Cây đa lối cũ, gọi hồn người xưa
Lời mở đầu:
Tôi rất do dự trước
khi viết bài này vì tính cách riêng tư không những cho tôi mà còn liên quan tới
nhiều người thân khác trong gia đình. Một số thân hữu sau khi đã được nghe tôi
kể chuyện về vụ Gọi Hồn tại Việt Nam đã khuyến khích tôi "tới đi, bác tài!"
Tôi vẫn đợi một thời gian nữa "để xem sao!" Cuối cùng thì một động
lực nội tâm đã "bật đèn xanh" và cho tôi cái hứng thú để viết bài
này.
Có vài phần trong bài viết: Phần Một là "Cây đa lối cũ", Phần Hai
là "Gọi hồn người xưa", Phần Ba là "Cảm xúc và những tín hiệu kỳ
lạ", Phần Bốn là "Xuôi Nam". Những phần này liên quan tới nhau
và trong Phần Ba, tôi đối chiếu những sự việc mà những nhân vật bên Cõi Âm trả
lời những câu hỏi của người bên Cõi Dương qua lời nói của cô đồng.
Phần "Gọi hồn người xưa" do chính tôi ghi chép lại từ trong 3 đĩa
VCD mà cũng chính tôi quay camcorder lấy. Tôi đã bỏ nhiều thì giờ để ghi chép
từng chi tiết trong phần Gọi Hồn. Vì lý do trung thực của phần ký sự
(reporting), tôi chỉ ghi lại những gì mà tôi đã "thấy" (as is). Những
tên người trong phần này, tôi chỉ viết tắt (dùng mẫu tự đầu) nhưng những nhân
vật này tôi không hề bịa đặt.
Trong Phần Ba, tôi
cũng ghi lại những cảm xúc riêng tư và nhất là những giấc mơ, những tín hiệu lạ
lùng mà tôi từng nhận được trong những lúc nửa đêm về sáng. Phải chăng, chúng
ta không thể nào phủ nhận được sự hiện hữu của "thế giới bên kia"?
Xin mời quý vị đọc.
Phần 1: CÂY ĐA LỐI CŨHồi tôi còn nhỏ, sau khi mẹ tôi qua đời, tôi thường có
những giấc mơ lạ kỳ: tôi thường thấy mẹ tôi ngồi trên giường ngay bên cạnh tôi
- vừa vui, vừa buồn vì tôi đã "cầu được, ước thấy". Trong nhiều năm
sau đó, tôi vẫn thường được gặp mẹ tôi trong những giấc mơ và những câu chuyện
trao đổi giữa mẹ con chúng tôi cũng thay đổi theo thời gian. Sau tuổi 50 thì
tôi không còn mơ thấy mẹ tôi nữa nhưng trong thời gian này thì lâu lâu tôi gặp
được thân phụ tôi trong những giấc mơ đầy thương yêu.
Anh lớn tôi khi phải đi cải tạo cũng đã
từng được gặp mẹ trong những giấc mơ và mẹ thường báo mộng cho anh ấy biết
những diễn biến sắp xảy ra. Nhờ những lần báo mộng này mà đã có lần anh ấy
thoát chết vì đạn nổ khi những người tù cải tạo phải "đi làm rẫy".
Chính thân mẫu của chúng tôi cũng đã báo mộng cho anh ấy biết khi nào anh
ấy được thả tù cải tạo và khi nào anh ấy được xuất ngoại. Sau khi anh ấy đã
định cư tại Hoa Kỳ thì mẹ chúng tôi không còn báo mộng cho anh ấy nữa.
Cũng vì những giấc mơ này mà vợ chồng
chúng tôi muốn tìm hiểu về thế giới bên kia. Chúng tôi may mắn có cái duyên
được người bà con cho xem cuốn "phim" DVD thâu lại buổi gọi hồn tại
Hà Nội khi họ về thăm quê hương. Tôi chăm chú ngồi xem những cuộc đối thoại
giữa người bên Cõi Âm và người bên Cõi Dương nhất là những gì đã xảy ra. Chỉ
những người trong cuộc mới biết tường tận các chi tiết mà thôi và tôi đã được
người bà con giải thích những chi tiết riêng tư này. Người bà con của chúng tôi
rất tin về vụ gọi hồn này vì những chi tiết rất là xác thực liên quan giữa
người Cõi Âm và người Cõi Dương. Điều đặc biệt là cả hai anh chị đều là hai
chuyên gia và đã đi làm nhiều năm tại ngoại quốc trước khi về hưu nên khó có
thể mà họ mê tín dị đoan một cách mù quáng được. Xem xong, bà xã tôi - BN- cũng
rất háo hức muốn "gọi hồn" để được gặp bố mẹ và những người đã khuất
khi chúng tôi về thăm Việt Nam. (Xin đón xem Phần Hai: "Gọi hồn người xưa").
