ ra rằng không còn chiếc nào khác, chàng lại đi vào và cười phá lên. "Tất cả những cái đó đều là ước lệ, đều là tương đối, đó chỉ là những cái hình thức, - ý nghĩ ấy vụt thoáng qua trí chàng như chỉ chạm hờ vào một góc lề tư tưởng, trong khi cả người chàng run lên cầm cập, - Ấy thế mà ta vẫn xỏ chân vào đấy! Rốt cục rồi cũng xỏ chân vào!" Nhưng rồi tiếng cười nhường chỗ ngay cho nỗi tuyệt vọng. "Không… mình không đủ sức…" - chàng thầm nghĩ. Chân chàng run lẩy bẩy. "Run vì sợ đấy - chàng lẩm bẩm nói một mình. Đầu chàng váng lên và nhức nhối vì cơn sốt. "Đây là một quỷ kế! Chúng nó muốn bày mưu nhử mình đến rồi hỏi cũng bất thình lình" - chàng nghĩ tiếp khi ra cầu thang. "Tệ hại nhất là bây giờ mình gần như đang mê sảng… mình có thể buột mồm nói bậy…"
Trên cầu thang chàng sực nhớ rằng mình vẫn để nguyên các thứ trong cái lỗ thủng trên tấm giấy dán tường, - "mà có lẽ họ cố nhử cho mình đi vắng để soát nhà cũng nên?" - chàng chợt nghĩ ra và dừng lại. Nhưng một tâm trạng tuyệt vọng, một thứ trâng tráo của kẻ cùng đường đã khống chế chàng, chàng khoát tay một cái và đi thẳng.
"Miễn sao cho chóng xong đi!…"
Ngoài phố nóng bức không sao chịu nổi; suốt mấy ngày hôm ấy không có lấy một giọt mưa. Lại cảnh bụi bặm, vôi gạch, lại mùi xú uế nồng nặc từ các cửa hiệu, các tiệm rượu xông ra, lại những gã say rượu đi lại nhan nhản, những người bán hàng rong bẩn thỉu và những chiếc xe ngựa ọp ẹp. Ánh nắng chói vào mắt chàng nhức buốt; đầu chàng váng hẳn lên - cái cảm giác thông thường của người sốt khi ra đường đột ngột trong một ngày nắng sáng.
Đi đến chỗ rẽ ngoặt sang dãy phố "hôm qua", chàng bồi hồi lo sợ liếc mắt nhìn vào dãy phố, nhìn toà nhà ấy… và lập tức nhìn sang chỗ khác.
"Nếu họ hỏi, có lẽ ta sẽ nói hết" - chàng nghĩ khi gần đến sở cảnh sát.
Sở cảnh sát cách nhà chàng khoảng một phần tư verxta. Nó vừa dọn sang trụ sở mới đặt ở tầng gác thứ tư của một toà nhà mới. Hồi nó còn ở chỗ cũ, chàng đã có lần ghé vào một lát, nhưng đã lâu lắm rồi. Đi vào cổng, chàng thấy ở bên phải có một cầu thang, và trên cầu thang, một người mu-gich cầm quyển sổ đang đi xuống: "Có những người gác cổng ra vào; thế thì đây đúng là sở cảnh sát rồi" (2), chàng phỏng đoán như vậy rồi cứ thế leo lên thang gác, không muốn hỏi ai hết.
"Ta sẽ vào, sẽ quỳ xuống và khai hết từ đầu chí cuối". - chàng nghĩ khi bước lên tầng thứ tư. Cầu thang chật hẹp, lên thẳng đứng, ngập ngụa nước bẩn vả rác rưởi. Tất cả các gian bếp của tất cả các nhà ở khắp bốn tầng đều trông ra thang gác và cứ thế mở suốt ngày. Cho nên không khí ở đây ngột ngạt lạ lùng. Những người gác cổng sổ cắp nách, những người cảnh binh và những người thường dân nam có nữ có lẽn lên xuống xuống không ngừng. Cánh cửa vào phòng giấy cũng mở toang. Chàng bước vào và dừng lại ở phòng ngoài. Ở đây có mấy người mu-gich đang đứng dợi.
Không khí trong phòng nầy cũng hết sức ngột ngạt, lại thêm mùi sơn ướt ở các phòng xông ra, tanh đến lộn mửa. Đợi được một lát, chàng nảy ra ý đi thẳng vào phòng bên. Các phòng ở đây đều chật và thấp. Một tâm trạng nôn nóng cứ thôi thúc chàng đi sâu mãi vào các phòng trong. Không có ai để ý đến chàng. Ở gian phòng thứ hai có những viên thư lại ăn mặc chẳng hơn gì chàng mấy, đang ngồi viết hí hoáy, trông họ có một vẻ gì kỳ quái. Chàng hỏi thăm một người trong bọn họ.
- Anh cần cái gì?
Chàng chìa tờ trát của sở ra.
- Ông là sinh viên à? - người kia hỏi sau khi nhìn vào giấy.
- Vâng, cựu sinh viên.
Viên thư lại nhìn chàng một lát, song cũng không hề có ý tò mò. Đó là một người có bộ tóc rối xù lên, mắt lờ đờ như thể luôn luôn theo đuổi một ý nghĩ bất đi bất dịch.
"Hỏi hắn thì chẳng biết thêm được gì đâu, hắn dửng dưng đối với mọi việc trên đời" - Raxkonikov thầm nghĩ.
- Ông đi lại đằng kia gặp ông chánh văn phòng, viên thư lại nói và giơ ngón tay ra phía trước chi vào gian phòng ở tận cùng.
Chàng bước vào phòng nầy phòng thứ tư kế từ ngoài vào, một gian phòng chật hẹp và đầy ắp những người là người - đám khách ở đây ăn mặc sạch sẽ hơn những người đứng trong các phòng kia. Trong số khách có hai người đàn bà. Một người để tang, phục sức tồi tàn ngồi trước bàn giấy viên chánh văn phòng và đang viết những gì gì do viên kia đọc. Người đàn bà thứ hai béo phục phịch, da mặt lốm đốm đỏ, dáng bệ vệ, ăn mặc sang trọng và diêm dúa, ngực cài một cái hoa giả to bằng cái đĩa tách, đang đứng đợi một bên. Raxkonikov chìa tờ trát ra cho viên chánh văn phòng. Hắn liếc nhìn qua tờ giấy, nói: "Ông đợi một tí", rồi tiếp tục đọc cho người đàn bà mặc tang phục viết.
Raxkonikov thở đã nhẹ nhõm hơn. "Chắc là không phải!" Chàng dần dần hoàn hồn, cố hết sức trấn tĩnh và lấy lại can đảm.
"Chỉ cần một cử chỉ dại dột, một hành động bất cẩn hết sức nhỏ nhặt là có thể lộ hết! Hừm… tiếc rằng ở đây khó thở quá, - chàng nghĩ tiếp, - ngột ngạt thế nầy… Đầu đã thấy choáng váng… trí khôn cũng vậy…".
Chàng thấy hoang mang lạ lùng. Chàng chỉ sợ không tự chủ được. Chàng cố gắng chú ý đến một vật gì hay nghĩ đến một việc gì hoàn toàn xa lạ, nhưng không sao được. Vả chăng viên chánh văn phòng đang thu hút hết sức chú ý của chàng: cứ muốn phân tích vẻ mặt của hắn để phỏng đoán xa gần. Đó là một người rất trẻ, tuổi trạc hai mươi hai nước da ngăm ngăm, vẻ mặt linh hoạt. Trông hắn có vẻ già hơn tuổi. Hắn ăn mặc bảnh bao, theo đúng thời trang, tóc rẽ thành đường ngôi, chải chuốt và bôi sáp cẩn thận, mấy ngón tay trắng trẻo rửa ráy kỹ lưỡng bằng bàn chải, đeo rất nhiều nhẫn và khâu, áo gi-lê mắc những sợi dây chuyền vàng. Với một người ngoại quốc đang đứng đấy hắn lại còn nói dăm ba câu tiếng Pháp nghe khá thông thạo.
- Luyza Ivanovna, bà ngồi xuống chứ, - hắn quay lại một chút nói với người đàn bà mặt đỏ ăn mặc diêm dúa nãy giờ cứ đứng mãi, như thể không dám ngồi xuống, mặc dầu ngay bên cạnh có một chiếc ghế tựa.
- Ich danke (3) - bà ta nói khẽ, đoạn ngồi xuống trong tiếng lụa sột soạt. Chiếc áo dài màu xanh nhạt viền đăng-ten trắng của bà ta như một quả khinh khí cầu phồng tướng ra xung quanh ghế và choán đến gần nửa gian phòng. Mùi nước hoa sực nức. Nhưng bà ta hẳn lấy làm ngượng vì mình choán hết nửa phòng và mùi nước hoa của mình cứ bay lên ngào ngạt như vậy, bèn nở một nụ cười vừa bẽn lẽn vừa trâng tráo, nhưng rõ ràng là có ý lo ngại.
Cuối cùng người đàn bà mặc tang phục đã viết xong và đứng dậy. Vừa lúc ấy có một viên sĩ quan nện gót giầy bước vào, vẻ hiên ngang, cứ mỗi bước lại nhích vai một cái trông rất lạ mắt. Hắn vứt chiếc mũ lưỡi trai có đính phù hiệu lên bàn và ngồi vào ghế bành. Người đàn bà sang trọng trông thấy hắn lập tức đứng dậy, và với một vẻ hân hoan đặc biệt, nhún chân xuống chào; nhưng viên sĩ quan không mảy may để ý đến bà ta, còn bà ta thì bây giờ không còn dám ngồi xuống trước mặt hắn nữa. Đó là viên phó quận trưởng cảnh sát khu nầy. Hắn để hai chòm ria mép rất dài màu hung hung chĩa ngang ra hai bên; mặt có những nét rất thanh nhưng không có gì đặc biệt ngoài một vẻ hách dịch nào đó. Hắn nhìn Raxkonikov gườm gườm và phần nào có ý bực tức; chàng ăn mặc tồi tàn quá, và tuy tư thái của chàng đã nhũn nhặn nhưng vẫn không tương xứng với cách trang phục: Raxkonikov đã vô ý nhìn hắn quá thẳng và quá lâu khiến hắn phật ý.
- Anh kia muốn gì hả? - hắn quát, chắc lấy làm lạ rằng một tên khố rách áo ôm như thế mà lại không thèm quay mặt đi khi bắt gặp cái nhìn nảy lửa của hắn.
- Người ta đòi tôi đến… có trát… - Raxkonikov ấp úng trả lời.
- Đây là người sinh viên gọi đến về việc lá đơn đòi nợ - viên chánh văn phòng vội ngẩng đầu lên khỏi đống giấy nói. - Đây ạ? - Đoạn hắn đẩy về phía Raxkonikov một quyển vở và chỉ cho chàng một đoạn viết trên trang giấy, - Ông đọc đi?
"Tiền ư? Tiền gì nhỉ? - Raxkonikov nghĩ, - nhưng, như vậy tức là không phải chuyện ấy". Và chàng rùng mình lên vì mừng rỡ. Chàng bỗng thấy người nhẹ nhõm lạ lùng. Cả gánh nặng dè trĩu lên vai chàng đã bay biến đi đâu mất.
- Thế trong giấy mời ông đến vào lúc mấy giờ, thưa ông" - viên trung úy quát to, mỗi lúc một cáu tiết, chẳng hiểu vì chuyện gì. - người ta viết là chín giờ, thế mà bây giờ đã hơn mười một giờ rồi!
- Họ mới đưa lại cho tôi cách đây có mười lăm phút, - Raxkonikov dõng dạc nói chõ qua vai, trong lòng cũng đột nhiên thấy nổi giận lên một cách bất ngờ, và thậm chí còn cảm thấy phần nào thích thú trong cơn giận, - Thiết tưởng tôi đang ốm, đang lên cơn sốt thế nầy mà vẫn đến đây, như thế cũng đủ lắm rồi.
- Xin ông đừng có quát lên như thế!
- Tôi không quát, tôi nói rất từ tốn, chính ông quát tôi thì có; tôi là sinh viên, và không cho phép ai được quát tôi cả.
Viên phó quận trường nổi xung lên đến nỗi phút đầu không nói ra được câu nào, chỉ thấy môi hắn lắp bắp làm toé cả bọt ra. Hắn nhảy chồm lên.
- Ông im ng… nga… y! Ông đang ở nơi công đường. Xin ông đừng có v… vô lễ!
- ông cũng đang ở nơi công đường, - Raxkonikov quát lên, - thế mà không những ông quát tháo, ông lại còn hút cả thuốc lá nữa, chính ông vô lễ đối với chúng tôi - Nói xong câu ấy, Raxkonikov có một cảm giác khoái lạc không sao tả xiết.
Viên chánh văn phòng mỉm cười nhìn hai người.
Viên trung uý nóng tính có vẻ lúng túng. Mãi hồi lâu hắn mới rán sức quát lên thật to, giọng nghe rất gượng gạo.
- Đó không phải việc ông ông hãy chịu phiền cũng khai theo như người ta yêu cầu. Alekxandr Grigoryevich, đưa cho ông ấy xem. Người ta kiện ông đấy, ông không chịu trả tiền! Đẹp mặt chưa?…
Nhưng Raxkonikov không còn buồn nghe hắn nói nữa. Chàng háo hức cầm lấy tờ giấy, sốt ruột muốn tìm ngay ra manh mối. Chàng đọc đi đọc lại đến hai lần mà vẫn không hiểu.
- Cái gì thế nầy? - chàng hỏi viên chánh văn phòng.
- Đó là giấy đòi tiền thuê nhà. Một là ông phải trả số tiền còn nợ với tất cả những khoản bồi thường, phụ toán vân vân, hai là phải viết tờ khai cho biết đến bao giờ ông có thể trả, và đồng thời cam kết không ra khỏi kinh đô trước khi trả xong nợ, không bán chác hoặc giấu giếm tài sản của mình đi. Người chủ nợ có quyền đem phát mại tài sản của ông và xử lý với ông đúng luật pháp.
- Nhưng tôi… có nợ gì ai đâu!
- Cái đó thì không phải việc chúng tôi. Chúng tôi chỉ biết là có nhận được một tờ phiếu hợp lệ nhận nợ số tiền thuê nhà là một trăm mười lăm rúp của ông trao cho bà quả phụ viên công chức bậc tám Zarnitxyn cách đây chín tháng, và bà quả phụ Zarnitxyn đã gán tờ giấy nầy cho quan tư vấn pháp đình Shebarov để thanh toán, cho nên sở gọi ông đến đây để trả lời về việc nầy.
- Nhưng bà ta là chủ trọ của tôi kia mà?
- Chủ trọ của ông thì có sao!
Viên chánh văn phòng nhìn chàng với một nụ cười thương hại và bề trên, đồng thời không khỏi có phần đắc chí như khi nhìn một anh chàng khờ khạo mới bắt đầu nếm mùi cay cực, ý như muốn nói: "Thế nào, bây giờ anh thấy trong người ra sao?". Nhưng chàng thì bây giờ có thiết gì, có hơi đâu mà đi để ý đến những thứ tín phiếu, những việc kiện tụng ấy? Những thứ ấy làm sao có thể đáng cho chàng lo lắng, hay dù chỉ để ý đến thôi cũng vậy! Chàng đứng đấy, đọc, nghe, trả lời vả lại còn hỏi nữa, nhưng tất cả những việc ấy chàng đều làm như cái máy. Giờ phút nầy, tất cả con người chàng đang tràn ngập nỗi hân hoan của bản năng tự vệ đắc thắng, của kẻ vừa thoát ra khỏi mối nguy cơ đang nặng trĩu trên mình; chàng không hề lo xa, phân tích, không hề hình dung những cách đặt và giải quyết những vấn đề sau nầy, không hề nghi ngờ, thắc mắc.
Đó là một giây phút vui sướng trọn vẹn, tự nhiên, thuần tuý thú vật. Nhưng vừa lúc ấy ở sở cảnh sát bỗng diễn ra một cơn giông tố. Viên trung uý, hãy đang giận run lên về thái độ vô lễ của Raxkonikov và hẳn là muốn cứu vãn lại uy thế, hầm hè xông vào xỉ vả người "đàn bà sang trọng" đáng thương kia, nây giờ vẫn nhìn hắn với nụ cười hết sức ngờ nghệch.
- Còn mụ nữa, đồ đĩ rạc! - hắn bỗng gân cổ hét tướng lên người đàn bà mặc tang phục đã ra ngoài - Đêm qua, ở đằng nhà mụ có chuyện gì thế hả? Lại những việc nhơ nhuốc bậy bạ làm toáng cả phố lên. Lại rượu chè, lại ẩu đả. Muốn vào nhà pha trừng giới lắm phỏng? Ta đã nói với mụ, ta đã báo trước hàng mười lần cho mụ biết rằng đến lần thứ mười một ta không dung tha nữa đâu? Thế mà mụ lại chứng nào tật ấy, cái đồ đĩ rạc!
Raxkonikov kinh ngạc đến nỗi tờ giấy buột ra khỏi tay chàng rơi xuống đất. Chàng ngơ ngác nhìn người đàn bà sang trọng đang bị xỉ vả không chút kiêng dè; nhưng chỉ một lát sau chàng chợt hiểu và còn đâm ra thích thú với chuyện nầy nữa là khác. Chàng lắng nghe một cách khoái trá, thậm chí còn muốn cười to lên, cười to lên nữa… Dường như bao nhiêu dây thần kinh của chàng đều rung lên bần bật.
- Ilya Petrovich! - viên chánh văn phòng lo lắng gọi, nhưng rồi phải dừng lại đợi lúc khác, bởi vì kinh nghiệm bản thân đã cho hắn biết rằng viên trung uý nóng nảy đã sôi sục lên rồi thì không còn cách gì ngăn hắn lại nữa.
Về phần người đàn bà sang trọng thì thoạt tiên còn run sợ cuống quít trước cơn sấm sét ấy; nhưng lạ thay, những câu chửi bới càng dôn dập và càng dữ dội, thì vẻ mặt bà ta lại càng hoà nhã, nụ cười của bà hướng về phía viên trung uý hung dữ kia lại càng thêm duyên dáng. Bà ta cứ nhấp nhỏm tại chỗ, nhún chân liên tiếp sốt ruột đợi người ta cho phép mình thưa lại. Cuối cùng, dịp ấy đã đến.
- Thưa ông tại uý, ở nhà tôi có đánh nhau ầm ĩ gì đâu - bà ta bỗng tuôn ra một tràng như trút đồ, giọng Đức rất nặng, tuy bà ta nói tiếng Nga liến láu - và khôông hề có chuyện gì pậy pạ cả, họ uống rượu ở tâu say khuốt rồi kéo tến, tôi xin kể hết tế ôông rõ. Ôông tại uý ạ tôi khôông có tội tìn gì, nhà tôi là nhà tử tế, thưa ôông tại uý, tều là chỗ tứng tắn cả, và pản thân tôi khôông pao giờ muốn có chuyện gì pậy pạ. Thế nhưng họ uống rượu say mèm rồi kéo tến, lại tôi thêm pa chai nữa, rồi một người dơ hai chân lên tênh duông cầm pằng chân, fào nhà tủ tế mà làm như ráy thật không tốt. Hắn tập fỡ cả tàn duông cầm, fà tôi có pảo hắn là như fậy khôông còn ra cái thế thôống gì nữa. Thế là hắn fơ lấy một chai rượu tánh vào tít mọi nguồi. Tôi pèn kọi ngay pác kác còông, Kan mới tến, thế là hắn cầm lấy Karl ténh dập con mắt, Henriet hắn cũng ténh dập con mắt, còn tôi thì hắn ténh cái má năm lần. Thua ôông tại uý, fào nhà tù tế mà làm như fậy thật là pất lật sự, thế tôi mới la lên. Hắn liền mở cửa sổ trôông ra kến tào và rôống lên the thé nhu con lộn con, thật là xấu hồ. Ai tời lại chõ mồm ra phố mà hét lên nhu con lộn con nhu thế pao giờ? Húi, húi, húi? Kan mới nắm lấy tuổi áo hắn mà kéo và quả tìn, thua ôông tại uý, có làm réch mất áo Rock. Thế rồi hắn la lên là phỉ tền cho hắn muồi lăm rúp. Thật là một nguồi khéch khôong tủ tế, thua ôông tại uý, làm tủ những trò pậy pạ! Hẳn pảo là sẽ fiết một pài páo tả kít ôông, páo nào hắn cũng quen, muốn fiết gì fề ôông thì fiết.
- Thế thì hắn là một nhà văn à?
- Thưa phải ạ, và thưa ỏông tại uý, fào nhà tủ tế mà như rậy thật ià pất lịt sự!
- Thôi, thôi, thôi! Đủ rồi! Ta đã nói với mụ, ta đã nói là…
- Ilya Petrovich! - viên chánh văn phòng lại nói, giọng đầy ý nghĩa. Viên trung uý liếc nhanh về phía hắn: hắn sẽ gật đầu.
- Đây thì thưa bà Laviza Ivanovna kính mến, đây là lời dặn cuối cùng của tôi, và lần nầy là lần cuối cùng đấy nhé, viên trung uý nói tiếp. - Nếu trong cái nhà tử tế của bà mà còn xảy ra chuyện bậy bạ như thế một lần nữa thôi, tôi sẽ cho bà nếm mùi nhà pha ngay, như trong giọng văn quý phải vẫn nói. Bà nghe ra chưa?
- Thế ra nhà văn kia đã lấy của cái "nhà tứ tế" ấy năm rúp tiền đền áo. Đấy, các nhà văn là thế đấy! - hắn vừa nói vừa ném một cái nhìn khinh bỉ về phía Raxkonikov. - Hôm kia trong một quán rượu còn xảy ra một chuyện như thế nầy nữa: có một lão vào ăn uống no nê rồi không muốn trả tiền; đòi thì lão nói: "Tôi sẽ cho lên báo một bài đả kích nhà người về việc nầy". Trên tàu thuỷ tuần trước cũng có một lão nhà văn dùng đủ những danh từ tục tĩu thoá mạ vợ và con gái một ông tư vấn quốc gia đáng kính. Hôm trước người ta đã phải tống cổ một tên như thế ra khỏi cửa một hiệu bánh kẹo đấy. Đấy cái bọn nhà văn, nhà báo, sinh viên, cái bọn mồm loa mép giải ấy là như thế đấy… xì! Thôi mụ kia xéo đi! đi! Ta sẽ để ý theo dõi… liệu hồn. Nghe ra chưa?
Luyza Ivanovna đon đả nhún mình chào tứ phía, vừa chào vừa đi thụt lùi ra cửa, nhưng vừa đến cửa thì vấp lưng phải một viên sĩ quan đẹp trai có khuôn mặt cởi mở tươi tắn vôi bộ râu rậm tuyệt mỹ màu vàng óng. Đó chính là Nikodim Phomits, viên quận trưởng cảnh sát.
Luyza Ivanovna vội vàng cúi mình chào đến gần sát đất và nhún nhảy từng bước ngắn chạy vụt ra ngoài.
- Lại sấm sét, bão tố, cuồng phong? - Nikodim Phomits thân mật và ôn tồn nói với Ilya Petrovich - lại bị quấy rầy trêu tức, lại sôi sục lên rồi! Vừa vào đến cầu thang tôi đã nghe thấy tiếng.
- Biết làm thế nào được? - Ilya Petrovich nói, giọng lơ đãng một cách đài các, vừa nói vừa cầm mấy tệp giấy tờ đi sang bàn bên, cứ mỗi bước lại nhích vai lên một cái trông rất ngoạn mục.
- Đây, xin ngài thấy cho: ngài văn sĩ đây, - tức ngài sinh viên nầy, hay nói cho đúng hơn, là ngài cựu sinh viên nầy, không trả tiền, ký những tờ tín phiếu và không chịu cuốn gói ra khỏi nhà trọ, người ta gửi đơn kiện không ngớt ấy thế mà ngài lại còn có nhã ý khiếu nại là tôi đã dám hút thuốc trước mặt ngài! Ngài còn tỏ ra khiếm nhã gấp mấy, đây xin ngài đại uý thứ nhìn xem: dáng vẻ ngài đã hấp dẫn chưa!
- Nghèo không phải là xấu, anh bạn ạ, nhưng làm thế nào được! Ai cũng biết là thuốc súng không đời nào chịu để ai lăng nhục: Chắc ông lại có điều gì bực mình với trung uý và không tự kiềm chế được chứ gì - Nikodim Phomits ôn tồn nói tiếp với Raxkonikov, - nhưng ông làm như vậy là không phải: trung uý đây là một người hết sức cao quý, nhưng tính như thuốc súng, như thuốc súng! Cứ bùng lên, sôi lên, cháy phụt lên - rồi mất biến! Xong là hết! Rốt cục chỉ còn lại một tấm lòng vàng! Cho nên trong binh đoàn mới đặt cho ông ta cái biệt hiệu "trung uý thuốc súng"…
- Mà đây có phải là một binh đoàn thường đâu?
Ilya Petrovich thốt lên, rất hài lòng vì được mơn trớn dễ chịu như vậy, nhưng vẫn chưa nguôi hết cơn giận.
Raxkonikov bỗng thấy muốn nói với hắn một câu gì thật hoà nhã.
- Đại úy cứ thử nghĩ mà xem, - chàng quay về phía Nikodim Phomits mở đầu, giọng rất ung dung. - đại úy cứ thử đặt mình vào tình cảnh tôi xem… Tôi rất sẵn lòng xin lỗi ngài trung uý, nếu về phần tôi đã có gì sơ xuất đối với ngài. Tôi là một sinh viên nghèo và đau ốm, luôn bị cảnh túng bần giầy vò - chàng dùng đúng chữ "giầy vò". - Tôi là cựu sinh viên, bởi vì hiện nay tôi không có cách gì sinh sống, nhưng tôi sẽ nhận được một số tiền… Tôi có người mẹ và người em gái ở trấn X… Họ sẽ gửi tiền cho tôi, và tôi sẽ trả. Bà chủ trọ của tôi là một người tốt, nhưng bà ấy thấy tôi mất chỗ dạy học và bốn tháng liền không trả được tiền trọ nên đã oán giận tôi đến nỗi thậm chí cũng không thèm dọn cho tôi ăn nữa… Và tôi không thể nào hiểu được cái tín phiếu ấy là thế nào. Bây giờ bà ấy căn cứ vào tờ tín phiếu ấy để bắt tôi trả tiền, ngài cứ thử nghĩ xem…
- Nhưng đó có phải việc chúng tôi đâu… - viên chánh văn phòng lại nói.
- Xin phép, xin phép ngài, tôi hoàn toàn đồng ý với ngài, nhưng cũng xin ngài cho phép tôi được giãi bày, - Raxkonikov lại tiếp, chàng không nói với viên chánh văn phòng mà vẫn chỉ nói với Nikodim Phomits, nhưng cũng cố hết sức quay về phía Ilya Petrovích mặc dầu hắn cứ một mực làm ra vẻ như đang cắm cúi xem đống giấy tờ, không thèm chú ý đến chàng, - về phần tôi tôi xin phép giãi bày rằng tôi trọ ở nhà bà ta đã hơn ba năm nay, mãi từ hồi tôi mới ở quê lên và trước tiên… trước tiên… vả chăng việc gì tôi lại không thú nhận rằng ngay từ đầu tôi đã có lời hứa là sẽ lấy con gái bà ta, một lời hứa miệng, hoàn toàn không có gì ràng buộc… Đó là một người con gái mà, dù sao tôi cũng có chút cảm tình với cô ta… tuy cũng chẳng phải yêu đương gì, nói tóm lại, tuổi trẻ, nghĩa là tôi muốn nói rằng hồi ấy bà chủ trọ đối với tôi rất rộng rãi về mặt tiền nong, và tôi sinh hoạt có phần… hồi ấy tôi nhẹ dạ lắm.
- Chúng tôi tuyệt nhiên không đòi hỏi những lời tâm sự như thế, thưa ngài, vả chăng cũng không có thì giờ, - Ilya Petrovích ngắt lời một cách thô lỗ, vẻ đắc thắng, nhưng Raxkonikov hăm hở cướp lời nói tiếp, tuy bây giờ chàng chợt thấy hết sức khó nói.
- Nhưng cứ xin các ngài cho phép tôi kể hết… mọi việc và về phần tôi… tuy cũng xin thừa nhận rằng kể như vậy là thừa. Nhưng cách đây một năm người con gái ấy chết vì bệnh thương hàn, còn tôi thì vẫn ở trọ như cũ, và khi dọn sang ở căn nhà hiện nay, bà chủ có nói với tôi, như chỗ thân tình… rằng bà hoàn toàn tin cậy ở tôi, nhưng giá tôi vui lòng viết cho bà một tờ tín phiếu một trăm mười lăm rúp tức tất cả số tiền mà bà coi là tôi còn nợ của bà, thì tốt hơn. Xin các ngài hiểu cho: chính bà ta nói rằng hễ tôi viết cho bà tờ giấy ấy, bà lại sẽ cho tôi nợ bao nhiêu cũng được và về phần bà sẽ không bao giờ, không bao giờ, - đó là nguyên văn lời bà, - dùng đến tờ giấy ấy, bà cứ để cho tôi tự ý trả dần… Thế mà bây giờ, đến khi tôi đã mất chỗ dạy học và không có gì ăn nữa, bà lại đem ra kiện tụng… Tôi còn biết nói thế nào được?
- Xin ngài vui lòng hiểu cho rằng tất cả những tình tiết lâm ly ấy đều không có dính dáng đến chúng tôi - Ilya Petrovích xấc xược cắt ngang - ngài phải ký giấy nhận nợ và giấy cam kết, còn như chuyện ngài có yêu đươngvhay không yêu đương, và những nỗi niềm bi đát của ngài, thì chúng tôi tuyệt nhiên không cần biết đến - Kìa sao anh… phũ phàng thế… - Nikodim Phomits vừa lẩm bẩm vừa ngồi vào bàn và cũng bắt đầu hí hoáy viết. Hắn tự dưng thấy ngường ngượng.
- Ông viết đi, - Viên chánh văn phòng nói với Raxkonikov.
- Viết gì? chàng đáp, giọng rất xẵng.
- Tôi sẽ đọc cho mà viết.
Raxkonikov có cảm giác viên chánh văn phòng đối xử với chàng có vẻ khinh thị hơn sau khi nghe những lời tâm sự vừa rồi, và lạ thay, chàng bỗng thấy mình hoàn toàn không còn thiết gì đến bất cứ quan niệm của ai đối với mình nữa; sự chuyển biến ấy diễn ra chỉ trong một nháy mắt. Ví thử chàng chịu suy nghĩ một chút, Raxkonikov dĩ nhiên sẽ lấy làm lạ rằng trước đấy một phút mình đã có thể nói như vậy và hơn nữa lại phô bầy cả tình cảm mình ra. Mà những tình cảm ấy thì lấy ở đâu ra? Bây giờ thì ngược lại, giả sử những người ngồi trong phòng nầy không phải là những tên cảnh binh mà là những người bạn thân nhất của chàng, thì chắc chàng cũng không tìm ra được lấy một lời chân tình để nói với họ: lòng chàng bỗng dưng thấy trống hoác ra. Chàng có ý thức rõ rệt rằng một cảm giác nặng nề, xót xa về nỗi cô đơn, lạc lõng không bờ bến của mình, bỗng nhiên đã tràn ngập tâm hồn chàng.
Tâm trạng chàng xoay ngược hẳn lại như vậy không phải vì chàng thấy rõ sự hèn hạ của những lời thổ lộ tâm tình trước Ilya Petrovích hay cái vẻ đắc chí hèn hạ của viên trung uý. Ô, bây giờ thì chàng còn thiết gì đến sự hèn hạ của bản thân, đến tất cả những trò ganh đua hiếu thắng, những thứ trung uý, đại uý, đĩ bợm, tín phiếu, kiện tụng, vân vân, vân vân. Giả sử bọn họ có ra lệnh đem chàng lên giàn hoả hành hình ngay lúc ấy thì hẳn chàng cũng không hề nhúc nhích, thậm chí còn nghe lời tuyên án ấy một cách lơ đãng nữa là khác.
Trong người chàng đang diễn ra một quá trình mới lạ, đột ngột, chưa từng thấy. Không phải chàng hiểu, mà chính là chàng có cảm giác hết sức rõ rệt rằng mình không còn có thể thổ lộ tâm tình như lúc nãy đã đành, nhưng cũng không thể nào nói bất cứ chuyện gì với những kẻ ngồi trong phòng giấy cảnh sát nầy, và dù họ có là anh em ruột thịt của chàng chăng nữa, thì chàng cũng tuyệt nhiên không lý gì phải đi nói chuyện với họ, dù trong trường hợp nào cũng vậy; kể cho đến phút nầy chàng chưa từng bao giờ có một cảm giác kỳ dị và khủng khiếp đến thế. Và xót xa hơn cả, đây lại là một cảm giác nhiều hơn là một ý thức, một khái niệm; một cảm giác trực tiếp, cái cảm giác đau đớn nhất mà chàng đã trải qua từ trước đến nay.
Viên chánh vãn phòng bắt đầu đọc cho chàng viết giấy nhận nợ theo công thức thường lệ, nghĩa là tôi chưa thể trả nợ được, tôi xin hứa đến ngày nọ ngày kia sẽ trả, tôi cam kết không ra khỏi thành phố, không đem tài sản đi bán, đi cho…
- Nhưng ông không đủ sức để viết nữa kìa, bút cứ tuột ra khỏi tay, - viên chánh văn phòng nói, mắt tò mò nhìn Raxkonikov. - Ông ốm à?
- Vâng… tôi thấy chóng mặt… Ông đọc tiếp đi!
- Thôi hết rồi, ông ký tên cho.
Viên chánh văn phòng cầm lấy tờ giấy và quay ra giái quyết các việc khác. Raxkonikov trá cây bút, nhưng đáng lẽ phải đứng dậy ra về, thì chàng lại chống khuỷu tay lên bàn và giơ hai tay lên ôm lấy đầu. Chàng có cảm giác như bị ai đóng đinh vào đinh sọ. Chàng bỗng nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: đứng ngay dậy, đến cạnh Nikodim Phomits và kể cho hắn nghe tất cả những việc đã xảy ra hôm qua, kể cặn kẽ cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, rồi đưa hắn về buồng mình và chỉ mớ đồ đạc giấu trong góc buồng, trong cái lỗ thủng. Ý muốn ấy mạnh đến nỗi chàng đã đứng dậy toan thi hành ngay. "Hay để nghĩ qua một chút đã. Không, tốt hơn hết là đừng nghĩ gì hết, nhắm mắt mà làm!" Nhưng chàng bỗng đứng đực ra như đóng dinh tại chỗ: Nikodim Phomits đang nói gì rất hăng với Ilya Petrovich, và chàng nghe loáng thoáng:
- Không thể được, phải thả cả hai ra. Thứ nhất là vì tất cả những việc ấy đầy rẫy những mâu thuẫn; anh thứ nghĩ xem: việc gì họ lại đi gọi người gác cổng, nếu chính họ là thủ phạm? Để tự tố giác mình hay sao? Hay là để đánh lạc hướng? Không phải, nếu thế thì quỷ quyệt quá chừng! Và cuối cùng là người gác cổng và một mụ lái buôn có trông thấy tên sinh viên Pextriakov ngay khi hắn vào: hắn đi với ba người bạn và chia tay với họ ngay ở cổng vào, rồi lại hỏi thăm chỗ ở ngay khi bọn kia còn đứng đấy. Chả nhẽ đi làm một việc như thế mà lại còn hòi chỗ ở? Còn như tên Koch thì trước khi đến nhà mụ già đã ngồi ở nhà lão thợ bạc ở tầng dưới đến nửa tiếng đồng hồ và đúng tám giờ kém mười lắm mới từ đó lên phòng mụ già ở trên gác. Bây giờ ông thử nghĩ xem…
- Nhưng khốn nỗì lời khai của họ có chỗ mâu thuẫn như sau: họ quả quyết rằng họ có đập cửa và cánh cửa đóng kín, thế mà ba phút sau, khi đi lên với người gác cổng, thì lại thấy cửa mở?
- Vấn đề là ở chỗ đó: chắc chắn hung thủ đang ở trong nhà và chốt cửa lại; và chắc chắn sẽ tìm thấy hắn ở đấy, nếu cái thằng cha Koch kia không dại dột bỏ xuống nhà tìm người gác cổng. Chính trong khoảng thời gian ấy hắn đã có đủ thì giờ xuống thang gác và làm thế nào lọt qua mắt họ. Lão Koch thì cứ làm dấu thánh lia lịa, lão nói: "Ví thử tôi đứng lại đấy thì hắn đã nhảy xổ ra bổ rìu vào đầu tôi mất rồi". Hắn đang muốn làm lễ tạ ơn chúa đấy. Hê - hê - hê!
- Thế không ai trông thấy hung thủ à?
- Thì trông thấy thế nào được? Cái nhà ấy như cái vườn bách thú ấy mà, - viên chánh văn phòng, nãy giờ ở bàn lắng tai nghe, buông một lời nhận xét.
- Sự việc rõ lắm rồi, rõ lắm rồi! - Nikodim Phomits hăm hở nhắc đi nhắc lại.
- Không, sự việc chẳng rõ tý nào đâu, - Ilya Petrovich khẳng định.
Raxkonikov cầm lấy mũ và đi ra cửa, nhưng chàng không ra được đến cửa… Khi chàng tỉnh dậy thì thấy mình ngồi trên một chiếc ghế, bên phải có một người nào đang đứng đỡ chàng, bên trái có một người khác cầm một cái cốc màu vàng đựng đầy một chất nước gì vàng vàng, Nikodim Phomits thì đứng trước mặt chàng và đang nhìn chàng chòng chọc; chàng đứng dậy.
- Sao thế, ông ốm à? - Nikodim Phomits hỏi, giọng hơi xẵng.
- Khi ký giấy ông ấy cầm bút đã không nổi rồi,- viên chánh văn phòng vừar nhận xét vừa ngồi vào bàn và tiếp tục lục soạn giấy tờ.
- Ông ốm đã lâu chưa? - Ilya Petrovich cũng đang ngồi soạn giấy tờ ở bàn mình, quát chõ ra. Dĩ nhiên hắn cũng đã đến xem xét Raxkonikov khi chàng ngất đi nhưng đã lập tức lảng ra khi thấy chàng tỉnh dậy.
- Từ hôm qua… - Raxkonikov lắp bắp trả lời.
- Thế hôm qua ông có ra khỏi nhà không?
- Có!
- Trong khi đang ốm?
- Trong khi đang ốm!
- Lúc mấy giờ?
Hơn bảy giờ tối.
- Xin hỏi ông đi đâu như thế?
- Ra phố.
- Thật là gọn và rõ.
Raxkonikov trả lời rất xẵng, dằn từng tiếng một, mặt trắng nhợt như tờ giấy, hai con mắt đen nổi tia máu nhìn thẳng vào mặt Ilya Petrovich.
- Ông ấy đứng không vững nữa, thế mà anh… - Nikodim Phomits nhận xét.
- Không sao! - Ilya Petrovich nói, giọng nghe rất khác thường. Nikodim Phomits còn muốn nói thêm một câu gì nữa, nhưng sau khi đưa mắt về phía viên chánh văn phòng lúc bấy giờ cũng nhìn chàng không chớp, lại thôi. Ai nấy bỗng lặng thinh. Trong phòng im lặng một cách kỳ lạ.
- Thôi được - Ilya Petrovich kết luận, - Ông có thể về.
Raxkonikov đi ra. Chàng còn có đủ thì giờ nghe thấy tiếng bàn tán xôn xao nói lên khi chàng vừa ra khỏi cửa: nghe rõ nhất là giọng nói có ý dò hỏi của Nikodim Phomist… Ra đến phố chàng tình hẳn lại.
"Khám nhà, khám nhà, chúng sẽ khám nhà ngay bây giờ? - chàng tự nhủ trong khi rảo bước cho chóng về đến buồng, - quân kẻ cướp! Chúng nó nghi ngờ!"
Cảm giác lo sợ lúc nãy lại luồn vào khắp người chàng, từ đầu đến chân.
Chú thích:
(1) Xin bạn đọc lưu ý rằng sự việc xảy ra ở Petersburg, vào mùa hè, tiết nầy, đêm ở Petersburg là "đêm trắng" không có mặt trời nhưng vẫn sáng.
(2) Những người gác cổng hàng ngày phải đến sở cảnh sát bẩm báo.
(3) Xin cảm ơn (tiếng Đức)
Chương 8
"Nếu chúng đã khám rồi thì sao? Nếu bây giờ về vừa gặp chúng ngay ở nhà mình thì sao?".
Nhưng đã đến buồng chàng đây rồi. Không có gì, không có ai hết; không có ai dòm ngó vào đây cả, ngay đến Naxtaxia cũng không hề bén mảng tới. Nhưng trời! Làm sao lúc nầy chàng lại có thể để tất cả những thứ ấy trong cái lỗ thủng kia?
Chàng đâm bổ vào góc nhà, thò tay xuống dưới lần giấy lấy các thứ giấu trong lỗ nhét vào túi. Cả thảy có tám cái: hai cái hộp con đựng hoa tai hay một thứ gì như thế - chàng cũng không nhìn rõ nữa; rồi đến bốn cái bao nhỏ bằng da dê, một sợi dây chuyền bọc giấy báo, và một vật gì nữa không rõ, hình như một tấm huân chương, cũng bọc giấy báo.
Chàng đút hết vào các túi áo khoác, vào túi quần bên phải còn nguyên vẹn, cố sao cho thật khó trông thấy. Cái bóp tiền chàng cũng gộp làm một với các thứ kia. Rồi chàng ra khỏi phòng, lần nầy cứ để cửa mở toang.
Chàng bước nhanh nhẹn, quà quyết, và tuy cảm thấy chân tay rời rã ra, chàng vẫn tỉnh táo. Chàng sợ bị truy bắt, chàng sợ rằng nửa giờ sau, hay mười lăm phút sau đã có lệnh theo dõi chàng; vậy thì phải tìm đủ cách để phi tang trước đi: Cần phải làm cho xong trong khi thân thể hãy còn chút nào sức lực, trí óc hãy còn chút nào minh mẫn… Nhưng đi đâu bây giờ!
Điều đó đã được giải quyết từ lâu: "Vứt tất xuống kênh đào, thế là phi tang, và vụ nầy sẽ kết thúc". Chàng đã quyết định như vậy ngay từ đêm qua, trong cơn mê sảng, chàng còn nhớ rõ là đúng vào khi chàng toan nhổm dậy mấy lần: "Nhanh lên, nhanh lên, đi mà vứt hết đi". Nhưng bây giờ mới biết là vứt đi như thế rất khó.
Chàng đi lang thang dọc theo bờ kênh Ekaterina đã nửa giờ rồi, có lẽ còn lâu hơn nữa, và đã mấy lần mỗi khi đi ngang bên chàng lại nhìn những bậc tam cấp dần xuống lòng kênh. Nhưng không thể nào nghĩ đến chuyện thực hiện ý định được: hoặc có những cái bè đỗ ngay ở lối xuống, và trên bè những người thợ giặt đang giặt quần áo, hoặc có những chiếc thuyền buộc vào bờ, và nơi nào cùng nhan nhản những người, vả lại xung quanh đấy, dọc theo bờ kênh, đứng chỗ nào người ta cũng có thể nhìn thấy, có thể chú ý được: tự dưng lại có người cố ý đi xuống bến, dừng lại rồi bỏ một cái gì xuống nước thi khả nghi lắm. Thế rồi nhỡ ra mấy cái hộp kia không chìm mà lại nối lềnh bềnh trên mặt nước thì sao? Mà chắc chắn là phải như thế!
Bất cứ người nào cũng có thể trông thấy. Cứ thế nầy thôi, khi gặp chàng ai nấy cũng đã nhìn ngó như thể xưa nay chỉ chú ý đến chàng. "Không hiểu tại sao họ lại nhìn như thế". Hay có lẽ đó chỉ là cảm giác của mình - chàng băn khoăn tự hỏi.
Cuối cùng chàng nghĩ có lẽ nên đi ra mạn sông Neva thì hơn. Ở đây vắng hơn, và khó có người trông thấy hơn, dù sao thì ở đấy cũng thuận lợi hơn, và nhất là xa chỗ chàng ở hơn. Rồi chàng bỗng ngạc nhiên: làm sao chàng lại có thể đi lang thang suốt hàng nửa tiếng đồng hồ trong khi đang lo sợ như vậy ở những nơi nguy hiểm nầy mà không nghĩ ra từ trước? Chàng phí mất nửa giờ đồng hồ làm một việc vô lý như vậy cũng chỉ vì trong khi mê sảng chàng đã có lần quyết định như thế! Dạo nầy chàng đâm ra đãng trí, hay quên lạ lùng, và chính chàng cũng biết thế. Nhất định phải làm gấp!
Chàng theo đại lộ V., đi ra sông Neva, nhưng dọc đường một ý nghĩ lại vụt hiện đến: "Tại sao lại ra sông Neva, tại sao lại phải vứt xuống nước? Sao lại không tìm một nơi nào cho thật xa, trên các đảo chẳng hạn, và đến một chỗ nào thật vắng: một khóm cây hay một bụi rậm, chôn các thứ ấy xuống rồi đánh dấu vào thân cây chẳng hạn, có phải hơn không". Và lúc bấy giờ tuy chàng thấy mình không đủ sức suy tính cho rõ ràng và tỉnh táo, chàng cũng có cảm giác rằng đó là một ý nghĩ đúng đắn.
Nhưng rồi rốt cục chàng cũng không đi đến các đảo sự việc xảy ra khác hẳn: khi từ đại lộ V., ra đến một quảng trường, chàng bỗng trông tháy ở bên trái có một lối đi dẫn vào khoảng sân xung quanh có tường rào bao bọc kín mít. Ở bên phải, sát ngay lối vào và kéo dài cho đến tận cuối sân là bức tường của ngôi nhà bốn tầng ở bên cạnh, không trổ cửa sổ, không quét vôi. Ở bên trái, song song với bức tường kín và cũng sát bên cổng vào, có một dẫy hàng rào gỗ chạy sâu vào khoảng hai mươi bước rồi bé quặt sang trái. Đó là một khoảng đất trống ngổn ngang những vật liệu bỏ đi. Xa hơn, mãi tận cuối sân, ở bên kia tường có thể thấy góc mái một cái nhà kho bằng đá thấp lụp xụp, ám khói đen xì, có lẽ thuộc một xưởng thợ nào đấy. Chắc hẳn trước kia ở đây có đặt một xưởng đóng xe, làm khoá hay là một cái gì tương tự; hầu như ngay từ cổng vào, nơi nào cũng thấy đen xì những bụi than. "Đây rồi, phải vứt vào đây rồi bỏ đi". Raxkonikov chợt nghĩ.