Đầu thập niên 90, một người coi tử vi và
tướng số đã cho tôi biết là tôi được vong linh của một bà tổ cô đang phù hộ cho
tôi rất nhiều. Ông ta khuyên tôi nên lập bàn thờ để tưởng nhớ đến bà. Tôi rất
cảm động nhưng vẫn bán tín bán nghi, chả là vì rằng tôi được đào tạo trong lãnh
vực khoa học và kỹ thuật tại Tây Phương; tôi phải cần có được những chứng minh
cụ thể là linh hồn bà tổ cô có luôn luôn theo dõi và phù hộ cho tôi hay không.
Tuy nhiên tôi cũng không phủ nhận vì rằng tôi cũng có những giấc mơ kỳ lạ, nhẹ
nhàng và thật tĩnh lặng trong những năm tôi sống một mình hay hai mình. Cũng
nhờ những giấc mơ này mà tôi đỡ thấy lẻ loi trong những lần bất chợt tôi tỉnh
giấc trong đêm khuya. Tôi không biết là có phải do mẹ tôi, bố tôi hay bà tổ cô
đã về thăm hỏi và an ủi tôi? Tôi chỉ mơ hồ cảm nhận được một sự êm đềm, nhẹ
nhàng trong tâm hồn mà thôi sau mỗi lần "gặp gõ" nàỵ
Anh chị P. (anh ruột tôi) và vợ chồng
chúng tôi hẹn gặp nhau tại Hà Nội vào ngày 12 tháng 12, năm 2005. Vợ chồng
chúng tôi tới Hà Nội trước đó một ngày. Tôi đã sống tại hải ngoại từ hơn 40 năm
trước đó cho nên tôi lại càng náo nức muốn đi kiếm lại những hình ảnh của Hà
Nội và đất Bắc sau khi gia đình chúng tôi di cư vào Nam năm 1954.
Người ra đón chúng tôi tại phi trường Nội Bài là chú H., em con chú con
bác với BN. Đây là lần đầu tiên tôi gặp chú H. nhưng anh em chúng tôi rất hợp
tính nhau nên tôi không cần phải "rào trước, đón sau" và chú H. bắt
đầu "chạy việc" giúp chúng tôi ngay. Sau khi chúng tôi đã vào khách
sạn là BN gọi điện thoại ngay cho cô đồng M. để hẹn ngày mời cô ấy từ Hải Phòng
lên Hà Nội để tổ chức vụ gọi hồn cho các gia đình nội ngoại của BN, tôi, chú
H., thím L.(vợ chú H.) vài ngày sau đó.
Sau khi tắm rửa xong, tôi bắt đầu đi kiếm
căn nhà của bố mẹ tôi tại phố Kim Liên ngày xưa nhưng chẳng thấy nó đâu. Tôi
vẫn thấy cái đường rầy xe lửa chạy trước nhà ngày xưa nhưng hỏi thăm thì chẳng
ai biết tông tích được cái nhà đó. Tôi đi thăm Hồ Bẩy Mẫu, Hồ Ba Mẫu gần nhà bố
mẹ tôi hồi đó. Cảnh vật đã đều thay đổi rất nhiều. Tôi thấy lâng lâng buồn,
nhưng chắc là buồn hơn Bà Huyện Thanh Quan khi bà "bước xuống Đèo Ngang
bóng xế tà ..."
Ngày 14 tháng 12, 2005 "phái
đoàn" chúng tôi trèo lên xe bus về thăm làng quê chúng tôi tại Bắc Ninh.
Chuyến về thăm làng quê này chúng tôi đã tổ chức qua email từ cả hơn một, hai
tháng trước đó. Chú H. là người lo thuê xe và vụ ăn trưa cho "phái
đoàn". Cháu G. (gọi tôi bằng cậu), cháu Q. (gọi tôi bằng chú) bay từ Sài
Gòn ra Hà Nội để làm hướng dẩn viên cho chúng tôi từ Hà Nội về thăm quê cũ tại
làng Me tại Phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Xe bus đi qua Gia Lâm, đi qua làng Đồng Kỵ (nổi tiếng về đồ gổ) trước khi
tới làng Me. Đường đi rất chật hẹp với những con phố nhỏ bụi bậm, ồn ào và cây
cối khẳng khiu vì bị mạt cưa bám đầy và khô ráo.
Xe đậu trước đình làng Me. Cái đình trông
rất khang trang và mới mẻ. Tôi không nhận ra được phương hướng nữa. Cháu G. là
hướng dẫn viên của chúng tôi đi từ đầu đình tới cái ngõ mà hơn 50 năm về trước,
anh em tôi thường bị chó rượt trước căn nhà ở đầu ngõ.
Làng tôi bây giờ khác hẳn với cái làng trong trí nhớ của tôi với những ao
bèo, cây bàng nhiều lá và vườn rau tươi mát. Bây giờ chỗ nào cũng có nhà, ồn ào
và cây cối bị mạt cưa bám đầy vì phần lớn dân làng đều làm nghề thợ mộc. Những
cái ao trông bây giờ thật nhỏ và chứa nước ao tù đen ngòm. Tôi thấy thất vọng
nhưng đồng thời tôi cũng thấy rất vui vì đây là những hình ảnh mà tôi hằng đi
lùng kiếm trong nửa thế kỷ vừa qua.
Tới đầu ngõ, chúng tôi ghé thăm nhà cụ đồ
D. mà ngày xưa anh P.và tôi rất sợ con chó dữ hay rượt anh em chúng tôi mỗi khi
đi qua. Anh Q. - cháu gọi cụ đồ D. bằng ông - trở thành người hướng dẫn cho
chúng tôi đi thăm những nơi khác trong làng.
Anh P. và tôi đứng sững sờ trước cái cổng
của gia trang mà ngày xưa chính cha mẹ chúng tôi thuê người xây cất trước khi
anh em chúng tôi sinh ra đời. Cái cổng gỗ chắc nịch ngày xưa nay đã bị thay
bằng cái cửa "trông chẳng ra cái cửa!" Căn nhà này ngày nay đã bị
chia làm ba "hộ" cho ba gia đình cư ngụ. Họ đã lấp đất mất cái ao sau
vườn để có thêm đất đai. Bụi tre sau vườn bây giờ nhỏ xíu, trông rất tội nghiệp
so với cái bụi tre trong tâm thức của tôi cao vót với các tổ cò và các con cò
trắng đậu trên đỉnh ngọn tre ngày xưa khi gia đình chúng tôi còn sống rất là
hạnh phúc trong gia trang đó!
Hai anh em tôi đứng chụp hình trước cái cây
hương đầy rêu xanh và rêu đen mà ngày xưa mẹ chúng tôi thường ra cúng vào những
ngày mùng một, ngày rằm và Tết Nguyên Ðán. Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi
đã nối lại được cái "mạch điện" của hiện tại và dĩ vãng. "Mạch
điện" này đã từng làm tôi khắc khoải. Cây hương, căn nhà còn đó nhưng chủ
nhân của nó đã bỏ nhà cửa, bỏ ruộng đất, bỏ cuộc đời mà vĩnh viễn ra đi mất
rồi! Tôi nghẹn ngào trong nước mắt: "Mẹ ơi, con đang về thăm nhà, thăm Bố,
Mẹ đây!"
Chúng tôi đi thăm đền thờ cụ Quốc Sư Ðàm
Công Hiệu (ngày xưa đã từng dạy chúa Trịnh Cương học), và đền thờ cụ Tiết Nghĩa
Ðàm Thận Huy (ngày xưa đã từng là một thành viên của Tao Ðàn Nhị Thập Bát Tú
đời vua Lê Thánh Tôn). Tôi cảm thấy rất gần gũi, rộn rã một niềm vui được trở
về thăm quê cha đất tổ; vừa kính trọng, vừa hãnh diện về tổ tiên.