Không thấy ai trong sân, chàng bước vào cổng và chợt thấy ngay sát cổng có một cái ống máng lắp vào tường như vẫn thường thấy ở những nhà có nhiều thợ thuyền, phu xe v.v… và ở khoảng tường phía trên ống máng thấy có mấy chữ viết bằng phấn: "Cấm đứng đái chỗ nầy". Như vậy càng tốt, chẳng ai có thể nghi ngờ chàng đã ghé vào đây. "Phải vứt hết lại đây thành một đống và bỏ đi".
Chàng đưa mắt nhìn quanh một lần nữa, và đã định thọc tay vào túi, thì chợt trông thấy ngay ở chân tường ngoài, giữa cái cổng và cái ống máng cách nhau không đầy một thước, có một tảng đá lớn không đẽo gọt gì, có lẽ nặng tới pút rưỡi, đặt sát vào chân hốc tường đá. Bên kia bức tường ấy là hè phố; đứng trong sân có thể nghe thấy tiếng chân bước của những người qua đường thưa thớt; nhưng ở ngoài đường nhìn vào không thể trông thấy chàng được, trừ khi có ai ghé vào đây. Vả chăng điều đó rất có thể xảy ra, cho nên cần phải làm gấp.
Chàng cúi xuống giơ hai tay nắm thật chắc lấy phần trên tấm đá, lấy hết sức lực lật ngửa nó ra. Ở dưới tảng đá đất lõm xuống thành một cái hốc trũng; chàng lập tức trút hết các thứ ở trong túi vào đấy. Cái bóp tiền nằm ở trên cùng, thế nhưng trong hốc vẫn còn chỗ. Xong đâu đấy chàng lại ôm tảng đá lật lại, nó nằm vừa vặn vào chỗ cũ, chỉ hơi nhô cao lên hơn trước một chút. Nhưng chàng bới đất xung quanh và lấy chân đắp vào cạnh rìa hòn đá. Không còn trông thấy gì khả nghi nữa.
Chàng ra phố và đi về phía quảng trường. Một niềm vui sướng mãnh liệt, hầu như không sao chịu nổi, lại tràn vào lòng chàng trong giây lát. "Thế là phi tang! Ai lại có thể nảy ra cái ý đến tìm ở dưới tảng đá ấy bao giờ? Có lẽ nó nằm đấy từ hồi mới xây nhà, và sẽ còn nằm đấy bấy nhiêu lâu nữa. Mà dù có tìm thấy, thì có ai đi ngờ cho mình? Thế là xong! Mất hết tang chứng!" - và chàng phá lên cười. Phải, về sau chàng nhớ lại rằng lúc ấy chàng đã rũ ra cười nấc lên từng cơn lặng lẽ ngắn hơi và cười mãi hồi lâu, suốt trong thời gian chàng đi qua quảng trường. Nhưng khi chàng rẽ vào đại lộ K, nơi mà hôm kia chàng gặp người con gái say rượu, trận cười của chàng vụt tắt. Những ý nghĩ khác len vào đầu chàng. Chàng lại chợt có cảm tường rằng mình sẽ thấy ghê tởm khi đi qua chiếc ghế dài mà chàng đã ngồi suy nghĩ sau khi người con gái bỏ đi, và cùng sẽ thấy khó chịu hết sức nếu gặp lại người cảnh binh có bộ ria mà hôm ấy chàng đã trao cho hai mươi cô-pếch. "Ma bắt nó đi cho raảh!".
Chàng bước đi, mắt nhìn hai bên một cách lơ đãng và hằn học. Bấy giờ bao nhiêu ý nghĩ của chàng đều xoay quanh một điểm chính nào đó, chàng cũng cảm thấy rằng đó quả là điểm chính, và bây giờ, chính lúc nầy đây, chàng còn lại một mình đối diện với cái điểm chính ấy, lần đầu tiên trong suốt hai tháng vừa qua.
"Thôi kệ mẹ nó! - chàng bỗng nghĩ trong cơn tức giận điên cuồng. - Đã bắt đầu rồi à, thì cứ bắt đầu; cuộc sống mới ư? Mặc cho nó đi về nhà mà! Trời ơi, sao lại có những chuyện ngớ ngẩn đến thế!… Hôm nay mình đã nói dối và làm những việc thật hèn hạ! Mình đã quỳ gối một cách ô nhục trước mặt cái thằng Ilya Petrovich đê mạt ấy! Nhưng đó cũng toàn là chuyện nhảm hết! Nhổ toẹt vào tất cả bọn chúng nó, mà cũng cần quái gì nghĩ đến chuyện mình có quỳ gối hay không quỳ gối. Vấn đề không phải ở đấy! Không phải ở đấy chút nào!…
Bỗng chàng dừng lại; một câu hỏi mới, hoàn toàn bất ngờ và hết sức đơn giản chợt nảy ra, khiến chàng rối trí và kinh ngạc một cách chua xót: "Nếu quả tất cả những việc đó đều làm một cách có ý thức chứ không phải làm hú hoạ, nếu mày quả có một mục đích rõ ràng và vững chắc, thì làm sao mãi cho đến bây giờ mày vẫn không hề nhìn vào cái ví tiền và không biết việc nầy đã đưa lại cho mày những gì, Vì đâu mà mày chịu khổ chịu sở và bắt tay vào một việc hèn hạ, xấu xa, bỉ ổi như thế? Vừa rồi mày muốn vứt hết xuống nước, cả cái ví tiền lẫn các thứ khác mà, thậm chí mày cũng chưa mở ra xem nữa… sao lại có thể như thế?"
Phải, đúng như thế, hoàn toàn đúng như thế. Vả chăng trước kia chàng cũng đã biết thế, và đây hoàn toàn không phải là một vấn đề mới mẻ gì đối với chàng; thế mà đêm qua, khi quyết định vứt xuống nước, chàng đã quyết định không hề phân vân, lưỡng lự, cứ như thể tất nhiên phải như thế, không thể nào khác đi được… phải, chàng biết hết những điều đó và nhớ hết; mà hầu như việc đó đã được quyết định ngay từ hôm qua, ngay khi chàng ngồi bên cái rương lấy các thứ ở trong rương ra… Ra thế đấy…
"Đó là vì mình đang ốm nặng, - cuối cùng chàng quả quyết tự nhủ, - chính mình dày vò, hành hạ mình, và chính mình không biết mình đang làm gì… Cả ngày hôm qua, hôm kia, suốt cả một thời gian ấy mình đã tự dày vò… Mình sẽ khỏi và sẽ không làm khổ mình nữa… Thế nhỡ không khỏi chút nào thì sao? Trời ơi! Chán ngấy lên rồi?…" Chàng bước đi, không dừng chân.
Chàng háo hức muốn tìm cách khuây khoả, nhưng không biết nên làm gì. Một cảm giác mới mẻ, không sao cưỡng được mỗi phút một tràn ngập lòng chàng: đó là một cảm giác ghê tởm không bờ bến, hầu như nhục thể, đối với tất cả những gì chàng gặp, tất cả những gì ở xung quanh chàng, một cảm giác kiên trì, ác liệt, cay cú.
Chàng thấy tất cả những người qua đường đều có những bộ mặt, những dáng đi, những cử chỉ khả ố. Giá có ai lên tiếng nói gì với chàng, chàng sẽ nhổ thẳng vào mặt họ, có lẽ còn xông vào cắn họ nữa,…
Chàng bỗng dừng chân khi ra đến bờ sông Neva Con, trên đảo Vaxili, cạnh cái cầu. "Hắn ở đây, trong ngôi nhà nầy đây. - chàng thầm nghĩ. - Sao thế nhỉ, mình loay hoay thế nào rồi rốt cục lại dẫn xác đến nhà Razumikhin! Lại y như hôm ấy… mà kể cũng lạ thật; mình cốt đi đến đây hay chẳng qua tình cờ đi ngang, thì cũng thế thôi; hôm kia… mình nói… là một ngày sau khi việc ấy đã xong xuôi mình sẽ đến hắn, thế thì cứ đến thôi! Làm như thể bây giờ mình không thể ghé nhà ai được nữa!"
Chàng lên phòng Razumikhin ở gác năm.
Razumikhin có nhà. Lúc ấy anh đang ngồi viết hí hoáy trong căn buồng chật hẹp. Nghe tiếng gõ cửa; anh ra mở. Đã bốn tháng nay hai người không gặp nhau.
Razumikhin mặc một chiếc áo dài ngủ rách bươm, chân đi giầy vải, đấu tóc rối bù, râu không cạo, mặt không rửa. Gương mặt anh lộ vẻ ngạc nhiên.
- Cậu đấy à? - Anh kêu lên, mất chăm chăm nhìn bạn từ đầu đến chân; nhưng rồi anh im bặt và huýt lên một tiếng. - Bi đến thế kia à? Cậu mặc còn bảnh hơn cả tớ nữa rồi đấy! - anh nhìn mấy tấm giẻ rách của Raxkonikop nói thêm. - Ngồi xuống chứ, hình như cậu mệt lắm thì phải.
Và khi Raxkonikov đã buông mình rơi phịch xuống chiếc đi-văng Thổ Nhĩ Kỳ lót vải sơn còn tồi tệ hơn cả chiếc ghế của chàng, Razumikhin bỗng nhận ra rằng bạn mình ốm.
- Nhưng cậu ốm hẳn hoi rồi, cậu không biết à? - Nói đoạn anh cầm lấy tay bạn để bắt mạch. Raxkonikov giật phắt tay ra.
- Không cần, - chàng nói, - tôi đến… Thế nầy, tôi không có chỗ nào dạy học cả… tôi muốn… vả chăng tôi cũng cóc cần chỗ dạy…
- Nầy, cậu mê sảng rồi còn gì! - Razumikhin chăm chú, quan sát chàng và nhận xét.
- Không, tôi không mê sảng… - Raxkonikov rời đi-văng đứng dậy. Khi lên nhà Razumikhin, chàng không nghĩ đến việc mình sẽ phải mặt giáp mặt với bạn. Mãi đến bây giờ, do kinh nghiệm thực tế, chàng mới vụt nghĩ ra rằng giờ phút nầy không có gì có thể làm cho chàng khó chịu hơn là phải mặt giáp mặt với bất cứ ai trên đời. Một nỗi hằn học dữ dội đấy lên trong lòng chàng. Vừa bước qua ngưỡng cửa phòng Razumikhin, chàng đã thấy căm tức bản thân mình đến nghẹn cổ.
- Thôi chào cậu? - chàng bỗng nói và đi ra cửa.
- Kìa khoan đã, khoan đã, cậu nầy gàn quá?
- Thôi! - Raxkonikov giật tay ra nói.
- Đã thế thì cậu đến đây làm quái gì! Cậu phát điên rồi chắc? Thế kia có tức không chứ. Tớ không để cậu ra về như thế đâu.
- À thế thì cậu nghe đây, tôi đến cậu là vì ngoài cậu ra tôi không biết ai có thể giúp tôi… bắt đầu… vì cậu tốt hơn hết thảy bọn họ, nghĩa là cậu thông minh hơn, có thể bàn bạc được… Nhưng bây giờ tôi lại thấy rằng tôi không cần gì nữa hết, cậu nghe ra chưa, hoàn toàn không cần gì nữa hết… không cần ai giúp đỡ, cảm thông gì hết… Tôi sẽ tự liệu lấy… một minh… Thôi thế đủ rồi! Cứ để mặc xác tôi!
- Thì khoan tí đã nào, đồ dở hơi! Cậu điên thật rồi! Tớ thì cậu muốn thế nào cũng được, cậu xem, tớ cũng không có chỗ dạy học, mà tớ cùng đếch cần; nhưng ở chợ tầm tầm có một lão lái sách tên là Kheruvimov, lão nầy cùng đáng giá một chỗ dạy học chán. Bây giờ thì có đổi lão ấy lấy năm chỗ dạy học ở các nhà buôn tớ cũng không đổi. Lão ta xuất bản cả sách và hiện đang cho in những tập sách nhỏ về khoa học tự nhiên, bán đắt như tôm tươi! Chỉ riêng cái đầu đề không thôi cũng đáng đồng tiền rồi! Cậu thì bao giờ cũng bảo tớ ngốc: thế mà có kẻ còn ngốc hơn tớ nữa, tớ nói thật đấy! Bây giờ lão ấy cũng đang lao theo phong trào, tuy một chữ cắn đôi cũng không biết: lẽ dĩ nhiên tớ khích cho lão lao mạnh nữa vào. Đây có hai tập gần bốn chục trang tiếng Đức - theo tớ thì chỉ là thứ văn bán thuốc ê ngớ ngẩn nhất đời, đề tài nói tóm lại là: đàn bà có phải là người hay không phải là người? Và cố nhiên tác giả chứng minh một cách trịnh trọng rằng đàn bà quả là người thật. Kheruvimov chuẩn bị xuất bản quyển sách nầy để đáp ứng với phong trào thảo luận về vấn đề phụ nữ, tớ thì dịch, lão ấy thì làm cái việc kéo dài bốn chục trang nầy ra thành một trăm trang, chúng tớ sẽ viết một cái dầu đề cho thật kêu dài đến nửa trang giấy và đem bán năm hào một quyển. Chu lắm! Tiền công dịch của tớ là sáu rúp mỗi tập mười sáu trang, vị chi cả thảy được chừng mười lăm rúp, tớ đã lĩnh trước sáu rúp rồi đấy. Xong cái nầy thì sẽ dịch sang một tài liệu nói về cá voi, rồi thì trong phần sau quyển "Confessions"(1) cũng thấy có nhiều đoạn nói nhảm hết sức vô vị, cho nên cũng dịch nốt; có một thằng cha nào nói với Kheruvimov rằng Rousseau cũng là một thứ Radisev, lẽ dĩ nhiên ta cứ ầm ừ, kệ mẹ nó. Thế nào, cậu lấy tập 2 quyển "Đàn bà có phải là người không?" về mà dịch nhé. Nếu cậu bằng lòng thì lấy ngay nguyên bản, bút giấy đây - toàn là của công đấy - và cầm lấy ba rúp: tớ đã lĩnh tiền ứng trước cho cả hai tập, thế nghĩa là phần cậu ba rúp. Dịch xong cậu sẽ nhận nốt ba rúp nữa. Nhưng cậu đừng có nghĩ là tớ giúp đỡ gì cậu nhé. Ngược lại, vừa trông thấy cậu tớ đã tính chuyện nhờ cậu ngay. Trước hết là tớ viết hay sai chính tả, thứ đến là tiếng Đức của tớ đôi khi cũng schwach (2), thành thử phần nhiều tớ cứ tự ý bịa ra mà viết và tự an ủi rằng làm như vậy sách chỉ có thể hay thêm mà thôi. Thế nhưng biết đâu được, có lẽ nó không hay thêm mà lại càng tồi thêm thì có… Cậu có lấy không?
Raxkonikov lặng lẽ cầm lấy tập giấy in tiếng Đức cầm lấy ba đồng rúp và đi ra, không nói lấy một lời. Razumikhin ngạc nhiên nhìn theo chàng. Nhưng ra đến góc phố, Raxkonikov bỗng quay phắt trở lại, lên phòng Razumikhin, đặt lên bàn cả xấp giấy lẫn ba đồng rúp, cũng vẫn không nói lấy một lời, rồi đi ra.
- Kìa cậu sốt thật rồi? - Razumikhin rốt cục cũng điên tiết gầm lên. - Cậu làm cái trò gì thế? Đến tớ cũng phải lộn ruột lên với cậu… Đã thế thì đến làm gì, đồ quỷ?
- Tôi không cần… dịch… - Raxkonikov lẩm bẩm trong khi bước xuống thang gác.
- Thế thì cậu cần cái quái gì nào? - Razumtkhin trên gác quát chõ xuống. Raxkonikov lặng thinh bước thẳng.
- Nầy! Nhà cậu bây giờ ở đâu thế hả?
Không có tiếng trả lời.
Thôi mặc x… xác cậu!
Nhưng Raxkonikov đã ra phố. Trên cầu Nikolaevxki chàng lại phải sực tỉnh, lần nữa, vì một sự việc xảy ra khiến chàng rất khó chịu. Một người xà ích đánh xe song mã đã quất roi vào lưng chàng vì chàng suýt đâm đầu vào chân ngựa, tuy hắn đã ba bốn lần quát chàng tránh ra. Nhát roi làm cho chàng giận điên lên. Chàng nhảy vụt ra thành cầu không hiểu tại sao chàng cứ đi nghênh ngang ở giữa cầu, khoảng dành cho xẹ cộ, nghiến răng kèn kẹt. Mấy người đứng quanh cười rộ lên.
- Đáng đời!
- Chắc là một thằng kẻ cắp.
- Ai còn lạ gì, già vờ say rượu rồi chui đầu vào bánh xe để lĩnh tiền bồi thường chứ gì?
- Cũng là một cách xoay tiền ông ạ, cũng là một cách xoay tiền.
Nhưng trong khi chàng còn đứng bên thành cầu, vừa nhìn theo cỗ xe song mã đang xa dần với đôi mắt giận dữ và ngây dại vừa xoa lưng, chàng bỗng cảm thấy có ai dúi tiền vào tay chàng. Chàng nhìn lại thì thấy một người đàn bà đứng tuổi, trông chừng là hạng buôn bán, đầu trùm khăn, chân đi giầy da dê, cùng đi với một người thiếu nữ đội mũ dạ, cầm ô xanh, chắc là con gái bà ta. "Anh cầm lấy, vì Chúa". Chàng cầm lấy đồng tiền, và họ đi thẳng. Có là một đồng hào đôi. Trông dáng vẻ và cách ăn mặc của chàng họ rất có thể tưởng chàng là một người ăn mày vẫn thường ngứa tay xin từng đồng xu trên hè phố. Chàng được bố thí như vậy chắc hẳn cũng là nhờ nhát roi kia đã làm cho họ động lòng trắc ẩn.
Chàng nắm chặt đồng hào đôi trong tay, đi độ mươi bước và quay mặt ra sông Neva, về phía hoàng cung. Bầu trời không một gợn mây, và màu nước xanh biếc hầu như lẫn với màu trời, một điều rất ít thấy trên sông Neva. Không có nơi nào có thể nhìn rõ những đường nét của mái nhà thờ Isaac như chỗ chàng đang đứng, trên cầu, cách nhà thờ chừng hai mươi bước. Chiếc mái vòm khum ánh lên trên nền trời, và qua làn không khí trong vắt còn có thể thấy rõ từng nét trang hoàn trên mái. Chỗ bị roi quất đã hết đau và Raxkonikov đã quên khuấy nó đi; bây giờ chỉ có một ý nghĩ lo âu mơ hồ khiến chàng bận tâm. Chàng đứng yên hồi lâu nhìn đăm đăm vào không gian xa thẳm; nơi nầy đối với chàng rất quen thuộc. Hồi chàng còn lui tới trường đại học, nhất là trên đường về nhà, chàng thường dừng lại hàng trăm lần đúng ở chỗ nầy, nhìn đăm đăm vào bức toàn cảnh tráng lệ nầy và cứ mỗi lần như thế chàng lại lấy làm lạ về cái ấn tượng mơ hồ và khó hiểu nhóm lên trong lòng chàng. Bao giờ cái quang cảnh tráng lệ ấy cũng như thở vào người chàng một luồng hơi lạnh buốt kỳ lạ; và chàng cứ cảm thấy bức tranh lộng lẫy ấy có một cái gì ghẻ lạnh, dửng dưng… Cứ mỗi lần như vậy chàng lại lấy làm lạ với cái ấn tượng âm u, huyền bí nhóm lén trong lòng mình, và không dám tin rằng mình có thể hiểu thấu được: chàng lại tự hứa sẽ tìm cách lý giải sau. Bây giờ chàng bỗng sực nhớ lại những nỗi băn khoăn, thắc mắc trước kia, và cảm thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà mình nhớ lại như thế. Chỉ riêng một điều nầy thôi chàng đã thấy nó có vẻ kỳ quái và huyền bí, là chàng đã dừng lại đúng ở chỗ cũ, dường như chàng thật sự tưởng rằng bây giờ mình cũng có thể suy nghĩ như trước kia, cũng có thể quan tâm đến những vấn đề và những quang cảnh mà… trước đây không lâu chàng vẫn quan tâm đến. Thậm chí chàng còn thấy gần như nực cười nữa, tuy lòng chàng sẽ lại đến đau nhói cả ngực lên. Ở một nơi nào sâu thẳm phía dưới kia, dưới chân chàng, mờ mờ hiện lên tất cả cái dĩ vãng ấy; những ý nghĩ, những vấn đề, những nỗi băn khoăn, những ấn tượng cũ, và cả bức toàn cảnh nầy, và cả bản thân chàng nữa, tất cả, tất cả… Chàng có cảm giác như mình đang bay bổng lên, chơi vơi ở một nơi nào cao ngất, và mọi vật đều tan biến đi trước mắt chàng…
Chàng bất giác xua tay một cái, và chợt thấy có đồng hào đôi trong lòng bàn tay nắm chặt. Chàng ngả tay ra, nhìn đăm đăm vào đồng tiền một lát rồi đang tay ném xuống nước. Đoạn chàng quay lại đi về nhà. Chàng có cảm tưởng như mình vừa lấy kéo cắt đứt hẳn bản thân mình ra khỏi mọi người và mọi vật.
Chàng về đến nhà thì trời đã chiều, như thế nghĩa là chàng đã đi lang thang sáu tiếng đồng hồ. Chàng về nhà ra sao và đi lối nào thì chàng không hề nhớ tí gì hết. Người run bắn lên như con ngựa mệt lừ, chàng cởi áo nằm lên đi-văng, kéo chiếc áo khoác đắp lên người và lập tức thiếp đi…
Khi trời đã tối mịt, chàng sực tỉnh giấc vì một tiếng gào khủng khiếp. Trời ơi, tiếng gào gì mà gớm guốc thế Chàng chưa bao giờ nghe thấy những âm thanh quái gở như vậy, chàng chưa từng nghe thấy những tiếng rú, những tiếng quất, những tiếng rít, những tiếng khóc, những tiếng đấm đá và chửi rủa như vậy bao giờ. Chàng cũng không thể hình dung nổi một cái gì hung dữ, thú vật như vậy. Chàng kinh hãi nhỏm dậy và ngồi trên đi-văng, phút phút lại lặng người đi vì sợ hãi và đau đớn: Những tiếng đấm đá, la hét mỗi lúc một thêm dữ dội. Và chàng bỗng vô cùng kinh ngạc nhận ra tiếng bà chủ nhà. Bà ta gào thét, rú rít lên, khóc lóc kể lể cuống quít, có khi líu lưỡi lại nói không ra tiếng nữa, thành thử không tài nào nghe ra được bà nói những gì. Chỉ biết là bà đang kêu van, chắc là đang van người ta đừng đánh đập mình nữa, vì có một người nào đang đánh đập bà tàn nhẫn trên thang gác. Người đang đánh tức giận điên cuồng, gân cổ lên quát mắng khủng khiếp đến nỗi khản cả giọng, thế nhưng cũng đang nói gì rất nhanh, cứ được mấy tiếng lại sặc sụa lên không còn nghe ra cái gì nữa. Bỗng Raxkonikov run bắn lên: chàng đã nhận ra giọng nói nầy; đó là, giọng của Ilya Petrovich, Ilya Petrovich đang ở đây, và đang đánh đập bà chủ nhà! Hắn lấy chân đá vào bà ta, cộc đầu bà vào bậc thang, - cứ nghe những tiếng ồn ào những tiếng la hét và đấm đá cũng đủ rõ! Làm sao thế trời dất đảo điên cả rồi hay sao? Khắp, các tầng trên gác dưới, suốt dọc cầu thang người ta đổ ra đông nghịt: có thể nghe thấy những tiếng nói xôn xao, những tiếng kêu í ới, những tiếng chân chạy thình thịch, những tiếng cửa đóng ầm ầm. "Nhưng có chuyện gì thế, tại sao, và làm sao lại có thể như thế được!" - chàng cứ nghĩ đi nghĩ lại, thạt sự lo sợ rằng mình đã phát điên hẳn hoi rồi. Nhưng không, chàng nghe quá rõ!… Nhưng nếu đã thế thì họ sắp đến phòng chàng ngay tây giờ, bởi vì… chắc đầu đuôi cũng đều do chuyện hôm qua… mà ra cả… Trời ơi!" Chàng định chốt trái cửa lại, nhưng tay chàng cứ rũ xuống… vả lại cũng vô ích! Nỗi hãi hùng như một tảng băng trùm lấy tâm hồn chàng, khiến chàng đau buốt, co quắp lại… Nhưng rồi cuối cùng tiếng ồn ào inh ỏi, kéo dài đã được đến mười phút, bắt đầu im ắng dần. Bà chủ nhà luôn mồm rên rỉ và thở dài sườn sượt; Ilya Petrovich vẫn còn hăm doạ và nguyền rủa… Nhưng rốt cục hình như chính hắn cùng lặng đi; không còn nghe thấy tiếng hắn nói nữa; "hay là hắn đi rồi! Lạy chúal". Phải, đây, bà chủ nhà cũng đi ra, mồm vẫn rên rỉ và khóc thút thít… và đây, cửa phòng bà ta đã đóng sập lại… Đám đông đã rời thang gác tản về các buồng; họ xôn xao bàn tán, gọi nhau í ới, tiếng nói khi to lên thành tiếng quát, khi nhỏ lại chỉ còn nghe rì rầm. Chắc là đông lắm; gần như cả nhà đều đổ ra xem thì phải. "Nhưng trời ơi, chả nhẽ lại có thể như thế được! Mà tại sao, tại sao hắn lại đến đây làm cái gì?"
Raxkonikov bủn rủn gục xuống đi-văng, nhưng không sao nhắm mắt lại được nữa; chàng nằm yên khoảng nửa tiếng đồng hồ, với một cảm giác sợ hãi đau đớn không sao chịu nổi, mà xưa nay chàng chưa hề biết.
Bỗng phòng chàng sáng rực lên: Naxtaxia vừa bước vào tay cầm nến, tay bưng xúp. Chị ta chăm chú nhìn chàng, và khi thấy chàng đang thức, chị đặt cây nến xuống bàn và bắt đầu bày các thứ ra, bánh mì, muối, đĩa, thìa.
- Chắc từ hôm qua chưa ăn gì. Đi lang thang suốt cả ngày vả lại sốt hầm hập lên chứ có phải không đâu.
- Naxtaxia nầy… tại sao họ đánh đập bà chủ thế?
Naxtaxia nhìn chàng chằm chặp.
- Ai đánh bà chủ?
Vừa rồi ấy… cách đây nửa giờ ấy mà, Ilya Petrovich, viên phó quận trưởng, trên cầu thang… Tại sao hắn lại đánh bà ấy, và… hắn đến đây làm gì?
Naxtaxia cau mày lặng thinh nhìn chàng chăm chú một hồi lâu. Chàng thấy khó chịu trước cái nhìn ấy thậm chí còn thấy sợ nữa.
- Naxtaxia, sao chị cứ làm thinh? - mãi lát sau chàng mới rụt rè cất tiếng hoi, giọng yếu ớt.
- Máu đấy, - sau một lát im lặng, Naxtaxia đáp khẽ như nói một mình.
- Máu!… Máu nào?… - chàng lắp bắp, mặt tái nhợt đi, và bất giác né người về phía vách. Naxtaxia vẫn lặng lẽ nhìn chàng.
- Không có ai đánh bà chủ cả, - chị lại nói, giọng nghiêm nghị và quả quyết.
Raxkonikov nhìn chị ta, thở không ra hơi nữa.
- Chính tôi nghe mà… tôi không ngủ… tôi ngồi nghe, - chàng nói, giọng còn rụt rè hơn nữa… - Viên phó quận trưởng đến… người ta chạy hết ra thang gác, buồng nào cũng ra…
- Chẳng có ai đến hết. Đấy là máu nó xông lên đấy. Máu ứ lại mà không thoát ra được là nó dồn vào gan, thế mới sinh ra mê sảng… Cậu ăn đi dăm ba miếng chứ?"
Chàng không đáp. Naxtaxia vẫn đứng cạnh giường, nhìn chàng đăm đăm không lui ra.
- Cho tôi xin tí nước, Naxtaxia.
Naxtaxia đi xuống nhà và khoảng hai phút sau mang lên một cái ốc bằng đất sét trắng; nhưng chàng không còn nhớ nhưng việc tiếp diễn về sau nữa. Chàng chỉ nhớ rằng mình nuốt một ngụm nước lạnh và đánh đổ nước trong cổ ra ngực. Sau đó chàng mê man đi.
Chú thích:
(1) "Tự thú", tác phẩm của J.J. Russeau
(2) Yếu, kém tiếng Đức
Chương 9
Song cũng không phải chàng hoàn toàn mê man trong thời gian ốm: đó là một trạng thái sốt nhỉệt, có nói sảng và nửa mê nửa tỉnh. Về sau chàng nhớ lại được khá nhiều việc. Có khi chàng mường tượng như quanh chàng có rất nhiều người quây lại định mang chàng đi đâu không rõ, họ bàn bạc về chàng và cãi vã lẫn nhau rất dữ. Có khi chàng lại thấy minh nằm một mình trong phòng, mọi người đều bỏ đi hết, hẳn vì sợ chàng, và thỉnh thoang mới có người mở hé cánh cửa ra dòm chàng, de doạ chàng, thầm thì cười nới với nhau, và trêu chọc chàng. Chàng nhớ là Naxtaxia thường ở cạnh chàng: chàng còn nhớ thêm một người nữa, hình như rất quen thuộc, nhưng cụ thể là ai thì chàng không sao đoán ra được: điều đó làm cho chàng buồn lắm và thậm chí còn khóc nữa. Có khi chàng tưởng chừng mình đã nằm liệt giường đến một tháng nay, khi lại ngỡ như mọi việc đêu xảy ra nội ngày hôm ấy. Nhưng về việc ấy, việc ấy thì chàng quên bẵng đi: song từng giờ từng phút chàng vẫn nhớ là mình có quên một điều gì lẽ ra không được quên mới phải; chàng vật vã, day dứt, cố sức nhớ cho ra, chàng rên rỉ, lồng lộn điên cuồng lên hay rơi vào một tâm trạng khiếp sợ ghê gớm, không sao chịu nổi. Những lúc ấy chàng vùng dậy, toan bỏ chạy, nhưng bao giờ cùng có ai dùng sức giữ chàng lại, và chàng lại chìm vào cõi hôn mê. Cuối cùng chàng tỉnh hẳn, lúc ấy là vào khoảng chín giờ sáng. Vào những ngày quang đãng, giờ nầy bao giờ ánh nắng cũng vẽ thành một vệt dài chạy qua bức tường bên phải phòng chàng và chiếu sáng góc phòng cạnh cửa ra. Bên giường chàng có Naxtaxia và một người nữa đang đứng nhìn chàng có vẻ rất tò mò. Đó là một người chàng chưa hề quen biết, một người trẻ tuổi mặc áo cáp-tan, để chòm râu cằm, dáng trông như một người chạy hàng. Qua cánh cửa mở hé, bà chủ đang dòm vào. Raxkonikov nhỏm dậy…
- Ai thế, Naxtaxia? - chàng chỉ người trẻ tuổi hỏi.
- À tỉnh rồi? - Naxtaxia nói.
- Tỉnh rồi, - người chạy hàng nói vọng theo.
Đoán rằng chàng đã tỉnh đậy, bà chủ, nhà đang đứng dòm ở cửa, lập tức đóng cửa lại và giấu mặt đi.
Bà ta xưa nay vốn nhút nhát và rất sợ những cuộc nói chuyện hay giãi bày; bà ta trạc bốn mươi tuổi, người to béo, lông mày đen, mắt cũng đen, tốt bụng vì béo và vì lười, trông cùng dễ ưa nữa là khác. Tính cả thẹn của bà ta thì thật quá quắt.
- Anh… là ai? - Raxkonikov hỏi thẳng người chạy hàng.
Nhưng vừa lúc ấy cánh cửa lại mở toang và Razumikhin, người hơi cúi lom khom. Vì anh ta vốn cao lớn, vừa bước vào vừa kêu ca:
- Cứ như cái buồng tàu thuỷ, lúc nào cùng cộc đầu va trán; thế mà cũng gọi là phòngvới phiếc. Cậu tỉnh rồi đấy à? Tớ vừa nghe Pasenka (1) bảo thế.
- Mới vừa tỉnh dậy đấy, - Naxtaxia nói.
- Mới vừa tỉnh dậy đấy ạ, - người chạy hàng lại mỉm cười nói vọng theo.
- Thế anh là ai? - Razumikhin bỗng quay sang hắn hỏi đột ngột. - Còn tôi đây là Vrazumikhin; không phải là Razumikhin như người ta thường tâng bốc (2), mà là Vrazumikhin, sinh viên, con nhà quý tộc, còn cậu nầy là bạn tôi. Thế còn anh là ai?
- Tôi là người chạy hàng cho hiệu buôn của ông Selopayev ạ, tôi đến đây có tí việc ạ.
- Mời anh ngồi ghế nầy, - Razumikhin vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế đặt ở bên kia bàn con. - Cậu tỉnh dậy như thế là phải lắm, - anh nói tiếp với Raxkonikov.
- Đã bốn ngày nay cậu hầu như chẳng ăn uống gì. Quả tình cũng có hớp được mấy thìa nước trà. Tớ đã dẫn Zoximov đến đây hai lần. Cậu có nhớ Zoximov không? Hắn ta khám cho cậu và nói ngay rằng chẳng có gì hệ trọng hết, chẳng qua đầu óc bị chấn động thế nào đấy. Hắn ta bảo là một chứng thần kinh gì đấy, vì ăn uống kham khổ, ít uống bia, ít ăn rau khơ-ren quá mà ra, còn như bệnh trạng thì chẳng có gì đâu, sẽ tự khỏi thôi. Anh chàng Zoximov cừ lắm? Chứa bệnh đã thành thạo rồi. À, tôi không dám giữ anh đâu - Razumikhin lại quay sang người chạy hàng, - anh cần việc gì xin cứ nói đi Rodia ạ: cửa hàng của họ đã hai lần cho người đến đây rồi đây; lần trước không phải anh nầy, một người khác kia, chúng tôi có nói chuyện với người đó. Lần trước cửa hiệu anh cho ai đến đây thế nhỉ?
- Ông muốn nói cái người đến đây hôm kia phải không ạ, đúng đấy. Đó là Alekxey Xemionovich cùng làm ở hiệu chúng tôi đấy ạ.
- Anh kia có vẻ khôn ngoan hơn anh phải không?
- Vâng ạ, ông ấy đúng là chững chạc hơn tôi ạ.
- Hay lắm; anh cứ nói đi.
- Thế nầy ạ, ông Aphanaxi Ivanovich Vakhrusin, mà tôi chắc ông đã có nghe tên nhiều lần, theo yêu cầu của bà cụ nhà đã chuyển cho hiệu chúng tôi một tờ ngân phiếu - người chạy hàng nói thẳng với Raxkonikov. - Đến khi nào ông đã tỉnh trí, chúng tôi sẽ trao lại cho ông ba mươi lăm rúp, vì Xemion Xemionovich theo yêu cầu của cụ nhà, có được Aphanaxi Ivanovich báo cho biết về số tiền nói trên theo thể thức như cũ. Ông đã biết việc nầy chưa ạ?
- Có tôi có nhớ… Vakhrusin… - Raxkonikov nói, vẻ trầm ngâm.
- Anh nghe ra chưa: cậu ấy biết ông lái buôn Vakhrusin! - Razumikhin kêu lên. - Thế mà còn bảo là chưa tĩnh trí nữa à? À mà bây giờ tôi nhận thấy anh cùng là người khôn ngoan lắm. Hay! Nghe những câu nói thông minh cũng thú lắm chứ!
- Chính ông Vakhrusin Aphanaxi Ivanovich đấy ạ, cụ nhà đã từng gửi tiền cho cậu một lần qua ông Vakhrusin theo thể thức ấy, lần nào ông cũng không từ chối lời yêu cầu của cụ nhà, và cách đây ít hôm có báo cho ông Xemion Xemionovich biết để chuyển cho ông ba mươi lăm rúp trong khi chờ đợi một món lớn hơn.
- Đấy cái câu "trong khi chờ đợi một món lớn hơn" của anh nghe hay hơn cả đấy; cả cái "bà cụ nhà" của anh cũng khá lắm. Nào, thế theo anh thì sao: anh bạn tôi đã tĩnh trí hẳn hay chưa, hả?
- Đối với tôi thì thế nào cũng được. Miễn là ông ấy ký được biên lai.
- Ký được mà! Anh có mang sổ sách theo đấy chứ?
- Sổ đây ạ!
- Đưa lại đây. Nào, Rodia, cậu ngồi dậy. Tớ sẽ đỡ đầu; cậu nguệch cho anh ta một chữ ký. Raxkonikov, cầm lấy bút đi cậu ạ, vì bây giờ chúng mình đang cần tiền lắm!
- Không cần, - Raxkonikov gạt bút ra nói - Không cần làm sao? Tôi không ký đâu.
- Quái thật, không ký thì làm thế nào?
- Không cần… tiền…
- Không cần tiền! Cậu chỉ nói láo, tớ xin làm chứng như vậy! Anh chớ lo, chẳng qua cậu ấy… lại hơi mê sảng một chút. Vả chăng ngay khi tỉnh táo cậu ấy cùng đôi khi như thế… Anh là người thông minh; chúng ta sẽ hướng dẫn cậu ấy, nghỉa lả hướng dẫn bàn tay cậu ấy một chút! Cậu ấy sẽ ký… Nào, ta…
- Dù sao thi khi khác tôi đến đây cũng được.
- Không, không, anh lo ngại cái gì kia chứ? Anh là người thông minh. Nào. Rodia, đừng làm phiền ông khách… cậu cũng thấy ông ấy đợi đấy. - nói đoạn Razumikhin thật sự chuẩn bị đỡ tay Raxkonikov.
- Cậu buông ra, để tôi ký lấy… - Raxkonikov nói đoạn cầm bút ký vào sổ. Người chạy hàng giao tiền và lui ra.
- Hoan hô! Bây giờ thì ăn chứ, cậu có muốn ăn không?
- Có, - Raxkonikov đáp.
- Chị có xúp không?
- Xúp hôm qua. - Naxtaxia, nãy giờ vẫn đứng đấy, đáp.
- Xúp khoai tây với bột gạo đấy chứ?
- Xúp khoai tây với bột gạo.
- Tớ thuộc lòng đi rồi. Đem xúp lên đây, dọn trà luôn nhé.
- Vâng ạ.
Raxkonikov nhìn mọi vật với vẻ bỡ ngỡ sửng sốt và một nỗi sợ sệt vô nghĩa, đần độn, chàng quyết định lặng thinh chờ xem sẽ ra sao nữa. "Hình như đây không phải là mê sảng - Chàng nghĩ thầm - Hình như đó là chuyện thật…"
Hai phút sau, Naxtaxia bưng súp vào và nói rằng trà cũng sẽ mang vào sau. Khi dọn xúp ra thấy có hai cái thìa. hai cái đĩa và đủ cả bộ sậu: lọ tiêu muối: mù-tạt để ăn thịt bò vân vân, những thứ mà đã lâu lắm không hề thấy được bày biện tươm tất như vậy. Khăn giải bàn trắng tinh.
- Naxtaxia nầy, giá bà Praxkovia Paplovna cho hai chai bia thì hay quá. Chúng tôi sẽ uống với nhau.
- Chà, cái cậu nầy chúa vòi - Naxtaxia càu nhàu đi xuống nhà làm tròn phận sự.
Raxkonikov vẫn nhìn quanh quất một cách ngỡ ngàng và căng thẳng trong khi Razumikhin đã ngồi sang đi-văng với chàng, cử chỉ vụng về như con gấu, luồn cánh tay trái xuống dưới đầu chàng tuy chàng đã có thể tự nhỏm dậy, đưa tay phải cầm một thìa xúp đưa sát miệng chàng sau khi thổi thổi mấy lần cho đỡ nóng. Nhưng xúp chỉ còn hơi hâm hẩm mà thôi. Raxkonikov thèm thuồng húp lấy ruột thìa, một thìa nữa: rồi một thìa nữa. Nhưng cho chàng ăn được mấy thìa thì Razumikhin bỗng dừng lại và tuyên bố rằng về phần sau phải hỏi ý kiến Zoximov đã.
Naxtaxia cầm hai chai bia bước vào.
- Cậu có uống trà không?
- Mang trà lên đây, nhanh lên Naxtaxia, về cái mục nầy thì hình như cũng không cần đến trường Y khoa. Nhưng đã có bia đây rồi!
Chàng ngồi ra ghế, kéo đĩa xúp và đĩa thịt bò lại và bắt đầu ăn ngon lành như thể nhịn đói đã ba hôm nay.
- Rodia ạ, bây giờ tớ ngày nào cũng ăn ở nhà nầy, - anh nói lúng búng, trong chừng mực cái miệng nhồm nhoàm đầy những thịt bò còn cho phép. - và đều được Pasenka, cô chủ nhà của cậu, thết đãi hết lòng. Dĩ nhiên tớ không yêu sách gì, nhưng cũng không phản đối. À, Naxtaxia đem trà lên đây rồi. Chị nầy đảm lắm: Naxtenka, uống bia đi!
- Anh chàng nầy quấy thật!
- Thế còn nước chè?
- Nước chè thì được.
- Rót đi, khoan, để tớ rót cho; ngồi đây.
Razumikhin lập tức ra tay; anh rót chè vào chén, rót thêm một chén nữa, bỏ các món ăn đấy vả lại ngồi sang đi-văng, lại luồn cánh tay trái xuống dưới đầu người ốm, nâng nó lên và bắt đầu đút từng thìa trà cho chàng, lại hăm hở thổi luôn mồm vào thìa, làm như thể bản thân cái việc thổi thổi như vậy chính là biện pháp chủ yếu, công hiệu nhất để cứu bạn khỏi bệnh.
Raxkonikov lặng thinh và không kháng cự, tuy chàng cùng cảm thấy mình thừa sức ngồi dậy mà không cần ai nâng đỡ và không những có đủ sức điều khiển chân tay để cầm thìa hay cầm chén, mà có lẽ còn đủ sức đi lại nữa. Nhưng do một sự xảo quyệt kỳ dị, gần như sự tinh khôn của loài dã thú, chàng bỗng nảy ra ý tạm thời che giấu sức lực đi, vờ vịt, thậm chí nếu cần sẽ giả làm như chưa tỉnh hắn nữa để nghe ngóng, dò xét xem chung quanh đang xảy ra những gì. Vả chăng chàng không sao nén nổi cảm giác ghê tởm. Húp được mươi thìa trà, chàng bỗng bắt đầu hờn dỗi, đẩy thìa ra và lại ngả mình xuống gối. Dưới đầu chàng bây giờ là những chiếc gối thật, độn lông tơ, vỏ gối trắng tinh; điều đó chàng cũng chú ý và ghi nhớ để suy xét thêm.
- Ngay hôm nay, Pasenka phải gửi lên cho chúng tôi ít mứt mận và pha nước cho anh ấy uống. - Razumikhin vừa nói vừa ngồi sang ghế tiếp tục ăn xúp, uống bia.
- Thế bà ấy lấy mận ở đâu ra cho cậu? - Naxtaxia hỏi, năm ngón tay xìe ra cầm cái đĩa tách và húp nước trà "qua miếng đường" (3)
- Mận ở ngoài cửa hiệu ấy, cô bạn ạ. Rodia nầy, cậu không biết chứ trong khi cậu ốm ở đây đã xảy ra cả một câu chuyện kỳ lạ. Cái hôm cậu bỏ tớ chuồn đi một cách mất dạy như vậy, địa chỉ cũng không thèm nói, tớ nỗi khùng lên đến nỗi quyết chí tìm cậu cho bằng được và trị cho cậu một mẻ. Ngay hôm ấy tớ bắt tay vào việc. Tớ đi lùng khắp nơi, đến đâu cũng hỏi. Tớ quên mất cái địa chỉ hiện nay của cậu, làm sao mà nhớ được vì xưa nay tớ có hề biết bao giờ đâu? Còn nhà cũ của cậu thì tớ chỉ nhớ là ở khu Năm Góc, nhà ông Kharlamov. Tớ tìm mãi cái nhà ông Kharlamov ấy, nhưng về sau mới biết rằng cái ông chủ nhà kia hoàn toàn không phải là Kharlamov, mà là Bukh, tên họ đôi khi cùng dễ nhớ nhầm lung tung ra như thế đấy! Tớ mới nổi cáu lên, thế là tớ tìm đến phòng Địa chỉ, và cậu thử tưởng tượng mà xem: chỉ hai phút họ đã tìm ra địa chỉ của cậu. Tên cậu có ghi ở đấy.
- Có ghi ở đấy?
- Còn sao nữa; thế mà lúc tớ ấy họ tìm mãi vẫn không ra nhà ông tướng Kobelev đây. Chà thôi, kể thì dài lắm. Đến đây một cái là tớ tìm hiểu hết các công việc của cậu ngay, tìm hiểu tất cả, cậu ạ, việc gì tớ cũng biết; cậu cứ hỏi chị nầy thì rõ, tớ làm quen cả với Nikodim Phomits, cả Ilya Petrovich người ta cùng đã chỉ cho tớ xem mặt, tớ làm quen cả với bác gác cổng, cả với ông Zamiotov Alekxandr Gigorievich, chánh văn phòng quận cảnh sát khu nầy, và cuối cùng là làm quen với Pasenka - Thật là một kết thúc rực rỡ, đây cứ hỏi chị nầy thì biết.
- Cậu ta làm bà ấy mê tít rồi, - Naxtaxia lẩm bẩm, môi nở một nụ cười ranh mãnh.
- Cô pha đường vào tách mà uống, cô Naxtaxia Nikiphorovna!
- Rõ khỉ! - Naxtaxia bỗng kêu lên và rũ ra cười - Tôi là Petrovna chứ có phải Nikiphorovna đâu, - chị ta nói thêm khi trận cười đã ngớt.