Chúng tôi vào thăm từ đường, khói hương
nghi ngút. Tôi thấy hình thờ của các bác họ và nhiều người thân khác. Từ đường
này là một căn nhà đã được di chuyển từ cái ngõ của đại gia đình chúng tôi. Căn
nhà này nay được dùng dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của chi họ Ðàm Duy -
Ðàm Trung. Anh P. và tôi thay mặt các anh chị em và con cháu tại Bắc Mỹ tặng
cho từ đường một số tiền để lo cho việc cúng giỗ và tu bổ.
Ngay bên cạnh từ đường là nghĩa trang của
họ nội chúng tôi. Bước vào nghĩa trang, tôi thấy lòng thanh thản lạ thường, và
tôi tự nhủ: "Bôn ba chi lắm rồi cũng nằm xuống. Nhưng khi nằm xuống, hồn
mình phải cảm thấy được thảnh thơi. Cái thảnh thơi này, tôi đang cảm nhận đuợc
ngay tại nơi này!" Tôi đang mải chụp hình lia lịa thì nhận ngay ra được
ngôi mộ lớn của Bà Tổ Cô ĐTK của tôi. Tôi gọi BN và hai vợ chồng chúng tôi thắp
hương, khấn vái bà. Tôi thấy thật vui, thật nhẹ nhàng và mừng rỡ trong nội tâm.
Tôi thực sự được thấy mộ bà tổ cô trong cái nghĩa địa yên tĩnh này, một điều
rất bất ngờ, bất ngờ đến ngỡ ngàng! Bây giờ tôi đang có BN luôn luôn bên cạnh
tôi để bù lại những ngày trống vắng của nhiều năm tháng ngày xưa. Các con của
chúng tôi và của anh chị P. đã khôn lớn và bây giờ chúng đã có gia đình. Chúng
tôi không còn phải quá bận tâm về con cái nữa. Hai anh em tôi được sống lại
trong cái cảnh "ngày xưa thân thương"ấy mà chỉ mình hai anh em tôi
mới cảm nhận được mà thôi! Chúng tôi đã thực sự về thăm được quê cha đất tổ và
viếng thăm mồ mả tổ tiên, một điều mà hai anh em chúng tôi đều mong mỏi trong
rất nhiều năm, thật là vui mừng biết chừng nào!
Chúng tôi vào chùa lễ Phật. Chùa này đã
hơn nửa thế kỷ trước, mẹ tôi thường ra lễ chùa vào những ngày mùng một, ngày
rằm hay ngày Tết. Ngôi chùa khang trang, toạ lạc trong một mảnh đất yên tĩnh.
Chúng tôi tặng chùa một số tiền và ngồi ăn trưa ngay tại sân chùa. Lên xe bus
về Hà Nội để buổi tối đại gia đình chúng tôi đi ăn bún ốc Hà Nội.
Quốc Tử Giám tại Hà Nội đã mang lại cho
tôi một hình ảnh rất đẹp, đầy tính cách lịch sử và văn hoá cội nguồn Việt Nam.
Tự nhiên tôi có cảm tưởng như hồi tôi mới 10,11 tuổi khi tôi vào thăm Văn Miếu
lần đầu tiên. Tôi thích nhất là các bia đá trên đó có khắc tên các vị Tiến Sĩ
tiền nhân, tôi cảm thấy hãnh diện về lòng trọng sự học hành của người Việt. Tôi
ghé xem buổi trình diễn hát quan họ. Bài hát "Người ơi, người ở đừng
về" làm tôi liên tưởng ngay tới mẹ tôi, cũng đã từng là một thiếu nữ Nội
Duệ Cầu Lim với áo Tứ Thân và khăn mỏ quạ.
Tôi đứng lặng người nhìn cầu Thế Húc mà
tôi thường lui tới trong những đêm giao thừa trước hồi 1954. Chúng tôi vào thăm
đền Ngọc Sơn và cây đa trong đền là cây đa mà lần đầu tiên tôi được nhìn thấy
lại sau nhiều năm sống xa nhà; tôi chụp hình lia lịa. "Cây đa bến cũ
…" âm hưởng đó thường vang trong đầu tôi và hình ảnh đó tôi vẫn thường đi
tìm kiếm, nhất là mỗi lần đi du lịch trong những nơi vùng nhiệt đới. Ở Hà Nội,
tôi chỉ dám ăn bánh cuốn nóng và giò chả, ngon tuyệt nhưng tôi không dám ăn phở
vì sợ bị... quan Tào rượt đuổi.