- Xin ghi lòng tạc dạ. Ấy, cậu ạ, để khỏi dài dòng lôi thôi xin nói rằng lúc đầu tớ muốn bắc một luồng điện chạy qua khắp khu nầy đề xua hết những định kiến của địa phương sở tại đi; nhưng Pasenka đã thắng. Cậu ạ quá tớ không ngờ bà ta lại có thể… khả ái như vậy! Cậu nghĩ sao. hả?
Raxkonikov lặng thinh, tuy đôi mắt, lo lắng không phút nào rời Razumikhin, và bây giờ vẫn chăm chăm nhìn anh tả.
- Rất khả ái nữa là khác, - Razumikhin nói tiếp, không mảy may nao núng trước sự im lặng của Raxkonikov, và như đang đáp lại mọi câu trả lời của chàng, - mà lại khá về đủ mọi phương diện.
- Rõ khỉ! - Naxtaxia lại kêu lên. Câu chuyện nầy hình như đang đưa lại cho chị ta một niềm khoái lạc không sao tả xiết.
- Thật đáng tiếc là ngay từ đầu cậu đã không biết cách xoay sở. Với bà ta thì không làm như thế được. Tính tình bà ta có thể nói là hết sức bất kỳ! Thôi, để sau hẵng nói đến chuyện tính tình… Thế nhưng làm thế nào, là nói ví dụ thế, cậu làm thế nào đến nỗi bà ta dám không dọn cho cậu ăn nữa? Hay như tờ tín phiếu kia chẳng hạn? Cậu điên hay sao mà lại đi ký những tờ tín phiếu như thế? Hay chuyện cậu hứa hôn với con gái bà ta chẳng hạn, khi cô Natalya Yegorovna nầy còn sống… Tớ biết hết? Ấy, tớ cũng thấy đây là một vấn đề tế nhị, và vừa rồi quả tớ ngốc như con bò; cậu tha lỗi cho tớ nhé. Nhưng nhân thể nói đến chuyện ngốc với chả ngốc; cậu nghĩ sao, Praxkovia Paylovna hoàn toàn không ngốc chút nào như mới thoạt trông có thể tưởng, phải không nào?
- Ừ - Raxkonikov ậm ừ, mắt nhìn đi nơi khác, nhưng cũng hiểu rằng cứ cố tiếp chuyện thì có lợi hơn.
- Có phải không nào? - Razumikhin reo lên, hẳn là rất hài lòng được bạn trả lời, - nhưng cũng không phải là thông minh, hả? Tính tình thật là bất kỳ, thật là bất kỳ! Tớ có phần hoang mang rồi đấy, thật thế cậu ạ Bà ta sắp trọn tứ tuần rồi. Nhưng bà ta cứ bảo là băm sáu, và bà ta hoàn toàn có quyền nói như vậy. Vả chăng quan niệm của tớ về bà ấy có tính chất trí tuệ nhiều hơn và chỉ thuộc lĩnh vực siêu hình học; những gì đã diễn ra giữa bà ta với tớ thật rối beng lên như đại số học vậy! Tớ không hiểu ra làm sao nữa! Thôi, toàn chuyện nhảm hết; có điều là bà ta thấy cậu không đi học nữa, chỗ dạy học cũng chẳng còn mà bộ cánh cũng mất, và đến khi con gái chết đi thì không còn liên hệ bà con gì với cậu nữa, nên đã phát hoảng lên, còn về phần cậu, cậu cứ nằm bẹp trong xó không chịu làm ăn gì như trước nữa, cho nên bà ta mới nghĩ ra cái chuyện đuổi cậu ra khỏi nhà. Bà ta đã có ý định ấy từ lâu nhưng còn tiếc tờ tín phiếu. Hơn nữa chính cậu quả quyết là bà cụ sẽ trả.
- Đó là vì tám địa tôi hèn hạ cho nên mới nói thế… Mẹ tôi thiếu chút nữa phải đi ăn xin… thế mà tôi lại đi nói dối đề người ta cho ở trọ và… cho ăn, - Raxkonikov nói to và rành mạch.
- Phải, cậu nghĩ phải đấy. Nhưng sở dĩ cơ sự hỏng bét cũng chỉ vì ông Shebarov, tư vấn pháp đình và là nhà doanh nghiệp nhúng tay vào. Không có ông ta thì Pasenka chẳng bày vẽ gì đâu, bà ấy nhút nhát lắm, thế nhưng nhà doanh nghiệp kia thì lại không nhút nhát và việc đầu tiên dĩ nhiên là đặt vấn đề: liệu tờ tín phiếu kia có hy vọng gì được thanh toán không? Bà ta trả lời là: có, vì có bà cụ, với số lương quả phụ một trăm hai mươi lăm rúp, bà cụ sẽ trả nợ cho thằng Rodenka của mình, dù có phải nhịn đói cũng vui lòng, lại có cô em, sẵn sàng bán mình làm nô lệ để giúp anh. Thế là ông Shebarov căn cứ vào đấy… Cậu làm gì mà cựa quáậ dữ thế? Cậu ạ, bây giờ tớ biết tỏng hết những chuyện bí ẩn của cậu rồi, khi cậu còn có quan hệ gia đình với Pasenka, cậu cởi mở với bà ta là phải: chứ bây giờ thì chỗ bạn bè tôi xin nói với cậu là… Ấy nó là thế đấy: người trung thực, đa cảm thì cởi mở tâm tình, còn người căn cơ chí thú thì lắng nghe và lợi dụng. Ấy thế là Pasenka nhường tờ tín phiếu lại cho cái ông Shebarov kia, lấy cớ là để trả nợ, và ông nầy, không chút ngượng mặt, đã đem ra pháp luật đòi thanh toán: Biết được những chuyện nầy: tớ cũng toan cho ông ta một vố, cho tròn bổn phận, nhưng vừa lúc giữa tớ với Pasenka bắt đầu có một mối quan hệ rất ư đằm thắm, cho nên tớ bèn ra lệnh chấm dứt mọi chuyện, bóp nghẹt vụ nầy ngay trong trứng nước như người ta thường nói, cam đoan rằng cậu sẽ trả. Cậu nghĩ chưa, tớ đảm bảo cho cậu đấy! Chúng tớ gọi Shebarov đến, đấm vào mồm hắn mười rúp và rút giấy về, nó đấy, rất hân hạnh được giới thiệu nó với ngài. Thế là bây giờ ngài chỉ còn nợ mồm nữa thôi. Cầm lấy, tớ đã "xem kỹ" lắm rồi đấy.
Razumikhin đặt tờ giấy vay tiền lén bàn; Raxkonikov liếc nhìn một cái và lặng lẽ quay mặt vào tường. Đến như Razumikhin mà cũng phải phật lòng. Anh nói sau một phút im lặng:
- Đấy cậu lại giở cái trò ấy ra rồi. Tớ tưởng nói chuyện ba hoa nầy nọ cho cậu khuây khoả, ai dè hình như chỉ làm cậu bực mình.
- Cậu chính là cái người mà tôi không nhận ra trong khi mê sảng đấy à? - Raxkonikov nói, cùng sau một phút im lặng và không quay đầu lại.
- Tớ đấy thậm chí ngài còn nổi xung lên mỗi khi trông thấy tớ nữa, nhất là hôm tớ đưa Zamiotov đến.
- Zamiotov?… Viên chánh văn phòng ấy à? Đến làm gì? - Raxkonikov quay phắt lại nhìn Razumikhin trừng trừng.
- Kìa cậu làm sao thế? Cậu sợ cái gì. Hắn muốn làm quen với cậu… Nếu không thì tớ làm sao mà biết được nhiều chuyện của cậu như thế? Thằng cha tốt lắm cậu ạ, một con người tuyệt diệu… dĩ nhiên là theo một kiểu riêng. Bây giờ tớ với hắn là chỗ thân tình; hầu như ngày nào cũng gặp nhau vì tớ dọn sang ở khu nầy rồi. Cậu chưa biết à? Mới dọn sang đấy. Hắn với tớ có đến nhà Laviza hai lần. Cậu có nhớ mụ Laviza không? Laviza Ivanovna ấy mà?
- Tớ có nói mê gì không?
- Còn phải nói. Ngài có còn là ngài nữa đâu.
- Tớ nói mê những gì?
- Chà? Nói mê những gì ấy à? Còn lạ gì những lời nói mê của người ốm nữa… Thôi, cậu ạ, để khỏi phải mất thì giờ, phải hắt tay vào việc ngay.
Razumikhin đứng dậy vơ lấy mũ.
- Tớ nói mê những gì?
- Anh chàng nầy gan lì thật! Hay cậu sợ lộ một chuyện gì bí mật? Đừng lo: cậu không hề nói gì về nàng công chúa của cậu đâu. Toàn nói những chó cọc với lại hoa tai, dây chuyền gì đấy, lại có nói đến đảo Krextovxki, đến một lão gác cổng nào đấy, lại nhắc cả đến Nikodim Phomits và Ilya Petrovich ở quận cảnh sát, nói nhiều lắm. Phải, ngoài ra ngài lại còn có lòng quan tâm rất mực đến chiếc găng của ngài, quan tâm lắm lắm. Ngài cứ van vỉ: đưa đây cho tôi! Cứ thế mãi. Zamiotov đã thân hành đi lục lọi khắp phòng tìm cho ngài đôi bít tất và tự tay - đôi tay rửa nước hoa đeo đầy nhẫn - tự tay cầm cái của khỉ ấy lại cho ngài, lúc ấy ngài mới bình tâm lại, và suốt ngày đêm cứ khư khư giữ cái của khi ấy trong tay không sao lấy ra được. Chắc bây giờ còn nằm đâu ở dưới chân cột ấy. Lại còn đòi gấu quần gấu kiếc gì nữa, mà đòi đến ứa nước mắt ra chứ có phải vừa đâu. Chúng tớ cứ băn khoăn mâi không biết gấu quần nào. Không còn hiểu ra làm sao nữa… Thôi, phải bắt tay vào việc đi thôi! Đây có ba mươi lăm rúp, tớ lấy mười rúp, hai tiếng nữa tớ sẽ báo cáo cách sử dụng. Trong khoảng ấy tớ sẽ đi gọi Zoximov. Lẽ ra hắn đến từ lâu rồi mới phải, hơn mười một giờ rồi còn gì. Còn Naxtenka, trong khi tôi đi vắng chị nhớ ghé vào đây luôn, nhỡ anh ấy có cần ăn uống gì chăng… Còn Pasenka thì tớ sẽ dặn ngay những việc cần phải làm! Tớ đi nhé!
- Gọi bà ấy là Pasenka có chết người không chứ!
- Chà, cái anh chàng láu thật! - Naxtaxia nói với theo Razumikhin, đoạn mở cửa ra nghe ngóng một lát, nhưng rồi sốt ruột quá cũng bỏ chạy xuống nhà nốt. Chị ta đang háo hức muốn biết Razumikhin nói chuyện gì với bà chủ; Vả lại nói chung có thể thấy rõ chị ta phục lăn Razumikhin.
Cánh cửa vừa đóng lại sau lưng Naxtaxia thì Raxkonikov tung chăn nhảy phắt dậy, ngơ ngác như người điên. Lòng như thiêu như đốt, chàng sốt ruột mong họ đi khuất đi cho chóng, để bắt tay ngay vào việc.
Nhưng việc gì, việc gì? Vừa đúng lúc nầy chàng lại quên bẵng đi, như cố tình vậy. "Lạy Chúa? Chỉ xin nói rõ cho tôi một điều: họ đã biết việc ấy chưa, hay là chưa biết? Chắc họ biết hết rồi nhưng cứ giả vờ không biết để trêu gan mình, trong khi mình còn nằm liệt giường, thế rồi đến một lúc nào đó họ sẽ ập vào và nói rằng họ đã biết hết từ lâu nhưng cứ để thế xem sao… Bây giờ biết làm gì đây? Quên bẵng đi mất, cứ như cố ý ấy; bỗng dưng quên tiệt: vừa mới rồi còn nhớ kia mà…"
Chàng đứng ở giữa phòng, bứt rứt và ngơ ngác nhìn quanh, rồi đến mở hé cánh cửa nghe ngóng; nhưng không phải thế, phải làm cái gì khác kìa. Bỗng như sc nhớ ra, chàng nhảy chồm vào góc phòng nơi giấy dán tường thủng ra một lỗ, xem xét một lúc, thò tay vào moi moi trong lỗ, nhưng vẫn không phải. Chàng đến cạnh lò sưởi, mở nắp lò ra và bắt đầu bới bới trong đống tro: những mảnh xơ gấu quần và miếng túi rách vẫn nằm nguyên ở chỗ chàng vứt, thế nghĩa là chưa có ai nhìn vào! Đến đây chàng sực nhớ đến chiếc tất mà lúc nãy Razumikhin có nhắc tới. Quả thật nó đang nằm dưới tấm chăn, nhưng bị cọ xát nhiều và lấm be bét, cho nên Zamiotov tất nhiên không thể trông thấy gì được "Hừ, Zamiotov… sở cảnh sát!.: Chúng gọi ta lên sở cảnh sát làm gì thế nhi? Giấy gọi đâu? Chà… Mình lẫn lộn hết rồi: họ gọi là gọi từ hôm nọ kia chứ! Hôm ấy mình cũng xem xét mãi chiếc tất, còn bây giờ… bây giờ mình vừa mới ốm dậy. Thế Zamiotov đến đây làm gì? Razumikhin đưa hắn đến làm gì?… - chàng vừa lẩm bẩm, vừa ngồi phịch xuống đi-văng, người bải hoải ra.
Thế nầy là thế nào? Mình vừa còn mê sảng hay quả thật như thế. Hình như thật. A, nhớ ra rồi: phải trốn phải trốn cho nhanh: nhất định phải trốn, thế nào cũng phải trốn Nhưng… trốn đi đâu? Mà áo mình đâu mất rồi? Ủng cũng không thấy! Chúng lấy mất rồi! Chúng giấu! Hiểu rồi! A, áo khoác đây! Chúng nó bỏ sót! À tiền còn để trên bàn kia? Cả cái tín phiếu nữa… Ta sẽ lấy tiền bỏ đi thuê một căn buồng khác, chúng nó không tìm ra được đâu! Nhưng còn cái phòng địa chỉ, họ tìm ra mất, Razumikhin sẽ tìm ra. Phải trốn biệt… đi thật xa… sang Mỹ, và nhổ toẹt vào chúng nó! Đem cả tờ tín phiếu đi… sang đấy sẽ dùng được. Còn đem cái gì theo nữa nhỉ? Chúng nó tưởng mình ốm! Chúng nó không biết là mình có thể đi lại được, hê… hê… hê!… Tớ nhìn mặt chúng, mình cũng đủ biết là chúng nó biết rõ mọi chuyện! Miễn sao xuống lọt cái thang gác! Thế nhỡ chúng nó đã cho cảnh binh gác dưới kia thì sao? Cái gì thế nầy nhỉ, nước chè à? À, lại còn cả bia nữa, nửa chai, bia lạnh đây!".
Chàng cầm lấy cái chai còn đựng đến một cốc bia, và khoái trá uống thẳng một mạch như muốn đập tắt ngọn lứa đang thiêu đốt lồng ngực. Nhưng chưa được một phút đã thấy hơi men xông lên đầu, ở sống lưng có một cảm giác gây gây, có vẻ dễ chịu nữa là khác.
Chàng nằm xuống và kéo chăn lên đắp. Trí óc chàng đã bạc nhược và rời rạc săn, lại càng ngày càng rồi loạn thêm, và chẳng bao lâu một cảm giác buồn ngủ dịu dàng và dễ chịu đã bao trùm lấy chàng. Chàng khoái trá nhích đầu chọn chỗ gối cho thật êm, kéo tấm chăn bông êm ấm đã thay thế cho chiếc áo khoác rách trùm thật kín, khè buông một tiếng thở dài và thiếp đi trong một giấc ngu say sưa, khỏe khoắn. Chàng thức giấc khi nghe có tiếng ai bước vào phòng. Chàng mở mắt ra và thấy Razumikhin đã mở toang cửa phòng, đang đứng ở ngưỡng cửa, phân vân không hiểu nên vàp không. Raxkonikov nhổm ngồi dậy, nhìn anh như đang cố nhớ lại một điều gì.
- À cậu thức đấy ư, tớ đã tớ đã về đây. Naxtaxia, đưa cái gói lên đây! - Razumikhin gọi xuống dưới nhà. Tớ xin báo cáo ngay…
- Mấy giờ rồi? - Raxkonikov hỏi, mặt lo lắng nhìn quanh.
Cậu ngủ đẫy giấc đấy, chiều rồi, gần sáu giờ. Cậu ngủ được hơn sáu tiếng…
Trời ơi, làm sao tôi lại… thì đã làm sao? Càng khoẻ chứ sao! Cậu đi đâu mà vội? Có hẹn hò vói cô nào chắc? Bây giờ tất cả thời gian là của chúng ta. Tớ đợi cậu đã ba tiếng đồng hồ rồi; tớ có ghé vào hai lần: nhưng cậu đang ngủ; tớ lại đến tìm Zoximov hai lần, nhưng hắn không có nhà, thế mới chán chứ! Thôi được, rồi thế nào hắn cũng đến! Tớ còn đi lo mấy việc riêng của tớ nữa. Chả hôm nay tớ dọn hẳn sang ở bên nầy, cả ông chú tớ nữa. Bây giờ ông chú tớ ở chung với tớ đấy. Thôi nói chuyện phiếm mãi, khỉ thật, phải bàn công chuyện cho xong đã! Đem cái gói lên đây, Naxtenka Bây giờ ta… Thế cậu thấy trong người ra sao rồi?
- Tôi khỏe, tôi không ốm. Razumikhin, cậu đến đã lâu chưa?
- Đã bảo là đợi đến ba tiếng đồng hồ mà.
- Không, trước đây kia!
- Trước cái gì?
- Thì tớ đã kể cho cậu nghe khi sáng rồi còn gì: hay cậu không nhớ!
Raxkonikov trầm ngâm suy nghĩ. Như trong giấc mơ, chàng mường tượng ôn lại những việc xảy ra trong ngày hôm ấy. Một mình chàng không sao nhớ lại hết được, chàng đưa mắt nhìn Razumikhin có ý dò hỏi.
- Hừm! - Razumikhin nói, - quên. Khi sáng tớ cũng ngờ là cậu chưa tỉnh hắn… Bây giờ ngủ được một giấc rồi mới đỡ… Thật đấy, trông khá hẳn ra. Cừ lắm. Nào ta bàn công việc? Cậu sẽ nhớ lại cho mà xem. Cậu nhìn cái nầy một chút, Rodia!
Razumikhin bắt đầu mở cái gói vải mà hình như anh ta hết sức quan tâm.
- Đây là vấn đề khiến tớ băn khoăn nhất đây, cậu ạ Vì phải làm cho cậu ra dáng một con người mới được. Ta bắt đầu nhé, xem từ trên xuống dưới. Cậu có thấy cái mũ lưỡi trai nầy không anh vừa nói vừa rút trong gói ra một chiếc mũ lưỡi trai khá xinh xắn, nhưng cũng rất tầm thường và rẻ tiền. - Cậu đội thứ tí xem.
- Khoan đã, sau hẵng hay, - Raxkonikov gạt phắt ra nói.
- Không được, Rodia ạ, đừng thế, muộn mất; với lại cả đêm nay mình sẽ không chợp mắt được đâu, chả mình mua chẳng đo đạc gì cả, không biết có vừa không.
- Vừa khéo! - anh đắc chí reo lên sau khi ướm thử vào đầu bạn, - vừa vặn đúng cỡ! Cậu ạ, mũ là phần quan trọng nhất trong trang phục, nó như là một lời giới thiệu vậy Tớ có thằng bạn tên là Tolxtyakov, hễ đi đến chỗ nào đông người là cứ phải bỏ mũ ra, trong khi người khác vẫn đội mũ như thường. Ai cũng nghĩ là hắn có thói khúm núm hèn hạ, thế nhưng thật ra thì chỉ vì hắn xấu hổ với cái tổ đỉa của hắn: thằng cha cả thẹn lắm: Nào Naxtenka, nếu cho chị hai chiếc mũ nầy, chị thích cái nào? Cái mũ palmerston nầy (anh lấy trong xó ra cái mũ dạ nhàu nát của Raxkonikov mà không hiểu tại sao anh gọi là mũ palmerston) hay là cái mũ xinh xẻo như một đồ trang sức nầy. Rodia ạ, cậu thử đoán xem tớ trả hết bao nhiêu? - Thấy Raxkonikov cứ lặng thinh, anh quay sang hỏi Naxtaxia.
- Chị thử đoán xem?
- Dễ đến hai hào. - Naxtaxia đáp.
- Hai hào? Đồ ngốc! - Razumikhin phật ý quát lân, - hai hào bây giờ thi chị có mua cũng chẳng ai người ta bán; tám hào! Hơi cũ rồi mới mua được rẻ thế đấy. Họ có hẹn là hễ đội rách, đến sang năm họ sẽ bù không cho một cái khác, thật thế đấy! Nào, bây giờ sang Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, như ở trường trung học ta vẫn hay nói. Xin báo trước là tớ hãnh diện với cái quần nầy lắm đấy nhé! - và anh ta giăng ra trước mặt Raxkonikov một cái quần len mỏng màu xám mặc mùa hè, - không thủng đến một lỗ nào, không dây lấy một vết nào, tuy cũ nhưng vẫn còn tươm chán, áo gi-lê cũng cùng màu với quần, theo đúng yêu cầu của thời trang. Mà cái gì đã cũ thì quả mặc có thích hơn: mềm hơn, êm hơn… - Rodia ạ, ở đời muốn gây dựng cơ đồ theo tớ chỉ cần chú ý theo cho đúng thời tiết; miễn là tháng giêng đừng đòi ăn dâu cốm thì trong túi bao giờ cũng còn được dăm đồng; về chuyện mua sắm nầy cũng thế. Bây giờ là mùa hạ, tớ sắm toàn đồ mùa hạ, vì đến mùa thu thì dù sao cũng phải có thứ ấm hơn, những thứ nầy đành phải vứt… hơn nữa đến lúc ấy những thứ nầy đã có đủ thì giờ rách, nếu không phải vì quá xa hoa thì cũng vì những khó khăn nội bộ. Nào thử đoán giá xem? Cậu bảo bao nhiêu? Hai rúp hai mươi lăm cô-pếch. Và cậu phải nhớ là vẫn có lời hẹn như trước đấy nhé nếu mặc rách rồi thì sang năm sẽ bù không một cái khác! Ơ hiệu Phediayev bao giờ cũng thế: đã trả tiền là thôi: suốt đời không bao giờ đặt chân đến nữa. Thôi bây giờ ta sang cái mục giầy dép. Cậu bảo sao nào? Rõ ràng là cũ, nhưng cũng còn đi được vài tháng: vì đây là hàng ngoại: viên thư ký sứ quán Anh mới đem ra chợ tầm tầm bán tuần trước; mới đi được có sáu hôm, nhưng vì cần tiền nên mới bán. Giá một rúp năm mươi cô-pếch. Được chứ?
- Nhưng nhỡ không vừa - Naxtaxia nói.
- Không vừa! Thế thì cái gì đây? - nói đoạn Razumikhin rút trong túi ra một chiếc giầy ủng cũ rích, rúm ró, bùn bám dày cộm, thủng be bét, chiếc giầy của Raxkonikov, - tớ đã mang phòng theo, và họ đã đo cỡ chân ở cái của khỉ nầy cho tớ. Họ làm ăn cẩn thận lắm. Còn về áo quần mặc trong thì tớ đã bàn với bà chủ. Trước hết đây là ba cái sơ-mi, vải phin thôi, nhưng diều áo mốt lắm… Đã thế là tám hào mũ, hai rúp hai mươi làm cô-pếch áo quần, vị chi là ba rúp năm cô-pếch; một rúp rưỡi mua giầy - vì giầy nầy tốt lắm - vị chi là bốn rúp năm mươi lăm cô-pếch, thêm năm rúp áo quần lót nữa - họ tính giá gộp cho nên mới rẻ thế - vị chi cả thảy là đúng chín rúp năm mươi lăm cô-pếch. Còn lại bốn mươi lăm cô-pếch tiền thừa, toàn tiền năm cô-pếch bằng đồng cả, đây, xin ngài nhận cho,… vì thế là bây giờ cậu đã có đủ bộ cánh rồi đấy.
Rodia vì theo ý tớ, cái áo khoác của cậu không những còn dùng được mà lại còn có một vẻ quý phái đặc biệt nữa, may ở hiệu Scharmer có khác! Về bít tất và các thứ lặt vặt khác thì tớ để cậu xoay lấy; ta còn hai mươi lăm rúp, còn về Pasenka và món tiền thuê nhà thì cậu đừng lo; tớ đã nói là tín dụng vô hạn định! - Thôi, bây giờ thì cậu cho phép mình thay áo quần cho cậu nhé, không thì bệnh nó ẩn trong chiếc áo sơ-mi ấy đấy
- Thôi! Tôi không thích! - Raxkonikov gạt phắt ra. Nãy giờ chàng vẫn nghe bản báo cáo vừa bông đùa vừa khẩn trương của Razumikhin với một cảm giác hết sức khó chịu.
- Cái đó thì không được đâu cậu ạ; chả nhẽ công tớ chạy đến mòn cả ủng đi như thế nầy chỉ là công toi! - Razumikhin năn nỉ. - Naxtaxia, đừng có xấu hổ, giúp tôỉ một tay nào, thế? - và bất chấp sự kháng cự của Raxkonikov, anh cứ thay áo quần cho chàng. Xong đâu đấy, Raxkonikov ngả lưng xuống chiếc gối và suốt mấy phút không nói lấy một lời.
"Họ cứ ám mình mãi?" - chàng nghĩ thầm. Cuối cùng chàng lên tiếng hỏi, mắt nhìn lên tường:
- Tiền mua các thứ ấy là tiền ở đâu thế?
- Tiền ở đâu ấy à? - Thế có chết không? Tiền của cậu chứ còn tiền ở đâu nữa. Hồi sáng có anh chạy hàng của lão Vakhrusin đến đây chuyển tiền của bà cụ cho cậu, cậu quên rồi hay sao?
- Bây giờ thì nhớ ra rồi. - Raxkonikov lầm lì nghĩ ngợi một hồi lâu rồi mới nói. Razumikhin cau mày lo lắng nhìn chàng.
Cánh cửa vụt mở và một người đẫy đà cao lớn bước vào phòng. Raxkonikov trông người nầy cũng thấy như có phần quen quen.
- Zoximov! May quá! - Razumikhin mừng rỡ reo lên.
Chú thích:
(1) Tên bà chủ nhà (Praxkovia) gọi thân mật
(2) Razumikhin có từ gốc "razumi" nghĩa là lý trí, trí thông minh, lương tri. Razumlkhin có thể hiểu là "người có trí thông minh, còn Razumikhin có thể hiểu là "người biết điều, phải chăng"
(3) Nhiều người Nga khi uống trà thường không cho đường vào chén, mà ngậm đường trong miệng rồi húp nước vào sau (cho nước thấm qua miếng đường)
Chương 10
Zoximov là một người cao lớn và béo đẫy trạc chừng hal mươi mấy tuổi, mặt phị, nước da nhợt nhạt, râu cạo nhẵn thín, tóc màu gai thẳng sợl, mặt đeo kính, ngón tay béo múp míp đeo một chiếc nhẫn vàng lớn. Anh mặc một chiếc áo khoác mỏng và rộng, rất bảnh bao, chiếc quần mùa hè màu nhạt, và nói chung trên người anh ca cái gì cũng rộng rãi, bảnh bao và chững chạc; đồ lót trắng muốt, trên gi-lê đeo mộ sợi dây đông hồ to bản. Cử chỉ của anh ta chậm rãi, dường như uể oải nhưng cũng xen lẫn một vẻ khinh xuất có dụng công; và tuy anh ta đã cố sức che giấu tính hợm mình vẫn luôn luôn lộ rõ ra ngoài. Tất cả những người quen biết đều bảo anh ta khó chịu, nhưng cũng phải thú nhận rằng anh ta là người thạo nghề.
- Tớ đến tìm cậu đến hai lần… Cậu thấy không, tỉnh rồi đấy! Razumikhin reo lên.
- Thấy rồi, thấy rồi; thế bây giờ anh bạn thấy trong người ra sao, hả? - Zoximov vừa hỏi Raxkonikov, mắt nhìn chàng đăm đăm, vừa ngồi lên đi văng cạnh chân chàng và lập tức ngả hẳn người ra cho thoải mái.
- Vẫn cứ lầm lỳ - Razumikhin nói tiếp. - vừa rồi người ta thay quần áo cho mà cũng suýt khóc lên đấy.
- Dễ hiểu thôi, anh ta đã không thích thì để thong thả rồi thay cũng được. Mạch rất tốt. Đầu vẫn hơi nhức phải không?
- Tôi khoẻ rồi, tôi khoẻ hẳn rồi! - Raxkonikov gắt, giọng bướng bỉnh, người bỗng nhỏm dậy, mắt quắc lên, nhưng rồi lại ngã phịch xuống gối và quay mặt vào tường. Zoximov chăm chú quan sát chàng.
- Rất tốt… ổn cả, - anh ta nói, giọng uể oải. - Đã ăn gì chưa?
Razumikhin thuật lại bữa ăn và hỏi xem có thể cho ăn những gì.
- Cho ăn gì cũng được hết mà… Xúp, nước trà… Nấm với dưa chuột thì dĩ nhiên là khoan cho ăn đã, thịt bò cũng thế, và thôi, chuyện nầy chẳng có gì phải dông dài! - Anh ta đư mắt cho Razumikhin - Không uống thêm thuốc men gì nữa hết; mai tôi sẽ xem lại… Đáng lẽ hôm nay… Thôi được… Chiều mai tớ sẽ đưa cậu ấy đi chơi! - Razumikhin quyết định - đến công vien Yuxupov rồi ghé vào "Palais de Cristal" (Lâu đài Pha lê)
- Tôi thì đến mai tôi chưa cho anh ấy cử động vội, vả chăng… chút ít thì được… thôi để đến khi ấy hẵng hay.
- Chà, bực quá vừa vặn hôm nay tớ ăn khao nhà mới, cách đây chỉ có mấy bước, giá cậu ấy sang đượcthì hay quá. Nằm trên đi-văng chơi với chúng tớ cũng được. Còn cậu thì sang chứ? - Razumikhin bỗng quay sang Zoximov nói. - ìttng qu n dây nhè, cáu hứa rồi đấr.
- Có lẽ mình sẽ đến muộn một chút. Cậu bày những trò gì nào?
- Có gì đâu trà rượu, cá thu. Sẽ có cả bánh nướng. Toàn bạn thân cả.
- Cụ thể có những ai?
- Thì vẫn là dân ở đây cả, hầu hết là dân mới, quả có thế, trừ có mỗi ông chú già nhà mình, nhưng cùng là một tay mới: mới đến Petersburg hôm qua có mấy việc gì ấy; năm năm hai chú cháu mới gặp nhau một lần.
- Ông ấy làm gì?
- Thì suốt đời cứ kéo lê mãi cái chức trưởng trạm bưu vụ ở huyện ấy mà… Sáu mươi lăm tuổi rồi; có sổ hưu bổng con con; thôi chả có gì đáng nói… Dù sao tớ cũng quý ông chú lắm. Có cả Porfiri Petrovich cũng sẽ đến; ông ta làm dự thẩm ở khu nầy… một nhà luật học. Nhưng cậu cũng biết ông ta - Cũng có họ với cậu à.
- Có họ rất xa thế nào đấy, sao cậu lại cau mặt? Vì hai người đã có lần cãi nhau, nên cậu không muốn đến nữa chắc?
Tớ cần đếch gì chấp cái lão ấy.
- Thôi được, càng tốt. Ấy, còn có thêm mấy thằng sinh viên, một anh thấy giáo, một anh viên chức, một anh nhạc sĩ, một sĩ quan, lại có Zamiotov…
- Cậu thử nói mình nghe xem giữa cậu hay cậu nầy chẳng hạn - Zoximov hất hàm chỉ Raxkonikov - với một gã như Zamiotov thì có gì là đồng thanh tương ứng?
- Ồ cậu nầy lôi thôi thật! Nguyên tắc… Cậu thì bao giờ cũng ngồi trên đống nguyên tắc như ngồi lò xo ấy; không dám tự ý trở mình nữa; còn theo tớ thì nguyên tắc là ở chỗ người ta có tốt hay không, ngoài ra tớ không thèm biết gì nữa hết, Zamiotov là người tuyệt diệu.
- Phải, làm tiền cừ ra phết.
- Ừ thì làm tiền, tớ đếch cần! Làm tiền thì đã sao, thiếu tự nhiên, - Razumikhin bỗng quát lên, vẻ giận dữ một cách thiếu tự nhiên - tớ có đưa chuyện ấy ra khoe khoang với cậu đâu? Tớ bảo là hắn cũng có mặt tốt, thế thôi! Nếu xét người mà cứ xét đủ mọi mặt thì còn được mấy người tốt nữa? Mà tớ tin chắc rằng cứ kiểu ấy thì tớ không đáng giá một củ hành nướng, dù có gộp cả cậu vào nữa cũng thế!
- Ít quá; tớ thì tớ đổi đến hai củ…
- Còn cậu thì chỉ đáng một củ thôi? Lại còn nói kháy: Zamiotov chỉ là một thằng bé con, tớ còn sẽ xách tai hắn nữa, vì cần phải lôi kéo hắn chứ không nên gạt hắn ra. Không phải cứ dùng cái lối gạt người ta ra mà sửa chữa cho người ta được, nhất là đối với trẻ con. Đối với trẻ con phải thận trọng gấp đôi Cái hạng tiến bộ như kiểu các anh thì chẳng hiểu gì hết! Không biết kính trọng người, lại thiệt cho cả mình. Còn nếu cậu muốn biết: thì xin nói là hắn với tớ quả có chỗ đồng thanh tương ứng đấy, chúng tớ đang cùng làm một việc chung.
- Muốn biết chứ?
- Thì vẫn là chuyện anh hàng thợ sơn ấy. Chúng tớ quyết sẽ gờ được cho hắn. Vả chăng bây giờ cũng chẳng có gì nguy kịch. Sự việc đã quá hiển nhiên rồi. Chẳng qua chúng tớ chỉ cho thêm than vào lò.
Lại thợ sơn thợ vẽ nào nữa thế?
- Sao, tớ chưa kể à? Chả nhẽ? À phải, tớ mới kể có phần đầu đấy, về vụ ám sát mụ già chủ hiệu cầm đồ ấy, bây giờ anh thợ sơn cũng bị liên luỵ vào vụ nầy.
- Về vụ ám sát nầy thì tớ biết trước cả cậu và thậm chí còn quan tâm đặc biệt, một phần nào, nhân một dịp… tớ có đọc trên báo! Thế rồi…
- Mụ Lizaveta cũng bị giết rồi! - Naxtaxia bỗng quay về phía Raxkonikov kêu lên. Nãy giờ chị ta vẫn đứng hóng chuyện trong phòng, người dựa vào tường cạnh khung cửa.
- Lizaveta? - Raxkonikov lắp bắp rất khẽ.
- Thế cậu không biết mụ Lizaveta vẫn hay đi lấy hàng ấy à? Mụ vẫn thường đến đây. Ở dưới nhà ấy. Có lần còn vá sơ-mi cho cậu.
Raxkonikov quay mặt vào tường. Trên tấm giấy dán tường vàng có vẽ hoa trắng, chàng chọn lấy một bông hoa nét về vụng về có những vạch gì nâu nâu, và bắt đầu nhìn thật kỹ: hoa có bao nhiêu cánh, mỗi cánh có bao nhiêu răng cưa và bao nhiều vạch nâu? Chàng cảm thấy tay chân tê dại đi, như bị cưa cụt mất, nhưng cũng không buồn cử động, cứ nằm yên nhìn trừng trừng vào bông hoa trắng…
- Thế cái anh thợ sơn kia làm sao? - Zoximov cắt ngang nhưng lời tán gẫu của Naxtaxia với một vẻ khó chịu đặc biệt. Chị ta thở dài và lặng thinh.
- Cũng bị tình nghi là thủ phạm! - Razumikhin hăm hở nói.
- Có bằng chứng gì không?
- Bằng chứng đếch gì! Quả họ đã căn cứ vào một bằng chứng, nhưng nó có phải là bằng chứng hay không thì cũng còn phải chứng minh! Cũng đúng hệt như lúc đầu họ tình nghi và bắt giam hai cái lão… hai cái lão đếch gì ấy nhỉ? À, Koch và Pextriakov. Xì! Làm ăn ngốc thật, ngay đứng ngoài cũng thấy chướng mắt! Có lẽ cái anh chàng Pextryakov hôm nay sẽ ghé lại đằng tôi. À nầy, Rodia, chắc cậu cũng biết vụ nầy, nó xảy ra từ trước khi cậu ốm đấy, đúng vào đêm trước cái hôm cậu ngất đi ở sở cảnh sát khi họ đang nói chuyện về vụ nầy.
Zoximov tò mò nhìn Raxkonikov. Chàng nằm im không nhúc nhích.
Nầy, Razumikhin ạ, tớ trông cậu thật là một tay hiếu sự hết sức - Zoximov nhận xét.
- Cứ cho như thế, nhưng chúng tớ cũng cứ gỡ cho hắn! - Razumikhin đập bàn quát lên. - Xét ra trong vụ nầy có cái gì đáng giận hơn cả? Không phải là chuyện họ nói bậy; nói bậy thì bao giờ cũng có thể tha thứ được; nói bậy cùng có chỗ hay, vì nó dần đến chân lý. Không phải, cái tệ nhất là đã nói bậy mà còn huênh hoang với những lời nói bậy của mình nữa. Tớ kính trọng Porphin, nhưng… Ấy chẳng hạn lúc đầu cái gì làm cho họ lạc hướng? Cánh cửa vốn đóng kín, thế mà khi cùng lên với lão gác cổng thì lại mở: Ấy thế nghĩa là Koch và Pextriakov chính là thủ phạm. Đấy, cái logic của họ là như thế đấy.
- Kìa cậu đừng nói khùng lên thế họ chỉ tạm giữ hai người ấy lại thôi; vì không thế… À, trước tớ vẫn gặp cái lão Koch ấy. Thế lão nầy vẫn mua lại đồ cầm hết hạn chuộc của mụ già đấy à?
- Phải, đúng là một thằng đại bợm! Hắn mua cả tín phiếu nữa. Một thằng làm tiền mà. Nhưng thôi kệ xác hắn! Cậu có hiểu không, tớ bực là bực cái lối làm việc hết sức cổ hủ, đồi bại của họ… thế mà chỉ riêng trong vụ nầy đáng lẽ cùng có thể mở ra cả một con đường mới. Chỉ cần những cứ liệu tâm lý học không thôi cũng đủ có thể vạch rõ cách tìm cho ra dấu vết thật sự… Cứ bảo là "chúng tôi có sự kiện đây mà!". Nhưng sự kiện chưa phải là tất cả: Ít nhất một nửa vấn đề là ở cách xử lý các sự kiện.
- Thế cậu biết cách xử lý các sự kiện à?
- Thì cậu bảo làm thinh thế nào được khi cảm thấy rõ rệt rằng mình có thể giúp ích cho công việc, nếu… Ối giào! Cậu có biết rõ chi tiết vụ nầy không?
- Tớ còn đang chờ nghe cậu nói về anh thợ sơn kia.
- À phải! Đây, đầu đuôi thế nầy: đúng hai ngày sau khi xảy ra vụ án mạng, vào buổi sáng, khi họ đang mải lăng xăng quanh Koch với Pextriakov (tuy hai lão nầy đã thanh minh đến đầu đến đũa từng đường đi nước bước của mình, không còn hồ nghi gì được nữa) thì bỗng xảy ra một sự kiện hết sức bất ngờ. Mộ lão mu-gich nào đó tên là Duskin, chủ một, tiệm rượu ở ngay trước mặt ngôi nhà, đến sở cảnh sát trình một chiếc hộp đựng tư trang trong có đôi hoa tai bằng vàng và kể lại cả một câu chuyện dài: "Cách đấy hai hôm, khoảng hơn tám giờ tối một chút - cậu chú ý ngày giờ nhé có một anh thợ sơn tên là Mikolai, trước dây vẫn thường lui tới nhà tôi, cầm cái hộp đựng đôi hoa tai vàng mặt ngọc đến tìm tôi và hỏi vay hai rúp, và đến khi tôi hỏi; cái nầy lấy ở đâu? - thì hắn ta bảo là nhặt ở vỉa hè, rồi không nói gì thêm nữa - lão Duskin nói thế, - và đem ra cho hắn một tờ, tức một rúp, vì tôi nghĩ bụng là nếu không gán cho mình thì hắn cũng đem gán cho kẻ khác, trước sau hắn cũng nướng vào tiệm rượu hết, dù sao tôi cất vẫn hơn: cất càng kín thì lấy càng nhanh, như câu tục ngữ vẫn nói, nếu có nghe phong thanh đấy là của ăn cắp hay có chuyện gì lôi thôi tôi sẽ lên trình quận". Dĩ nhiên hắn nói láo, vì tớ biết cái lão Duskin nầy lắm, hắn cũng là tay chuyên nhận đồ cầm và oa trữ của ăn cắp; hắn nhận của thằng Mikolai một vật trị giá ba mươi rúp không phải để mang "trình quận". Chẳng qua hắn sợ đấy thôi. Nhưng thôi kệ mẹ hắn, cậu nghe, đây. Lão Duskin nói tiếp: "Còn như Mikolai Dementiev thì tôi biết từ hồi hắn còn nhỏ: hắn với tôi đến ở tỉnh Ryazan, huyện Zaraixk cả, hắn tuy không phải là tay nghiện rượu, nhưng cùng hay đánh chén: và chúng tôi biết hắn làm việc trong ngồi nhà ấy với Mitrey, vốn cùng quê với hắn. Nhận được đồng rúp của tôi, hắn lập tức đem đổi lấy tiền uống liền hai cốc rồi cầm tiền phụ ra vê. Còn Mitrey thì lúc ấy tôi không thấy đi với hắn. Đến hôm sAusterlix, chúng tôi mới nghe tin bà Aliona Ivanovna với bà em Lizaveta Ivanovna bị giết chết bằng rìu. Chúng tôi vốn có biết hai bà ấy nên sinh nghi về đôi hoa tai kia vì chúng tôi vẫn cho rằng mồ ma bà ấy vốn cho vay gán đồ. Tôi mới đến nhà bà ấy và kín đáo tìm hiểu xem sao. Trước tiên tôi hỏi: "Mikolai có đấy không?" Mitrey mới bảo là Mikolai đi chè chén mãi đến tảng sáng mới về, say khướt; về được mươi phút lại đi, sau đó Mitrey không thấy hắn đâu nữa, đành làm nốt công việc một mình, là họ làm việc cùng một cầu thang với người bị giết ở tầng thứ hai. Nghĩ được những chuyện đó, chúng tôi không hé răng với ai - lão Duskin nói - nhưng cần tìm đủ cách để biết cho tường tận vụ nầy, và khi về nhà vẫn giữ mối nghi kỵ ấy. Đến sáng hôm nay, lúc tám giờ "tức là hai ngày sau vụ án mạng", cậu hiểu chưa, tôi thấy Mikolai vào nhà tôi không tỉnh nhưng cũng không say lắm, có thể nghe nói chuyện được. Hắn ngồi ở ghế dài và làm thinh. Lúc bấy giờ ngoài hắn ra trong tiệm rượu chỉ có một ông khách, còn thì có một người nữa người quen, nằm ngủ trên một chiếc ghế dài, vì đây cũng là một khách quen, ngoài ra còn hai thằng bé hầu bàn nhà tôi nữa. Tôi mới hỏi: "Có gặp Mitrey không?" - "Không, hắn bảo thế, không gặp" "Thế anh không đến đấy lần nào à?" - "Hai hôm nay không đến" - hắn nói. "Thế hôm qua anh ngủ ở đâu?" "Ở bãi cát, chỗ bọn Kolomna ấy - "Thế hôm ấy, anh lấy đôi hoa tai ở đâu?" - "Tôi nhặt trên vỉa hè" - hắn nói câu nầy nghe rất lạ, mắt cứ tránh nhìn tôi. Tôi bảo: "Anh có nghe nói là ngay tối hôm ấy, đúng vào giờ ấy, trên thang gáa ấy có xảy ra chuyện nầy chuyện nọ không" - "Không, tôi không nghe" - hắn bảo thế. Hắn hưóng mắt lên nghe tôi nói, mặt bỗng tái nhợt đi tờ giấy. Tôi mới kể hết chuyện ấy cho hắn nghe", thế là hắn đứng dậy cầm mũ định ra về. Tôi muốn giữ hắn lại: "Khoan đã, Mikolai ạ, uống chén rượu đã chứ?" - tôi nháy người nhà đứng chặn lấy cửa trong khi tôi vòng ra phía sau, nhưng hắn lập tứ vùng chạy ra phố, rẽ ngoặt vào một ngõ hẻm, không thấy tăm hơi đâu nữa. Đến đây tôi không còn phân vân gì nữa, đúng hắn rồi…
- Còn phải nói! - Zoximov chêm vào.
- Khoan! Hẵng nghe cho hết đã, dĩ nhiên là họ đâm bổ đi tìm Mikolai; họ cho bắt giữ Duskin và khám nhà hắn, bắt luôn cả Mitrey; họ cũng lục tung cả nhà bọn ở Kolomna lên. Nhưng đến ngày thứ ba thì giải Mikolai về: hắn bị giữ lại ở gần cửa ô X., trong một quán trọ, hắn đến đấy, cởi cái thánh giá bằng bạc đeo trên cổ ra xin đổi lấy cốc rượu. Người ta mang rượu ra cho hắn. Một lát sau, một mụ đàn bà vào vắt sữa bò, nhìn qua khe cửa thì trong gian nhà kho ở bên cạnh thấy hắn đang tháo dây thắt lưng ra buộc thành thòng lọng treo lên sàn nhà, hắn đứng lên một súc gỗ chui đầu vào cai thòng lọng. Mụ đàn bà hét tướng lên, người ta mới đổ xô lại: "À! ra thế đấy?" - "Các ông cứ dẫn tôi đến quận cảnh sát, khu nọ khu kia, tôi sẽ thú hết". Họ bèn dẫn hắn vé quận cảnh sát khu nầy với đủ các nghi thức thích đáng. Thế là bắt đầu cuộc hỏi cung: anh là ai, ở đâu, mấy tuổi - "hai mươi hai tuổi", vân vân, vân vân, rồi trong khi anh đang làm việc với Mitrey, có thấy ai đi lên thang gác vào giờ nọ giờ kia không?". Đáp: "Chắc có nhiều người đi qua, nhưng chúng tôi không để ý" "Anh có nghe thấy tiếng động gì không?" "Không nghe thấy gì khác thường cả" - "Thế anh có biết rằng ngày hôm ấy, vào giờ ấy, mụ già nọ với em gái mụ bị người ta giết rồi lấy của không?" - "Tôi không hề hay biết gì hết. Cách dây hai ngày tôi mới nghe ông Aphanaxi Pavlich nói chuyện nầy lần đầu trong tiệm rượu" - "Thế anh lấy đôi hoa tai ở đâu?" - "Tôi bắt được trên vỉa hè" - "Tại sao hôm sau anh không đến làm việc với Mitrey?" - "Tại tôi còn đi đánh chén" - "Đánh chén ở đâu?" - "Ở chỗ nọ chỗ kia" - "Tại sao lại vùng chạy ra khỏi nhà Duskin?" - "Vì lúc đó tôi sợ quá" - "Sợ cái gì? - "Sợ bị đem xử" - Sao lại sợ bị xử nếu biết mình không có tội tình gì?" Đấy, cậu có tin hay không thì tuỳ cậu đấy, Zoximov ạ, nhưng quả thật họ có hỏi câu đó, nguyên văn đúng như thế, tớ biết qua một nguồn tin chắc chắn? Thế nào, cậu thấy thế nào, hả?
- Ấy dù sao thì bằng chứng vắn có đấy chứ.
- Nhưng tớ chưa nói đến bằng chứng, tớ đang nói đến cái câu hỏi cũng kia, đến cách họ quan nỉệm nhiệm vụ của họ! Thôi kệ thấy họ! Ấy, họ thúc bách hắn, ép mãi, dồn mãi, thế là hắn thú: "Không phải bắt được trên vỉa hè, mà ở trong gian phòng tôi với Mitrey làm việc" - "Bắt được như thế nào?" - "Như thế nầy: tôi với Mitrey sơn suốt ngày hôm ấy đến tám giờ, đã sắp sửa về, thì Mitrey cầm chổi sơn bôi lấy bôi để vào mặt tôi, rồi bỏ chạy, tôi mới đuổi theo. Tôi vừa đuổi theo hắn vừa hét tưởng lên; chạy xuống đến sân thì đâm sầm vào bác gác cổng và mấy ông lớn nữa, có bao nhiêu ông cả thảy thì tôi không nhớ; bác gác cổng mới chửi tôi một hồi, rồi đến một bác gác cổng nữa cũng chửi, rồi mụ vợ bác gác cổng cũng ra chửi chúng tôi một chầu nữa rồi đến một ông lớn đi với một bà vào sân cũng chửi chúng tôi, vì lúc tôi với Mitka nằm chắn ngang lối đi: tôi đang túm lấy tóc Mitka vật nó xuống đất và đấm thùm thụp vào người nó, còn Mitka đang nằm dưới người tôi cũng túm lấy tôi và đánh vào người tôi thùm thụp, không phải chúng tôi đánh nhau thật vì thù ghét gì nhau đâu, mà chỉ là chỗ bạn bè thân thiết đùa nhau thế thôi. Sau đó Mitka vùng chạy ra phố, tôi mới đuổi theo, nhưng đuổi không kịp đành trở về phòng một mình, vì còn phải dọn dẹp mà về. Tôi bắt đầu thu dọn và đợi Mitka trở lại. Thề rồi ở góc phòng ngoài, sát tường, sau cánh cửa ra vào tôi chợt dẫm phải một gói gì, tôi mới cúi xuống xem thì thấy đó là một cái hộp gói giấy. Tôi tháo giấy ra thì thấy cái hộp cài bằng hai cái móc nho nhỏ, tháo móc ra thì trong hộp thấy có đôi hoa tai…".
- Sau cánh cửa à? Nó nằm sau cánh cửa à? Sau cánh cửa? - Raxkonikóp bỗng kêu lên: đôi mắt ngây dại hoảng hốt nhìn Razumikhin và từ từ chống tay nhổm dậy, trên đi-văng.
- Ừ thì sao? Cậu làm sao thế? Việc gì thế? -
Razumikhin cũng chồm dậy hỏi.
- Không sao cả… - Raxkonikov thều thào đáp rất khẽ, đoạn lại ngả mình xuống gối và lại quay mặt vào tường. Mọi người im lặng một lát.
- Chắc cậu ấy ngủ rồi nói mế đây, - mãi hồi lâu Razumikhin mới nói, mắt nhìn Zoximov có ý dò hỏi;
Zoximov khẽ lắc đầu không đồng ý, rồi nói:
- Nầy cậu kể tiếp đi rồi sao nữa?
- Nói ao nữa ấy à? Trông thấy đôi hoa tai, hắn quên khuấy cả Mitka lẫn gian phòng, vớ lẫy mũ và chạy một mạch đến nhà Duskin, và như ta đã biết, hắn nhận của lão nầy một rúp, nói dối với lão là nhặt được ở vỉa hè rồi lập tức đi đánh chén. Còn về vụ giết người thì hắn vẫn một mực như trước: "Tôi không hay biết gì cả, hôm kia tôi mới nghe nói lần dầu - "Thế sao cho đến nay anh vẫn không đến trình?" - "Vì tôi sợ" - "Thế tại sao lại muốn thắt cố?" - "Vì lo nghĩ." - "Lo nghĩ gì?" - "Nhỡ bị toà xử". Đấy, đầu đuôi câu chuyện là như thế. Bây giờ cậu thứ nghĩ xem họ kết luận như thế nào.
- Thì còn nghĩ gì nữa, dù sao cùng có những dấu hiệu. Chưa chắc chắn lắm, nhưng vẫn là những dấu hiệu. Đó là một sự kiện. Dù sao cũng không thể thả thằng cha thợ sơn của cậu ra được.
- Ồ bây giờ họ đang buộc cho nó cái tội giết người ấy đấy! Thậm chí họ không còn hoài nghi gì nữa hết!
- Nói nhảm, cậu thì chỉ bốc đồng thôi. Thế còn đôi hoa tai? Cậu phải nhận rằng nếu ngay hôm ấy, đúng vào giờ ấy đôi hoa tai ở trong rương mụ già lọt vào tay Mikolai thì cũng phải do một con đường nào chứ, có phải không nào? Điều đó cũng khá quan trọng đối với việc điều tra nầy.
- Rằng con đường nào? Bằng con đường nào à? - Razumikhin quát lên, - cậu là bác sĩ, cậu có nhiệm vụ khảo sát con người trước tiên, và hơn ai hết, cậu có dịp nghiên cứu con người, thế mà chẳng lẽ qua những tài liệu ấy cậu không thấy được bản chất cái thằng Mikolai ấy ra sao à? Chả nhẽ cậu không thấy ngay từ đầu rằng tất cả những điều hắn cũng khai đều là sự thật thuần tuý hay sao? Chuyện hắn bắt được đôi hoa tai đúng như lời hắn nói đấy, hắn dẫm phải cái hộp rồi nhặt lên?
- Sự thật thuần túy! Thế nhưng chính hắn thú nhận rằng lần trước hắn nói dối kia mà?
Cậu nghe tớ nói đây, nghe cho kỹ: cả người gác cổng, cả Koch, cả Pextriakov, cả người gác cổng kia nữa, cả vợ người gác cổng thứ nhất, cả mụ lái buôn đang ngồi chơi ở nhà mụ nầy, cả viên tư vấn pháp đình Kruylov lúc ấy vừa xuống xe khoác tay một bà đi vào sân nữa, - tất cả, nghĩa là đến tám chín nhân chứng, đều nhất trí khai rằng lúc ấy Mikolai đang đè Mitka xuống đất và đâm hắn ta, còn Mitka thì túm lấy tóc hắn và cũng đâm lại, hai đứa nằm ngay giữa lối đi; mọi người xung quqnh đều chửi mắng chúng, còn chúng thì "như hai đứa trẻ nhỏ" (nguyên văn lời khai của các nhân chứng) nằm đè lên nhau, la hét, đánh nhau và cười ha hả, bộ mặt hết sức ngộ nghĩnh, rồi đuổi nhau chạy ta phố như hai thằng con nít. Cậu nghe ra chưa?
Bây giờ cậu ghi nhớ thật kỹ lấy điều nầy: hai cái xác ở trên kia hãy còn nóng, cậu nghĩ ra chưa, hãy còn nóng, đến khi họ vào buồng vẫn thế! Nếu chính hai đứa kia giết, hay chỉ mình thằng Mikolai không thôi cũng thế, giết rồi bẻ khoá rương lấy của, hay chỉ tham gia phần nào vào việc lấy của thôi, thì xin hỏi cậu một câu nầy: một tâm trạng như thế, tức là những tiếng la hét, những tiếng cười, trận đánh nhau như trẻ con ở dưới cổng, có phù hợp chút nào với những thứ rìu búa, máu me, với những hành động thận trọng, xảo quyệt của kẻ giết người cướp của hôm ấy không. Vừa mới giết người xong, chi cách có năm mười phút - vì hai cái xác hày còn nóng - thế mà bỗng dưng bỏ cả xác chết lẫn gian phòng mở toang ra đấy, và biết rằng sẽ có người đi qua, liền nằm lăn ra giữa lối đi như hai đứa con nít, cười đùa ầm ĩ khiến mọi người chú ý, như mười nhân chứng nhất trí xác nhận?
- Kể thì thật! Dĩ nhiên không thể nào như thế, nhưng…
- Không, cậu ạ, không nhưng gì hết, còn nếu việc đôi hoa tai kia nằm trong tay Mikolai đúng vào giờ ấy, ngày ấy quả nhiên là một bằng chứng để buộc tội hắn - song đó là một việc có thể cắt nghĩa trực tiếp bằng những lời khai của hắn, cho nên chỉ là một bằng chứng có thể bác bỏ được - thì cùng phải xét đến cả những sự kiện thanh minh cho hắn huống chi đấy lại là những sự kiện không thể phủ nhận. Thế còn cậu nghĩ sao, cứ theo tinh thần của pháp lý học của nước ta liệu họ có thừa nhận hoặc có khả năng thừa nhận một sự kiện như vậy - một sự kiện chỉ căn cứ vào tâm lý học, vào một tâm trạng, - làm một sự kiện không thể bác bỏ được và có hiệu lực đánh đổ tất cả các sự kiện buộc tội có tính chất vật chất, dù những sự kiện nầy có thế nào chăng nữa không? Không, họ không thừa nhận đâu, họ không đời nào thừa nhận, vì họ tìm được cái hộp ấy, vì người kia muốn thắt cổ, "một điều không thể có được, nếu hắn thấy mình vô tội!". Đó là vấn đề chủ yếu, tớ bốc đồng lên chính vì vấn đề đó! Cậu hiểu cho!
- Thì tớ cũng thấy là cậu bốc đồng lên đấy. Khoan, tớ quên hỏi cái nầy: lấy chứng cứ gì mà nói rằng cái hộp dựng hoả tai quả nhiên ở trong rương mụ già ra?
- Có đủ bằng chứng đấy, - Razumikhin cau mày đáp như có ý miễn cưỡng, - lão Koch đã nhận ra vật nầy và cho biết cả tên người cầm đồ. Người nầy đã chứng minh được một cách chắc chắn rằng hộp hoa ai kia là của hắn.
- Hỏng, bây giờ còn cái nầy nữa: có ai trông thấy Mikolai trong khi Koch với Pextriakov lên gác không, và liệu điều đó có thể chứng minh được gì không?
- Quả có thế, chẳng ai trông thấy hắn ta - Razumikhin bực tức đáp, - thế mới phiền chứ; ngay cả Koch và Pextriakov cũng không trông thấy hắn khi đi qua căn phòng đang sơn, tuy lời khai của họ bây giờ cũng không có ý nghĩa gì cho lắm nữa. Họ bảo là họ thấy cửa phòng mở, có lẽ có người đang làm việc ở trong ấy, nhưng khi đi qua họ không để ý và không nhớ rõ lúc bấy giờ có người hay không".
- Hừm. Như vậy chỉ có một sự kiện thanh minh cho Mikolai là hai đứa đấm đá nhau và cười ầm ĩ. Ta cứ cho đó là một bằng chứng vững vàng, nhưng… Bây giờ cậu cho mình nói: riêng cậu thì cậu cắt nghĩa việc ấy như thế nào? Cậu cắt nghĩa việc Mikolai bắt được đôi hoa tai ra sao, nếu quả hắn bắt được đúng như lời hắn khai?
- Cắt nghĩa à? Còn phải cắt nghĩa gì nữa: rõ quá đi rồi còn gì? Ít nhất là con đường cần theo để tiến hành điều tra đã rõ và đã được chứng minh, và chính là do cái hộp ấy. Hung thủ thật đã đánh rơi cái hộp ấy. Hắn ở trên phòng mụ già khi Koch và Pextriakov gõ cửa, và chốt cửa ở phía trong. Koch dại dột bỏ xuống dưới nhà; hung thủ nhẩy ra ngoài và cũng chạy xuống vì không có lối nào khác. Trên thang gác hắn suýt gặp Koch, Pextriakov và người gác cổng nên phải lánh vào gian phòng trống ngay khi Mitka và Mikolai vừa chạy đi, đứng nâp sau cánh cửa trong khi bọn Koch đi ngang, đợi cho tiếng bước chân của họ đi xa rồi ung dung đi xuống thang gác đúng vào lúc Mitka và Mikolai đã chạy ra phố, moi người đều đã giải tán và không còn ai đứng ở cổng nữa. Có thể người ta thấy hắn nhưng không để ý, có phải ít người qua lại đâu. Còn cái hộp là hắn đánh rơi từ trong túi ra khi đứng nấp sau cửa, và không biết là mình đánh rơi, vì còn mải chú ý đến chuyện khác. Cái hộp ấy chứng minh một, cách rõ ràng là hắn đứng ngay đấy. Đấy, bí quyết của vụ nầy là ở đấy cả. Tinh xảo lắm, cậu ạ, tinh xảo thật đấy. Tinh xáo quá nữa là khác.
- Nhưng tại sao, tại sao lại "quá"?
- Thì tại vì mọi việc đều được dàn xếp quá ổn thoả, các tình tiết ăn khớp với nhau quá sít sao, như trên sân khấu ấy.
Razumikhin toan cãi, nhưng vừa lúc ấy cánh cửa phòng vụt mở, và một nhân vật mới, lạ mặt đối với cả ba người đang ở trong phòng, bước vào.
Chương 11
Đó là một người đã đứng tuổi, dáng người kiểu cách và bệ vệ, vẻ mặt thận trọng và cau có. Thoạt tiên hắn dừng lại ở ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn quanh một lượt với vẻ ngạc nhiên xấc xược không hề muốn che giấu, dường như đang băn khoăn tự hỏi: "Ta lọt vào cái xó xỉnh nào thế này?". Khách nhìn quanh cái "buồng tàu thuỷ" ẩm thấp và chật chội của Raxkonikov một lượt như có ý ngờ vực và thậm chí lại còn cố làm ra vẻ hơi sợ sệt nữa, nếu không phải là kinh tởm. Vẫn giữ vẻ ngạc nhiên như cũ, hắn đưa mắt nhìn Raxkonikov đang nằm trên đi-văng, ăn mặc hở hang, đầu tóc rối bù, mặt mày cáu bẩn, và cũng đang dương mắt nhìn hắn trừng trừng. Rồi vẫn cái kiểu chậm rãi đĩnh đạc như trước, hắn đưa mắt nhìn cái bóng dáng lôi thôi lếch thếch, mớ tóc không chải, bộ râu không cạo của Razumikhin lúc bấy giờ vẫn ngồi yên tại chỗ và xấc xược nhìn thẳng vào mắt hắn như muốn gạn hỏi. Một phút im lặng căng thẳng trôi qua, và cuối cùng, như người ta có thể đoán trước, có một sự thay đổi nhỏ trong cách bài trí. Chừng đã hiểu qua một vài dấu hiệu đích xác nào đó rằng trong cái "buồng tàu thuỷ" này dáng điệu long trọng quá mức kia không có tác dụng gì, vị khách hơi nhũn đi một tí và dùng một giọng lễ phép, tuy không kém phần nghiêm nghị, quay sang phía Zoximov phát âm từng tiếng một:
- Tôi muốn hỏi ông Rodion Romanovich Raxkonikov, sinh viên hoặc cựu sinh viên?
Zoximov chậm chạp cựa mình một cái và có lẽ cũng đang định trả lời, thì Razumikhin đã lập tức nói trước, mặc dầu chẳng ai hỏi anh ta cả:
- Ấy đấy, đang nằm trên đi-văng kia kìa! ông cần hỏi gì?
Cái câu "ông cần hỏi gì" quá ư sỗ sàng ấy khiến vị khách trang trọng kia đâm ra lúng túng, thậm chi đã toan quay sang phía Razumikhin, nhưng lại kịp thời tự chủ và vội vàng quay lại với Zoximov.
- Raxkonikov đây! - Zoximov hất đầu về phía người ốm nói lắp bắp rồi ngáp dài một cái, mồm há ra rất to, và giữ cái tư thế ấy rất lâu. Ngáp xong, anh ta chậm rãi thò tay vào túi gi-lê rút ra một chiếc đồng hồ vàng to tướng mặt lồi, bấm nắp ra xem rồi lại chậm rãi và uể oải đút nó vào chỗ cũ.
Về phần Raxkonikov thì vẫn im lặng nằm dài trên đi-văng nhìn người mới vào một cách chăm chú, tuy không biểu lộ một ý nghĩ gì. Khuôn mặt chàng bấy giờ không còn quay về phía cái bông hoa lạ mắt, vẽ trên giấy dán tường nữa, xanh xao lạ lùng và để lộ một nỗi đau khổ phi thường, như thế chàng vừa mới trải qua một cuộc mổ xẻ đau đớn hay vừa mới bị tra tấn nhục hình. Nhưng người khách lạ dần dần khiến chàng mỗi lúc một thêm chú ý, rồi thêm ngỡ ngàng, rồi thêm ngờ vực và dường như còn đâm ra sợ sệt nữa. Đến khi Zoximov hất đầu về phía chàng nói: "Raxkonikov đây" chàng bỗng vùng dậy rất nhanh, ngồi lên đi-văng và với một giọng thách thức nhưng yếu ớt và ngắc ngứ, chàng nói:
- Phải! Tôi là Raxkonikov! Ông muốn gì?
Khách chăm chú nhìn chàng một lúc rồi lấy giọng oai nghi nói:
- Piotr Petrovich Lugin. Tôi hy vọng rằng tên họ tôi đối với ông không đến nỗi hoàn toàn xa lạ.
Nhưng Raxkonikov, vẫn đinh ninh chờ đợi một cái gì khác hẳn, chỉ thần thờ và đăm chiêu nhìn khách, lặng thinh không đáp, dường như thể chàng nghe cái tên Piotr Petrovich lần này là lần đầu.
- Sao? Chả nhẽ đến bây giờ mà ông vẫn chưa nhận được tin tức gì - Piotr Petrovich hỏi, vẻ hơi lúng túng.
Đáp lại câu hỏi ấy, Raxkonikov chỉ chậm rãi ngả mình xuống gối, chắp hai tay sau gáy và đầu nhìn lên trần nhà. Gương mặt Lugin thoáng có vẻ lo lắng. Zoximov và Razumikhin càng tò mò nhìn ông khách, của cuối cùng ông ta cũng đâm ngượng.
- Tôi thiết tưởng và cũng hy vọng rằng. - Lugin lúng túng. -… rằng bức thư gửi đi hơn mười hôm nay, thậm chí đã gần hai tuần nay…
- Này ông, sao ông cứ đứng ngoài cửa thế? - Razumikhin đột ngột ngắt lời. - Nếu ông có gì cần nói chuyện thì vào đây mà ngồi, chứ không ông với Naxtaxia, hai người cứ chen nhau ở cái khung cửa ấy thì chật lắm. Naxtaxy tránh ra cho ông ấy vào! Ông vào đi ghế đây! Kìa ông lách vào đi chứ!
Anh ta nhích lùi ghế lại để chừa một khoảng hở giữa cái bàn và hai đầu gối của mình là hơi rúm người lại chờ cho khách "lách vào" qua cái khoảng hở ấy. Cái thế lúc bấy giờ khiến khách không sao từ chối được, bèn hấp tấp len qua khoảng hở chật hẹp, vướng víu, ngồi xuống ghế và đưa mắt nghi kỵ nhìn Razumikhin.
- Ông cũng đừng ngượng nghịu gì cả, - Razumikhin nói bô bô, - Rodia ốm đã năm hôm nay, mê sảng liên mlên suốt ba ngày, bây giờ thì đã tinh và ăn thấy ngon miệng. Đây là bác sĩ điều trị cho anh ấy, bác sĩ vừa mới khám cho anh ấy xong, còn tôi là bạn của Rodia, trước kia cũng là sinh viên, còn bây giờ thì đang làm hộ lý cho cậu ấy, ông cứ xem như không có hai chúng tôi ở đây và có việc gì cứ nói chuyện tiếp đi.
- Cảm ơn ông. Nhưng không biết tôi đến đây nói chuyện có phiền cho người ốm không - Piotr Petrovich quay sang hỏi Zoximov.
- Kh… không. - Zoximov lắp bắp. - Có lẽ ông đến còn làm cho anh ấy khuây khoả nữa - nói đoạn lại ngáp dài.
- Ồ cậu ấy tỉnh từ tu rồi, từ hồi sáng kia! - Razumikhin nói tiếp. Thái độ thân mật suồng sã của anh có vẻ thật thà và tự nhiên đến nỗi Piotr Petrovich nghĩ lại và bắt đầu cảm thấy đỡ lúng túng hơn, có lẽ một phần cũng vì cái thằng cha ăn mặc rách rưới, nói năng lấc cấc kia đã tự giới thiệu mình là sinh viên.
- Bà cụ cậu… - Lugin mở đầu.
- Hừm! - Razumikhin hắng giọng một tiếng rõ to. Lugin ngơ ngác nhìn anh.
Không có gì đâu, tôi chỉ… thế thôi; ông cứ nói đi!
Lugin so vai.
- Bà cụ cậu có viết cho cậu một bức thư trước khi tôi lên đường đến đây. Lên đến đây, tôi cố ý nán lại mấy ngày không đến thăm cậu để cho thật chắc là cậu đã biết rõ mọi việc; nhưng nay tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng…
- Tôi biết, tôi có biết? - Raxkonikov đột ngột cắt ngang, vẻ hết sức bực bội. - Ông là chú rể chứ gì? Tôi biết rồi? Thôi, thế là đủ!
Piotr Petrovich giận lăm rồi, nhưng vẫn làm thinh. Ông ta cố nghĩ gấp xem như thế nghĩa là thế nào. Một phút im lặng trôi qua.
Trong khi đó Raxkonikov, vừa rồi hơi ngoảnh lại một chút để trả lời ông Lugin, bỗng dừng lại bắt đầu nhìn ông ta trừng trừng với một vẻ tò mò đặc biệt, dường như lúc này chàng chưa kịp nhìn kỹ, hoặc trên người ông ta có thêm một cái gì mới mẻ khiến chàng chú ý: chàng còn cố ý nhấc đầu lên khỏi gối để nhìn cho rõ. Quả nhiên, dáng dấp Piotr Petrovich có một cái gì đặc biệt đập vào mắt người ta, một cái gì như thể xác minh thêm cái danh hiệu "chú rể" mà Raxkonikov vừa tặng cho ông ta một cách quá sỗ sàng như vậy. Trước hết có thể thấy, và thấy quá rõ rằng Piotr Petrovich đã tiết sức vội vàng lợi dụng mấy ngày trú ngụ ở thủ đô để phục sức và trang điểm trong khi chờ đợi vị hôn thế, vả chăng đó cũng là một việc chính đáng không có gì đáng chê trách. Ngay cả cái ý thức tự mãn, dù có quá đáng đi nữa, về sự thay đổi hay ho vừa làm cho dung mạo mình tuấn tú hẳn lên cũng có thể dung thứ được lắm, vì Piotr Petrovich nay đang ở vào địa vị một chàng rể. Áo quần ông ta đều vừa mới lấy ở hiệu may ra, và tất cả đều tươm tất, hoạ chăng chỉ có một điểm nhỏ là mọi thứ đều mới quá và phô bày quá rõ một mục đích nhất định. Ngay cả cái mũ dạ tròn mới tinh, bảnh bao của ông cũng để lộ mục đích đó Piotr Petrovich đối xử với nó một cách quá trân trọng và cầm nó trên tay một cách quá nâng niu. Ngay cả đôi găng tay màu hoa cà rất đẹp, một đôi găng Jouvin chính hiệu cũng cho thấy rõ điều đó, dù chỉ xét riêng một điểm là chủ nhân không mang nó vào, mà chi cầm trên tay để phô trương. Trên y phục của Piotr Petrovich các màu tươi trẻ chiếm ưu thế. Ông ta mặc chiếc áo vét tông mùa hè xinh xắn màu nâu nhạt, chiếc quần mỏng màu vàng tươi và chiếc gi-lê cùng màu, một chiếc áo sơ-mi bằng hàng mịn vừa mới mua, trên cổ thắt chiếc cà vạt bằng nhiễu hết sức mỏng có sọc hung, và đáng mừng hơn cả là các thứ đó đều rất ăn ý với vẻ mặt Piotr Petrovich. Khuôn mặt ông ta khá tươi tắn và còn có thể gọi đẹp nữa, dù không có những trang phục kia trông cũng đã có vẻ trẻ hơn là cái tuổi bốn mươi lăm của ông. Hai bộ râu má mầu thẫm tỉa thành "kôt-lét" (thịt băm viên) đánh viền hai bên mặt một cách dễ ưa phía dưới để rậm đóng khung lấy cái cằm cạo nhẵn, trông rất đẹp mắt. Ngay cả bộ tóc, chỉ hơi lốm đốm hoa râm, mới uốn và chải ở hiệu cắt tóc ra, cũng không phải vì thế mà có cái vẻ lố bịch hay ngốc nghếch của những lộ tóc mới uốn nói chung, vốn thường làm cho người ta giống hệt như một chú rể người Đức. Nếu trong cái vẻ mặt trang trọng và khá đẹp này quả có một cái gì khó chịu khả dĩ gây ác cảm, thì đó là do nhưng nguyên nhân khác. Sau khi ngắm nghía ông Lugin một cách khiếm nhã, Raxkonikov mỉm một nụ cười chua chát, ngả đầu xuống gối và lại ngước mắt nhìn lên trần nhà như cũ.
Nhưng ông Lugin đã vững tâm lại và hình như đã nhất quyết tạm thời không để tâm đến những thái độ kỳ quặc ấy.
- Tôi rất lấy làm tiếc rằng phải gập cậu trong một tình trạng như thế này, - Ông ta gượng gạo lên tiếng để chấm dứt phút im lặng, - Giá tôi biết cậu ốm, tôi đã đến đây sớm hơn. Nhưng chắc cậu cũng biết, tôi bận quá! Hơn nữa tôi lại có một công việc rất quan trọng ở Viện nguyên lão với tư cách trạng sư, đó lá chưa nói đến nlững nỗi lo âu mà chắc cậu cũng có thể biết. Tôi đang chờ gia dình cậu, nghĩa là bà cụ và cô em cậu, chỉ nay mai sẽ lên đây.
Raxkonikov cựa mình và toan nói một câu gì, nhưng mặt chàng hơi lộ vẻ xúc động. Piotr Petrovich ngưng lại để nhường lời, nhưng chẳng thấy chàng nói gì, ông ta lại nói tiếp.
- Chỉ nay mai thôi. Tôi đã kiếm cho hai người một chỗ ở tạm.
- Ở đâu? - Raxkonikov hỏi khẽ.
- Gần đây thôi, nhà của ông Bakaleyev.
- À ở phố Voznexkaya, - Razumikhin nói xen vào, có hai gác xép ngăn thành phòng trọ, do lão lái buôn Yusin cho thuê. Tôi đã có lần đến đấy.
- Vâng, phòng trọ…
- Tởm vô cùng, vừa bẩn vừa hôi, mà lại là một nơi rất khả nghi; đã xảy ra lắm chuyện xằng bậy ở đây, người ở trọ thì thật là ô hợp… Tôi cũng đã ghé vào đấy nhân một chuyện lôi thôi. Dù sao tiền thuê phòng cũng rẻ.
- Dĩ nhiên tôi không thể nào thu thập được nhiều tài liệu như thế, vì tôi cũng mới đến đây thôi! - Piotr Petrovich nói, giọng hơi khó chịu, - nhưng dù sao đây cũng là hai căn buồng rất sạch sẽ, vả lại cũng chỉ ở tạm một thời gian ngắn… tôi đã tìm được chỗ ở chính thức, nghĩa là chỗ ở sau này của chúng tôi, - Ông ta quay sang Raxkonikov, - hiện nay đang được sửa sang lại: còn bây giờ thì chính tôi cũng đành chịu ở chật trong một phòng trọ cách đây có mấy bước, ở nhà bà Lippevekzen, ở chung với một ông bạn trẻ của tôi là Andrey Xemionovich Lebeziatnikov - chính ông ta chỉ cho tôi nhà trọ của ông Bakalaiev.
- Lebeziatnikov à? - Raxkonikov thong thả buông từng tiếng, như thể đang cố nhớ lại điều gì.
- Câng, Andrey Xemionovich Lebeziatnikov, làm việc ở bộ. Cậu có biết ạ?
- Vâng… không. - Raxkonikov đáp.
- Xin lỗi cậu, nghe cậu hỏi lại tôi lại tưởng cậu có quen. Trước kia tôi làm giám hộ cho ông ấy - một người rất dễ mến… và theo kịp phong… Tôi rất thích tiếp xúc với thanh niên: qua họ có thể biết được những cái mới. - Piotr Petrovich nhìn qua cả ba người một lượt, lòng khắp khởi hy vọng.
- Về phương diện nào? - Razumikhin hỏi.
- Về phương diện quan trọng nhất, có thể nói như thế, về thực chất của vấn đề, - Piotr Petrovich đáp, có vẻ mừng rỡ vì câu hỏi ấy. - Các ông ạ, tôi đã mười năm nay không ghé Petersburg. Tất cả những cái mới, những cuộc cải cách, những tư tưởng mới của chúng ta đều có tiếng vang ở các tỉnh; nhưng muốn thấy cho rõ và thấy cho đủ thì phải ở Petersburg mới được. Ấy, tôi bao giờ cũng nghĩ rằng chỉ có quan sát các thế hệ trẻ của chúng ta mới có thể thấy nhiều, biết nhiều hơn cả. Và cũng xin thú thật là tôi rất mừng…
- Cụ thể là về cái gì?
- Câu hỏi của ông rộng lắm. Có thể tôi nhầm nhưng tôi thấy có một quan điểm minh xác hơn, có thể nói là có nhiều óc phê phán hơn; nhiều tính chất thiết thực hơn…
- Cái đó đúng. - Zoximov buông thõng một câu.
- Đúng quái gì, làm gì có óc thiết thực. - Razumikhin vặn lại. - Có được óc thiết thực cũng khó lắm, không phải của trên trời rơi xuống đâu. Mà chúng ta thì dễ đến hai trăm năm nay không hề đụng chạm với công việc thực tế. Tư tưởng thì có lẽ nhan nhản ra, - anh quay sang Piotr Petrovich nói tiếp. - Thiện ý cùng có, tuy rất ấu trĩ; và ngay cả lòng trung thực cũng có thể kiếm ra được, mặc dầu cũng có hàng mớ những bọn bịp bợm chính danh hay ẩn danh, chứ như óc thiết thực thì dù sao vẫn không có! Của hiếm đấy.
Tôi không đồng ý với ông, - Piotr Petrovich cãi, vẻ thích thú rõ rệt. - Cố nhiên cũng có những hiện tượng quá khích, những sự lệch lạc, nhưng cũng phải rộng lượng: sự qua khích chứng tỏ là người ta có nhiệt tình đối với công việc và cũng chứng tỏ rằng hoàn cảnh bên ngoài của công việc không thích hợp. Còn sở dĩ làm được ít là vì ít thời gian. Đó là chưa nói đến phương tiện. Theo quan điểm riêng của tôi thì cũng đã làm được ít nhiều rồi đấy: những tư tưởng mới, bổ ích; đã được phổ biến, một số tác phẩm mới bổ ích cũng đã được phổ biến, thay cho những tác phẩm mơ mộng, lãng mạn trước kia; văn học đã có một sắc thái chín chắn hơn; nhiều thành kiến có hại đã bị chế giễu và đả phá tận gốc… Nói tóm lại, chúng ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, và theo tôi, đó là một việc quan trọng.
- Chỉ đọc thuộc lòng! Cốt tự giới thiệu đấy mà, - Raxkonikov bỗng buông thõng mấy tiếng.
- Sao ạ? - Piotr Petrovich không nghe ra, vội hỏi, nhưng chàng không đáp.
- Những cái đó đều đúng, - Zoximov vội xen vào.
- Ồ phải không ạ? - Piotr Petrovich nói, mắt nhìn Zoximov một cách trìu mến, đoạn quay sang Razumikhin nói tiếp, nhưng lần này đã thoáng có vẻ đắc chí vì hành diện, tưởng chừng như như thêm chút nữa ông ta đã dùng thêm mấy chữ "anh bạn trẻ" - Ông cũng phải thừa nhận rằng dù sao cũng có sự tiến hoá, hay như ngày nay người ta thường nói, có tiến bộ, ít nhất là trên quan điểm khoa học và chân lý kinh tế học.
- Sáo ngữ!
- Không ạ, không phải sáo ngữ đâu ạ! Chẳng hạn nếu trước nay người ta nói với tôi "hãy thương yêu đồng loại và tôi cùng thương yêu đồng loại, thì kết quả ra sao? - Piotr Petrovich nói tiếp, có lẽ hơi quá vội vàng, - kết quả là tôi xẻ đôi manh áo để chia cho đồng loại, và cả hai đều dở trần dở truồng đúng như câu tục ngữ Nga: "Săn hai thỏ một lúc, chỉ tổ trượt cả hai". Khoa học thì lại nói: Hãy yêu thương lấy một mình mình đã, vì trên đời này mọi thứ đều dựa trên cơ sở quyền lợi cá nhân. Chỉ yêu thương lấy bản thân mình thì việc mình sẽ chạy, mà áo cũng còn nguyên. Kinh tế học lại nói thêm là trong xã hội càng có nhiều cơ nghiệp tư nhân ổn định, nghĩa là càng có nhiều áo nguyên lành, thì nó càng có nhiều cơ sở vững chắc, và sự nghiệp chung trong xã hội lại càng được tiến hành có hiệu quả. Vì vậy trong khi chỉ mang lợi riêng cho mỗi một mình tôi mà thôi, tôi dường như cũng chính do đó mà mưu lợi cho mọi người và làm cho đồng loại của tôi có thêm được một cái gì hơn là manh áo cắt đôi, và không phải qua sự hào phóng của một vài cá nhân lẻ tẻ, mà là do sự hưng thịnh chung của toàn thể xã hội. Một tư tưởng rất giản đơn, nhưng tiếc thay nó đến chậm quá vì bị những tâm trạng cuồng sĩ và mơ mộng che mờ đi, và thiết tưởng chỉ cần thông minh một, chút là có thể đoán được rằng…
- Ông thứ lỗi cho, tôi cũng chẳng thông mình gì đâu - Razumikhin cắt ngang một cách phũ phàng, - vì vậy xin ngừng lại ở đây là vừa. Sở dĩ tôi bắt đầu câu chuyện là có một mục đích riêng, còn như tất cả những lời tán gẫu giải sầu ấy, tất cả những sáo ngữ nhắc đi nhắc lại mãi nghe nhàm cả tai ấy, đã ba năm nay tôi ngấy lắm rồi, đến nỗi tôi không thể nào mở miệng ra nói được mà thậm chí còn thấy xấu hổ khi có ai nói những chuyện ấy trước mặt tôi. Hiển nhiên là ông đã nhanh nhẩu muốn tự giới thiệu mình với những quan diểm của mình, cái đó không có gì đáng trách, mà tôi không hề có ý trách. Chẳng qua vừa rồi tôi chỉ muốn biết rõ ông là người thế nào, vì ông cũng thấy đấy, gần đây có bao nhiêu những bọn bịp bợm thuộc đủ các loại xông vào phấn đấu cho sự nghiệp chung và đã bóp méo tất cả những gì chúng động chạm đến để kiếm lợi riêng, đến nỗi bao nhiêu cơ sự đều hỏng bét ra cả. Thôi, xin đủ!
- Thưa ông, - ông Lugin mở đầu, người ưỡn thẳng lên một cách vô cùng trang trọng - Những lời lẽ khiếm nhã đó phải chăng muốn ám chỉ rằng tôi…
- Ô thôi xin ông, xin ông… Tôi đâu có dám! Thôi ạ, thế đủ rồi! - Razumikhin cắt ngang và quay phắt lại nói tiếp câu chuyện bỏ dở với Zoximov.
Piotr Petrovich cũng đủ trí thông minh để bằng lòng ngay với câu trả lời ấy. Vả chăng ông ta cũng đã quyết định là hai phút nữa sẽ ra về. Ông ta quay sang Raxkonikov, nói:
- Tôi hy vọng rằng mối quan hệ mới bắt đầu xác lập giữa chúng ta hôm nay sau kht cậu bình phục vì do những hoàn cảnh mà cậu đã rõ, sẽ càng được cũng cố thêm… Đặc biệt xin chúc cậu sức khoẻ…
Raxkonikov chẳng buồn ngoảnh lại nữa. Piotr Petrovich đứng dậy.
- Thủ phạm chắc hẳn là một người đến cầm đồ! - Zoximov quả quyết nói.
- Chắc chắn là như thế! - Razumikhin tán thành.
- Porfiri thường không để lộ ý nghĩ của mình ra, nhưng hắn vẫn hỏi cũng những người cầm đồ.
- Hỏi cung những người đến cầm đồ à? - Raxkonikov hỏi to.
- Phải, thế sao?
- Không sao cả.
- Làm sao biết được ai là người đến cầm đồ? - Zoximov hỏi.
- Lão Koch có biết một số, còn có một số nữa thì tên có ghi trên các gói đồ, lại có một số tự ý đến khai khi nghe tin.
- Chà, chắc phải là một thằng bợm già khôn ngoan và giàu kinh nghiệm? Táo bạo thật! Quả quyết thật!
- Ấy chính cái đó lại không đúng! - Razumikhin cắt ngang. - Chính cái đó làm cho các cậu lầm tuốt. Tớ thì tớ bảo là hắn không khôn ngoan, chẳng có kinh nghiệm gì hết, và chắc hẳn đây là lần đầu hắn giết người! Thử giả thiết đó là một tên thành thạo có suy tính kỹ càng, thì sẽ thấy vô lý ngay. Còn nếu giả thiết là một tên ít kinh nghiệm thì sẽ thấy là hắn chỉ nhờ ngẫu nhiên mà thoát, mà nhờ ngẫu nhiên thì việc gì chả làm được. Cậu thử cho là hắn có lẽ cũng không lường được những trở ngại nữa! Mà hắn tiến hành công việc ra sao? - Lấy mấy thứ đáng giá một vài chục rúp nhét vào túi, đâm đầu vào lục cái tráp đựng gì của mụ già, trong khi đó thì ở ngăn kéo trên của chiếc tủ ngăn, có một cái tráp dựng một nghìn năm trăm rúp toàn tiền vàng, chưa kể số bạc giấy? Hắn không biết ăn trộm, chi biết giết thôi. Lần đầu đấy, tớ bảo cậu là lần đâu hắn giết người đấy; hắn đã rối trí! Và hắn thoát không phải vì có tính toán, mà là vì tình cờ.
- Hình như đây là chuyện vụ ám sát bà quả phụ vừa xảy ra thì phải, - Piotr Petrovich xen vào nói với Zoximov lúc bấy giờ ông ta đã cầm lấy mũ và găng tay, nhưng trước khi ra về còn muốn buông thêm vài câu ý nhị nữa. Rõ ràng là ông ta đang muốn gây một ấn tượng tốt và tính ưa chưng diện đã thắng sự khôn ngoan của ông ta.
- Vâng. Ông cũng có nghe?
- Có chứ ạ, ngay cạnh nhà mà…
- Ông có biết tường tận?
- Tôi không dám nói là biết tường tận, nhưng tôi có quan tâm đến một vấn đề, có thể nói là một vấn đề toàn cục. Tôi khỏi phải nói rằng trong năm nằm gần đây, số tội ác trong tầng lớp dưới tăng lên; cũng không cần nói đến những vụ đốt nhà, cướp của diễn ra liên tiếp ở khắp nơi, đối với tôi điều kỳ lạ hơn cả là tầng các tầng lớp trên số tội ác cũng tăng lên như vậy, có thể nói là một cách song song. Nơi này thì một cựu sinh viên cướp phá một chuyến xe bưu vụ trên đường cái quan; nơi kia thì một số người có địa vị cao trong xã hội lại làm giấy tờ giả; ở Moskva lại bắt được cả một ổ làm giả phiếu quốc trái có xổ số, và trong số đầu xỏ có cả một ông giảng viên lịch sử thế giới ở đại học; ở một nơi khác, người ta giết mất một viên đại sứ của ta ở nước ngoài vì những lý do tiền bạc rất bí ẩn… và nếu bây giờ cái bà già chủ hiệu cầm đồ kia bị một người trong giới thượng lưu giết - vì bọn mu-gich không bao giờ đi cầâm đồ vàng bạc - thì biết lấy gì mà cắt nghĩa tình trạng đồi truỵ đó của một bộ phận văn minh trong xã hội ta?
- Có nhiều sự biến chuyển kinh tế… - Zoximov nói.
- Lấy gì cắt nghĩa ấy à? - Razumikhin xen vào. - Thì chính là vì quá thiếu óc thiết thực đó thôi!
- Nghĩa là thế nào ạ?
- Đấy chẳng hạn như cái vị giảng viên của ông ở Moskva ấy mà, khi họ hỏi ông ta làm giả phiếu quốc trái để làm gì, thì ông ta đáp: "Mọi người đều có những cách này nọ để làm giàu, tôi cũng muốn làm giàu cho nhanh" Tôi không nhớ nguyên văn câu trả lời, nhưng tinh thần là như thế: làm giàu cho nhanh, đừng mất gì, không phải khó nhọc! Họ đã quen ăn sẵn, ăn bám, ăn của nhai lại. Ấy, đến khi giờ đã điểm thì ai nấy đều phơi bộ mặt thật ra…
- Thế còn luân lý thì sao? Dù sao cũng có những quy tắc.
- Nhưng việc gì ông phải lo? - Raxkonikov đột nhtên xen vào. - Theo đúng như lý thuyết của ông đấy chứ còn gì nữa?
- Sao lại đúng như lý thuyết của tôi?
- Nếu cứ nhất quán phát triển những điều ông vừa tuyên truyền lúc nãy, thì phải kết luận rằng có thể cắt cổ đồng loại…
- Xin lỗi! - Lugin kêu lên.
- Không, không phải thế! - Zoximov đệm theo.
Raxkonikov mặt tái mét, môi trên run run, thở khó nhọc.
- Cái gì cũng phải có chừng mực, - Lugin nói tiếp, giọng trịch thượng, - tư tưởng kinh tế học chưa phải là một lời khuyến khích giết người và chỉ cần giả định rằng…
- Thế có đúng là ông… - Raxkonikov lại đột ngột ngắt lời Lugin, giọng run lên vì tức giận, nhưng lại nghe như có phần hả hê, - Có đúng là ông nói với vợ chưa cưới của ông, ngay khi cô ta thuận lòng lấy ông, rằng điều ông lấy làm mừng hơn cả là… cô ta nghèo túng… bởi vì lấy một người nghèo có lợi hơn: về sau dễ bề thống trị hơn… lại có thể nói là cô ta chịu ơn ông?
- Thưa ông! - Lugin quát, sôi sục lên vì tức giận, giọng lạc hẳn đi - Thưa ông… sao lại có thể xuyên tạc ý nghĩ của người ta đi như thế! Xin ông bỏ qua cho, nhưng tôi phải nói rõ cho ông biết rằng những lời đồn đại đến tai ông, hay nói cho đúng hơn, được truyền lại cho ông, không hề có chút căn cứ nào, và tôi ngờ rằng, nói tóm lại, mũi tên này, nói tóm lại, mẹ ông… Trước đây tôi vẫn thấy rằng bên cạnh những đức tính hết sức đáng quý: mẹ ông cũng có những nét tư tưởng hơi cuồng nhiệt và lãng mạn viển vông… Thế nhưng tôi cũng không hề mảy may ngờ rằng bà ta lại có thể quan niệm và trình bày sự việc một cách sai lạc và hoang đường như vậy… và cuối cùng… cuối cùng…
- Này ông? - Raxkonikov quát lên, người nhổm hắn lên trên gối và nhìn Lugin trừng trừng với đôi mắt sáng quắc và sắc như mũi khoan, - Này ông, bây giờ thế này nhé.
- Làm sao ạ? - Lugin dừng lại đợi, vẻ tức giận và thách thức. Hai người im lặng một vài giây.
- Thế này nhé: nếu một lần nữa ông… còn dám nói đến mẹ tôi, dù chỉ một tiếng thôi… tôi cũng sẽ quăng ngược ông xuống dưới cầu thang ngay lập tức!
- Cậu làm sao thế! - Razumikhin kêu lên.
- À ra thế! - Lugin tái mặt đi, cắn môi. - Xin ông nghe tôi nói, - Ông ta mở đầu sau một khoảng im lặng và lấy hết sức bình sinh ra để nén giận, nhưng vẫn thở hổn hển, - ngay từ lúc nãy, ngay từ phút đầu tôi đã đoán được mối ác cảm của ông, nhưng cố ý ngồi lại để biết rõ hơn nữa. Đối với một người ốm và là một người có họ hàng tôi rất sẵn lòng tha thứ, những bây giờ… đối với ông… không bao giờ tôi có thể…
- Tôi không ốm! - Raxkonikov quát.
- Càng hay!
- Ông xéo đi cho rảnh!
Nhưng Lugin đã tự mình lui ra trước khi nói dứt lời len quá cái khoảng hở giữa cái bàn với cái ghế: lần này Razumikhin đứng dậy nhường lối cho ông ta. Không nhìn ai hết, thậm chí cũng không gật đầu chào Zoximov, tuy anh ta đã cúi chào ông từ lâu mong ông để cho người bệnh nằm yên, Lugin bước ra, tay thận trọng cầm mũ ngang vai cho khỏi chạm trong khi khom lưng đi qua khung cửa. Và ngay trong cái dáng lom khom ấy người ta cũng cảm thấy như ông ta mang ra theo một nỗi căm giận ghê gớm.
- Ai lại thế bao giờ. - Razumikhin hoang mang lắc đầu nói.
- Thôi đi đi! Đi hết đi. - Raxkonikov điên dại thét lên - Có chịu để cho tao yên không nào, đồ đao phủ! Tao không sợ chúng mày! Bây giờ tao không sợ đứa nào hết! Xéo đi! Tao muốn ngồi một mình, một mình, một mình!
- Ta đi thôi! - Zoximov hất hàm bảo Razumikhin.
- Trời ơi, chả nhẽ bỏ cậu ấy một mình như thế?
- Ta đi thôi! - Zoximov cương quyết nhắc lại và bỏ ra ngoài. Razumikhin ngẫm nghĩ một lát rồi cũng chạy theo bạn.
- Nếu không nghe theo cậu ấy thì còn có thể tệ hơn nữa, - Zoximov nói khi hai người đã ra cầu thang. - Không nên khích động.
- Cậu ấy làm sao thế?
- Giá được một sự khích động nào dễ chịu thì hay biết mấy! Lúc ấy cậu ấy đã đủ sức… Cậu ạ, trong trí cậu ấy có một cái gì đấy. Một cái gì bất di bất dịch đang ám ảnh cậu ta… Tớ sợ cái đó lắm, chính thế đấy!
- Chắc là cái lão kia chứ gì, Piotr Petrovich ấy mà! Qua câu chuyện, tớ biết lão ta sắp lấy cô em cậu ấy, và ngay trước khi ốm cậu ấy có nhận được một bức thư về chuyện này đấy!
- Phải, chính ma quỷ dẫn lão ấy đến đây; có lẽ lão đã làm hỏng hết. Nhưng cậu có nhận thấy là cậu ấy dửng dưng với mọi việc, nói chuyện gì cậu ấy cũng làm thinh, chỉ trừ có một điểm, hễ động đến là cậu ấy lồng lên; vụ giết người ấy…
- Phải, phải! - Razumikhin xác nhận, - tớ có nhận thấy! Cậu ấy rất quan tâm, lại có vẻ sợ. Là vì ngay hôm cậu ấy ốm ở quận cảnh sảt người ta đã làm cậu hoảng lên, cậu ấy ngất đi đấy.
- Tối nay cậu kể tôi nghe tỉ mỉ nhé, rồi tôi sẽ nói cho cậu biết cái này. Cậu ấy có những cái làm cho tôi rất quan tâm, rất quan tâm! Nửa giờ nữa tôi sẽ đến xem sao… Bây giờ thì không bị viêm não nữa đâu.
- Cảm ơn cậu nhé? Tròng thời gian ấy tôi sẽ đợi ở nhà Pasenka và sẽ nhờ Naxtaxia quan sát cậu ấy.
Raxkonikov ngồi lại một mình, sốt ruột, và lo lắng nhìn Naxtaxia; nhưng chị ta vẫn nấn ná mãi không chịu ra cho.
- Bây giờ cậu uống nước trà chứ? - Naxtaxia hỏi.
- Sau hẵng hay Tôi muốn ngủ, chị ra đi.
Chàng quay phắt vao trong; Naxtaxia lui ra.
6. Nhưng chị ta vừa ra khỏi thì chàng vùng dậy, cài cửa lại, mở cái gói của Razumikhin vừa đem đến lúc nãy anh ta đã buộc lại cẩn thận, và bắt lầu mặc áo quần. Lạ thay, chàng bỗng như đã hoàn toàn bình tĩnh; không còn trạng thật dở mê dở tỉnh như ban nãy, cũng không còn tâm trạng lo sợ hoảng hốt như trong suốt thời gian vừa qua. Đây là giây phút đầu của một trạng thái điềm tĩnh kỳ lạ, đột ngột. Cử động của chàng chính xác và dứt khoát, nhìn qua có thể thấy rõ một chủ định rõ ràng. "Hôm nay, ngay hôm nay!" - Chàng lẩm bẩm một mình. Tuy chàng cũng hiểu là mình còn yếu, nhưng tinh thần chàng căng thẳng đến mức điềm tĩnh hản, với một chủ định bất di bất dịch, đã cho chàng thêm sức mạnh và lòng tự tin; dù sao chàng cũng hy vọng là sẽ không ngã khuỵu ra giữa phố. Mặc xong các thứ áo quần mới mua, chàng đưa mắt nhìn xấp bạc để trên bàn, nghĩ ngợi một lát và cầm đút vào túi. Có cả thấy hai mươi lăm rúp. Chàng lấy luôn cả mấy đồng tiền đông của Razumikhin mua áo quần còn thừa lại. Rồi chàng lặng lẽ nhấc móc cửa lên, ra khỏi phòng, xuống thang gác và hé nhìn vào gian nhà bếp mở toang:
Naxtaxia đứng quay lưng lại phía chàng, đang khom lưng thổi ấm lò cho bà chủ. Chị ta không nghe thấy gì. Vả lại ai có thể dè rằng chàng lại bỏ đi ra ngoài? Một phút sau chàng đã ra phố.
Lúc ấy khoảng tám giờ, mặt trời sắp lặn. Khí trời vẫn ngột ngạt như cũ, nhưng chàng vẫn thèm thuồng hít thở làn không khí hôi hám, bụi bám bị phố phường nung nóng lên. Chàng bắt đầu thấy hơi chóng mặt; một sức mạnh man rợ bỗng ánh lên trong đôi mắt đỏ ngầu và trên gương mặt gầy gò, vàng võ của chàng.
Chàng không biết đi đâu, và cũng không nghĩ đến vấn đề mà chàng chỉ biết có một điều là "phải chấm dứt hẳn cái đó ngay hôm nay một lần cho xong đi, ngay bây giờ: nếu không thì chàng không muốn về nhà nữa, vì chàng không muốn sống như thế này". Chấm dứt thế nào? Chấm dứt cái gì? Chàng không hề biết mà cũng không buồn nghĩ. Chàng xua đuổi ý nghĩ ấy đi: nó dày vò chàng khổ sở quá. Chàng chỉ cảm biết rằng cần phải làm sao cho mọi việc đều thay đổi hẳn, bằng cách này hay cách khác, "Dù có sao cũng mặc", chàng tuyệt vọng nhắc đi nhắc lại với một lòng tự tin và quả quyết bất di bất dịch, theo thói quen cũ, chàng đi về phía Chợ hàng Rơm theo con đường chãng vẫn đi dạo những lần trước.
Chưa đến Chợ hàng Rơm, trên vỉa hè ở trước mặt một cửa hiệu buôn nhỏ có một người trẻ tuổi, tóc đen đang chơi phong cầm quay một điệu nhạc tình tứ, đệm theo một người con gái trạc mười lăm tuổi đứng hát ở trước mặt hắn. Người con gái ăn mặc như một tiểu thư, váy xoè áo khoác ngang lưng, găng và mũ lật có cắm một cái lông chim màu lửa, tất cả các thứ đó đều đã cũ và sờn. Với giọng hát tầm thường, hơi rè nhưng khá to và nghe cũng êm tai, cô ta hát một bài tình ca trong khi chờ đợi một, đồng hai cô-pếch trong cửa hiệu vứt ra. Raxkonikov dừng lại bên cạnh cùng với hai ba người khác, nghe một lắt, rút trong túi ra một đồng năm cô-pếch đặt vào bàn tay người con gái.
Người con gái dừng phắt ngay lại ở nốt cao nhất và rung cảm nhất của bài ca như thể có ai lấy dao chém đứt ngang, rồi quát bảo người quay đàn: "thôi!", và cả hai khệnh khạng đi sang cửa hiệu khác.
- Ông thích nghe hát rong không? - Raxkonikov bỗng hỏi một người qua đường đã có tuổi đang đứng cạnh chàng, trông có vẻ như một người đi bát phố. Hắn ngơ ngác nhìn chàng tỏ vẻ ngạc nhiên. Raxkonikov nói tiếp nhưng lại có vẻ như tuyệt nhiên không nói đến chuyện hát rong:
- Tôi thích nghe tiếng hát có đệm phong cầm quay trong một buổi chiều mùa thu lạnh lẽo, âm u và ướt át, phải ướt át mới được, khi mọi người qua đường đều có những bộ mặt xanh xao, ốm yếu; hay hơn nữa là khi có tuyết ấm rơi, rơi thẳng xuống vì lặng gió, và ánh đèn hơi chiếu mờ mờ qua làn tuyết.
- Tôi không biết ạ… Ông thứ lỗi cho… - người kia nói lắp bắp, chàng sợ vì câu hỏi cũng như cái vẻ kỳ quặc của Raxkonikov và bỏ đi sang bên kia đường.
Raxkonikov đi thẳng và ra đến Chợ hàng Rơm, chỗ cái góc mà hôm trước hai vợ chồng lão tiểu thương nói chuyện với mụ Lizaveta, nhưng lúc bấy giờ họ không ngồi đấy. Nhận ra chỗ cũ, chàng dừng lại, nhìn quanh quất rồi hỏi một chàng thanh niên mặc áo đỏ đang đứng ngáp ở trước cửa một hiệu bán bột.
- Ở góc này vẫn thường có hai vợ chồng ông gì ngồi bán hàng phải không?
- Ai mà chả ngồi đây bán hàng. - chàng thanh niên đáp, mắt khinh khỉnh nhìn Raxkonikov từ đầu đến chân.
_ Ông ta tên là gì?
- Cha mẹ đặt tên gì thì ông ta tên như thế!
- Anh có phải người Zaraisk không, trấn nào? - Chàng thanh niên lại nhìn Raxkonikov.
- Thưa ngài, chỗ chúng tôi không phải là trấn, mà là huyện, chỉ có anh tôi được đi đây đi đó thôi, còn tôi thì ngồi nhà, cho nên không biết ạ… Thưa ngài rộng lòng tha thứ cho.
- Trên gác kia là quán ăn à?
- Tiệm rượu đấy, có cả bàn bi-a, lại có mấy nàng công chúa nữa - Húi!
Raxkonikov đi qua quảng trường. Bên kia, ở một góc phố, có một đám người rất đông, toàn là nông dân cả. Chàng len vào chỗ đông nhất, vừa đi vừa nhìn vào mặt những người đứng quanh. Không hiểu tại sao chàng thấy thèm nói chuyện với bất cứ ai. Nhưng đám nông dân không để ý đến chàng, cứ túm năm tụm ba nói chuyện nhao nhao lên với nhau. Chàng đứng lại ngẫm nghĩ một lát rồi đi sang phải, men theo vỉa hè về phía đại lộ V. Đi quá một khoảng trống, chàng bước vào một ngõ hẻm…
Trước kia chàng cũng hay đi qua ngõ này. Đó là một ngõ hẻm ngắn gấp khúc dẫn từ quảng trường đến phố Xadovaya. Gần đây còn có cái gì thu hút chàng lang thang đến những nơi này mỗi khi chàng tự dưng thấy tởm lợm, "cho nó tớm lợm thêm". Còn bây giờ thì chàng bước đi, không suy nghĩ gì hết. Ở đây có một ngôi nhà lớn chứa toàn những tiệm ăn, tiệm uống, cứ chốc chốc lại thấy mấy người đàn bà ở trong các tiệm ấy chạy ra, ăn mặc như khi chạy sang nhà bên cạnh: đầu để trần, chỉ mặc áo dài mỏng. Ở vài ba nơi họ xúm lại trên vỉa hè thành từng tốp, nhất là cạnh những bậc thang dẫn xuống các gian nhà hầm, ở đấy cứ bước xuống hai bậc cấp là có thể vào đến những nơi rất vui thú, lúc bấy giờ, trong một nơi như vậy đang có tiếng reo hò đập phá ầm ĩ vang ra khắp phố, tiếng đàn ghi-ta, tiếng hát hò nhộn nhịp vui vẻ. Một tốp đàn bà khá đông chen chúc ở lối vào; mấy người khác ngồi ở bậc thềm hay trên vỉa hè, mấy người nữa đang đứng nói chuyện. Gần đấy, giữa phố có một thằng lính say bước lảo đảo, mồm ngậm thuốc lá, vừa đi vừa chửi rủa; có lẽ hắn đang muốn đi đâu đấy, nhưng dường như đã quên mất là mình muốn đi đâu. Một thằng khố rách áo ôm đang chửi nhau với một thằng khố rách áo ôm khác và một gã say bí tỉ nằm ềnh ra chắn ngang đường.
Raxkonikov dừng lại cạnh tốp đàn bà đông nhất. Họ đang nói chuyện oang oang; cả bọn đều mặc áo vải hoa, đi giày da dê và để đầu trần. Có người tuổi quá bốn mươi, nhưng cũng có người chỉ độ mười bảy, mắt họ hầu hết đều sưng bầm.
Chàng tự dưng thấy ham thích tiếng hát hò và đập phá ở dưới kia… giữa những tiếng cười, tiếng rú, có thể nghe vẳng lên một giọng hát the thé có đàn ghi-ta đệm theo, và tiếng gót giày dậm côm cốp của một người nào đang nhây nhót điên cuồng lên theo nhịp hát. Chàng chăm chú lắng nghe, vé lầm lỳ và đăm chiêu, tò mò nghển cổ dòm vào cửa.
Anh của em chóng ngoan,
Chớ đánh em mà oan!
Giọng hát vẫn the thé lên. Raxkonikov háo hức cố nghe cho rõ lời ca - làm như thế đó là điều quan trọng nhất đối với chàng.
"Hay là ta vào? - chàng nghĩ. - Họ đang cười đùa! Vì họ say. Hay là ta cũng uống cho thật say?"
- Ông anh không vào à? - Một người con gái đứng trong đám kia hỏi, giọng nghe khá vang và chưa khan hẳn. Cô ta hãy còn trẻ, và là người duy nhất trong bọn trông không đến nỗi tởm.
- Cô em xinh nhỉ? - chàng vừa đáp vừa ngẩng lên nhìn cô ta.
Cô ta mỉm cười, rất thích chí vì câu tán tỉnh này.
- Ông anh cũng xinh lắm, - cô ta nói.
- Gay quá! - một cô khác nói giọng ồ ồ. - Mới ở nhà thương ra à?
- Hình như có cả con gái nhà quan nữa đấy, thế nhưng mũi vẫn hếch như thường! - một người mu-gích vừa mới đến bỗng nói xen vào, hắn say chuếnh choáng, áo chẽn mở phanh, mồm ngoác ra cười ranh mãnh.
- Vui chưa kìa? - hắn nói tiếp.
- Đã đến thì vào đi nào!
- Tôi vào chứ, cô em ạ! - Hắn xồng xộc bước xuống.
Raxkonikov bỏ đi.
- Ông anh! - cô gái gọi với theo chàng.
- Cái gì?
Ả đâm ngượng:
- Ông anh ạ, giá em được gần ông anh một vài giờ thì em sung sướng quá, nhưng bây giờ trước mặt ông anh không hiểu sao em ngượng lắm. Công tử cho em sáu cô-pếch uống rượu đi.
Raxkonikov móc túi hú hoạ lấy ra mấy đồng tiền có được ba đồng năm cô-pếch.
- Ôi, ông anh hào phỏng quá!
- Cô tên gì?
- Ông cứ hỏi Duklida.
- Thật quá quắt lắm, - một cô khác trong bọn bắt đầu nhìn Duklida nói. - Đời thuở ai lại đi xin tiền cái lối ấy bao giờ! Tớ thì tớ chết thẹn mất…
Raxkonikov tò mò nhìn người vừa nói câu ấy. Đó là một người đàn bà trạc ba mươi tuổi, mặt rỗ hoa thâm tím cả lên: môi trên sưng vều. Cô ta chê trách bạn một cách điềm tĩnh và nghiêm trang.
"Không biết mình có đọc ở đâu, - Raxkonikov nghĩ thầm trong khi dời bước, - không biết mình có đọc ở sách nào có đoạn nói một người bị xử tử hình, một giờ trước khi chết, có nói hay nghĩ rằng ví thử có phải sống ở một nơi nào cao ngất, trên một tảng đá hẹp chỉ vừa đặt hai bàn chân, còn xung quanh là vực thẳm, là đại dương, là bóng đêm vô tận, cô đơn vĩnh viễn và bão táp không cùng, và cứ phải đứng co ro như thế suốt đời. Chẳng nghìn năm, mãi mãi, thì thà sống như thế vẫn còn hơn là phải chết bây giờ! Miễn sao được sống, sống và sống! Sống thế nào cũng được, miễn là sống! Đúng quá! Trời ơi, đúng quá đi mất! Con người thật hèn mạt! "Và hèn mạt thay kẻ nào vì thế mà bảo con người hèn mạt" - chàng nghĩ thêm sau một phút.
Chàng rẽ sang một phố khác. A, "Lâu đài pha lê": Hồi nẫy Razumikhin có nói đến "Lâu đài pha lê". Thế nhưng vừa rồi mình muốn cái quái gì nhỉ. À phải, đọc báo! Zoximov nói là hắn có đọc trong mấy tờ báo.
- Có báo không? - chàng hỏi khi bước vào một quán rượu khá rộng rãi và sạch sẽ gồm có mấy gian phòng hơi vắng khách. Vài ba người khách đang uống nước trà, và trong một gian phòng mãi tít ở trong cùng có một tốp khoảng bốn người đang ngồi uống sâm-banh. Raxkonikov thấy hình như trong số đó có Zamiotov, nhưng vì xa quá khó lòng trông rõ mặt.
"Kệ xác hắn!" - chàng nghĩ thầm.
- Ông dùng vodka ạ? - người hầu bàn hỏi.
- Cho trà ra đây. Với lại đem cho ta mấy tờ báo ra trong khoang năm hôm gần đây, ta sẽ cho tiền uống rượu.
- Vâng ạ. Báo hôm nay đây ạ. Ngài dùng thêm vodka chứ ạ?
Báo cũ và trà đã mang lên. Raxkonikov ngồi vào bàn và bắt đầu tìm: "Izler - Izler - Người Aztek - Người Aztk - Izler - Bartola - Masimo - Người Aztek - Izler. À, đồ quý! À tin hàng ngày đây rồi: một người đàn bà ngã cầu thang - một lão lái buôn chết thiêu vì rượu - một đám cháy ở Bãi Cát - một đám cháy ở phố Petersburg - lại một đám cháy ở phố Petersbung - lại một đám cháy ở phố Petersburg - Izler - Izler - Izler - Massimo… Á, đây rồi…"
Cuối cùng chàng đã tìm ra, và bắt dầu đọc. Những giòng chữ cứ nhảy nhót trước mắt, tuy vậy chàng cũng đọc hết được "tin tức" ấy và háo hức tìm những tin bổ sung mới nhất ở các số sau. Tay chàng run bắn lên vì sốt ruột trong khi lần giở mấy tờ báo. Chợt có ai ngồi xuống bên cạnh, ngay ở bàn chàng. Chàng liếc nhìn sang: Zamiotov, đúng cái anh chàng Zamiotov đó, cũng vẫn cái bộ dạng ấy, vẫn những chiếc nhẫn, những sợi day chuyền, với cái đường ngôi rẽ đôi mớ tóc quăn xức dầu trơn mình mặc chiếc gi-lê bảnh bao, chiếc áo đuôi tôm hơi sờn, và chiếc sơ-mi mặc đã hơi lâu không giặt, hắn đang vui, hay ít nhất hắn cũng mỉm cười vui vẻ và xuề xoà, gương mặt ngăm ngăm đen của hắn hơi bừng lên vì men rượu sâm-banh.
- Kìa! Anh ở đây à? - hắn mở đầu, vẻ bỡ ngỡ, giọng thân mật như thể đã quen chàng từ đời nảo đời nào. - thế mà mới hôm qua Razumikhin còn nói với tôi là anh vẫn chưa tỉnh, lạ thật! Tôi có đến anh.
Raxkonikov đã biết là hắn sẽ đến. Chàng gạt ngay tờ báo ra và quay về phía Zamiotov cười nụ, và qua nụ cười của chàng có thể thoáng thấy một tâm trạng sốt ruột bực tức.
- Tôi biết là anh có đến - chàng đáp, - Tôi có nghe nói. Anh có đi tìm chiếc tất… Thế anh có biết không. Razumikhin chết mệt với anh rồi đấy, cậu ấy bảo là anh với cậu ấy có đến nhà Lizaveta Ivanovna, người mà anh đã ra sức che chở hôm ấy: anh nháy trung uý thuốc súng, nhưng ngài trung uý vẫn không hiểu cho: Anh nhớ chứ? Sao lại không hiểu nhỉ - sự việc rõ quá rồi còn gì.
- Anh chàng nhộn thật!
- Thuốc súng ấy à?
- Không, bạn anh ấy, Razumikhin.
- Anh sướng thật đấy, Zamiotov ạ; tha hồ lui tới những chỗ khoái nhất, không hề phải nộp thuế. Vừa rồi ai thết anh sâm-banh đấy?
- Đấy là chúng tôi… cùng uống với nhau đấy chứ… Sao lại phải có ai thết?
- Thù lao mà! Dịp nào anh chả lợi dụng? - Raxkonikov cười phá lên - Không sao, anh bạn ạ, không sao! - chàng vừa nói thêm vừa vỗ vai Zamiotov, tôi nói thế không phải vì có ác ý gì, mà chỉ là chỗ bạn bè thân thiết đùa chơi thế thôi, như cái anh thợ sơn nhà anh khi đánh thùm thụp vào người thằng Mitka ấy tr0ng vụ ám sát mụ già ấy mà.
- Sao anh lại biết?
- Có lẽ tôi còn biết nhiều hơn anh nữa đấy.
- Trông anh lạ quá… Chắc anh còn ốm nặng, đáng lẽ anh không nên đi chơi mới phải.
- Anh thấy tôi có vẻ kỳ lạ à?
- Vâng. Anh đọc báo đấy à?
- Đọc báo!
- Họ viết nhiều về các vụ hoả hoạn lắm.
- Không, tôi không đọc những tin hoả hoạn.
Chàng nhìn Zamiotov, vẻ bí mật; một nụ cười ngạo nghễ lại làm cho môi chàng méo xệch đi:
- Không, tôi không đọc tin hoả hoạn, - chàng nháy mắt với Zamiotov nói tiếp - Thôi thú đi, anh bạn trẻ: anh rất nóng lòng muốn biết tôi đọc gì, phải không?
- Có muốn gì đâu, tôi hỏi thế thôi. Chả nhẽ không được hỏi? Sao anh cứ…
- Này, anh là người có học, có chữ nghĩa đấy chứ?
- Tôi học đến lớp sáu trung học(1), - Zamiotov đáp giọng khá hãnh diện.
- Lớp sáu à! Cà anh bạn thân mến của tôi! Đầu rẽ ngôi, tay đeo nhẫn - một con người giàu có? Chà, cậu bé đáng yêu thật! Nói đến đây Raxkonikov phá lên cười ha hả, mồm chõ thẳng vào mặt Zamiotov, hắn né ra xa, không phải vì khó chịu mà vì quá ngạc nhiên.
- Xì người đâu mà kỳ quái! - Zamiotov nhắc lại, vẻ rất nghiêm trang. - Tôi có cảm tưởng là anh hãy còn mê sảng.
- Tôi mà mê sảng? Anh nói bậy, anh bạn trẻ ạ? Tôi kỳ quặc lắm hả? Tôi đáng cho anh chú ý lắm phải không? Đáng chú ý chứ gì?
- Đáng chú ý.
- Chú ý xem tôi đọc gì, tôi tìm cái gì hẳn? Tôi chả bảo đưa ra cả một mớ báo thế này kia mà! Khả nghi lắm, hả?
- Anh cứ nói đi xem.
- Anh vểnh tai lên đấy à?
- Vểnh cái gì?
- Rồi tôi sẽ nói cho anh biết lad vểnh tai để làm gì anh bạn ạ, tôi tuyên bố với anh… không, tốt hơn là tôi xin "thú nhận"… Không, chưa đúng, phải là "tôi xin cung khai", còn anh thì "lập biên bản" - thế đấy! Vậy tôi xin cũng khai rằng tôi có đọc, có quan tâm… tìm tòi… - Raxkonikov nheo nheo đôi mắt, chờ đợi - tôi muốn tìm tòi, cho nên mới đến đây, tôi muốn biết về vụ ám sát mụ già chủ hiệu cầm đồ - cuối cùng, chàng nói khẽ gần như thì thào, mặt dí sát vào mặt Zamiotov. Zamiotov nhìn chàng trừng trừng, không nhúc nhích, không né ra. Điều về sau khiến Zamiotov lấy làm lạ nhất là suốt một phút đồng hồ họ đã im lặng nhìn nhau như thế.
- Thế thì sao, anh đọc cái gì? - Zamiotov bỗng băn khoăn và sốt ruột quát lên. - Việc gì đến tôi đọc thì đã làm sao?
- Chính cái mụ già này, - Raxkonikov tiếp, vẫn nói thì thào và vẫn không nhúc nhích khi nghe tiếng quát của Zamiotov, - chính mụ già mà các anh đã nói chuyện ở quận cảnh sát khi tôi ngất đi, anh có nhớ không nào? Sao, bây giờ anh hiểu rồi chứ?
- Thế là cái gì? Sao lại… "hiểu"? - Zamiotov nói, trong bụng hơi hoảng.
Gương mặt nghiêm trang và lạnh lùng của Raxkonikov biến sắc hẳn đi trong giây lát rồi chàng bỗng cười phá lên như lúc nãy, như thể không còn chút khả năng tự chủ nào nữa. Và trong giây lát chàng sực nhớ lại rõ nét lạ lùng cái cảm giác hôm nào chàng cầm rìu đứng sau tấm cửa trong khi cái móc rung lên bần bật và hai người đứng trước cửa tức giận chửi bới. Còn chàng thì chợt nảy ra ý muốn quát mắng họ, lè lưỡi ra trước mặt họ, trêu gan họ và cất tiếng cười thật to, thật to!
- Anh điên rồi, hay là… - Zamiotov nói rồi bỗng ngừng bặt, như thể choáng người đi vì một ý nghĩ đột ngột nảy ra trong óc.
- Hay là? "Hay là" cái gì? Nào, cái gì? Nói đi xem nào.
- Có gì đâu - Zamiotov bực bội đáp, - chỉ nhảm!
Cả hai lặng thinh. Sau trận cười đột ngột, Raxkonikov bỗng trở nên đăm chiêu và ủ dột. Chàng chống khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm đầu, hình như chàng đã quên hẳn Zamiotov. Im lặng kéo dài khá lâu.
- Sao anh không uống trà đi? Nguội hết, - Zamiotov nói.
- Hả? Cái gì? Trà ấy à? À phải… - Raxkonikov cầm chén lên uống một ngụm, bỏ vào mồm một miếng bánh. Rồi đưa mắt nhìn Zamiotov chàng bỗng như chợt nhớ ra hết và định thần lại: lập tức gương mặt chàng trở lại với vẻ ngạo nghễ như ban nãy. Chàng tiếp tục uống nước trà:
- Thời buổi này những bọn gian phi mọc lên nhan nhản, - Zamiotov nói - Cách đây không lâu trong tờ "Tin tức Moskva" có đăng tin bắt được cả một bọn giả mạo. Chúng nó có cả một hội kín, chúng làm giấy bạc.
- Ờ, đã lâu rồi còn gì! Tôi đọc đã cách đây một tháng, - Raxkonikov điềm tĩnh trả lời - thế theo anh đó là một bọn gian phi? - chàng cười nhạt nói thêm.
- Chứ còn gì nữa!
- Bọn ấy à? Bọn ấy là một lũ nhãi nhép chứ gian phi gì! Hàng năm chục người họp nhau lại để làm một việc như thế! Ai lại làm ăn kiểu ấy bao giờ? Ba người cũng đã là nhiều rồi, mà trong bọn, người này cũng phải biết chắc bụng dạ người kia hơn cả chính bản thân mình! Nếu không thì chỉ cần một người uống rượu say nói ba hoa dăm câu là công chuyện vỡ lở hết? Chỉ là một bọn nhãi nhép! Chúng nó dùng những người không tin cẩn đem tiền giả ra đổi ở các kho bạc, việc như thế mà bạ ai cũng giao. Cứ thử cho là cái bọn nhãi kia làm ăn trót lọt, mỗi đứa đổi được một triệu bạc, thế rồi sao nữa? Còn cả đời người kia mà? Suốt đời đứa này vẫn lệ thuộc vào đứa kia, cứ lo nơm nớp là một đồng loã sẽ tiết lộ, thế thì thà thắt cổ mà chết! Nhưng đằng này đổi tiền chúng cũng không biết đổi kia: ra kho bạc đổi năm nghìn, mà tay run lẩy bẩy. Đếm lại được bốn nghìn, còn một nghìn nữa thì không đếm, chỉ chực bỏ túi đi cho nhanh. Thế là người ta sinh nghi. Mọi việc đều hỏng bét chỉ vì một thằng ngốc? Sao lại có thể như thế được?
- Sao lại có thể run tay ấy à? - Zamiotov đáp, - có thể lắm chứ. Tôi thì tôi tin chắc là có thể lắm. Có khi người ta không tự chủ được.
- Không tự chủ được à?
- Thế còn anh, chắc anh tự chủ được?
- Không, tôi thì chịu? Chỉ vì một trăm bạc tiền thưởng mà đi làm một việc ghê gớm như vậy! Làm bạc giả đi đổi, mà đi đâu kia chứ - đi đến nhà ngân hàng: ở đấy họ còn lạ gì những cái trò ấy nữa, - không, tôi sẽ cuống lên mất. Thế anh thì sao, liệu có cuống không?
Raxkonikov bỗng dưng lại thấy muốn "thè lưỡi" ra quá chừng. Sống lưng chàng gây gấy lên trong khoảng mấy phút.
- Giá phải tay tôi thì tôi không làm như thế - chàng mở đầu xa xôi. Tôi sẽ đi đổi tiền như thế này: xấp bạc thứ nhất tôi sẽ đếm đi đếm lại đến bốn lần, hết đếm xuôi lại đếm ngược, xem kỹ từng tờ một, rồi mới đếm sang xấp thứ hai; đếm được nửa xếp thì ngừng lại rút ra một tờ năm mươi rúp giơ ra ánh sáng soi thử, lật ngược lại soi lần nữa - bạc giả chăng? "Ngại lắm" tôi sẽ nói thế - tôi có người bà con vừa mất toi hăm nhăm rúp như thế đấy"; thế rồi tôi sẽ kể chuyện này ra. Đến khi đếm sang xấp thứ ba thì: à khoan, xin lỗi, hình như xấp thứ hai tôi đếm chưa kỹ ở chỗ bảy trăm, nghi lắm, thế là bỏ xấp thứ ba đấy, đếm lại xấp thứ hai, - Ấy cứ thế mà đếm cho hết năm xấp năm nghìn.
Xong xuôi đâu đấy, lại rút ở xấp thứ năm và xấp thứ hai ra mỗi xấp một tờ, lại giơ lên coi, lại ngờ ngợ, "ông làm ơn đổi cho tờ này" - làm cho lão ngồi quầy phải toát mồ hôi hột ra mới thôi, đến nỗi hắn chi mong sao tôi buông tha hắn ra cho chóng? Rồi đến khi xong xuôi đâu đấy tôi mới đi ra, mở cửa… À quên, xin lỗi, lại quay vào, lại hỏi han này nọ cho rõ; tôi thì tôi làm như thế đấy!
- Chà, anh nói những chuyện nghe mà rợn cả người lên - Zamiotov cười. - Nhưng nói thì nói thế thôi, chứ nếu làm thật thì anh cùng vấp. Anh ạ, theo tôi, không riêng gì anh với tôi mà ngay một kẻ thành thạo và hết sức liều lĩnh cũng không thể tin chắc mười phần ở mình được. Nói đâu xa: cứ lấy ngay vụ giết người ở khu phố ta chẳng hạn. Hình như đây cùng là một tay không vừa, giữa ban ngày ban mặt mà dám liều mạng như thế, cuối cùng chỉ gặp may mà thoát, ấy thế nhưng vẫn run tau không biết cách lấy của, không tự chủ được; cứ xem vụ này cũng rõ…
Raxkonikov có vẻ như bị chạm vào tự ái.
- Rõ. Thế bây giờ các anh thử bắt hắn đi xem? - chàng nói to lên, trêu tức Zamiotov với một vẻ hả hê.
- À rồi sẽ bắt thôi!
- Ai bắt? Anh à? Anh mà bắt được à? Cứ thử vào đấy mà xem! Đối với anh cái này mới là cái chính: hắn ta có tiêu tiền hay không? Trước thì không có tiền, thế mà nay tiền đâu bỗng dưng đem ra tiêu văng mạng, thế thì còn ai vào đây nữa? Về điểm này thì một thằng bé con bằng này cũng có thể lừa anh được, nếu có muốn!
- Sự thật làm đứa nào cũng là như thế, - Zamiotov đáp - giết người thì giết một cách rất xảo quyệt, liều cả tính mạng, nhưng rồi lại lập tức đến quán rượu thò cổ vào tròng. Chính là người ta căn cứ vào cách tiêu tiền mà bắt. Không phải ai cũng khôn ngoan như anh cả đâu! Anh thì dĩ nhiên là không vào tiệm rượu chứ?
Raxkonikov cau mày nhìn Zamiotov chòng chọc.
- Hình như anh đã phát thèm lên, muốn biết tôi sẽ hành động ra sao nếu ở vào địa vị ấy? - chàng hỏi, vẻ phật ý
- Muốn chứ, - Zamiotov đáp, giọng nghiêm trang và rắn rỏi. Không hiểu sao bây giờ hắn nói và nhìn một cách quá nghiêm nghị.
- Muốn lắm à?
- Muốn lắm.
- Được! Tôi thì tôi sẽ hành động như thế này đây. - Raxkonikov bỗng dừng lại dí sát mặt mình vào mặt Zamiotov, lại nhìn chòng chọc vào mặt hắn và lại nói thì thào, đến nỗi lần này hắn phải giật mình.
- Tôi thì tôi sẽ làn như thế này đây; tôi sẽ lấy tiền, đồ đạc và vừa ở đấy ra một cái là tôi đi thẳng, không ghé vào đâu hết, đến một nơi thật kín đáo và vắng vẻ, xung quanh chỉ có tường và rào, một vườn rau hay một cái gì như thế tôi đã tìm từ trước: một tảng đá, nặng chừng một pút hay pút rưỡi gì đấy nằm ở góc sân, cạnh hàng rào, nó vẫn nằm đấy từ khi xây nhà: tôi sẽ nhấc tảng đá ấy lên, phía dưới tất phải có một chỗ trũng, tôi sẽ bỏ tiền và đồ đạc vào chỗ trũng ấy. Xong đâu đấy tôi sẽ vần tảng đá lại như cũ, lấy chân dận thêm vào và bỏ đi. Một năm, hai năm, tôi vẫn chưa lấy, ba năm cũng chưa lấy, - các anh cứ thử tìm xeml Mất biến.
- Anh điên rồi, - Zamiotov nói, không hiểu sao giọng cũng thì thào và bỗng né xa Raxkonikov.
Mắt chàng sáng quắc, mặt chàng tái nhợt đi; môi trên chàng run bần bật. Chàng chồm vào thật sát Zamiotov, môi lắp bắp nhưng nói không ra tiếng gì cả; cứ như thế đến nẳa phút, chàng cũng biết mình đang làm gì, nhưng không kìm nổi. Một lời thú nhận khủng khiếp cứ nhảy bần bật trên môi chàng như hôm nào cài móc cửa nhảy bần bật trong khâu sắt, tưởng chừng nó sắp bật ra ngay tức thì; chỉ cần buông nó ra, chỉ cần thốt nó lên.
- Thế nếu chính tôi giết mụ già và Lizaveta thì sao? - chàng bỗng thốt lên… và sực tỉnh.
Zamiotov bàng hoàng nhìn chàng và tái mặt đi. Một nụ cười mếu máo hiện lên trên mặt hắn.
- Làm sao lại có thể như thế được? - Hắn nói rất khẽ. Raxkonikov hằn học nhìn hắn.
- Anh phải nhận là anh tin đi! Hả? Phải không nào?
- Không! Hoàn toàn không, bây giờ tôi lại càng không tin hơn bao giờ hết! - Zamiotov nói vội.
- Bây giờ tôi bắt thóp được anh rồi nhé! Lộ tẩy rồi. Thế nghĩa là trước đây anh có tin, chả là "bây giờ anh càng không tin hơn bao giờ hết" kia mà?
- Ồ, hoàn toàn không phải, thế! - Zamiotov kêu lên, vẻ ngượng nghịu - Nãy giờ anh cứ nát tôi để đưa đến đấy phải không?
- Thế anh không tin à? Thế thì các anh nói những gì sau lưng tôi, khi tôi ra khỏi quận? Và trung uý Thuốc súng hỏi cũng tôi làm gì, sau khi tôi bị ngất? Này bé con, - chàng đứng dậy cầm mũ và quát gọi người hầu bàn, hết bao nhiêu?
- Cả thảy ba mươi cô-pếch ạ, - người hầu bàn chạy lại, đáp.
- Đây cho anh thêm hai hào uống rượu. Xem này, bao nhiêu là tiền - chàng chìa bàn tay run run cho Zamiotov xem mớ bạc giấy, - đỏ này, xanh này, hai mươi lăm rúp đấy. Ở đâu ra? Lại áo mới nữa, ở đâu ra thế? Anh thừa biết là một cô-pếch tôi cũng không còn kia mà! Chắc là các anh đã hỏi dò bà chủ nhà rồi chứ gì? Thôi xin đủ! Assez causé! (2) Chào anh… chúc anh gặp nhiều điều thú vị!
Chàng bước ra, người run rảy vì một cảm giác kỳ dị như trong cơn bệnh ưu uất trong đó có pha cả một cảm giác khoái lạc không sao chịu nổi. Nhưng chàng vẫn lầm lì, trong người thì mệt nhừ ra. Mắt, chàng nhăn nhó như sau một cơn động kinh. Cảm giác mệt mỏi tăng lên rất nhanh. Vừa rồi sức lực chàng được kích thích và chỉ cần một sức ấy, một cảm giác khích động duy nhất cũng đủ làml cho nó dâng mạnh lên, và hễ cảm giác này yếu đi thì nó cũng lại suy yếu rất nhanh. Zamiotov còn lại một mình ngồi yên rất lâu ở chỗ cũ, suy nghĩ trầm ngâm. Raxkonikov đã đảo lộn hết những ý nghĩ của hắn về một điểm nhất định và đã làm cho quan niệm hắn xác định hẳn.
"Ilya Petrovich là một thằng đần!" - hắn quyết định dứt khoát.
Raxkonikov vừa mở cửa ra phố thì bỗng nhiên, ngay ở trước thềm, chàng vấp phải Razumikhin lúc ấy đang bước vào. Đến cách nhau chỉ còn một bước hai bên vẫn không trông thấy nhau, thành thử suýt cộp đầu vào nhau. Họ đưa mắt dò nhau một lát, Razumikhin kinh ngạc đến cực điểm, nhưng rồi một cơn giận thật sự một cơn giận ghê gớm bỗng lóe lên trong mắt anh.
- Thế ra cậu ở đâu! - anh rống lên. - Bỏ giường đi trốn! Thế mà mình chui cả xuống đi-văng tìm hắn, leo cả lên trần nhà nữa! Thiếu chút nữa tôi đã đánh Naxtaxia vì cậu… Thế mà cậu lại đến đây! Rodia! Như thế nghĩa là thế nào? Nói thật đi! Thú đi! Nghe chưa?
- Như thế nghĩa là các anh đã làm tôi phát ngấy đến chết người đi được, tôi muốn đừng ai bên cạnh tôi hết - Raxkonikov bình thản đáp.
- Đừng ai ở cạnh cậu? Trong khi cậu đi chưa ủng, mặt thì xanh như tàu lá, thở thì không ra hơi nữa? Đồ ngu, cậu làm gì trong "lâu đài pha lê"? Cậu phải thú nhận ngay lập tức!
Thôi buông tôi ra - Raxkonikov nói đoạn toan đi vượt qua. Thấy thế Razumikhin liền tiến lên nắm chặt lấy vai chàng.
- Buông ra? Cậu dám nói "buông ra"? Thế cậu có biết tôi sẽ làm gì bây giờ không, tôi sẽ xốc cậu lên như một gói giẻ, xách cậu về buồng và khoá trái cửa lại.
- Razumikhin ạ, - Raxkonikov nói khẽ và hình như hoàn toàn điềm tĩnh, - chả nhẽ cậu không thấy rằng tôi không cần đến những ân huệ của cậu hay sao? Việc gì lại đi làm ơn làm phúc cho những kẻ… không thèm những thứ ấy? Mà lại là những kẻ rất khổ tâm khi phải chịu đựng những thứ ấy? Khi tôi mới ốm, cậu đi tìm tôi để làm gì? Nhỡ tôi chỉ mong được chết thì sao? Chẳng lẽ thái độ của tôi hôm nay chưa đủ cho cậu thấy rằng cậu làm khổ tôi, rằng tôi đã… phát ngấy lên vì cậu hay sao? Sao lại cứ muốn đến làm khổ người ta như thế. Tôi quả quyết với cậu là những thứ đó làm cho bệnh tình của tôi rất khó thuyên giảm, vì nó cứ làm tôi khích động không ngớt. Hồi nãy Zamiotov chả bỏ đi để tôi khỏi khích động là gì? Cậu nữa, tôi van cậu, cậu cũng đi đi! Và sau nữa, cậu có quyền gì mà dám dùng sức mạnh để giữ tôi lại? Chẳng lẽ cậu lại không thấy rằng tôi đang nói chuyện với cậu một cách hoàn toàn tỉnh táo hay sao? Tôi phải làm gì đấy, tôi biết lấy gì đây, tôi van cậu, cậu hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì để cậu khỏi ám tôi, cho cậu khỏi làm ơn làm phúc cho tôi? Cứ cho tôi là bạc bẽo, tôi hèn hạ cũng được miễn là buông tôi ra, vì Chúa, hãy để cho tôi yên! Đi đi, đi đi!
Khi bắt đầu nói chàng rất bình tĩnh, trong lòng khoan khoái thưởng thức trước những lời lẽ độc địa mà mình sắp nói ra, nhưng đến khi kết thúc thì lại sôi sục lên và thở hổn hển, giống như lúc này, khi nói với Lugin.
Razumikhin đứng yên ngẫm nghĩ một lát và buông tay chàng ra.
- Thôi cậu xéo về nhà ma cho rảnh! - Anh nói khẽ vẻ gần như trầm ngâm; nhưng khi Raxkonikov bước đi, anh bỗng gầm lên: - Đứng lại… Cậu nghe đây! Tôi nói cho cậu biết là tất cả bọn cậu, không trừ một đứa nào, đều là những thằng ba hoa, những thằng khoác lác. Hễ có chuyện gì hơi khổ một tí là các cậu cứ bo bo ôm lấy như gà ấp trứng? Ngay cả cái lối ấy nữa, các cậu cũng ăn cắp của các tác giả khác. Không có lấy một dấu hiệu nào tỏ ra các cậu có một cuộc sống độc lập! Thịt các cậu chỉ là mỡ cá voi, máu các cậu chỉ là nước sữa cặn! Hạng các cậu tôi không tin đứa nào hết. Trong trường hợp nào cũng vậy, các cậu chỉ lo sao cho đừng giống một con người! Đứng lạ - ạ - ại! - anh quát lên, giọng giận dữ gấp bột, khi thấy Raxkonikov lại toan bỏ đi, - hãy nghe cho hết đã! Cậu cũng biết là hôm nay bạn bè tôi đến ăn khao nhà mới, có lẽ bây giờ đã đông đủ cả rồi, nhưng tôi để ông chú ở nhà tiếp khách, bảo là chạy tí về ngay. Thế thì giá thử cậu không phải là một thằng ngốc, một thằng ngốc tầm thường, một thằng ngốc thâm căn cố đế, một bản dịch từ tiếng ngoại quốc… Rodia ạ, tôi nhận rằng cậu là một thằng bé thông minh, nhưng vẫn ngốc như thường - đấy giá cậu lại đằng tôi, ngồi chơi với tôi một tối, còn hơn là giày đi lang thang như thế. Cậu đã ra khỏi nhà rồi thì chẳng còn biết làm sao nữa? Tớ sẽ mượn về mấy chiếc ghế bành thật êm, nhà chủ có đấy… có trà, có bạn… Không thì tớ đặt cậu nằm trên đi-văng, dù sao cùng có bạn có bè với nhau… Cả Zoximov cùng đến. Thế nào, cậu lại chứ?
- Không.
- Bậy quá đi mất! - Razumikhin điên tiết quát lên. - Cậu thì biết gì? Cậu có đủ trí khôn đâu! Cậu chẳng hiểu gì hết… Đã hàng nghìn lần, tớ cũng đã từng nhổ toẹt vào nhân loại như thế, nhưng rồi lại quay trở lại. Thấy xấu hổ… thế là trở về với con người! Thế cậu nhớ nhé, nhà ông Potsinkov, gác ba…
- Cứ thế này thì có lẽ ngài để cho người ta đánh ngài chỉ để hướng cái thú làm ơn làm phúc thôi, ngài Razumikhin ạ…
- Đánh ai? Đánh tớ ấy à? Chỉ nho nhoe một chút thôi tớ cũng vặt mũi đi chứ! Nhà Potsinkov, số 47, hỏi phòng ông viên chức Babuskin…
- Tôi không đến đâu, cậu ạ - Raxkonikov lại quay đi.
- Tớ cuộc là cậu sẽ đến! - Razumikhin quát vọng theo. - Nếu không thì cậu… - Nếu không tới không thèm nhìn mặt cậu nữa đâu! Này, thư hẵng, có Zamiotov trong ấy không
- Có
- Cậu có gặp à?
- Có gặp.
- Cậu có nói chuyện à?
- Có nói chuyện.
- Chuyện gì thế? Thôi được, xéo đi, không nói thì thôi. Nhà Potsinkov, số 47 Babuskin, nhớ nhé
Raxkonikov đi đến phố Xadovaya và rẽ vào góc phố. Razumikhin tư lự nhìn theo. Cuối cùng anh khoát tay một cái, bước vào nhà, nhưng rồi bỗng dưng lại ở nữa chừng thang gác.
"Mẹ kiếp - anh nghĩ tiếp, gần như nói to lên, - hắn nói cùng mạch lạc, nhưng lại có vẻ như… Mà mình cũng ngốc nốt. Người điên cũng có thể nói năng mạch lạc chứ! Mà hình như Zoximov sợ nhất cái ấy đấy! - Anh gõ ngón tay vào trán. - Nhỡ ra… sao bây giờ mà lại để cho hắn đi một mình? Có thể là hắn nhảy xuống sông… Chà, mình làm ăn hỏng bét? Không thể được?
Và anh cắm cổ chạy ngược trở lại đuôi theo Raxkonikov: nhưng không còn thấy tăm hơi đâu nữa.
Anh nhổ toẹt một bãi nước bọt và bước mau vào "Lâu đài pha lê" tìm gặp Zamiotov để hỏi cho ra lẽ.
Raxkonikov đi thẳng đến cầu X.; ra đến khoảng giữa cầu chàng đứng lại tựa hai khuỷu tay vào lan can và nhìn ra phía xa. Sau khi chia tay với Razumikhin, chàng thấy mệt mỏi đến nỗi chật vật lắm mới lê được đến đây. Chàng cứ muốn kiếm nơi nào ngồi xuống, hay nằm dài ra giữa đường. Nghiêng mình trên giòng nước, chàng thẫn thờ nhìn ánh phản chiếu cuối cùng màu hồng nhạt của mặt trời sắp tắt, nhìn dãy nha tôi xẫm trong bóng hoàng hôn mỗi lúc một dày đặc thêm, một khung cửa sổ nhỏ ở một gác xép xa xa bên tả ngạn, kính đỏ rực lên như bốc cháy vì tia nắng cuối cùng rọi vào trong chốc lát, nhìn con kênh tối xẫm và dường như chăm chú nhìn xuống giòng nước. Cuối cùng trong mắt chàng thấy hiện lên những vòng đỏ quay tít, các tòa nhà chuyển mình, bờ kênh, người qua đường, xe cộ đều quay cuồng nhảy nhót thành vòng. Có lẽ chàng đã ngất đi: nếu bấy giờ không có một cảnh tượng kỳ dị, gớm guốc bỗng khiến chàng giật mình.
Chàng cảm thấy có ai đang đứng cạnh chàng, ngay bên phải; chàng liếc nhìn sang thì thấy một người đàn bà cao, đầu trùm khăn, khuôn mặt hơi dài, gầy xọp, nước da vàng võ, đôi mắt đó sâu hoắn. Người ấy, nhìn thắng vào chàng nhưng hẳn là chẳng trông thấy gì, không phân biệt được ai hết. Người ấy bỗng chống tay phải vào thành cầu, giơ chân phải lên và lần lượt đu cả hai chân sang bên kia lan can nhảy xuống kênh. Giòng nước bẩn tung tóe lên và nuốt chửng mồi trong giáy lát, nhưng mộ phút sau người tự vẫn nổi lên rồi từ từ trôi xuôi theo giòng nước, đầu và chân chìm xuống, lưng nổi lềnh bềnh, chiếc váy phồng lên như cái áo gối.
- Có người tự tử! Có người tự tử? - hàng chục tiếng thét vang lên; họ nhốn nháo chạy lại, hai bên bờ lố nhố những người tò mò, trên cầu, quanh Raxkonikov đã có một đám đông xúm lại, xô nhau chồm cả vào lưng chàng.
- Trời ơi, cô Aphroxinyuska ở nhà tôi mà - gần đâu đây có một giọng đàn bà lu loa - Các ông các bác ơi, cứu cô ấy với! Trăm lạy các ông, các ông vớt cô ấy với!
- Thuyền đâu! Thuyền đâu! - trong đám đông có tiếng quát.
Nhưng không cần đến thuyền làm gì nữa: một người cảnh binh chạy xuống bến, cởi áo khoác, cởi giày ra và lao xuống nước. Anh ta không phải khó nhọc gì lắm: giòng nước đưa người trẫm mình trôi qua cách bến có hai bước, anh ta đưa tay phải ra túm lấy áo nạn nhân, tay trái đã kịp nắm lấy một cây sào do một người bạn giơ ra cho anh, và lập tức người trẫm mình được kéo lên. Họ đặt cô ta nằm lên mấy phiến đá hoa cương lát bến. Chẳng mấy chốc cô ta mở mắt, ngồi dậy, bắt đầu hắt hơi và xỉ mũi, hai tay cứ xoa xoa chiếc áo ướt sũng một cách ngớ ngẩn. Cô ta lặng thinh không nói gì hết.
- Cô ấy say bí tỉ, các ông ạ, say bí tỉ, - người đàn bà lúc nãy, bây giờ đứng bên cạnh Aphroxinyuska, kể lể - lần trước đã toan thắt cố chết, may người ta cởi dây kịp. Vừa rồi tôi ra cửa hiệu, để con bé ở nhà trông cô ấy thế là có chuyện? Cô ta ở bên cạnh nhà tôi, ông ạ buôn bán nhì nhằng, đây ngôi nhà thứ hai ở cuối phố, kia kìa…
Đám đông tản dần, mấy người cảnh sát vẫn còn loay hoay quanh người tự tử, có ai nói gì léo nhéo về sở cảnh sát… Raxkonikov nhìn cảnh ấy với một cảm giác bình thản và dửng dưng kỳ lạ. Chàng bỗng thấy tơm tởm, "Không, kém lắm, nước… không xong, - chàng lẩm bẩm một mình. - Sẽ không có gì xảy ra hết. - chàng nói thêm, - có gì đâu mà đợi? Còn quận cảnh sát? Tại sao Zamiotov lại không ở quận cảnh sát nhỉ? Mở cửa đến chín giờ cơ mà… Chàng quay lưng ra phía thành cầu và đưa mắt nhìn quanh.
"Thì đi nào! Sao lại không?" - Chàng lẩm bẩm và quả quyết đi về phía sở cảnh sát. Lòng chàng trống trải và tối tăm. Chàng không muốn nghĩ. Ngay tâm trạng ưu tư cũng đã qua, không còn lấy một dấu vết nào của sức quyết tâm lúc này khi chàng ra đi "để chấm dứt hẳn tình trạng này"! Nó đã nhường chỗ cho một trạng thái mụ mẫm hoàn toàn.
"Đó cũng là một lối thoát! - Chàng nghĩ trong khi uể oải đi chầm chậm trên bờ kênh. - Dù sao ta cũng sẽ chấm dứt, vì ta muốn thế… Nhưng đó có phải là lối thoát không? Thì cũng thế thôi? Cũng vẫn là mấy tấc đất… hê! Nhưng kết liễu như thế thì thật thảm hại? Kết liễu rồi ư? Nói cho họ biết, hay thôi? Chà… quỷ quái! Mình mệt quá rồi - Sao cho chóng đến chỗ nào mà nằm xuống một cái. Xấu hổ hơn cả là những chuyện này hết sức ngây ngô. Thôi kệ mẹ nó. Xì, sao lại có thể nghĩ đến những chuyện ngây ngô như thế…".
Muốn đến quận cảnh sát phải đi thẳng mãi qua hai ngã tư rỗi rẽ sang trái: từ đấy chỉ còn mấy bước nữa là đến. Nhưng vừa đi đến ngã tư thứ nhất, chàng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát, ngoặt vào ngõ và đi vòng qua hai phố nữa, có lẽ cũng chẳng có mục đích gì, hoặc giả có thể là để trì hoãn thêm một vài phút. Chàng bước đi, mắt nhìn xuống đất. Bỗng dường như có ai ghé sát tai chàng thì thầm một câu gì. Chàng ngầng đầu lên và thấy mình đang đứng trước "ngôi nhà ấy" ngay trước cổng. Từ buổi tối "hôm ấy" chàng chưa lần nào đi qua đây.
Một ý muốn không sao cưỡng được, không sao hiểu nổi, cứ thôi thúc chàng. Chàng đi qua cổng, rẽ ngoặt vào cánh cửa đầu tiên ở bên phải và bắt đầu bước lên cái cầu thang quen thuộc, lên tầng thứ tư. Trên cái thang gác chật hẹp và dốc đứng lúc bẩy giờ tối om. Lên đến mỗi trạm bằng chàng lại dừng chân tò mò nhìn quanh. Ở trạm bằng tầng thứ nhất, khưng kính ở cửa sổ đã tháo hẳn ra. "Hôm ấy vẫn còn" - chàng thầm nghĩ. Và đây là gian phòng gác hai, nơi Mikolai và Mitka làm việc hôm ấy: "Đóng kín; cánh cửa mới sơn lại; thế nghĩa là phòng này cho thuê". Và đây, tầng thứ ba, tầng thứ tư. Đây rồi!" Chàng bỗng đớ người ra: cửa vào phòng ấy mở toang, trong phòng đang có người, nghe có tiếng nói chuyện vẳng ra; chàng thật không ngờ.
Lưỡng lự một lát, chàng bước nốt mấy bậc thang cuối cùng và đi vào phòng.
Gian phòng cũng đang được tu sửa lại; trong phòng có mấy người thợ đang làm việc; chàng có vẻ rất lấy làm lạ về điều này. Không hiểu sao chàng cứ hình dung là mọi vật sẽ y nguyên như cũ, thậm chí có lẽ hai cái xác cũng vẫn nằm nguyên giữa sàn nhà: thế mà bây giờ mấy bức tường đều trơ trụi, đồ dạc bàn ghế không có lấy một cái nào; lạ thật! Chàng đến ngồi bên bậu cửa sổ.
Có cả thảy hai người thợ đang làm, còn trẻ cả, nhưng tuổi chênh lệch nhau khá nhiều. Họ đang dán giấy mới lên tường, những tấm giấy dán tường màu trắng có điểm hoa màu tím nhạt, thay cho lớp giấy cũ màu vàng trước kia đã sởn rách. Không hiểu sao Raxkonikov thấy thế rất khó chịu, chàng nhìn lớp giấy mới một cách đầy ác cảm, như thế lấy làm tiếc rằng mọi vật đã thay đổi đi như vậy.
Hai người thợ hẳn là đã làm muộn giờ, và đang hấp tấp cuốn giấy lại sửa soạn ra về. Họ đang mải nói chuyện. hầu như không chú ý đến Raxkonikov. Chàng khoanh tay trước ngực và ngồi nghe.
- Sáng hôm ấy, con bé mới đến nhà tớ, - người lớn tuổi hơn nói với bạn, - đến thật sớm, ăn mặc rất diện. Tớ mới bảo: "Này sao đằng ấy cứ làm dáng với tôi làm gì thế, muốn trêu thèm thằng này đây hẳn?" Con bé nói: "Anh Tit Vaxilievich ạ, từ nay em muốn hoàn toàn tuỳ ý anh, muốn làm gì em cũng được" thế đấy! Mà diện phải biết nhé: trôxng như các cô ở trong báo thời trang ấy, thật y như trong báo!
- Thế báo thời trang là cái gì hở ông bác? - người trẻ tuổi hơn hỏi. Chắc hẳn xưa nay hắn ta vẫn học khôn ở "ông bác" này.
- Báo thời trang là thế này chú nó ạ. Nó là những tập tô màu, cứ mỗi thứ bảy lại thấy gứl về cho các hiệu thợ may ở đây, ở nước ngoài gửi về, để cho biết người như thế nào thì phải ăn mặc ra sao, đàn ông cho chí đàn bà. Tranh vẽ ấy mà. Đàn ông thì phần nhiều mặc áo đuôitôm, còn như cái mục đàn bà thì lắm thứ áo trông mê đến nỗi cậu có bán hết cả nhà cậu đi cùng chưa ăn thua!
- Ơ, ở cái xứ Piter (3) này chẳng thiếu thứ gì nhẩy! - người thợ ít tuổi hăm hở reo lên - ngoài bố mẹ ra thì cái gì cũng có.
- Ờ, ngoài thứ ấy ra thì cái gì cũng có chú mày ạ, - người thợ lớn tuổi kết luận, giọng ra điều dạy bảo.
Raxkonikov đứng đậy đi sang phòng bên, nơi trước kia đặt cái giường, cái rương và cái tủ ngăn; gian buồng không có bàn ghế trông nhỏ hẹp 1ạ lùng. Giấy dán tường chưa thay, trong góc còn hằn rõ chiếc trang thờ dựng tượng thánh. Chàng nhìn quanh một lát rồi trở ra ngồi ở bậu cửa sổ. Người thợ lớn tuổi gườm gườm nhìn chàng.
- Ông hỏi gì ạ? - hắn đột ngột hỏi chàng.
Raxkonikov không đáp, lẳng lặng đứng dậy đi ra cửa cầm lấy dây chuông kéo. Vẫn cái chuông ấy, vẫn cái tiếng sắt tây ấy? Chàng kéo lần nữa, rồi lần thứ ba, lắng tai nghe và hồi tưởng lại. Cái cảm giác ghê rợn, quái gở hôm nào bắt đầu sống lại, mỗi lúc một rõ nét thêm, sinh động thêm, và cứ mỗi tiếng chuông vang lên chàng lại rùng mình, và càng nghe chàng lại càng thấy khoái trá.
- Ông kia có việc gì thế? Ông là ai? - người thợ ra theo, quát hỏi. Raxkonikov trở vào.
- Tôi muốn thuê phòng, - chàng nói - đến xem thử.
- Đang đêm ai lại đi thuê phòng; mà đáng lẽ ông phải đi với bác gác cổng chứ!
- Sàn rửa sạch sẽ rồi; sẽ sơn lại chứ? - Raxkonikov nói tiếp. Không có máu à?
- Máu nào?
- Máu của mụ già vừa bị giết với mụ em gái ấy mà, hôm trước ở đây nó chảy lênh láng thành cả một vũng.
- Nhưng ông là ai mới được chứ? - Người thợ đâm 1o, hỏi gắt.
- Tôi ấy à?
- Ừ.
- Anh muốn biết phải không? Ta đến quận, tôi sẽ nói.
Hai người thợ bỡ ngỡ nhìn chàng.
- Muộn rồi, chúng tôi phải về đây. Đi đi, Alioska. Phải khoá cửa, - người thợ lớn tuổi nói.
- Nào thì đi! - Raxkonikov thản nhiên đáp và đi ra trước, thong thả bước xuống cầu thang.
- Ê, gác cổng - chàng quát gọi khi xuống đến sân, lúc bấy giờ ngay ở lối vào có mấy người đang đứng nhìn khách qua đường: cả hai người gác cổng, một mụ đàn bà, một người lái buôn và vài người nữa.
Raxkonikov đi thẳng về phía họ.
- Ông muốn hỏi gì? - một trong hai người gác cổng hỏi.
- Anh có đến quận cảnh sát? (4)
- Vừa mới đến xong. Ông muốn gì?
- Họ vẫn làm việc chứ?
- Vâng.
- Ông phó quận trưởng có ở đấy không?
- Lúc nãy thì có. Ông muốn hỏi gì?
Raxkonikov không đáp, đứng yên cạnh người gác cổng ngẫm nghĩ một lát.
- Ông ấy đến xem phòng, - người thợ lớn tuổi lại gần nói.
- Phòng nào?
- Phòng chúng tôi đang làm ấy mà. Ông ấy bảo "tại sao lại chùi máu đi? Ở đây có xảy ra ra một vụ giết người, tôi mưốn thuê phòng này". Rồi ông ta kéo chuông, đến suýt đứt cả dây đấy. Ông ấy lại bao là "ta đến sở cảnh sát, tôi sẽ nói hết". Ông ta cứ bám lấy chúng tôi.
Người gác cổng băn khoăn cau mày nhìn Raxkonikov từ đầu đến chán.
- Nhưng anh là ai? - hắn hỏi gắt, giọng dữ tợn.
- Tôi là Rodion Romanovich Raxkonikov, cựu sinh viên, tôi ở nhà Sil, trong ngõ kia, gần đây thôi, phòng số mười bốn. Cứ hỏi bác gác cổng, bác ấy biết tôi đấy. - Raxkonikov đáp, giọng uể oải và trầm ngâm, không ngoảnh lại, cứ nhìn đăm đăm ra dãy phố tối om.
- Anh lên phòng ấy làm gì?
- Đến xem.
- Xem cái gì ở đấy?
- Cứ bắt lên quận xem sao! - người lái buôn bỗng nói chen vào, rồi im bặt.
Raxkonikov liếc mắt qua vai, chăm chú nhìn hắn một lát rồi nói, giọng vẫn khẽ và uể oải.
- Đi đi!
- Dẫn hắn ta đi! - người lái buôn được thể nói thêm. - Sao hắn lại đến chỗ ấy, chắc có ý gì đây, hả?
- Say thì không say, mà ăn nói thật lạ lùng, - người thợ lẩm bẩm.
- Anh muốn gì nào. - người gác cổng lại quát; bây giờ hắn đã bắt đầu nổi giận hẳn hoi. - Sao anh cứ dây dưa mãi thế?
- Không dám lên quan à? Sợ chắc? - Raxkonikov nói, giọng ngạo nghễ.
- Sợ cái gì. Anh lôi thôi cái gì?
- Chắc là một tay làm tiền! - Mụ đàn bà nói.
- Thôi nói chuyện với hắn làm gì, - người gác cổng kia nói; đó là một người mu-gích to lớn mặc áo phanh ngực, thắt lưng đeo một chùm chìa khoá!
- Đi đi! Rõ ràng là hạng làm tiền. Xéo đi!
Đoạn nắm lấy Raxkonikov, hắn xô chàng ra đường. Chàng loạng choạng đâm chúi ra ngoài nhưng không ngã. Đứng thẳng người lại, chàng lặng lẽ đưa mắt nhìn qua mọi người một lượt và bỏ đi.
- Người đâu mà kỳ quặc, - người thợ nói.
- Thời buổi bây giờ thật lắm người kỳ quặc, - mụ đàn bà nói.
- Giá cứ dẫn hắn lên quận, - người lái buôn nói thêm.
- Không việc gì phải dây vào, - người gác cổng thứ hai phân giải - Đúng là một thằng làm tiền. Xưa nay vẫn thế, hắn cứ dẫn xác đến nhưng mình mà dây vào thì rồi gỡ không ra đấy… Biết thừa đi!
"Thế ta có đi hay không?" - Raxkonikov thầm nghĩ. Chàng dừng lại ở giữa một ngà tư và đưa mắt nhìn quanh như thể chờ ai quyết định hộ. Nhưng xung quanh không có lấy một tiếng trả lời, mọi vật đều tối om và im lìm như những phiến đá mà chàng đang dẫm lên: mọi vật đều đã chết đối với chàng, đối với mỗi mình chàng…
Bỗng ở phía xa, cách chàng chừng hai trăm bước, cuối dãy phố, trong bóng tối dày đặc, chàng thấy có một đám đông người đang nói xôn xao, kêu la ơi ới. Giữa đám đông có một chiếc xe ngựa đỗ… Một ngọn đèn chập chờn ở giữa phó "Cái gì thế?"
Raxkonikov quay sang phải đi về phía đám đông.
Dường như chàng muốn bấu viu lấy bất cứ cái gì; chàng mỉm cười lạnh lùng khi nghĩ như vậy, bởi vì chàng đã nhất quyết đến sở cảnh sát và biết chắc rằng chỉ lát nữa, tất cả đều sẽ chấm dứt.
Chú thích:
(1) Thời ấy ở Nga, trường trung học chỉ có 8 lớp
(2) Tán gẫu thế đủ rồi! (tiếng Pháp)
(3) Tên gọi thân mật Petersburg
(4) Những người gác cổng các tòa nhà lớn ở Petersburg có bổn phận phải hàng ngày đến đồn cảnh sát trình báo về những việc xảy ra trong ngày hôm ấy.
Chương 12
Nhưng chị ta vừa ra khỏi thì chàng vùng dậy, cài cửa lại, mở cái gói của Razumikhin vừa đem đến lúc nãy anh ta đã buộc lại cẩn thận, và bắt lầu mặc áo quần. Lạ thay, chàng bỗng như đã hoàn toàn bình tĩnh; không còn trạng thật dở mê dở tỉnh như ban nãy, cũng không còn tâm trạng lo sợ hoảng hốt như trong suốt thời gian vừa qua. Đây là giây phút đầu của một trạng thái điềm tĩnh kỳ lạ, đột ngột. Cử động của chàng chính xác và dứt khoát, nhìn qua có thể thấy rõ một chủ định rõ ràng. "Hôm nay, ngay hôm nay!" - Chàng lẩm bẩm một mình. Tuy chàng cũng hiểu là mình còn yếu, nhưng tinh thần chàng căng thẳng đến mức điềm tĩnh hản, với một chủ định bất di bất dịch, đã cho chàng thêm sức mạnh và lòng tự tin; dù sao chàng cũng hy vọng là sẽ không ngã khuỵu ra giữa phố. Mặc xong các thứ áo quần mới mua, chàng đưa mắt nhìn xấp bạc để trên bàn, nghĩ ngợi một lát và cầm đút vào túi. Có cả thấy hai mươi lăm rúp. Chàng lấy luôn cả mấy đồng tiền đông của Razumikhin mua áo quần còn thừa lại. Rồi chàng lặng lẽ nhấc móc cửa lên, ra khỏi phòng, xuống thang gác và hé nhìn vào gian nhà bếp mở toang:
Naxtaxia đứng quay lưng lại phía chàng, đang khom lưng thổi ấm lò cho bà chủ. Chị ta không nghe thấy gì. Vả lại ai có thể dè rằng chàng lại bỏ đi ra ngoài? Một phút sau chàng đã ra phố.
Lúc ấy khoảng tám giờ, mặt trời sắp lặn. Khí trời vẫn ngột ngạt như cũ, nhưng chàng vẫn thèm thuồng hít thở làn không khí hôi hám, bụi bám bị phố phường nung nóng lên. Chàng bắt đầu thấy hơi chóng mặt; một sức mạnh man rợ bỗng ánh lên trong đôi mắt đỏ ngầu và trên gương mặt gầy gò, vàng võ của chàng.
Chàng không biết đi đâu, và cũng không nghĩ đến vấn đề mà chàng chỉ biết có một điều là "phải chấm dứt hẳn cái đó ngay hôm nay một lần cho xong đi, ngay bây giờ: nếu không thì chàng không muốn về nhà nữa, vì chàng không muốn sống như thế nầy". Chấm dứt thế nào? Chấm dứt cái gì? Chàng không hề biết mà cũng không buồn nghĩ. Chàng xua đuổi ý nghĩ ấy đi: nó dày vò chàng khổ sở quá. Chàng chỉ cảm biết rằng cần phải làm sao cho mọi việc đều thay đổi hẳn, bằng cách nầy hay cách khác, "Dù có sao cũng mặc", chàng tuyệt vọng nhắc đi nhắc lại với một lòng tự tin và quả quyết bất di bất dịch, theo thói quen cũ, chàng đi về phía Chợ hàng Rơm theo con đường chàng vẫn đi dạo những lần trước.
Chưa đến Chợ hàng Rơm, trên vỉa hè ở trước mặt một cửa hiệu buôn nhỏ có một người trẻ tuổi, tóc đen đang chơi phong cầm quay một điệu nhạc tình tứ, đệm theo một người con gái trạc mười lăm tuổi đứng hát ở trước mặt hắn. Người con gái ăn mặc như một tiểu thư, váy xoè áo khoác ngang lưng, găng và mũ lật có cắm một cái lông chim màu lửa, tất cả các thứ đó đều đã cũ và sờn. Với giọng hát tầm thường, hơi rè nhưng khá to và nghe cũng êm tai, cô ta hát một bài tình ca trong khi chờ đợi một, đồng hai cô-pếch trong cửa hiệu vứt ra. Raxkonikov dừng lại bên cạnh cùng với hai ba người khác, nghe một lắt, rút trong túi ra một đồng năm cô-pếch đặt vào bàn tay người con gái.
Người con gái dừng phắt ngay lại ở nốt cao nhất và rung cảm nhất của bài ca như thể có ai lấy dao chém đứt ngang, rồi quát bảo người quay đàn: "thôi!", và cả hai khệnh khạng đi sang cửa hiệu khác.
- Ông thích nghe hát rong không? - Raxkonikov bỗng hỏi một người qua đường đã có tuổi đang đứng cạnh chàng, trông có vẻ như một người đi bát phố. Hắn ngơ ngác nhìn chàng tỏ vẻ ngạc nhiên. Raxkonikov nói tiếp nhưng lại có vẻ như tuyệt nhiên không nói đến chuyện hát rong:
- Tôi thích nghe tiếng hát có đệm phong cầm quay trong một buổi chiều mùa thu lạnh lẽo, âm u và ướt át, phải ướt át mới được, khi mọi người qua đường đều có những bộ mặt xanh xao, ốm yếu; hay hơn nữa là khi có tuyết ấm rơi, rơi thẳng xuống vì lặng gió, và ánh đèn hơi chiếu mờ mờ qua làn tuyết.
- Tôi không biết ạ… Ông thứ lỗi cho… - người kia nói lắp bắp, chàng sợ vì câu hỏi cũng như cái vẻ kỳ quặc của Raxkonikov và bỏ đi sang bên kia đường.
Raxkonikov đi thẳng và ra đến Chợ hàng Rơm, chỗ cái góc mà hôm trước hai vợ chồng lão tiểu thương nói chuyện với mụ Lizaveta, nhưng lúc bấy giờ họ không ngồi đấy. Nhận ra chỗ cũ, chàng dừng lại, nhìn quanh quất rồi hỏi một chàng thanh niên mặc áo đỏ đang đứng ngáp ở trước cửa một hiệu bán bột.
- Ở góc nầy vẫn thường có hai vợ chồng ông gì ngồi bán hàng phải không?
- Ai mà chả ngồi đây bán hàng. - chàng thanh niên đáp, mắt khinh khỉnh nhìn Raxkonikov từ đầu đến chân.
- Ông ta tên là gì?
- Cha mẹ đặt tên gì thì ông ta tên như thế!
- Anh có phải người Zaraisk không, trấn nào? - Chàng thanh niên lại nhìn Raxkonikov.
- Thưa ngài, chỗ chúng tôi không phải là trấn, mà là huyện, chỉ có anh tôi được đi đây đi đó thôi, còn tôi thì ngồi nhà, cho nên không biết ạ… Thưa ngài rộng lòng tha thứ cho.
- Trên gác kia là quán ăn à?
- Tiệm rượu đấy, có cả bàn bi-a, lại có mấy nàng công chúa nữa - Húi!
Raxkonikov đi qua quảng trường. Bên kia, ở một góc phố, có một đám người rất đông, toàn là nông dân cả. Chàng len vào chỗ đông nhất, vừa đi vừa nhìn vào mặt những người đứng quanh. Không hiểu tại sao chàng thấy thèm nói chuyện với bất cứ ai. Nhưng đám nông dân không để ý đến chàng, cứ túm năm tụm ba nói chuyện nhao nhao lên với nhau. Chàng đứng lại ngẫm nghĩ một lát rồi đi sang phải, men theo vỉa hè về phía đại lộ V. Đi quá một khoảng trống, chàng bước vào một ngõ hẻm…
Trước kia chàng cũng hay đi qua ngõ nầy. Đó là một ngõ hẻm ngắn gấp khúc dẫn từ quảng trường đến phố Xadovaya. Gần đây còn có cái gì thu hút chàng lang thang đến những nơi nầy mỗi khi chàng tự dưng thấy tởm lợm, "cho nó tớm lợm thêm". Còn bây giờ thì chàng bước đi, không suy nghĩ gì hết. Ở đây có một ngôi nhà lớn chứa toàn những tiệm ăn, tiệm uống, cứ chốc chốc lại thấy mấy người đàn bà ở trong các tiệm ấy chạy ra, ăn mặc như khi chạy sang nhà bên cạnh: đầu để trần, chỉ mặc áo dài mỏng. Ở vài ba nơi họ xúm lại trên vỉa hè thành từng tốp, nhất là cạnh những bậc thang dẫn xuống các gian nhà hầm, ở đấy cứ bước xuống hai bậc cấp là có thể vào đến những nơi rất vui thú, lúc bấy giờ, trong một nơi như vậy đang có tiếng reo hò đập phá ầm ĩ vang ra khắp phố, tiếng đàn ghi-ta, tiếng hát hò nhộn nhịp vui vẻ. Một tốp đàn bà khá đông chen chúc ở lối vào; mấy người khác ngồi ở bậc thềm hay trên vỉa hè, mấy người nữa đang đứng nói chuyện. Gần đấy, giữa phố có một thằng lính say bước lảo đảo, mồm ngậm thuốc lá, vừa đi vừa chửi rủa; có lẽ hắn đang muốn đi đâu đấy, nhưng dường như đã quên mất là mình muốn đi đâu. Một thằng khố rách áo ôm đang chửi nhau với một thằng khố rách áo ôm khác và một gã say bí tỉ nằm ềnh ra chắn ngang đường.
Raxkonikov dừng lại cạnh tốp đàn bà đông nhất. Họ đang nói chuyện oang oang; cả bọn đều mặc áo vải hoa, đi giầy da dê và để đầu trần. Có người tuổi quá bốn mươi, nhưng cũng có người chỉ độ mười bảy, mắt họ hầu hết đều sưng bầm.
Chàng tự dưng thấy ham thích tiếng hát hò và đập phá ở dưới kia… giữa những tiếng cười, tiếng rú, có thể nghe vẳng lên một giọng hát the thé có đàn ghi-ta đệm theo, và tiếng gót giầy dậm côm cốp của một người nào đang nhây nhót điên cuồng lên theo nhịp hát. Chàng chăm chú lắng nghe, vé lầm lỳ và đăm chiêu, tò mò nghển cổ dòm vào cửa.
Anh của em chóng ngoan,
Chớ đánh em mà oan!
Giọng hát vẫn the thé lên. Raxkonikov háo hức cố nghe cho rõ lời ca - làm như thế đó là điều quan trọng nhất đối với chàng.
"Hay là ta vào? - chàng nghĩ. - Họ đang cười đùa! Vì họ say. Hay là ta cũng uống cho thật say?"
- Ông anh không vào à? - Một người con gái đứng trong đám kia hỏi, giọng nghe khá vang và chưa khan hẳn. Cô ta hãy còn trẻ, và là người duy nhất trong bọn trông không đến nỗi tởm.
- Cô em xinh nhỉ? - chàng vừa đáp vừa ngẩng lên nhìn cô ta.
Cô ta mỉm cười, rất thích chí vì câu tán tỉnh nầy.
- Ông anh cũng xinh lắm, - cô ta nói.
- Gay quá! - một cô khác nói giọng ồ ồ. - Mới ở nhà thương ra à?
- Hình như có cả con gái nhà quan nữa đấy, thế nhưng mũi vẫn hếch như thường! - một người mu-gích vừa mới đến bỗng nói xen vào, hắn say chuếnh choáng, áo chẽn mở phanh, mồm ngoác ra cười ranh mãnh.
- Vui chưa kìa? - hắn nói tiếp.
- Đã đến thì vào đi nào!
- Tôi vào chứ, cô em ạ! - Hắn xồng xộc bước xuống.
Raxkonikov bỏ đi.
- Ông anh! - cô gái gọi với theo chàng.
- Cái gì?
Ả đâm ngượng:
- Ông anh ạ, giá em được gần ông anh một vài giờ thì em sung sướng quá, nhưng bây giờ trước mặt ông anh không hiểu sao em ngượng lắm. Công tử cho em sáu cô-pếch uống rượu đi.
Raxkonikov móc túi hú hoạ lấy ra mấy đồng tiền có được ba đồng năm cô-pếch.
- Ôi, ông anh hào phỏng quá!
- Cô tên gì?
- Ông cứ hỏi Duklida.
- Thật quá quắt lắm, - một cô khác trong bọn bắt đầu nhìn Duklida nói. - Đời thuở ai lại đi xin tiền cái lối ấy bao giờ! Tớ thì tớ chết thẹn mất…
Raxkonikov tò mò nhìn người vừa nói câu ấy. Đó là một người đàn bà trạc ba mươi tuổi, mặt rỗ hoa thâm tím cả lên: môi trên sưng vều. Cô ta chê trách bạn một cách điềm tĩnh và nghiêm trang.
"Không biết mình có đọc ở đâu, - Raxkonikov nghĩ thầm trong khi dời bước, - không biết mình có đọc ở sách nào có đoạn nói một người bị xử tử hình, một giờ trước khi chết, có nói hay nghĩ rằng ví thử có phải sống ở một nơi nào cao ngất, trên một tảng đá hẹp chỉ vừa đặt hai bàn chân, còn xung quanh là vực thẳm, là đại dương, là bóng đêm vô tận, cô đơn vĩnh viễn và bão táp không cùng, và cứ phải đứng co ro như thế suốt đời. Chẳng nghìn năm, mãi mãi, thì thà sống như thế vẫn còn hơn là phải chết bây giờ! Miễn sao được sống, sống và sống! Sống thế nào cũng được, miễn là sống! Đúng quá! Trời ơi, đúng quá đi mất! Con người thật hèn mạt! "Và hèn mạt thay kẻ nào vì thế mà bảo con người hèn mạt" - chàng nghĩ thêm sau một phút.
Chàng rẽ sang một phố khác. A, "Lâu đài pha lê": Hồi nẫy Razumikhin có nói đến "Lâu đài pha lê". Thế nhưng vừa rồi mình muốn cái quái gì nhỉ. À phải, đọc báo! Zoximov nói là hắn có đọc trong mấy tờ báo.
- Có báo không? - chàng hỏi khi bước vào một quán rượu khá rộng rãi và sạch sẽ gồm có mấy gian phòng hơi vắng khách. Vài ba người khách đang uống nước trà, và trong một gian phòng mãi tít ở trong cùng có một tốp khoảng bốn người đang ngồi uống sâm-banh. Raxkonikov thấy hình như trong số đó có Zamiotov, nhưng vì xa quá khó lòng trông rõ mặt.
"Kệ xác hắn!" - chàng nghĩ thầm.
- Ông dùng vodka ạ? - người hầu bàn hỏi.
- Cho trà ra đây. Với lại đem cho ta mấy tờ báo ra trong khoang năm hôm gần đây, ta sẽ cho tiền uống rượu.
- Vâng ạ. Báo hôm nay đây ạ. Ngài dùng thêm vodka chứ ạ?
Báo cũ và trà đã mang lên. Raxkonikov ngồi vào bàn và bắt đầu tìm: "Izler - Izler - Người Aztek - Người Aztk - Izler - Bartola - Masimo - Người Aztek - Izler. À, đồ quý! À tin hàng ngày đây rồi: một người đàn bà ngã cầu thang - một lão lái buôn chết thiêu vì rượu - một đám cháy ở Bãi Cát - một đám cháy ở phố Petersburg - lại một đám cháy ở phố Petersbung - lại một đám cháy ở phố Petersburg - Izler - Izler - Izler - Massimo… Á, đây rồi…"
Cuối cùng chàng đã tìm ra, và bắt dầu đọc. Những giòng chữ cứ nhảy nhót trước mắt, tuy vậy chàng cũng đọc hết được "tin tức" ấy và háo hức tìm những tin bổ sung mới nhất ở các số sau. Tay chàng run bắn lên vì sốt ruột trong khi lần giở mấy tờ báo. Chợt có ai ngồi xuống bên cạnh, ngay ở bàn chàng. Chàng liếc nhìn sang: Zamiotov, đúng cái anh chàng Zamiotov đó, cũng vẫn cái bộ dạng ấy, vẫn những chiếc nhẫn, những sợi day chuyền, với cái đường ngôi rẽ đôi mớ tóc quăn xức dầu trơn mình mặc chiếc gi-lê bảnh bao, chiếc áo đuôi tôm hơi sờn, và chiếc sơ-mi mặc đã hơi lâu không giặt, hắn đang vui, hay ít nhất hắn cũng mỉm cười vui vẻ và xuề xoà, gương mặt ngăm ngăm đen của hắn hơi bừng lên vì men rượu sâm-banh.
- Kìa! Anh ở đây à? - hắn mở đầu, vẻ bỡ ngỡ, giọng thân mật như thể đã quen chàng từ đời nảo đời nào. - thế mà mới hôm qua Razumikhin còn nói với tôi là anh vẫn chưa tỉnh, lạ thật! Tôi có đến anh.
Raxkonikov đã biết là hắn sẽ đến. Chàng gạt ngay tờ báo ra và quay về phía Zamiotov cười nụ, và qua nụ cười của chàng có thể thoáng thấy một tâm trạng sốt ruột bực tức.
- Tôi biết là anh có đến - chàng đáp, - Tôi có nghe nói. Anh có đi tìm chiếc tất… Thế anh có biết không. Razumikhin chết mệt với anh rồi đấy, cậu ấy bảo là anh với cậu ấy có đến nhà Lizaveta Ivanovna, người mà anh đã ra sức che chở hôm ấy: anh nháy trung uý thuốc súng, nhưng ngài trung uý vẫn không hiểu cho: Anh nhớ chứ? Sao lại không hiểu nhỉ - sự việc rõ quá rồi còn gì.
- Anh chàng nhộn thật!
- Thuốc súng ấy à?
- Không, bạn anh ấy, Razumikhin.
- Anh sướng thật đấy, Zamiotov ạ; tha hồ lui tới những chỗ khoái nhất, không hề phải nộp thuế. Vừa rồi ai thết anh sâm-banh đấy?
- Đấy là chúng tôi… cùng uống với nhau đấy chứ… Sao lại phải có ai thết?
- Thù lao mà! Dịp nào anh chả lợi dụng? - Raxkonikov cười phá lên - Không sao, anh bạn ạ, không sao! - chàng vừa nói thêm vừa vỗ vai Zamiotov, tôi nói thế không phải vì có ác ý gì, mà chỉ là chỗ bạn bè thân thiết đùa chơi thế thôi, như cái anh thợ sơn nhà anh khi đánh thùm thụp vào người thằng Mitka ấy tr0ng vụ ám sát mụ già ấy mà.
- Sao anh lại biết?
- Có lẽ tôi còn biết nhiều hơn anh nữa đấy.
- Trông anh lạ quá… Chắc anh còn ốm nặng, đáng lẽ anh không nên đi chơi mới phải.
- Anh thấy tôi có vẻ kỳ lạ à?
- Vâng. Anh đọc báo đấy à?
- Đọc báo!
- Họ viết nhiều về các vụ hoả hoạn lắm.
- Không, tôi không đọc những tin hoả hoạn.
Chàng nhìn Zamiotov, vẻ bí mật; một nụ cười ngạo nghễ lại làm cho môi chàng méo xệch đi:
- Không, tôi không đọc tin hoả hoạn, - chàng nháy mắt với Zamiotov nói tiếp - Thôi thú đi, anh bạn trẻ: anh rất nóng lòng muốn biết tôi đọc gì, phải không?
- Có muốn gì đâu, tôi hỏi thế thôi. Chả nhẽ không được hỏi? Sao anh cứ…
- Nầy, anh là người có học, có chữ nghĩa đấy chứ?
- Tôi học đến lớp sáu trung học (1), - Zamiotov đáp giọng khá hãnh diện.
- Lớp sáu à! Cà anh bạn thân mến của tôi! Đầu rẽ ngôi, tay đeo nhẫn - một con người giàu có? Chà, cậu bé đáng yêu thật! Nói đến đây Raxkonikov phá lên cười ha hả, mồm chõ thẳng vào mặt Zamiotov, hắn né ra xa, không phải vì khó chịu mà vì quá ngạc nhiên.
- Xì người đâu mà kỳ quái! - Zamiotov nhắc lại, vẻ rất nghiêm trang. - Tôi có cảm tưởng là anh hãy còn mê sảng.
- Tôi mà mê sảng? Anh nói bậy, anh bạn trẻ ạ? Tôi kỳ quặc lắm hả? Tôi đáng cho anh chú ý lắm phải không? Đáng chú ý chứ gì?
- Đáng chú ý.
- Chú ý xem tôi đọc gì, tôi tìm cái gì hẳn? Tôi chả bảo đưa ra cả một mớ báo thế nầy kia mà! Khả nghi lắm, hả?
- Anh cứ nói đi xem.
- Anh vểnh tai lên đấy à?
- Vểnh cái gì?
- Rồi tôi sẽ nói cho anh biết lad vểnh tai để làm gì anh bạn ạ, tôi tuyên bố với anh… không, tốt hơn là tôi xin "thú nhận"… Không, chưa đúng, phải là "tôi xin cung khai", còn anh thì "lập biên bản" - thế đấy! Vậy tôi xin cũng khai rằng tôi có đọc, có quan tâm… tìm tòi… - Raxkonikov nheo nheo đôi mắt, chờ đợi - tôi muốn tìm tòi, cho nên mới đến đây, tôi muốn biết về vụ ám sát mụ già chủ hiệu cầm đồ - cuối cùng, chàng nói khẽ gần như thì thào, mặt dí sát vào mặt Zamiotov. Zamiotov nhìn chàng trừng trừng, không nhúc nhích, không né ra. Điều về sau khiến Zamiotov lấy làm lạ nhất là suốt một phút đồng hồ họ đã im lặng nhìn nhau như thế.
- Thế thì sao, anh đọc cái gì? - Zamiotov bỗng băn khoăn và sốt ruột quát lên. - Việc gì đến tôi đọc thì đã làm sao?
- Chính cái mụ già nầy, - Raxkonikov tiếp, vẫn nói thì thào và vẫn không nhúc nhích khi nghe tiếng quát của Zamiotov, - chính mụ già mà các anh đã nói chuyện ở quận cảnh sát khi tôi ngất đi, anh có nhớ không nào? Sao, bây giờ anh hiểu rồi chứ?
- Thế là cái gì? Sao lại… "hiểu"? - Zamiotov nói, trong bụng hơi hoảng.
Gương mặt nghiêm trang và lạnh lùng của Raxkonikov biến sắc hẳn đi trong giây lát rồi chàng bỗng cười phá lên như lúc nãy, như thể không còn chút khả năng tự chủ nào nữa. Và trong giây lát chàng sực nhớ lại rõ nét lạ lùng cái cảm giác hôm nào chàng cầm rìu đứng sau tấm cửa trong khi cái móc rung lên bần bật và hai người đứng trước cửa tức giận chửi bới. Còn chàng thì chợt nảy ra ý muốn quát mắng họ, lè lưỡi ra trước mặt họ, trêu gan họ và cất tiếng cười thật to, thật to!
- Anh điên rồi, hay là… - Zamiotov nói rồi bỗng ngừng bặt, như thể choáng người đi vì một ý nghĩ đột ngột nảy ra trong óc.
- Hay là? "Hay là" cái gì? Nào, cái gì? Nói đi xem nào.
- Có gì đâu - Zamiotov bực bội đáp, - chỉ nhảm!
Cả hai lặng thinh. Sau trận cười đột ngột, Raxkonikov bỗng trở nên đăm chiêu và ủ dột. Chàng chống khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm đầu, hình như chàng đã quên hẳn Zamiotov. Im lặng kéo dài khá lâu.
- Sao anh không uống trà đi? Nguội hết, - Zamiotov nói.
- Hả? Cái gì? Trà ấy à? À phải… - Raxkonikov cầm chén lên uống một ngụm, bỏ vào mồm một miếng bánh. Rồi đưa mắt nhìn Zamiotov chàng bỗng như chợt nhớ ra hết và định thần lại: lập tức gương mặt chàng trở lại với vẻ ngạo nghễ như ban nãy. Chàng tiếp tục uống nước trà:
- Thời buổi nầy những bọn gian phi mọc lên nhan nhản, - Zamiotov nói - Cách đây không lâu trong tờ "Tin tức Moskva" có đăng tin bắt được cả một bọn giả mạo. Chúng nó có cả một hội kín, chúng làm giấy bạc.
- Ờ, đã lâu rồi còn gì! Tôi đọc đã cách đây một tháng, - Raxkonikov điềm tĩnh trả lời - thế theo anh đó là một bọn gian phi? - chàng cười nhạt nói thêm.
- Chứ còn gì nữa!
- Bọn ấy à? Bọn ấy là một lũ nhãi nhép chứ gian phi gì! Hàng năm chục người họp nhau lại để làm một việc như thế! Ai lại làm ăn kiểu ấy bao giờ? Ba người cũng đã là nhiều rồi, mà trong bọn, người nầy cũng phải biết chắc bụng dạ người kia hơn cả chính bản thân mình! Nếu không thì chỉ cần một người uống rượu say nói ba hoa dăm câu là công chuyện vỡ lở hết? Chỉ là một bọn nhãi nhép! Chúng nó dùng những người không tin cẩn đem tiền giả ra đổi ở các kho bạc, việc như thế mà bạ ai cũng giao. Cứ thử cho là cái bọn nhãi kia làm ăn trót lọt, mỗi đứa đổi được một triệu bạc, thế rồi sao nữa? Còn cả đời người kia mà? Suốt đời đứa nầy vẫn lệ thuộc vào đứa kia, cứ lo nơm nớp là một đồng loã sẽ tiết lộ, thế thì thà thắt cổ mà chết! Nhưng đằng nầy đổi tiền chúng cũng không biết đổi kia: ra kho bạc đổi năm nghìn, mà tay run lẩy bẩy. Đếm lại được bốn nghìn, còn một nghìn nữa thì không đếm, chỉ chực bỏ túi đi cho nhanh. Thế là người ta sinh nghi. Mọi việc đều hỏng bét chỉ vì một thằng ngốc? Sao lại có thể như thế được?
- Sao lại có thể run tay ấy à? - Zamiotov đáp, - có thể lắm chứ. Tôi thì tôi tin chắc là có thể lắm. Có khi người ta không tự chủ được.
- Không tự chủ được à?
- Thế còn anh, chắc anh tự chủ được?
- Không, tôi thì chịu? Chỉ vì một trăm bạc tiền thưởng mà đi làm một việc ghê gớm như vậy! Làm bạc giả đi đổi, mà đi đâu kia chứ - đi đến nhà ngân hàng: ở đấy họ còn lạ gì những cái trò ấy nữa, - không, tôi sẽ cuống lên mất. Thế anh thì sao, liệu có cuống không?
Raxkonikov bỗng dưng lại thấy muốn "thè lưỡi" ra quá chừng. Sống lưng chàng gây gấy lên trong khoảng mấy phút.
- Giá phải tay tôi thì tôi không làm như thế - chàng mở đầu xa xôi. Tôi sẽ đi đổi tiền như thế nầy: xấp bạc thứ nhất tôi sẽ đếm đi đếm lại đến bốn lần, hết đếm xuôi lại đếm ngược, xem kỹ từng tờ một, rồi mới đếm sang xấp thứ hai; đếm được nửa xếp thì ngừng lại rút ra một tờ năm mươi rúp giơ ra ánh sáng soi thử, lật ngược lại soi lần nữa - bạc giả chăng? "Ngại lắm" tôi sẽ nói thế - tôi có người bà con vừa mất toi hăm nhăm rúp như thế đấy"; thế rồi tôi sẽ kể chuyện nầy ra. Đến khi đếm sang xấp thứ ba thì: à khoan, xin lỗi, hình như xấp thứ hai tôi đếm chưa kỹ ở chỗ bảy trăm, nghi lắm, thế là bỏ xấp thứ ba đấy, đếm lại xấp thứ hai, - Ấy cứ thế mà đếm cho hết năm xấp năm nghìn.
Xong xuôi đâu đấy, lại rút ở xấp thứ năm và xấp thứ hai ra mỗi xấp một tờ, lại giơ lên coi, lại ngờ ngợ, "ông làm ơn đổi cho tờ nầy" - làm cho lão ngồi quầy phải toát mồ hôi hột ra mới thôi, đến nỗi hắn chi mong sao tôi buông tha hắn ra cho chóng? Rồi đến khi xong xuôi đâu đấy tôi mới đi ra, mở cửa… À quên, xin lỗi, lại quay vào, lại hỏi han nầy nọ cho rõ; tôi thì tôi làm như thế đấy!
- Chà, anh nói những chuyện nghe mà rợn cả người lên - Zamiotov cười. - Nhưng nói thì nói thế thôi, chứ nếu làm thật thì anh cùng vấp. Anh ạ, theo tôi, không riêng gì anh với tôi mà ngay một kẻ thành thạo và hết sức liều lĩnh cũng không thể tin chắc mười phần ở mình được. Nói đâu xa: cứ lấy ngay vụ giết người ở khu phố ta chẳng hạn. Hình như đây cùng là một tay không vừa, giữa ban ngày ban mặt mà dám liều mạng như thế, cuối cùng chỉ gặp may mà thoát, ấy thế nhưng vẫn run tau không biết cách lấy của, không tự chủ được; cứ xem vụ nầy cũng rõ…
Raxkonikov có vẻ như bị chạm vào tự ái.
- Rõ. Thế bây giờ các anh thử bắt hắn đi xem? - chàng nói to lên, trêu tức Zamiotov với một vẻ hả hê.
- À rồi sẽ bắt thôi!
- Ai bắt? Anh à? Anh mà bắt được à? Cứ thử vào đấy mà xem! Đối với anh cái nầy mới là cái chính: hắn ta có tiêu tiền hay không? Trước thì không có tiền, thế mà nay tiền đâu bỗng dưng đem ra tiêu văng mạng, thế thì còn ai vào đây nữa? Về điểm nầy thì một thằng bé con bằng nầy cũng có thể lừa anh được, nếu có muốn!
- Sự thật làm đứa nào cũng là như thế, - Zamiotov đáp - giết người thì giết một cách rất xảo quyệt, liều cả tính mạng, nhưng rồi lại lập tức đến quán rượu thò cổ vào tròng. Chính là người ta căn cứ vào cách tiêu tiền mà bắt. Không phải ai cũng khôn ngoan như anh cả đâu! Anh thì dĩ nhiên là không vào tiệm rượu chứ?
Raxkonikov cau mày nhìn Zamiotov chòng chọc.
- Hình như anh đã phát thèm lên, muốn biết tôi sẽ hành động ra sao nếu ở vào địa vị ấy? - chàng hỏi, vẻ phật ý
- Muốn chứ, - Zamiotov đáp, giọng nghiêm trang và rắn rỏi. Không hiểu sao bây giờ hắn nói và nhìn một cách quá nghiêm nghị.
- Muốn lắm à?
- Muốn lắm.
- Được! Tôi thì tôi sẽ hành động như thế nầy đây. - Raxkonikov bỗng dừng lại dí sát mặt mình vào mặt Zamiotov, lại nhìn chòng chọc vào mặt hắn và lại nói thì thào, đến nỗi lần nầy hắn phải giật mình.
- Tôi thì tôi sẽ làn như thế nầy đây; tôi sẽ lấy tiền, đồ đạc và vừa ở đấy ra một cái là tôi đi thẳng, không ghé vào đâu hết, đến một nơi thật kín đáo và vắng vẻ, xung quanh chỉ có tường và rào, một vườn rau hay một cái gì như thế tôi đã tìm từ trước: một tảng đá, nặng chừng một pút hay pút rưỡi gì đấy nằm ở góc sân, cạnh hàng rào, nó vẫn nằm đấy từ khi xây nhà: tôi sẽ nhấc tảng đá ấy lên, phía dưới tất phải có một chỗ trũng, tôi sẽ bỏ tiền và đồ đạc vào chỗ trũng ấy. Xong đâu đấy tôi sẽ vần tảng đá lại như cũ, lấy chân dận thêm vào và bỏ đi. Một năm, hai năm, tôi vẫn chưa lấy, ba năm cũng chưa lấy, - các anh cứ thử tìm xeml Mất biến.
- Anh điên rồi, - Zamiotov nói, không hiểu sao giọng cũng thì thào và bỗng né xa Raxkonikov.
Mắt chàng sáng quắc, mặt chàng tái nhợt đi; môi trên chàng run bần bật. Chàng chồm vào thật sát Zamiotov, môi lắp bắp nhưng nói không ra tiếng gì cả; cứ như thế đến nẳa phút, chàng cũng biết mình đang làm gì, nhưng không kìm nổi. Một lời thú nhận khủng khiếp cứ nhảy bần bật trên môi chàng như hôm nào cài móc cửa nhảy bần bật trong khâu sắt, tưởng chừng nó sắp bật ra ngay tức thì; chỉ cần buông nó ra, chỉ cần thốt nó lên.
- Thế nếu chính tôi giết mụ già và Lizaveta thì sao? - chàng bỗng thốt lên… và sực tỉnh.
Zamiotov bàng hoàng nhìn chàng và tái mặt đi. Một nụ cười mếu máo hiện lên trên mặt hắn.
- Làm sao lại có thể như thế được? - Hắn nói rất khẽ. Raxkonikov hằn học nhìn hắn.
- Anh phải nhận là anh tin đi! Hả? Phải không nào?
- Không! Hoàn toàn không, bây giờ tôi lại càng không tin hơn bao giờ hết! - Zamiotov nói vội.
- Bây giờ tôi bắt thóp được anh rồi nhé! Lộ tẩy rồi. Thế nghĩa là trước đây anh có tin, chả là "bây giờ anh càng không tin hơn bao giờ hết" kia mà?
- Ồ, hoàn toàn không phải, thế! - Zamiotov kêu lên, vẻ ngượng nghịu - Nãy giờ anh cứ nát tôi để đưa đến đấy phải không?
- Thế anh không tin à? Thế thì các anh nói những gì sau lưng tôi, khi tôi ra khỏi quận? Và trung uý Thuốc súng hỏi cũng tôi làm gì, sau khi tôi bị ngất? Nầy bé con, - chàng đứng dậy cầm mũ và quát gọi người hầu bàn, hết bao nhiêu?
- Cả thảy ba mươi cô-pếch ạ, - người hầu bàn chạy lại, đáp.
- Đây cho anh thêm hai hào uống rượu. Xem nầy, bao nhiêu là tiền - chàng chìa bàn tay run run cho Zamiotov xem mớ bạc giấy, - đỏ nầy, xanh nầy, hai mươi lăm rúp đấy. Ở đâu ra? Lại áo mới nữa, ở đâu ra thế? Anh thừa biết là một cô-pếch tôi cũng không còn kia mà! Chắc là các anh đã hỏi dò bà chủ nhà rồi chứ gì? Thôi xin đủ! Assez causé! (2) Chào anh… chúc anh gặp nhiều điều thú vị!
Chàng bước ra, người run rảy vì một cảm giác kỳ dị như trong cơn bệnh ưu uất trong đó có pha cả một cảm giác khoái lạc không sao chịu nổi. Nhưng chàng vẫn lầm lì, trong người thì mệt nhừ ra. Mắt, chàng nhăn nhó như sau một cơn động kinh. Cảm giác mệt mỏi tăng lên rất nhanh. Vừa rồi sức lực chàng được kích thích và chỉ cần một sức ấy, một cảm giác khích động duy nhất cũng đủ làml cho nó dâng mạnh lên, và hễ cảm giác nầy yếu đi thì nó cũng lại suy yếu rất nhanh. Zamiotov còn lại một mình ngồi yên rất lâu ở chỗ cũ, suy nghĩ trầm ngâm. Raxkonikov đã đảo lộn hết những ý nghĩ của hắn về một điểm nhất định và đã làm cho quan niệm hắn xác định hẳn.
"Ilya Petrovich là một thằng đần!" - hắn quyết định dứt khoát.
Raxkonikov vừa mở cửa ra phố thì bỗng nhiên, ngay ở trước thềm, chàng vấp phải Razumikhin lúc ấy đang bước vào. Đến cách nhau chỉ còn một bước hai bên vẫn không trông thấy nhau, thành thử suýt cộp đầu vào nhau. Họ đưa mắt dò nhau một lát, Razumikhin kinh ngạc đến cực điểm, nhưng rồi một cơn giận thật sự một cơn giận ghê gớm bỗng lóe lên trong mắt anh.
- Thế ra cậu ở đâu! - anh rống lên. - Bỏ giường đi trốn! Thế mà mình chui cả xuống đi-văng tìm hắn, leo cả lên trần nhà nữa! Thiếu chút nữa tôi đã đánh Naxtaxia vì cậu… Thế mà cậu lại đến đây! Rodia! Như thế nghĩa là thế nào? Nói thật đi! Thú đi! Nghe chưa?
- Như thế nghĩa là các anh đã làm tôi phát ngấy đến chết người đi được, tôi muốn đừng ai bên cạnh tôi hết - Raxkonikov bình thản đáp.
- Đừng ai ở cạnh cậu? Trong khi cậu đi chưa ủng, mặt thì xanh như tàu lá, thở thì không ra hơi nữa? Đồ ngu, cậu làm gì trong "lâu đài pha lê"? Cậu phải thú nhận ngay lập tức!
Thôi buông tôi ra - Raxkonikov nói đoạn toan đi vượt qua. Thấy thế Razumikhin liền tiến lên nắm chặt lấy vai chàng.
- Buông ra? Cậu dám nói "buông ra"? Thế cậu có biết tôi sẽ làm gì bây giờ không, tôi sẽ xốc cậu lên như một gói giẻ, xách cậu về buồng và khoá trái cửa lại.
- Razumikhin ạ, - Raxkonikov nói khẽ và hình như hoàn toàn điềm tĩnh, - chả nhẽ cậu không thấy rằng tôi không cần đến những ân huệ của cậu hay sao? Việc gì lại đi làm ơn làm phúc cho những kẻ… không thèm những thứ ấy? Mà lại là những kẻ rất khổ tâm khi phải chịu đựng những thứ ấy? Khi tôi mới ốm, cậu đi tìm tôi để làm gì? Nhỡ tôi chỉ mong được chết thì sao? Chẳng lẽ thái độ của tôi hôm nay chưa đủ cho cậu thấy rằng cậu làm khổ tôi, rằng tôi đã… phát ngấy lên vì cậu hay sao? Sao lại cứ muốn đến làm khổ người ta như thế. Tôi quả quyết với cậu là những thứ đó làm cho bệnh tình của tôi rất khó thuyên giảm, vì nó cứ làm tôi khích động không ngớt. Hồi nãy Zamiotov chả bỏ đi để tôi khỏi khích động là gì? Cậu nữa, tôi van cậu, cậu cũng đi đi! Và sau nữa, cậu có quyền gì mà dám dùng sức mạnh để giữ tôi lại? Chẳng lẽ cậu lại không thấy rằng tôi đang nói chuyện với cậu một cách hoàn toàn tỉnh táo hay sao? Tôi phải làm gì đấy, tôi biết lấy gì đây, tôi van cậu, cậu hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì để cậu khỏi ám tôi, cho cậu khỏi làm ơn làm phúc cho tôi? Cứ cho tôi là bạc bẽo, tôi hèn hạ cũng được miễn là buông tôi ra, vì Chúa, hãy để cho tôi yên! Đi đi, đi đi!
Khi bắt đầu nói chàng rất bình tĩnh, trong lòng khoan khoái thưởng thức trước những lời lẽ độc địa mà mình sắp nói ra, nhưng đến khi kết thúc thì lại sôi sục lên và thở hổn hển, giống như lúc nầy, khi nói với Lugin.
Razumikhin đứng yên ngẫm nghĩ một lát và buông tay chàng ra.
- Thôi cậu xéo về nhà ma cho rảnh! - Anh nói khẽ vẻ gần như trầm ngâm; nhưng khi Raxkonikov bước đi, anh bỗng gầm lên: - Đứng lại… Cậu nghe đây! Tôi nói cho cậu biết là tất cả bọn cậu, không trừ một đứa nào, đều là những thằng ba hoa, những thằng khoác lác. Hễ có chuyện gì hơi khổ một tí là các cậu cứ bo bo ôm lấy như gà ấp trứng? Ngay cả cái lối ấy nữa, các cậu cũng ăn cắp của các tác giả khác. Không có lấy một dấu hiệu nào tỏ ra các cậu có một cuộc sống độc lập! Thịt các cậu chỉ là mỡ cá voi, máu các cậu chỉ là nước sữa cặn! Hạng các cậu tôi không tin đứa nào hết. Trong trường hợp nào cũng vậy, các cậu chỉ lo sao cho đừng giống một con người! Đứng lạ - ạ - ại! - anh quát lên, giọng giận dữ gấp bột, khi thấy Raxkonikov lại toan bỏ đi, - hãy nghe cho hết đã! Cậu cũng biết là hôm nay bạn bè tôi đến ăn khao nhà mới, có lẽ bây giờ đã đông đủ cả rồi, nhưng tôi để ông chú ở nhà tiếp khách, bảo là chạy tí về ngay. Thế thì giá thử cậu không phải là một thằng ngốc, một thằng ngốc tầm thường, một thằng ngốc thâm căn cố đế, một bản dịch từ tiếng ngoại quốc… Rodia ạ, tôi nhận rằng cậu là một thằng bé thông minh, nhưng vẫn ngốc như thường - đấy giá cậu lại đằng tôi, ngồi chơi với tôi một tối, còn hơn là giầy đi lang thang như thế. Cậu đã ra khỏi nhà rồi thì chẳng còn biết làm sao nữa? Tớ sẽ mượn về mấy chiếc ghế bành thật êm, nhà chủ có đấy… có trà, có bạn… Không thì tớ đặt cậu nằm trên đi-văng, dù sao cùng có bạn có bè với nhau… Cả Zoximov cùng đến. Thế nào, cậu lại chứ?
- Không.
- Bậy quá đi mất! - Razumikhin điên tiết quát lên. - Cậu thì biết gì? Cậu có đủ trí khôn đâu! Cậu chẳng hiểu gì hết… Đã hàng nghìn lần, tớ cũng đã từng nhổ toẹt vào nhân loại như thế, nhưng rồi lại quay trở lại. Thấy xấu hổ… thế là trở về với con người! Thế cậu nhớ nhé, nhà ông Potsinkov, gác ba…
- Cứ thế nầy thì có lẽ ngài để cho người ta đánh ngài chỉ để hướng cái thú làm ơn làm phúc thôi, ngài Razumikhin ạ…
- Đánh ai? Đánh tớ ấy à? Chỉ nho nhoe một chút thôi tớ cũng vặt mũi đi chứ! Nhà Potsinkov, số 47, hỏi phòng ông viên chức Babuskin…
- Tôi không đến đâu, cậu ạ - Raxkonikov lại quay đi.
- Tớ cuộc là cậu sẽ đến! - Razumikhin quát vọng theo. - Nếu không thì cậu… - Nếu không tới không thèm nhìn mặt cậu nữa đâu! Nầy, thư hẵng, có Zamiotov trong ấy không
- Có
- Cậu có gặp à?
- Có gặp.
- Cậu có nói chuyện à?
- Có nói chuyện.
- Chuyện gì thế? Thôi được, xéo đi, không nói thì thôi. Nhà Potsinkov, số 47 Babuskin, nhớ nhé
Raxkonikov đi đến phố Xadovaya và rẽ vào góc phố. Razumikhin tư lự nhìn theo. Cuối cùng anh khoát tay một cái, bước vào nhà, nhưng rồi bỗng dưng lại ở nữa chừng thang gác.
"Mẹ kiếp - anh nghĩ tiếp, gần như nói to lên, - hắn nói cùng mạch lạc, nhưng lại có vẻ như… Mà mình cũng ngốc nốt. Người điên cũng có thể nói năng mạch lạc chứ! Mà hình như Zoximov sợ nhất cái ấy đấy! - Anh gõ ngón tay vào trán. - Nhỡ ra… sao bây giờ mà lại để cho hắn đi một mình? Có thể là hắn nhảy xuống sông… Chà, mình làm ăn hỏng bét? Không thể được?
Và anh cắm cổ chạy ngược trở lại đuôi theo Raxkonikov: nhưng không còn thấy tăm hơi đâu nữa.
Anh nhổ toẹt một bãi nước bọt và bước mau vào "Lâu đài pha lê" tìm gặp Zamiotov để hỏi cho ra lẽ.
Raxkonikov đi thẳng đến cầu X.; ra đến khoảng giữa cầu chàng đứng lại tựa hai khuỷu tay vào lan can và nhìn ra phía xa. Sau khi chia tay với Razumikhin, chàng thấy mệt mỏi đến nỗi chật vật lắm mới lê được đến đây. Chàng cứ muốn kiếm nơi nào ngồi xuống, hay nằm dài ra giữa đường. Nghiêng mình trên giòng nước, chàng thẫn thờ nhìn ánh phản chiếu cuối cùng màu hồng nhạt của mặt trời sắp tắt, nhìn dãy nha tôi xẫm trong bóng hoàng hôn mỗi lúc một dày đặc thêm, một khung cửa sổ nhỏ ở một gác xép xa xa bên tả ngạn, kính đỏ rực lên như bốc cháy vì tia nắng cuối cùng rọi vào trong chốc lát, nhìn con kênh tối xẫm và dường như chăm chú nhìn xuống giòng nước. Cuối cùng trong mắt chàng thấy hiện lên những vòng đỏ quay tít, các tòa nhà chuyển mình, bờ kênh, người qua đường, xe cộ đều quay cuồng nhảy nhót thành vòng. Có lẽ chàng đã ngất đi: nếu bấy giờ không có một cảnh tượng kỳ dị, gớm guốc bỗng khiến chàng giật mình.
Chàng cảm thấy có ai đang đứng cạnh chàng, ngay bên phải; chàng liếc nhìn sang thì thấy một người đàn bà cao, đầu trùm khăn, khuôn mặt hơi dài, gầy xọp, nước da vàng võ, đôi mắt đó sâu hoắn. Người ấy, nhìn thắng vào chàng nhưng hẳn là chẳng trông thấy gì, không phân biệt được ai hết. Người ấy bỗng chống tay phải vào thành cầu, giơ chân phải lên và lần lượt đu cả hai chân sang bên kia lan can nhảy xuống kênh. Giòng nước bẩn tung tóe lên và nuốt chửng mồi trong giáy lát, nhưng mộ phút sau người tự vẫn nổi lên rồi từ từ trôi xuôi theo giòng nước, đầu và chân chìm xuống, lưng nổi lềnh bềnh, chiếc váy phồng lên như cái áo gối.
- Có người tự tử! Có người tự tử? - hàng chục tiếng thét vang lên; họ nhốn nháo chạy lại, hai bên bờ lố nhố những người tò mò, trên cầu, quanh Raxkonikov đã có một đám đông xúm lại, xô nhau chồm cả vào lưng chàng.
- Trời ơi, cô Aphroxinyuska ở nhà tôi mà - gần đâu đây có một giọng đàn bà lu loa - Các ông các bác ơi, cứu cô ấy với! Trăm lạy các ông, các ông vớt cô ấy với!
- Thuyền đâu! Thuyền đâu! - trong đám đông có tiếng quát.
Nhưng không cần đến thuyền làm gì nữa: một người cảnh binh chạy xuống bến, cởi áo khoác, cởi giầy ra và lao xuống nước. Anh ta không phải khó nhọc gì lắm: giòng nước đưa người trẫm mình trôi qua cách bến có hai bước, anh ta đưa tay phải ra túm lấy áo nạn nhân, tay trái đã kịp nắm lấy một cây sào do một người bạn giơ ra cho anh, và lập tức người trẫm mình được kéo lên. Họ đặt cô ta nằm lên mấy phiến đá hoa cương lát bến. Chẳng mấy chốc cô ta mở mắt, ngồi dậy, bắt đầu hắt hơi và xỉ mũi, hai tay cứ xoa xoa chiếc áo ướt sũng một cách ngớ ngẩn. Cô ta lặng thinh không nói gì hết.
- Cô ấy say bí tỉ, các ông ạ, say bí tỉ, - người đàn bà lúc nãy, bây giờ đứng bên cạnh Aphroxinyuska, kể lể - lần trước đã toan thắt cố chết, may người ta cởi dây kịp. Vừa rồi tôi ra cửa hiệu, để con bé ở nhà trông cô ấy thế là có chuyện? Cô ta ở bên cạnh nhà tôi, ông ạ buôn bán nhì nhằng, đây ngôi nhà thứ hai ở cuối phố, kia kìa…
Đám đông tản dần, mấy người cảnh sát vẫn còn loay hoay quanh người tự tử, có ai nói gì léo nhéo về sở cảnh sát… Raxkonikov nhìn cảnh ấy với một cảm giác bình thản và dửng dưng kỳ lạ. Chàng bỗng thấy tơm tởm, "Không, kém lắm, nước… không xong, - chàng lẩm bẩm một mình. - Sẽ không có gì xảy ra hết. - chàng nói thêm, - có gì đâu mà đợi? Còn quận cảnh sát? Tại sao Zamiotov lại không ở quận cảnh sát nhỉ? Mở cửa đến chín giờ cơ mà… Chàng quay lưng ra phía thành cầu và đưa mắt nhìn quanh.
"Thì đi nào! Sao lại không?" - Chàng lẩm bẩm và quả quyết đi về phía sở cảnh sát. Lòng chàng trống trải và tối tăm. Chàng không muốn nghĩ. Ngay tâm trạng ưu tư cũng đã qua, không còn lấy một dấu vết nào của sức quyết tâm lúc nầy khi chàng ra đi "để chấm dứt hẳn tình trạng nầy"! Nó đã nhường chỗ cho một trạng thái mụ mẫm hoàn toàn.
"Đó cũng là một lối thoát! - Chàng nghĩ trong khi uể oải đi chầm chậm trên bờ kênh. - Dù sao ta cũng sẽ chấm dứt, vì ta muốn thế… Nhưng đó có phải là lối thoát không? Thì cũng thế thôi? Cũng vẫn là mấy tấc đất… hê! Nhưng kết liễu như thế thì thật thảm hại? Kết liễu rồi ư? Nói cho họ biết, hay thôi? Chà… quỷ quái! Mình mệt quá rồi - Sao cho chóng đến chỗ nào mà nằm xuống một cái. Xấu hổ hơn cả là những chuyện nầy hết sức ngây ngô. Thôi kệ mẹ nó. Xì, sao lại có thể nghĩ đến những chuyện ngây ngô như thế…".
Muốn đến quận cảnh sát phải đi thẳng mãi qua hai ngã tư rỗi rẽ sang trái: từ đấy chỉ còn mấy bước nữa là đến. Nhưng vừa đi đến ngã tư thứ nhất, chàng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát, ngoặt vào ngõ và đi vòng qua hai phố nữa, có lẽ cũng chẳng có mục đích gì, hoặc giả có thể là để trì hoãn thêm một vài phút. Chàng bước đi, mắt nhìn xuống đất. Bỗng dường như có ai ghé sát tai chàng thì thầm một câu gì. Chàng ngầng đầu lên và thấy mình đang đứng trước "ngôi nhà ấy" ngay trước cổng. Từ buổi tối "hôm ấy" chàng chưa lần nào đi qua đây.
Một ý muốn không sao cưỡng được, không sao hiểu nổi, cứ thôi thúc chàng. Chàng đi qua cổng, rẽ ngoặt vào cánh cửa đầu tiên ở bên phải và bắt đầu bước lên cái cầu thang quen thuộc, lên tầng thứ tư. Trên cái thang gác chật hẹp và dốc đứng lúc bẩy giờ tối om. Lên đến mỗi trạm bằng chàng lại dừng chân tò mò nhìn quanh. Ở trạm bằng tầng thứ nhất, khưng kính ở cửa sổ đã tháo hẳn ra. "Hôm ấy vẫn còn" - chàng thầm nghĩ. Và đây là gian phòng gác hai, nơi Mikolai và Mitka làm việc hôm ấy: "Đóng kín; cánh cửa mới sơn lại; thế nghĩa là phòng nầy cho thuê". Và đây, tầng thứ ba, tầng thứ tư. Đây rồi!" Chàng bỗng đớ người ra: cửa vào phòng ấy mở toang, trong phòng đang có người, nghe có tiếng nói chuyện vẳng ra; chàng thật không ngờ.
Lưỡng lự một lát, chàng bước nốt mấy bậc thang cuối cùng và đi vào phòng.
Gian phòng cũng đang được tu sửa lại; trong phòng có mấy người thợ đang làm việc; chàng có vẻ rất lấy làm lạ về điều nầy. Không hiểu sao chàng cứ hình dung là mọi vật sẽ y nguyên như cũ, thậm chí có lẽ hai cái xác cũng vẫn nằm nguyên giữa sàn nhà: thế mà bây giờ mấy bức tường đều trơ trụi, đồ dạc bàn ghế không có lấy một cái nào; lạ thật! Chàng đến ngồi bên bậu cửa sổ.
Có cả thảy hai người thợ đang làm, còn trẻ cả, nhưng tuổi chênh lệch nhau khá nhiều. Họ đang dán giấy mới lên tường, những tấm giấy dán tường màu trắng có điểm hoa màu tím nhạt, thay cho lớp giấy cũ màu vàng trước kia đã sởn rách. Không hiểu sao Raxkonikov thấy thế rất khó chịu, chàng nhìn lớp giấy mới một cách đầy ác cảm, như thế lấy làm tiếc rằng mọi vật đã thay đổi đi như vậy.
Hai người thợ hẳn là đã làm muộn giờ, và đang hấp tấp cuốn giấy lại sửa soạn ra về. Họ đang mải nói chuyện. hầu như không chú ý đến Raxkonikov. Chàng khoanh tay trước ngực và ngồi nghe.
- Sáng hôm ấy, con bé mới đến nhà tớ, - người lớn tuổi hơn nói với bạn, - đến thật sớm, ăn mặc rất diện. Tớ mới bảo: "Nầy sao đằng ấy cứ làm dáng với tôi làm gì thế, muốn trêu thèm thằng nầy đây hẳn?" Con bé nói: "Anh Tit Vaxilievich ạ, từ nay em muốn hoàn toàn tuỳ ý anh, muốn làm gì em cũng được" thế đấy! Mà diện phải biết nhé: trôxng như các cô ở trong báo thời trang ấy, thật y như trong báo!
- Thế báo thời trang là cái gì hở ông bác? - người trẻ tuổi hơn hỏi. Chắc hẳn xưa nay hắn ta vẫn học khôn ở "ông bác" nầy.
- Báo thời trang là thế nầy chú nó ạ. Nó là những tập tô màu, cứ mỗi thứ bảy lại thấy gứl về cho các hiệu thợ may ở đây, ở nước ngoài gửi về, để cho biết người như thế nào thì phải ăn mặc ra sao, đàn ông cho chí đàn bà. Tranh vẽ ấy mà. Đàn ông thì phần nhiều mặc áo đuôitôm, còn như cái mục đàn bà thì lắm thứ áo trông mê đến nỗi cậu có bán hết cả nhà cậu đi cùng chưa ăn thua!
- Ơ, ở cái xứ Piter (3) nầy chẳng thiếu thứ gì nhẩy! - người thợ ít tuổi hăm hở reo lên - ngoài bố mẹ ra thì cái gì cũng có.
- Ờ, ngoài thứ ấy ra thì cái gì cũng có chú mày ạ, - người thợ lớn tuổi kết luận, giọng ra điều dạy bảo.
Raxkonikov đứng đậy đi sang phòng bên, nơi trước kia đặt cái giường, cái rương và cái tủ ngăn; gian buồng không có bàn ghế trông nhỏ hẹp 1ạ lùng. Giấy dán tường chưa thay, trong góc còn hằn rõ chiếc trang thờ dựng tượng thánh. Chàng nhìn quanh một lát rồi trở ra ngồi ở bậu cửa sổ. Người thợ lớn tuổi gườm gườm nhìn chàng.
- Ông hỏi gì ạ? - hắn đột ngột hỏi chàng.
Raxkonikov không đáp, lẳng lặng đứng dậy đi ra cửa cầm lấy dây chuông kéo. Vẫn cái chuông ấy, vẫn cái tiếng sắt tây ấy? Chàng kéo lần nữa, rồi lần thứ ba, lắng tai nghe và hồi tưởng lại. Cái cảm giác ghê rợn, quái gở hôm nào bắt đầu sống lại, mỗi lúc một rõ nét thêm, sinh động thêm, và cứ mỗi tiếng chuông vang lên chàng lại rùng mình, và càng nghe chàng lại càng thấy khoái trá.
- Ông kia có việc gì thế? Ông là ai? - người thợ ra theo, quát hỏi. Raxkonikov trở vào.
- Tôi muốn thuê phòng, - chàng nói - đến xem thử.
- Đang đêm ai lại đi thuê phòng; mà đáng lẽ ông phải đi với bác gác cổng chứ!
- Sàn rửa sạch sẽ rồi; sẽ sơn lại chứ? - Raxkonikov nói tiếp. Không có máu à?
- Máu nào?
- Máu của mụ già vừa bị giết với mụ em gái ấy mà, hôm trước ở đây nó chảy lênh láng thành cả một vũng.
- Nhưng ông là ai mới được chứ? - Người thợ đâm 1o, hỏi gắt.
- Tôi ấy à?
- Ừ.
- Anh muốn biết phải không? Ta đến quận, tôi sẽ nói.
Hai người thợ bỡ ngỡ nhìn chàng.
- Muộn rồi, chúng tôi phải về đây. Đi đi, Alioska. Phải khoá cửa, - người thợ lớn tuổi nói.
- Nào thì đi! - Raxkonikov thản nhiên đáp và đi ra trước, thong thả bước xuống cầu thang.
- Ê, gác cổng - chàng quát gọi khi xuống đến sân, lúc bấy giờ ngay ở lối vào có mấy người đang đứng nhìn khách qua đường: cả hai người gác cổng, một mụ đàn bà, một người lái buôn và vài người nữa.
Raxkonikov đi thẳng về phía họ.
- Ông muốn hỏi gì? - một trong hai người gác cổng hỏi.
- Anh có đến quận cảnh sát? (4)
- Vừa mới đến xong. Ông muốn gì?
- Họ vẫn làm việc chứ?
- Vâng.
- Ông phó quận trưởng có ở đấy không?
- Lúc nãy thì có. Ông muốn hỏi gì?
Raxkonikov không đáp, đứng yên cạnh người gác cổng ngẫm nghĩ một lát.
- Ông ấy đến xem phòng, - người thợ lớn tuổi lại gần nói.
- Phòng nào?
- Phòng chúng tôi đang làm ấy mà. Ông ấy bảo "tại sao lại chùi máu đi? Ở đây có xảy ra ra một vụ giết người, tôi mưốn thuê phòng nầy". Rồi ông ta kéo chuông, đến suýt đứt cả dây đấy. Ông ấy lại bao là "ta đến sở cảnh sát, tôi sẽ nói hết". Ông ta cứ bám lấy chúng tôi.
Người gác cổng băn khoăn cau mày nhìn Raxkonikov từ đầu đến chán.
- Nhưng anh là ai? - hắn hỏi gắt, giọng dữ tợn.
- Tôi là Rodion Romanovich Raxkonikov, cựu sinh viên, tôi ở nhà Sil, trong ngõ kia, gần đây thôi, phòng số mười bốn. Cứ hỏi bác gác cổng, bác ấy biết tôi đấy. - Raxkonikov đáp, giọng uể oải và trầm ngâm, không ngoảnh lại, cứ nhìn đăm đăm ra dãy phố tối om.
- Anh lên phòng ấy làm gì?
- Đến xem.
- Xem cái gì ở đấy?
- Cứ bắt lên quận xem sao! - người lái buôn bỗng nói chen vào, rồi im bặt.
Raxkonikov liếc mắt qua vai, chăm chú nhìn hắn một lát rồi nói, giọng vẫn khẽ và uể oải.
- Đi đi!
- Dẫn hắn ta đi! - người lái buôn được thể nói thêm. - Sao hắn lại đến chỗ ấy, chắc có ý gì đây, hả?
- Say thì không say, mà ăn nói thật lạ lùng, - người thợ lẩm bẩm.
- Anh muốn gì nào. - người gác cổng lại quát; bây giờ hắn đã bắt đầu nổi giận hẳn hoi. - Sao anh cứ dây dưa mãi thế?
- Không dám lên quan à? Sợ chắc? - Raxkonikov nói, giọng ngạo nghễ.
- Sợ cái gì. Anh lôi thôi cái gì?
- Chắc là một tay làm tiền! - Mụ đàn bà nói.
- Thôi nói chuyện với hắn làm gì, - người gác cổng kia nói; đó là một người mu-gích to lớn mặc áo phanh ngực, thắt lưng đeo một chùm chìa khóa!
- Đi đi! Rõ ràng là hạng làm tiền. Xéo đi!
Đoạn nắm lấy Raxkonikov, hắn xô chàng ra đường. Chàng loạng choạng đâm chúi ra ngoài nhưng không ngã. Đứng thẳng người lại, chàng lặng lẽ đưa mắt nhìn qua mọi người một lượt và bỏ đi.
- Người đâu mà kỳ quặc, - người thợ nói.
- Thời buổi bây giờ thật lắm người kỳ quặc, - mụ đàn bà nói.
- Giá cứ dẫn hắn lên quận, - người lái buôn nói thêm.
- Không việc gì phải dây vào, - người gác cổng thứ hai phân giải - Đúng là một thằng làm tiền. Xưa nay vẫn thế, hắn cứ dẫn xác đến nhưng mình mà dây vào thì rồi gỡ không ra đấy… Biết thừa đi!
"Thế ta có đi hay không?" - Raxkonikov thầm nghĩ. Chàng dừng lại ở giữa một ngà tư và đưa mắt nhìn quanh như thể chờ ai quyết định hộ. Nhưng xung quanh không có lấy một tiếng trả lời, mọi vật đều tối om và im lìm như những phiến đá mà chàng đang dẫm lên: mọi vật đều đã chết đối với chàng, đối với mỗi mình chàng…
Bỗng ở phía xa, cách chàng chừng hai trăm bước, cuối dãy phố, trong bóng tối dày đặc, chàng thấy có một đám đông người đang nói xôn xao, kêu la ơi ới. Giữa đám đông có một chiếc xe ngựa đỗ… Một ngọn đèn chập chờn ở giữa phó "Cái gì thế?"
Raxkonikov quay sang phải đi về phía đám đông.
Dường như chàng muốn bấu viu lấy bất cứ cái gì; chàng mỉm cười lạnh lùng khi nghĩ như vậy, bởi vì chàng đã nhất quyết đến sở cảnh sát và biết chắc rằng chỉ lát nữa, tất cả đều sẽ chấm dứt.

Chú thích:
(1) Thời ấy ở Nga, trường trung học chỉ có 8 lớp
(2) Tán gẫu thế đủ rồi! (tiếng Pháp)
(3) Tên gọi thân mật Petersburg
(4) Những người gác cổng các toà nhà lớn ở Petersburg có bổn phận phải hàng ngày đến đồn sảnh sát trình báo về những việc xảy ra trong ngày hôm ấy.
Chương 13
Giữa phố có một cỗ xe song mã sang trọng của hạng quyền quý, thắng hai con ngựa xám rất hăng, trong xe không có người, anh xà ích cũng đã xuống xe đứng bên cạnh. Người ta đang nắm dây cương sát hàm thiết giữ hai con ngựa. Xung quanh chen chúc một đám rất đông, đứng trước là mấy viên cảnh binh, trong đó có một người cầm cây đèn lồng kính cúi xuống soi một cái gì nằm ở giữa đường, ngay sát bánh xe. Ai nấy đều thi nhau nói lao xao, ồ à luôn miệng, người đánh xe có vẻ hoang mang, chốc chốc lại nói:
- Khổ quá! Lạy Chúa, khổ quá đi mất!
Raxkonikov cố sức len vào và cuối cùng đã thấy được cái nguyên nhân gây ra canh nhốn nháo và thu hút sự tò mò của đám đông nầy. Giữa đất nằm sóng soài một người vừa bị ngựa xéo. Người ấy đã ngất đi, người bê bết máu. Cách ăn mặc của hẳn trông rất tồi tàn, nhưng là kiểu ăn mặc của người; "thượng lưu". Máu chảy ri rỉ trên đầu, trên mặt hắn; khuôn mặt đã bị dập, sây sát và tím bầm lên từng chỗ trông không còn ra mặt người nữa. Có thể thấy rõ hắn bị thương rất nặng.
- Các ông ơi, - người đánh xe rền rĩ, - tôi biết làm thế nào được! Giả sử tôi phóng bạt mạng hay không quát gọi gì cho cam, đằng nầy tôi cho xe chạy rất thong thả. Mọi người đều trông thấy cả, tôi không dám nói dối. Đã say rồi thì mắt còn trông thấy gì nữa - ai lạ gì! Tôi thấy ông ta đi qua phố, chân bước loạng choạng suýt ngã lăn ra; tôi mới quát bảo ông ta tránh, một tiếng, hai tiếng, ba tiếng, và lại kìm ngựa lại; thế mà ông ta cứ chúi đầu vào chân ngựa! Không biết là cố ý hay vì say quá… Ngựa thì ngựa non, hay hoảng, cứ dằng cương mà chạy, ông ta lại hét lên nữa, thành thử chúng càng lồng lên… khổ quá!
- Đúng thế đấy! - trong đám đông có tiếng ai xác nhận.
- Có quát thật, đúng đấy, anh ta có quát ba lần, - một người khác nói thêm.
- Đúng ba lần, ai nấy đều nghe thấy! - người thứ ba nói.
Vả chăng, người đánh xe cũng không lấy gì làm phiền lòng và lo sợ cho lắm. Hẳn chủ nhân cỗ xe nầy là một người giàu có và tai mắt, chắc hiện nay đang ngồi ở đâu đợi xe đến đón. Dĩ nhiên bọn cảnh sát cũng hiểu rõ như thế và cố dàn xếp thế nào cho chủ nhân khỏi đợi lâu. Bây giờ phải khiêng người bị nạn về đồn và đem vào nhà thương. Không ai biết t tên hắn là gì.
Trong khi đó Raxkonikov đã len đến gần và cúi xuống nhìn cho rõ. Bỗng ánh đèn chiếu sáng mặt người bị nạn, chàng đã nhận ra hắn,
- Tôi biết, tôi có biết người nầy - chàng len hẳn ra phía trước kêu lên, - đây là một người viên chức về hưu, một viên tư vấn danh dự tên là Marmelazov. Ông ta ở gần đây, ở nhà Kozel… Đi mời bác sĩ nhanh lên! Tôi sẽ trả tiền, đây! - Chàng móc túi lấy tiền đưa cho người cảnh binh xem. Chàng thấy hồi hộp lạ thường.
Mấy viên cảnh sát rất hài lòng khi thấy có người nhận mặt được kẻ bị nạn. Raxkonikov xưng cả tên mình ra, cho biết địa chỉ và tận tuỵ như thể đây chính là cha chàng, cố hết sức tìm cách đưa Marmelazov, lúc bấy giờ hoàn toàn bất tỉnh, về nhà hắn.
- Đây thôi cách ba nhà nữa, - chàng sốt sắng chỉ trỏ, - nhà ông Kozel một người Đức giàu có… Chắc vừa rồi ông ta uống rượu say khướt rồi mò về nhà. Tôi biết ông ấy… Ông ấy nghiện rượu… Ở nhà ông ta còn có gia đình, một bà vợ, mấy đứa con nhỏ, lại có một cô con gái. Đưa vào nhà thương thì lâu quá mà ở trong nhà ấy thế nào chả có thầy thuốc! Tôi sẽ trả tiền, tôi sẽ trả! Dù sao cũng được người nhà săn sóc chữa chạy cho ngay, chứ đi nhà thương thì có thể chết đọc đường…
Chàng lại còn có đủ thì giờ dúi ngầm một số tiền vào tay người cảnh binh; dù sao trường hợp nầy cũng rõ ràng và hợp pháp, và đưa về nhà thì được cứu chữa nhanh hơn. Đã có mấy người tình nguyện giúp đỡ một tay. Họ khiêng người bị nạn lên và mang đi. Nhà Kozel cách đấy chừng ba mươi bước. Raxkonikov đi ở phía sau, thận trọng đỡ đầu người bị nạn và chỉ lối cho máy người kia.
- Đây đây, lên thang gác phải cho đầu lên trước; quay lại… thế, thế! Tôi sẽ trả tiền, cảm ơn các ông. - chàng lắp bắp.
Katerina Ivanovna vẫn như thường lệ, hễ rảnh tay ra được một phút là lập tức đi đi lại lại trong căn buồng nhỏ hẹp, từ cửa sổ đến lò sưới và ngược lại, hai tay khoanh chặt trước ngực, vừa đi vừa nói lẩm bẩm một mình và ho sù sụ. Thời gian gần đây bà càng ngày càng hay nói chuyện nhiều với Polenka, đứa con gái lớn lên mười. Con bé tuy chưa hiểu được nhiều, nhưng lại hiểu rất rõ rằng mẹ cần đến mình, cho nên bao giờ cũng giương đôi mắt to và thông minh nhìn theo mẹ và cố hết sức giả vờ làm ra vẻ hiểu nhưng lời mẹ nói. Lần nầy Polenka đã cởi áo cho đứa em trai nhỏ suốt ngày hôm ấy ốm khặc khừ, để đặt nó ngủ. Trong khi đợi cho người ta thay áo sơ-mi để đem giặt ngay đêm nay, thằng bé im lặng ngồi thẳng trên ghế, vẻ mặt nghiêm trang, người không nhúc nhích, hai chân ép sát vào nhau duỗi ra phía trước, thấy rõ cả lòng bàn chân, ngón chìa ra hai bên. Nó nghe mẹ nó nói chuyện với chị, môi vều ra, mắt giương thao láo, người không mảy may nhúc nhích, đúng hệt như hết thảy những đứa trẻ thông minh vẫn ngồi khi người ta cởi áo quần cho chúng đi ngủ.
Đứa con gái út mặc toàn giẻ rách đang đứng cạnh tấm bình phong đợi đến lượt mình. Cánh cửa trông ra thang gác mở rộng để tháo bớt ra ngoài những làn khói thuốc lá từ các gian khác luồn vào, và phút phút lại làm cho người ho lao ho sặc sụa. Katerina Ivanovna trông chừng còn gầy hơn nhiều so với tuần trước, và những đám đo đỏ trên má còn đậm màu hơn nữa. Bà ta vừa đi đi lại lại trong phòng vừa nói.
- Con không thể tin được đâu, Polenka ạ, mà cũng không thể tưởng tượng được mẹ con mình sống vui vẻ và sang trọng như thế nào hồi còn ở nhà ông ngoại, và cái lão say rượu ấy đã làm khổ mẹ và làm khổ tất cả các con đến nhường nào! Ông các con xưa kia làm quan ngang chức đại tá và đã sắp được bổ làm tổng trấn; chỉ còn một nấc nữa thôi là lên đến chức ấy, cho nên ai cũng đến thăm, họ nói: "Ivan Mikhailovich ạ, ngay bây giờ, chúng tôi cũng đã xem ông như quan tổng trấn tỉnh nhà rồi đấy" Khi mẹ… Kh…? Khi, mẹ… - một trận ho cắt ngang lời bà - Ôi, cái kiếp chó chết nầy? - bà kêu lên, khạc đờm và ôm lấy ngực, - hôm khiêu vũ lần cuối cùng… ở nhà quan đô thống… công tước phu nhân Bezzemelnaya có trông thấy mẹ - về sau phu nhân có đến chúc phước khi mẹ lấy ba con đấy, Polenka ạ, - hôm ấy phu nhân hỏi ngay: "Có phải đây là người thiếu nữ đáng yêu đã cầm khăn san nhảy múa trong buổi lễ tốt nghiệp dạo nọ không?"… (Phải nhíp cái lỗ rách ấy lại con lấy cái kim mà khâu như mẹ đã dặn… chứ để đến mai, nó rách to ra đấy! - bà vừa nói vừa ho sù sụ). Dạo ấy quan phó thị trấn công tước Segonxkoi mới ở Petersbung về… Ông ta có nhảy điệu lazurka với mẹ và ngay hôm sau đã toan đến ngỏ lời cầu hôn mẹ; nhưng mẹ đã chân thành cảm tạ ông ta với những lời lẽ hết sức trân trọng và nói rằng trái tim mẹ đã từ lâu thuộc về người khác. Người khác đó chính là ba con, Polenka ạ; ông ngoại giận lắm… Nước đã được chưa? Thôi đưa cái áo đây cho mẹ, thế còn bít tất… Lida - bà ta gọi đứa con gái nhỏ - thôi đêm nay con cứ thế mà ngủ đừng mặc áo nữa nhé; rồi sẽ… còn đôi bít tất thì con để bên cạnh… Sẽ giặt luôn một thể… Sao mãi cái thằng cha khố rách áo ôm ấy vẫn chưa về không biết, đồ say rượu. Cái sơ-mi hắn mặc thế nào mà rách bươm như cái giẻ lau nhà… Cốt sao giặt cho xong đi một thể để khỏi phải khổ sở hai đêm liền! Trời ơi - bà ta lại ho sù sụ - Lại ho! Cái gì thế? - bà ta kêu lên khi trông thấy đám đông lố nhố ở phòng ngoài và mấy người đang khiêng vật gì vào phòng bà - Cái gì thế, họ khiêng cái gì thế! Trời ơi!
- Đặt đâu bây giờ đây? - Người cảnh binh nhìn quanh phòng hỏi, khi họ đã khiêng cái thân hình máu me bê bết và bất tỉnh nhân sự của Marmelazov vào phòng.
- Đặt lên đi-văng! Cứ đặt lên đi-văng cho tôi, đầu phía nầy, - Raxkonikov chỉ bảo.
- Bị xe chẹt ở giữa đường! Trong khi đang say? - Trong đám đông đứng ở phòng ngoài có tiếng nói.
Katerina Ivanovna mặt tái mét, thở khó nhọc, lũ trẻ sợ hãi cuống cuồng. Con bé Lidoska thét lên một tiếng chạy đến ôm chầm lấy Polenka và run bắn lên.
Đặt Marmelazov nằm xong, Raxkonikov chạy đến cạnh Katerina Ivanovna.
- Tôi van bà, bà cứ bình tâm, bà đừng sợ! - chàng nói rất nhanh. - Ông nhà đi qua đường bị xe chẹt phải, bà đừng sợ, ông ấy sẽ tỉnh dậy, tôi bảo họ khiêng về đây tôi đã có ghé nhà một lần, chắc bà còn nhớ… Rồi ông ấy tỉnh… tôi sẽ trả tiền cho họ?
- Biết mà! - Katerina Ivanovna tuyệt vọng kêu lên một tiếng và đâm bổ về phía chồng.
Raxkonikov chẳng mấy chốc đã nhận ngay ra rằng người đàn bà nầy không phái dễ mà có thể ngất ngay đi được. Trong nháy mắt một chiếc gối đã được lót dưới đầu người khốn nạn: bây giờ chưa có ai nghĩ đến việc đó; Katerina Ivanovna bắt đầu cởi áo cho chồng, xem xét, vội vàng cuống quít lên nhưng không hề rối trí. Bà quên hẳn mình đi, răng cắn chặt đôi môi run lẩy bẩy và cố nén những tiếng kêu chỉ chực bật ra khỏi lồng ngực.
Trong khi đó Raxkonikov nhờ người chạy đi mời bác sĩ. Ông ta ở cách đây một nhà.
- Tôi đã cho người đi mời bác sĩ. - chàng nhắc đi nhắc lại với Katerina Ivanovna, - bà đừng lo, tôi sẽ trả. Không có nước sao? Bà cho tôi cái khăn tắm, khăn mặt gì cũng được, nhanh lên; chưa rõ ông ấy bị thương ra sao… ông bị thương chứ chưa chết đâu, xin cam doan như thế… Không biết bác sĩ sẽ nói sao đây!
Katerina Ivanovna chồm ra cửa sổ; ở đấy, trên một chiếc ghế gãy đặt trong góc, có một cái chậu bằng đất đựng nước dành sẵn để ban đêm giặt áo quần cho lũ trẻ và cho ông chồng. Chính tay bà Katerina Ivanovna tự làm lấy việc ấy, ít nhất là mỗi tuần hai lần, đôi khi còn nhiều hơn, vì đến nay hầu như không còn áo quần mà thay nữa, mỗi người chỉ còn to một bộ đồ lót.
Tính Katerina Ivanovna không sao chịu nổi thói ở bẩn, thà chịu khổ thức đêm làm quá sức trong khi cả nhà đang ngủ, phơi ngay lên dây để đến sáng mai áo quần vừa kịp khô cho con cái mặc sạch, còn hơn là trông thấy cảnh bần thỉu trong nhà. Katerina Ivanovna toan bưng chậu nước đến cho Raxkonikov, nhưng suýt ngã cả người lẫn chậu xuống. Bấy giờ Raxkonikov đã tìm được chiếc khăn bông, nhúng nước cho ướt và lau khuôn mặt vấy máu của Marmelazov. Katerina Ivanovna đứng thở hổn hển, hai tay ôm ghì lấy lồng ngực đau buốt.
Chính bà ta cũng đang cần cứu giúp. Raxkonikov bắt đầu hiểu ra rằng giá đừng đưa người bị nạn về đây có lẽ lại hơn. Người cảnh binh cũng hoang mang.
- Polenka! - Katerina Ivanovna gọi, - chạy đến nhà chị Sonya, nhanh lên. Không có chị ấy ở nhà cũng cứ nhắn là bố bị ngựa xéo phải và hễ chị ấy về là phải đến đây ngay tức khắc. Nhanh lên Polenka! Nào lấy cái khăn nầy mà trùm con!
- Chẹy cho nhenh nhèn! - thằng bé ngồi trên ghế đột nhiên kêu lên, đoạn lại im lặng ngồi thẳng đờ trên ghế như cũ, mắt thao láo, hai bàn chân đưa ra phía trước, ngón chân chĩa ra hai bên.
Trong khi đó căn phòng đã chật ních những người, đến nỗi một quả táo rơi cũng không lọt. Tốp cảnh binh đã bỏ đi, chỉ còn một người tạm thời ở lại đang cố xua đám đỏng từ cầu thang đổ xô xuống cho họ lùi trở lại.
Hầu hết các khách trọ của bà Lippevekzen ở các phòng trong đều kéo đến, lúc dầu họ còn chen chúc ngoài cửa, nhưng rồi họ ồ ạt xông thẳng vào phòng.
Katerina Ivanovna điên tiết lên.
- Ít nhất cũng để người ta chết cho yên thân một chút chứ! - bà quát chõ vào đám người, - xem gì mà xem! Lại hút thuốc lá nữa! - bà ho sù sụ! - Cứ đội cả mũ mà vào nữa đi! Ấy đấy, có đứa nào đội mũ kia kìa… Đi ra! Ít nhất cũng phải biết tôn trọng lấy một xác chết chứ!
Bà nghẹt thở đi trong một cơn ho sặc sụa, nhưng những lời nhiếc móc đã có hiệu lực. Hình như họ còn thấy sợ Katerina Ivanovna nữa là khác; các khách trọ lần lượt chen nhau lùi ra cửa với cái cảm giác thoả thuê thầm kín vẫn thường có khi thấy người nào vừa bị một tai ương đột ngột, dù người có thân thuộc đến đâu, một cảm giác kỳ lạ mà không một ai thoát khỏi thậm chí dù có thành thật thương xót và thông cảm với người bị nạn cũng vậy.
Lúc bấy giờ ở ngoài cửa nghe có tiếng ai nói rằng có việc gì đã có nhà thương, chứ đưa về đây làm huyên náo lên một cách vô ích như thế nầy thật là bất tiện.
Người ta chết mà bảo là bất tiện à? - Katerina Ivanovna thét lên và lao ra cửa định mắng xối xả vào bọn kia một mẻ, nhưng vừa ra đến cửa đã chạm trán phải đích thân bà Lippevekzen: bà ta vừa biết tin và chạy vào "ổn định trật tự". Đó là một người Đức hết sức lắm điều, sống không có chút gì là trật tự cả. Bà ta vỗ tay đánh đét một cái rồi nói:
- Ôi lạy Chúa! Chồồng pà sai rượu, bị ngụa dẫm. Tưa fào nhà thương ti? Tôi là chù nhà ở tây!
- Bà Amalya Ludvigovna! Bà nghĩ đi đã rồi hẵng nói, - Katerina Ivanovna mở đầu, giọng kẻ cả với mụ chủ nhà, bà ta bao giờ cũng nói giọng kẻ cả, để cho mụ ta "biết thân biết phận, và ngay như bấy giờ bà ta cũng không thể từ chối mình cái kiểu ấy - Bà Amalya Ludvigovna…
- Tôi đã páo fới pà là pà khôòng pao giờ tược kọi tôi là Amalya Ludvigovna; tôi là Amal - Ivan!
- Bà không phải là Amal - Ivan, mà là Amalya Ludvigovna; tôi không phải là hạng người đi theo nịnh bà một cách hèn hạ như ông Lebeziatnikov, hiện giờ đang đứng cười ngoài kia (quả nhiên ngoài cửa có tiếng cười và một tiếng reo: "lại cãi nhau rồi!"), cho nên tôi sẽ suốt đời gọi bà là Amalya Ludvigovna, tuy tôi không tài nào hiểu nổi tại sao bà lại ghét cái tên ấy thế. Chính bà cũng thấy rõ tình trạng Xemion Zakharovich nay ta sao; ông ấy đang hấp hối, tôi xin bà đóng ngay cái cửa nầy lại, không cho ai vào hết, ít nhất cũng để người ta chết cho yên với chứ! Bằng không, tôi xin cam đoan với bà rằng ngày mai chính quan tổng trấn sẽ biết rõ hành vi của bà. Công tước tổng trấn biết tôi hồi con con gái và cũng rất nhớ Xemion Zakharovich là người đã chịu ơn công tước nhiều lần. Ai cũng biết rằng Xemion Zakharovich có nhiều bạn bè và nhiều người che chở; chính vì một lòng tự hào cao thượng mà Xemion Zakharovich đã tự ý lánh mặt họ vì thấy mình mắc thói nghiệp ngập, nhưng hiện nay (bà chỉ Raxkonikov) có một vị thanh niên rất hào hiệp giúp đỡ cho. Ngài đây có tiền của và thân thế. Xemion Zakharovich biết ngài từ hồi còn nhỏ, và xin bà Amalya Ludvigovna biết cho rằng…
Katerina nói liến thoắng một thôi một hồi, càng về sau nói càng nhanh, nhưng một trận ho đã cắt ngang những lời lẽ hùng hồn của bà. Vừa lúc ấy người hấp hối tỉnh dậy và rên lên một tiếng… Bà liền chạy lại. Người bị thương mở mắt ra, và, vẫn chưa nhận ra ai với ai và chưa hiểu gì cả, đưa mắt nhìn Raxkonikov đang đứng cạnh. Ông ta thở nặng nhọc, thưa thớt từng tiếng dài; bên khóe môi máu chảy ri rỉ: mồ hôi dồ hột trên trán.
Không nhận ra Raxkonikov, ông ta đào mắt lo lắng nhìn xung quanh. Katerina Ivanovna nhìn chồng với đôi mắt buồn rầu nhưng nghiêm khắc, nước mắt chảy quanh.
- Trời ơi! Khắp cả ngực bị xéo nát ra rồi! Máu chảy nhiều quá! - bà nói, giọng tuyệt vọng. - phải cởi hết áo ngoài ra? Ông có trở được thì quay mình lại một chút. Xemion Zakharovich ạ?
Marmelazov đã nhận ra vợ.
- Gọi linh mục? - Ông ta phiều phào.
Katerina Ivanovna ra cửa sổ, tì trán vào khung cửa và tuyệt vọng kêu lên:
- Ôi cái kiếp chó chết!
- Gọi linh mục! - người hấp hối lại nói sau một phút im lặng.
- Thôi im đi - i - i! - Katerina Ivanovna quát; ông ta ngoan ngoăn im bặt, đưa đôi mắt e dè và buồn bã nhìn vợ; Katerina Ivanovna lại đến đứng bên đầu giường. Ông ta hơi yên tâm, nhưng chẳng được bao lâu.
Chỉ lát sau mắt ông ta bắt gặp con bé Lidoska (đứa con ông ta quý nhất) đang run lẩy bẩy trong xó nhà, như lên kinh phong, và đang nhìn ông với đôi mắt ngạc nhiên, chăm chú của trẻ thơ.
- Thế… sao… - Marmelazov lo lắng đưa mắt chỉ đứa bé. Ông ta muốn nói điều gì không rõ.
- Cái gì nữa thế - Katerina Ivanovna quát.
- Nó đi đất, đi đất! - Marmelazov lấp bắp, đôi mắt đờ dại chỉ vào đôi chân không của con bé.
- Im đi - i -i! - Katerina Ivanovna bực dọc quát lên, - chính ông cũng biết tại sao nó phải đi chân không như thế?
- May quá, bác sĩ đây rồi? - Raxkonikov mừng rỡ reo lên.
Bác sĩ bước vào. Đó là một ông già người Đức nhỏ bé, tính chỉ li cẩn thận. Ông ta đưa mắt nhìn quanh có vẻ ngờ vực, rồi đến cạnh người bị thương, bắt mạch, thận trọng sờ nắn đầu ông ta và với sự giúp đỡ của Katerina Ivanovna? mở cúc chiếc áo sơ-mi bê bết máu phanh ngực người bị thương ra. Khắp ngực đều bị sây sát và xéo nhừ ra; bên phải có mấy cái xương sườn bị gẫy Bên trái, ngay ở tim, có một cái vét lớn màu vàng xin xỉn trông rất gớm guốc: vó ngựa đã đâm mạnh vào đấy. Bác sĩ cau mày. Viên cảnh binh kể lại cho ông ta biết rằng Marmelazov bị bánh xe cuốn theo, lăn lông lốc đến ba mươi bước trên đá lát đường.
- Còn tỉnh dậy được thì lạ thật, - bác sĩ khẽ thì thầm với Raxkonikov.
- Ông thấy thế nào? - Raxkonikov hỏi.
- Sắp chết đến nơi rồi.
- Không còn hy vọng gì hay sao?
- Không còn lấy một chút! Sắp tắt nghỉ rồi… Hơn nữa trên đầu lại bị thương tích rất nguy hiểm… Hừm. Có lẽ nên trích huyết…, nhưng… cũng vô ích thôi. Chắc chắn chỉ năm hay mươi phút nữa là chết.
- Thế ông cứ trích huyết đi.
- Được. Song tôi xin nói trước rằng làm như vậy cùng hoàn toàn vô ích.
Vừa lúc ấy lại nghe có tiếng chân bước, đám đông ở phòng ngoài dãn ra, và một người linh mục già tóc bạc tay cầm đồ làm lễ, hiện ra ở ngường cửa. Một người cảnh binh đã đi tìm ông ta ngay từ khi còn ở ngoài phố. Bác sĩ lập tức nhường chỗ và trao đổi với ông ta một cái nhìn đầy ý nghĩa. Raxkonikov khẩn khoản bác sĩ đợi thêm một lát nữa. Ông ta nhún vai và ở lại.
Ai nấy đều lui ra. Lễ xưng tội làm rất chóng. Người hấp hối khó lòng có thể hiểu được ít nhiều; chỉ phát ra được những tiếng ú ở đứt quãng. Katerina Ivanovna bê Lidoska, kéo thằng bé ở trên ghế xuống, dắt nó đến cạnh cái lò ở góc nhà, quỳ xuống và cho hai con quỳ trước mặt. Con bé chỉ biết run cầm cập, còn thằng bé thì quỳ đôi đầu gối trần xuống đất, vừa giơ tay đều đặn làm những dấu thánh thật to, vừa cúi lạy sát đất, trán cộp xuống sàn: hình như nó rất lấy làm thích thú với việc ấy. Katerina Ivanovna cắn môi cố cầm nước mắt; bà cũng cầu nguyện, chốc chốc lại sửa lại áo sơ-mi cho con, có lúc quay lại rút ở tủ ngăn ra một chiếc khăn trùm quàng lên đôi vai trần của con bé, trong khi vẫn quỳ và vẫn cầu nguyện. Lúc ấy cánh cửa vảo các phòng trong lại bị những kẻ hiếu kỳ mở ra. Ở phòng ngoài, người đến xem mỗi lúc một đông, toàn là những người khách trọ cùng nhà. Tuy vậy họ cũng không vượt quá ngưỡng cửa. Chỉ có một mẩu nến hắt ánh sáng lên quang cảnh nầy.
Vừa lúc ấy Polenka chạy đi tìm chị đã trở về, len rất nhanh qua đám người chen chúc ở phòng ngoài. Nó bước vào, còn thở hổn hển vì vừa phải chạy nhanh, cởi chiếc khăn trùm đầu, đưa mắt tìm mẹ rồi chạy lại nói:
"Chị ấy về kia, con gặp ở giữa phố!". Katerina Ivanovna kéo nó quỳ xuống cạnh mình. Lặng lẽ và e dè: từ trong đám đông len ra một cô thiếu nữ; sự xuất hiện đột ngột của nàng trong gian phòng nầy, giữa cảnh nghèo nàn rách rưới, chết chóc và tuyệt vọng, gây nên một ấn tượng thật kỳ lạ. Người con gái cũng ăn mặc rất, tồi tàn: trang phục của nàng là loại rất rẻ tiền, nhưng lại được trang hoàng diêm dúa theo khẩu vị và kiểu cách riêng của giới nàng, để lộ mục đích một cách trơ tráo và ô nhục. Sonya dừng lại ở ngường cửa, không dám bước vào, ngơ ngác nhìn quanh như thế không hiểu gì hết, quên cả chiếc áo lụa màu mua lại đến ba tầng bốn nấc, rất chướng mắt trong khung cảnh nầy, với chiếc đuôi áo dài một cách lố bịch và chiếc váy xòe mênh mông chật hết cả khung cửa, quên cả đôi giầy trắng, chiếc ô con hoàn toàn vô dụng khi đi đêm nhưng vẫn được nàng cầm theo, và cái mũ lát tròn lố lăng cắm chiếc lông chim màu lửa. Liền dưới cái mũ tròn đội lệch sang một bên như mũ con trai là một khuôn mặt gầy gò, xanh xao và sợ sệt, miệng hé mở, mắt thẫn thờ ra vì sợ hãi. Sonya trạc mười tám tuổi, người bé nhỏ, gầy gò nhưng khá xinh, có bộ tóc vàng và đôi mắt màu thiên thanh. Nàng sững sờ nhìn cái giường, nhìn ông linh mục, nàng cũng thở hổn hển vì vừa phải đi nhanh cuối cùng, hình như nàng đã để ý đến tiếng xì xào trong đám đông và loáng thoáng nghe ra được mấy tiếng dè bỉu. Nàng cúi đầu, bước qua ngưỡng cửa và dừng lại, nhưng vẫn đứng sát lối vào.
Lễ xưng tội và nhận mình thánh đã kết thúc. Katerina Ivanovna lại đến cạnh giường chòng. Người linh mục lùi ra, và trước khi ra về cũng muốn nói đôi lời khích lệ an ủi người quả phụ.
- Thế tôi vứt chúng nó đi đâu? - Katerina Ivanovna cáu kỉnh gạt phắt đi, chỉ vào mấy đứa trẻ.
- Chúa rất từ bi, hãy hy vọng vào sự cứu giúp của đấng vô cùng. - Ông linh mục mở đầu.
- Ừ từ bi, nhưng chẳng đến phần chúng tôi đâu!
- Nói thế là có tội, là có tội. Ông linh mục lắc đầu nói.
- Thế cái nầy không tội à? Katerina Ivanovna chỉ người hấp hối thét lên.
- Có lẽ những người đã trót nhỡ gây nên tai nạn sẽ thuận bồi thường cho nhà bà, ít ra là về khoản mất nguồn thu nhập…
- Ông không hiểu gì hết! - Katerina Ivanovna bực bội khoát tay. - Bồi thường cái gì? Chính hắn say rượu rồi đâm đầu vào chân ngựa kia mà! Thu nhập gì? Hắn thì thu nhập gì, chỉ làm khổ tôi thôi. Hắn uống hết cả tiền của. Hắn lấy trộm của mẹ con tôi đem nướng vào tiệm rượu, hắn đã làm hỏng cả đời mẹ con tôi! Hắn chết đi là may cho mẹ con tôi rồi! Đỡ tốn kém đi nhiều!
- Đến phút lâm chung phải tha thứ bà ạ, nghĩ như thế là có tội, có tội lớn đấy!
Nãy giờ Katerina Ivanovna làng xăng quanh người hấp hối, cho ông ta uống nước, lau mồ hôi và máu trên đầu ông ta, nắn lại chiếc gối, vừa làm vừa nói chuyện với ông linh mục, thỉnh thoảng mới có đủ thì giờ quay mặt về phía ông ta. Nhưng bây giờ bà bỗng điên tiết chồm lên sát ông ta.
- Ối giào, cha ơi! Chỉ toàn nói suông thôi! Tha thứ! Ví thử tối nay hắn không bị chẹt, thì hắn sẽ về nhà say khướt, sơ-mi thì chỉ có một chiếc, mà hắn cũng mặc cho rách bươm, hắn lăn ra ngủ như chết, còn tôi thì thức suốt sáng đêm giặt áo quần cho hắn với lũ trẻ, xong đem phơi ra cửa sổ rồi lại quay ra ngồi vá, nhíp, đấy: đêm của tôi là thế đấy! Thế thì nói chuyện tha với thứ làm gì ở đây! Với lại tôi cũng đã tha cho hắn rồi!
Một trận ho dữ dội cắt ngang lời Katerina Ivanovna. Bà khạc ra khăn mùi soa và giơ khăn cho ông linh mục xem, tay kia ôm ghì lấy ngực. Chiếc mùi soa vấy đầy những máu…
Linh mục cúi đầu lặng thinh.
Marmelazov đã sắp tắt nghỉ; ông ta không rời mắt khỏi khuôn mặt Katerina Ivanovna bấy giờ lại cúi xuống cạnh ông. Ông cứ muốn nói với vợ một điều gì; ông khó nhọc uốn lưỡi lắp bắp mấy tiếng gì không rõ, nhưng Katerina Ivanovna hiểu rằng ông ta muốn xin lỗi mình, đã lập tức lên giọng hách dịch quát chồng.
- Im đi…i…! Đừng nói nữa… Tôi biết ông muốn nói gì rồi!
Người hấp hối im lặng; nhưng vừa lúc ấy mắt Marmelazov đang từ từ đảo quanh quất bỗng nhìn ra cửa, và ông trông thấy Sonya… Nãy giờ ông vẫn chưa nhìn thấy nàng: nàng đứng trong xó tối.
- Ai đấy? Ai đấy? - Ông hỏi hối hả, giọng phều phào khản đặc, lo sự cuống cuồng, đưa mắt chỉ ra phía cửa chỗ Sonya đứng, và cố sức nhổm dậy.
- Nằm xuống! Nằm xú… uống! - Katerina Ivanovna quát. Nhưng với một sức cố gắng phi thường ông ta đã chồng tay nhổm dậy được. Ông ngơ ngác nhìn trừng trừng vào Sonya một lát như không nhận ra con. Vả lại ông cũng chưa lần nào trông thấy nàng ăn mặc như vậy. Rồi bỗng ông đã nhận ra nàng: người con gái đau đớn, tủi cực, xấu hổ trong bộ cánh diêm dúa, đang nhẫn nại đợi đến lượt mình đến vĩnh biệt người cha hấp hối. Một nỗi đau xót vô hạn hiện lên trên gương mặt Marmelazov.
- Sonya! Con… con tha tội cho cha - ông kêu lên và muốn giơ tay ra cho con gái, nhưng hụt mất chỗ dựa, ông ngã chúi xuống, mặt úp trên sàn nhà; người ta vội chạy lại đỡ ông lên, đặt nằm lại chỗ cũ, nhưng ông đã bắt đầu thở hắt ra. Sonya khẽ kêu lên một tiếng nghẹn ngào, chạy đến ôm lấy cha và lặng người đi.
Ông tắt nghỉ trong tay nàng.
- Thế là hết kiếp! - Katerina Ivanovna nhìn xác chồng kêu lên, - Bây giờ biết làm thế nào đây! Lấy gì mà chôn cất! Còn lũ con nầy, ngày mai đây tôi biết lấy gì nuôi chúng nó?
Raxkonikov đến cạnh người quả phụ
- Katerina Ivanovna, - chàng mở đầu, - tuần trước chồng bà có nói rõ cho tôi biết cảnh sống của gia đình… Xin bà tin chắc cho rằng ông nói tới bà với một lòng cảm phục và tôn kính vô hạn. Từ cái hôm tôi được biết ông thương cả gia đình và nhất là yêu kính bà đến nhường nào, mặc dầu ông không may mắc phải thói nghiện ngập khốn khổ, từ hôm ấy chúng tôi đã thành đôi bạn… Bây giờ xin bà vui lòng cho tôi được… góp phần… làm tròn bổn phạn cuối cùng đối với người bạn quá cố. Đây… có hai mươi rúp, hình như thế, và nếu số tiền nầy có thể đỡ cho bà được phần nào, thì… tôi nghĩa là tôi sẽ ghé, thế nào tôi cũng ghé lại… có lẽ đến mai tôi lại đến… Xin chào bà!
Rồi chàng bước nhanh ra khỏi phòng, hấp tấp len qua đám đông để ra cầu thang; nhưng chưa len ra khỏi đã vấp phải Nikodim Phomits, lúc bây giờ vừa được tin xảy ra tai nạn và muốn thân hành đến dàn xếp. Từ hôm Raxkonikov đến sở cảnh sát họ chưa gặp nhau lần nào, nhưng chỉ trong nháy mắt Nikodim Phomits đã nhận ra chàng.
- À anh đấy ư? - Ông ta hỏi.
- Chết rồi, - Raxkonikov đáp. - Bác sĩ và linh mục đều có đến, mọi việc đã xong rồi. Ông đừng quấy rầy người đàn bà khốn khổ ấy nữa, bà ta đã sẵn bệnh ho lao. Nếu có cách gì ông hãy khích lệ bà ta một chút. Vì ông là một người tốt bụng, tôi biết… - Chàng cười nhạt nói thêm, mắt nhìn thẳng vào mặt viên quận trưởng cảnh sát.
- Nhưng kìa, máu dây hết vào người ông rồi, - Nikodim Phomits nói khi trông thấy dưới ánh đèn lồng mấy vết máu còn tươi trên áo gi-lê của Raxkonikov.
- Vâng, máu… khắp người tôi bê bết những máu! - chàng nói, vẻ rất khác thường, rồi mỉm cười, gật đầu và bước xuống thang gác.
Chàng đi thong thả, người sốt hâm hấp, lòng bất giác tràn ngập một cảm giác mới mẻ, vô biên, cảm giác của một sức sống trọn vẹn mãnh liệt vừa phả vào chàng. Có lẽ nó giống cái cảm giác của một người bị tuyên án tử hình rồi đột nhiên được tuyên án ân xá. Xuống được nửa cầu thang, ông linh mục lúc bấy giờ đang về nhà, đuổi kịp chàng; Raxkonikov lặng lẽ tránh ra nhường lối cho ông ta đi trước. Hai người im lặng cúi đầu chào nhau. Nhưng xuống đến bậc cuối cùng, chàng chợt nghe thấy tiếng chân bước vội ở sau lưng. Có ai đang đuổi theo chàng. Đó là Polenka: con bé vừa chạy theo chàng vừa gọi: "Anh ơi! Anh gì ơi?".
Chàng quay lại. Con bé chạy xuống hết cầu thang và dừng lại trên chàng một bậc thang, sát trước mặt chàng, Một ánh sáng mờ mờ từ dưới sân hắt lên.
Raxkonikov nhìn kỹ khuôn mặt gày gò nhưng dễ thương của con bé đang mỉm cười với chàng và đôi mắt ngây thơ đang vui vẻ nhìn chàng. Nó chạy xuống để làm tròn một việc sai phái mà hình như nó rốt lấy làm thích thú.
- Anh ơi, anh tên là gì? Lại thế nầy nữa nhé; anh ở đâu? - nó hỏi gấp vừa hỏi vừa thở hổn hển.
Chàng đặt hai tay lên vai con bé và nhìn nó đăm đăm, lòng tràn đầy một hạnh phúc khó hiểu. Chàng thấy dễ chịu lạ lùng khi nhìn nó, chính chàng cũng không biết tại sao.
- Thế ai sai cô xuống?
- Chị Sonya sai em xuống, - bé đáp, nụ cười càng vui hơn nữa.
- Tôi biết mà, tôi biết là chị Sonya sai cô xuống.
- Cả mẹ cũng sai nữa cơ. Khi chị Sonya bảo em đi mẹ cùng đều nói: "Chạy nhanh lên Polenka!".
- Cô có yêu chị Sonya không?
- Em yêu nhất chị ấy! - Polenka đáp với một giọng quả quyết đặc biết, và nụ cười của nó bỗng nghiêm trang hẳn lại.
- Thế cô có yêu tôi không?
Thay cho câu trả lời, chàng thấy khuôn mặt nhỏ nhắn nhích lại gần chàng va đôi môi mũm mĩm ngây thơ chìa ra hôn chàng. Bỗng hai cánh tay mảnh như hai que diêm của con bé ôm lấy chàng ghì thật chặt: mái đầu nó gục lên vai chàng, và con bé khóc khe khẽ, mặt mỗi lúc một tì mạnh vào chàng.
- Em thương ba quá - một phút sau nó ngẩng khuôn mặt ướt đầm nước mắt lên và lấy tay chùi nước mắt, - bây giờ bao nhiêu là tai nạn - nó nói thầm một cách bất ngờ, với cái vẻ trịnh trọng mà trẻ con thường cố làm ra cho được khi chúng muốn ăn nói "như người lớn"
- Thế ba có yêu cô không?
- Ba yêu Lidoska hơn hết thẩy chúng em, - nó nói tiếp, rất nghiêm trang và không mỉm cười, giọng nói bây giờ đã hoàn toàn như người lớn, - yêu là vì nó bé, là lại ốm nữa, bao giờ ba cũng mang quà về cho nó, còn chúng em thì ba dạy cho biết đọc sách, riêng em thì ba dạy ngữ pháp với lại giáo lý, - nó trịnh trọng nói thêm, - còn mẹ thì không nói gì, nhưng chúng em cũng biết mẹ thích thế lắm, mà ba cũng biết thế; mẹ muốn dạy em học tiếng Pháp, vì đã đến lúc em phải đi học.
- Thế cô có biết cầu nguyện không?
- Ồ, sao lại không biết, biết chứ! Đã lâu rồi; Em lớn nhất nên em đọc thầm một mình, còn Kolia với Lidoska thì đọc to lên theo mẹ; đầu tiên là đọc kinh "Kính mầng", rồi đến một bài kinh nữa là bài "Lạy Chúa tha tội và ban phước cho chị Sonya, rồi đến Lạy Chúa tha tội và ban phước cho ba nầy của chúng con vì ba trước kia của chúng em chết rồi, còn ba nầy là khác, nhưng chúng em cũng cầu nguyện cho cả ba kia nữa".
- Polenka ạ, anh tên là Rodion; sau nầy có khi nào nhớ, em cũng hãy cầu nguyện cho cả "anh Rodion tội nghiệp" nữa nhé, chỉ thế thôi.
- Suốt đời em sẽ cầu nguyện cho anh, - con bé thành tâm trả lời rồi bỗng lại cất tiếng cười, ôm chầm lấy chàng ghì thật chặt. Raxkonikov nói rõ tên họ, địa chỉ cho con bé và hứa ngày mai thế nào cũng ghé lại.
Con bé trở lên nhà, lòng cảm phục chàng không bờ bến. Khi chàng bước ra phố đã hơn mười giờ. Năm phút sau chàng lại đứng trên cầu, ngay ở chỗ người đàn bà nhảy xuống sông lúc nãy.
"Thôi đủ rồi! - chàng nói, giọng quả quyết và đắc thắng, - dẹp hết những ảo ảnh, những nỗi lo sợ hão huyền, những bóng ma! Có cuộc sống đấy! Có phải giờ đây ta không sống đâu? Đời ta không chết theo mụ già ấy! Chúa cứu vớt lấy linh hồn mụ, và thế là đủ rồi, mụ ạ, yên nghỉ đi là vừa! Bây giờ là vương quốc của lý trí và ánh sáng, vương quốc của… ý chí, của sức mạnh… rồi ta sẽ xem! Rồi ta sẽ đọ sức! - chàng nói thêm, giọng ngạo nghễ như thể đang thách thức một ma lực hắc ám nào. - Ta đã bằng lòng sống trong một khoảng không gian rộng có mấy tấc thôi kia mà! Giờ phút nầy ta yếu đuổi lắm, nhưng… hình như bệnh đã khỏi hẳn. Khi bước trong nhà ấy ra ta đã biết nó sẽ qua khỏi. À, nhà Potsinkov cách đây có mấy bước.
Nhất định phải đến Razumikhin, dù không phải chỉ có mấy bước cũng vậy… cứ cho hắn được cuộc! Cứ cho hắn đắc chí, - không sao, mặc hắn… Sức mạnh, cần có sức mạnh: không có sức mạnh thì không làm nên cái gì hết; nhưng muốn có sức mạnh phải dùng sức mạnh, đấy cái ấy họ lại không biết", - chàng nói thêm một cách kiêu hãnh và tự tin mỗi phút một trỗi dậy trong lòng chàng; chỉ phút chốc chàng đã thành một người khác hẳn trước. Nhưng có cái gì khác thường xảy ra khiến chàng thay đổi hẳn đi như vậy? Chính chàng cũng không biết nữa; như người chết đuối bám vào một cọng rơm, chàng bỗng cảm thấy mình "có thể sống được; còn có một cuộc sống, cuộc sống của mình chưa chết theo mụ già". Có lẽ chàng kết luận quá vội, nhưng chàng không nghĩ đến chuyện đó.
"Thế nhưng mình lại nhờ cầu nguyện cho anh Rodion tội nghiệp, - ý nghĩ ấy vụt thoáng qua óc chàng, nhưng đó chỉ là… phòng xa thế thôi!" chàng nghĩ tiếp và cười thầm hành động trẻ con của mình. Chàng đang ở trong một tâm trạng hết sức hưng khởi.
Chàng tìm ra nhà Razumikhin rất dễ dàng; trong nhà Potsinkov người ta đã biết người khách mới đến trọ và người gác cổng chỉ ngay cho chàng lối vào. Lên đến nửa cầu thang đã nghe tiếng cười nói ồn ào của một đám đông người tụ họp. Cửa trông ra thang gác để mở toang; bên trong vọng những tiếng quát tháo và cãi cọ. Phòng Razumikhin khá rộng, khách có đến mười lăm người. Raxkonikov dừng lại trong phòng mắc áo.
Ở đây, sau một tấm liếp, hai người đày tớ gái của chủ nhà đang lăng xăng cạnh hai cái ấm lò lớn, mấy cái chai, hoặc cái đĩa đựng bánh nướng và đồ nhắm từ nhà bếp của chủ nhà đưa tới. Raxkonikov bảo vào gọi Razumikhin. Anh ta mừng quýnh chạy ra. Thoạt trông đã thấy ngay là anh uống rượu rất nhiều, và tuy xưa nay Razumikhin uống rượu không bao giờ say, lần nầy cũng thãy anh hơi chuếnh choáng.
- Cậu ạ - Raxkonikov vội nói, - tôi chỉ đến để nói rằng cậu đã được cuộc và quả nhiên không ai có thể biết trước mình sẽ làm gì. Còn vào thì tôi không vào được: tôi mệt quá, sắp ngã khuỵu xuống bây giờ đây. Vậy chúc cậu sức khỏe và chào cậu? Mai cậu đến đằng tôi…
Nầy, tớ đưa cậu về nhà nhé! Cậu mà đã nói là mệt, thì hẳn…
- Thế còn khách? Cái anh tóc quăn vừa dòm ra là ai thế?
- Anh chàng ấy à? Có ma nó biết! Có lẽ là người quen của ông chú hay cũng có thể là hắn tự dẫn xác đến thôi… Tớ để ông chú ở lại tiếp họ; chú tớ là một người vô giá; rất tiếc là bây giờ cậu không làm quen được. Vả lại kệ mẹ nó cả lũ! Bây giờ họ cũng chẳng thiết gì đến tớ nữa, mà tớ cũng đang cần ra ngoài cho thoáng, cho nên cậu đến như thế thật đúng lúc; chỉ hai phút nữa là tớ đánh nhau với họ, thật đấy? Họ nói nhảm kinh người lên được… Cậu không thể tưởng tượng con người ta có thể nói nhảm đến mức nào! Mà sao lại không thể tưởng tượng được? Chúng mình đây lại không nói nhảm chắc? Thôi cứ để họ nói nhảm: nói nhảm bây giờ thì sau nầy đỡ nói nhảm đi… Cậu ngồi đây một chút, tớ gọi Zoximov nhé.
Zoximov vồ lấy Raxkonikov một cách thèm thuồng; có thể thấy rõ anh ta đang hết sức tò mò muốn biết một điều gì; được một lát mắt anh lại sáng ra.
- Phải đi ngủ ngay tức khắc, - Zoximov quyết định sau khi xem xét bệnh nhân trong chừng mực có thể - đêm nay anh nên uống một ít thuốc thì tốt, uống nhé? Lúc nầy tôi vừa chế… một liều thuốc bột.
- Hai liều cũng được, - Raxkonikov nói. - Liều thuốc bột được uống ngay tức thì.
- Cậu đưa cậu ấy về là rất tốt, - Zoximov bảo Razumikhin; - ngày mai ra sao thì ta sẽ biết, nhưng ngay bây giờ cũng đã khá lắm rồi: so với ban sáng có sự thay đổi đáng kể. Càng sống càng học được nhiều…
- Cậu có biết lúc nãy Zoximov nói nhầm với tớ những gì không? - Razumikhin nói bô bô khi hai người đã ra phố. - Tớ sẽ nói thẳng cho cậu nghe cậu ạ, vì họ toàn là đồ ngốc hết. Zoximov dặn tớ đi dường phải nói chuyện gẫu với cậu và gợi cho cậu nói, rồi sẽ về kể lại cho hắn nghe vì hắn có cái ý là… là cậu… điên, hay gần như thế. Cậu thử tưởng tượng xem! Thứ nhất là cậu còn thông minh gấp ba hắn ấy, thứ hai là cậu đã không điên thì thèm vào chấp những ý nghĩ của hắn, thứ ba là cái cục thịt ấy vốn chuyên nghề phẫu thuật nhưng bây giờ lại xoay ra nghiên cứu các bệnh tinh thần, còn về cậu thì câu chuyện giữa cậu với Zamiotov đã làm cho hắn tin chắc rồi.
- Zamiotov kể cho cậu nghe hết rồi à?
- Kể hết, cậu cừ đấy. Bây giờ tớ hiểu hết đầu đuôi rồi, cả Zamiotov cũng hiểu… Phải, nói tóm lại. Rodia ạ, số là… Bây giờ tớ hơi say chút đỉnh… Nhưng không sao… số là cái ý ấy… cậu hiểu chứ? Quả nhiên đã có lúc bắt rễ vào đầu họ… cậu hiểu chứ? Nghĩa là không có đứa nào dám nói ra miệng, vì nó vô lý quá, và nhất là khi họ bắt cái thằng thợ sơn ấy thì nó đã vỡ tan ra và vĩnh viễn tắt ngấm đi rồi. Nhưng tại sao họ ngốc thế? Lúc nãy tớ có xạt Zamiotov ít nhiều, - cái nầy tớ nói riêng với cậu; cậu đừng để lộ chuyện gì hở ra cậu biết đấy nhé, tớ nhận thấy hắn rất dễ tự ái: việc ấy xảy ra ở nhà mụ Laviza, nhưng hôm nay thì mọi việc đều rõ rành rành. Cái chính là do lão Ilya Petrovich mà ra cả? Hôm ấy hắn lợi dụng khi cậu ngất đi ở sở cảnh sát; mà về sau chính hắn cũng đâm xấu hổ; vì tớ biết…
Raxkonikov háo hức lắng nghe. Razumikhin say rượu đâm ra ba hoa.
- Hôm ấy tớ ngất đi là vì không khí đã ngột ngạt lại sặc mùi sơn mới, - Raxkonikov nói.
- Còn phải phân trần nữa! Mà có phải chỉ có sơn thôi đâu, bệnh đã âm ỉ từ suốt một tháng ròng rồi; Zoximov có thể bảo đảm như thế. Còn thằng bé kia thì cậu không thể tưởng tượng hắn đớ người ra như thế nào! Hắn bảo là "Tôi không đáng cái gót chân người ấy!" tức là cậu ấy. Hắn đôi khi cũng có những tình cảm tốt cậu ạ. Nhưng cái bài học hôm nay ở "Lâu đài thuỷ tinh" thì thật là quá mức hoàn hảo! Lúc đầu cậu làm hắn hoảng đến động kinh lên được! Cậu hầu như xác nhận cho hắn tin chắc một lần nữa vào cái ý điên rồ ấy rồi bỗng nhiên thè lưỡi ra cho hắn: "Nầy, cầm lấy!" Tuyệt diệu! Bây giờ thì hắn có vòi rồi, chết dí đi rồi? Cậu chúa thật đấy, mà với bọn ấy phải thế mới được! Chà lúc ấy lại không có tớ ở đấy, tiếc quá! Lúc nãy ở nhà tớ hắn mong cậu đến lắm đấy. Porfiri cũng muốn làm quen với cậu…
- Thế… cả… lão ấy. Tại sao họ lại liệt tôi vào loại điên?
- Nghĩa là không phải điên. Cậu ạ, hình như tớ ba hoa với cậu quá nhiều rồi đấy… Lúc nầy có một điều khiến cho người ta lấy làm lạ là cậu chỉ chú ý đến một điểm thôi; bây giờ thì đã rõ tại sao cậu lại chú ý đến điểm đó; một khi biết hết hoàn cảnh… và biết việc đó đã khiến cậu khích động và đã gắn liền với bệnh trạng của cậu như thế nào… Tớ hơi say cậu ạ, nhưng có ma nó biết, hắn có một ý gì đấy… Tớ báo cậu: hắn đã lú ruột đi vì những cái bệnh tinh thần ấy rồi! Nhưng cậu thì cứ mặc mẹ hắn…
Hai người im lặng một lát.
- Nầy, Razumikhin ạ, - Raxkonikov lên tiếng, - tôi muốn nói thẳng với cậu: lúc nãy tôi vừa ở nhà một người chết ra, một người công chức mới chết… có bao nhiêu tiền tôi đem cho họ hết rồi… và, ngoài ra, có một người vừa hôn tôi, người ấy thì dù tôi có giết người chăng nữa, cũng sẽ, nói tóm lại, ở đấy tôi còn gặp một người nữa… cắm lông màu lửa, nhưng tôi nói nhảm gì thế nầy; tôi mệt quá, cậu đỡ tôi một tí… sắp đến thang gác rồi…
- Cậu làm sao thế? Cậu làm sao thế - Razumikhin cuống quýt hỏi.
- Tôi chóng mặt, nhưng không phải vì thế, mà vì tôi thấy buồn, buôn quá! Tâm trạng như một đàn bà… thật đấy! Kìa… cái gì thế? Cậu trông kia! trông kìa!
- Cái gì thế?
- Cậu không thấy à? Trong phòng tôi có ánh đèn, cậu thấy không? Qua khe cửa…
Họ đã đứng trước cầu thang cuối cùng, bên cửa phòng bà chủ, và quả nhiên có thể thấy trong buồng Raxkonikov có ánh đèn.
- Lạ thật! Chắc là Naxtaxia. - Razumikhin nói.
- Không bao giờ chị ta lại lên phòng tôi vào giờ nầy, với lại chị ta ngủ từ lâu rồi, nhưng… tôi không cần. Thôi, từ biệt?
- Sao thế? Tôi đưa cậu lên, ta cùng vào?
- Tôi biết rồi, chúng ta cùng vào chứ sao, nhưng tôi muốn bắt tay cậu ở đây và từ biệt cậu ở đây. Nào, cậu đưa tay đây, từ biệt cậu!
- Cậu làm sao thế Rodia?
- Không sao cả; ta lên đi, cậu sẽ làm chứng…
Họ bắt đầu bước lên thang gác, và Razumikhin thoáng có ý nghĩ là có lẽ Zoximov nói đúng. "Chà? Mình nói huyên thuyên làm cậu ấy loạn óc lên rồi?" - chàng lẩm bẩm một mình. Lên đến gần cửa, họ chợt nghe trong buồng có tiếng nói:
- Chuyện gì thế nầy? - Razumikhin kêu lên.
Raxkonikov cầm lấy nắm cửa, mở toang nó ra và đứng sững trên ngưỡng cửa.
Mẹ và em gái chàng đang ngồi trên chiếc đi-văng của chàng; họ đã đợi chàng suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Tại sao chàng lại không hề ngờ họ đến và không hề nghĩ đến họ, mặc dầu đã mấy lần có tin họ đã lên đường và sắp đến đây, hôm nay sẽ đến? Suốt một tiếng rưỡi đồng hồ ngồi đợi họ đã tranh nhau hỏi Naxtaxia, bây giờ vẫn còn đứng trước mặt họ, và chị ta đã có đủ thì giờ kể hết cho họ nghe từ đầu chí cuối. Họ sợ hãi cuống cuồng lên khi nghe nói hôm nay chàng trốn đi trong khi đang ốm, mà qua câu chuyện kể lại có thể thấy rõ là chàng đang mê sảng nữa! "Trời ơi? Rodia làm sao thế!" hai mẹ con đã khóc lóc, đau đớn trong suốt thời gian chờ đợi.
Một tiếng reo vui mừng, hoan hỉ đón chào sự xuất hiện của Raxkonikov, hai mẹ con nhảy xổ ra ôm chầm lấy chàng. Nhưng chàng đứng im như người chết rồi; một ý nghĩ ghê gớm, không sao chịu nổi, đã đột ngột giáng vào chàng như một tiếng sét. Tay chàng cũng không đưa lên ôm lấy mẹ và em: chàng không nhấc nổi. Hai mẹ con ôm hôn chàng, vừa cười vừa khóc…
Chàng bước tới một bước, lảo đảo rồi đổ nhào xuống sàn nhà, ngất đi.
Hoảng hốt, kêu gào, rên rỉ… Razumikhin đang đứng ở ngưỡng cửa, liền lao vào phòng, đưa hai cánh tay hộ pháp xốc bạn lên và trong nháy mắt đã đặt nằm lên đi văng.
- Không sao, không sao? - anh nói với hai mẹ con, chỉ ngất xoàng thôi mà. Mới vừa đây bác sĩ bảo là anh ấy đỡ nhiều rồi, khỏi hẳn rồi mà! Lấy tí nước! À, đây anh ấy tỉnh rồi đây nầy, đấy, tỉnh rồi!
Và nắm lấy tay Duneska mạnh đến nỗi suýt gãy ra, Razumikhin kéo nàng cúi xuống để xem "anh ấy tỉnh rồi đây nầy". Hai mẹ con cảm khích nhìn Razumikhin như nhìn một vị thiên thần; qua câu chuyện của Naxtaxia, họ đã biết Rodia của họ trong suốt thời gian ốm đã chịu ơn "người thanh niên tháo vát ấy như thế nào", ngay tối hôm ấy, trong khi nói chuyện riêng với Dunia, bà Punkheria Alekxandrovna Raxkonikova đã gọi Razumikhin như vậy.
 Fyodor Dostoevsky 
Dịch giả: Cao Xuân Hạo
Theo https://gacsach.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...