Tới chùa Trầm tại Hà Ðông, tôi "kiếm
ra" được cây sấu, cây nhãn, tượng Phật và cái thanh tịnh của Cửa Phật. Tôi
thấy êm đềm, vui vẻ đến độ mừng rỡ vì tôi đã kiếm lại được những hình ảnh,
những cây cối, nhất là cảnh chùa và tượng Phật, những cảm xúc mà tôi những
tưởng đã bị đánh mất từ lâu.
Sapa có một cái gì rất lạ lùng nhưng lại rất là quyến rũ. Chúng tôi đích
thân đi "book tour" ở Hà Nội để tìm hiểu các chuyến đi du lịch ở Việt
Nam. Hãng du lịch "ruớc" chúng tôi bằng 2 cái "xe ôm" từ
nhà chú H. đến nhà ga xe lửa, chính là "Ga hàng cỏ" ngày xưa gần nhà
của bố mẹ tôi tại phố Kim Liên. Trong xe lửa, chúng tôi được hai cái giường
ngủ và tôi chọn giường trên, BN giường dưới. Chúng tôi ở cùng toa với một cặp
vợ chồng trẻ người Pháp. Tôi nằm giật giờ, chẳng ngủ được, phần vì mùi dầu nồng
nặc thổi qua hệ thống thông hơi trong toa xe lửa, phần vì náo nức muốn được tới
Lào Cai ngay. Ngủ không được, tôi ngó qua cửa kính để ngắm phong cảnh. Trời tối
mịt, lâu lâu mới thấy le lói ánh đèn điện yếu ớt. Ðôi khi, tôi thấy một ngọn
đuốc dẫn đường đi cho vài người đang cùng đi bộ, ngoài ra chỉ thấy ánh đêm mà
đối với riêng tôi, tôi thấy rất quý vì đó là ánh đêm Việt Nam của riêng tôi!
Tôi mơ hồ cảm thấy tôi đang "mò mẫm trong bóng đêm" đi tìm kiếm những
gì mà tôi đã bỏ lại trong một thời gian dài đằng đẵng, những gì mà tôi đang
muốn "kiếm cho ra".
Chúng tôi tới ga xe lửa Lào Cai vào sáng
sớm và lấy xe bus về Sapa. Tuy rất mệt nhưng tôi ngồi ngay bên cạnh cửa kính xe
và sẳn sàng chụp hình để ghi lại những hình ảnh có một không hai này. Cuối
tháng 12, Sapa có một cái lạnh thật là lạ kỳ, chẳng giống Canada, Mỹ, Úc hay Âu
Châu, nhưng tôi thấy cái lạnh này rất là quyến rũ. Các khách sạn trải cho khách
một cái chăn điện trong giường để sưởi ấm thay vì cả căn phòng được sưởi ấm như
tại Bắc Mỹ.
Tôi bị thu hút mê mẩn bởi phong cảnh và
khí hậu Sapa trong lúc chúng tôi bắt đầu cuốc bộ khi đi "tua". Tuy
tôi thiếu ngủ nhưng tôi được đi bộ trên cao độ của đồi núi, với không khí thật
trong lành, không ngột ngạt như ở Hà Nội, nên tôi cảm thấy rất khoan khoái và
không hề cảm thấy buồn ngủ. Cái thú đam mê chụp hình của tôi đã được thoả mãn
và trước khi trở về khách sạn, chúng tôi mua bánh chưng trong chợ Sapa. Bánh
chưng ngon chưa từng thấy mà lại còn rẻ nữa. Chẳng lẻ vì tôi quá đói, quá vui
hay thực sự là bánh chưng ngon? Rau cải xanh tại khách sạn ăn hoài mà chẳng
thấy chán! Đã hơn một năm rồi mà tôi vẫn còn thấy vui vui, là lạ mỗi lần nghĩ
tới Sapa. Tôi vẫn khẳng định là Sapa mình chỉ đến thăm hai, ba ngày rồi từ giã
vì ở lâu sẽ mất cái thú của nó. Một ngày nào đó, tôi sẽ về thăm lại Sapa để xem
cái cảm xúc đó nó còn như vậy không.
Xin mời quý vị xem các hình ảnh Sapa qua
website dưới đây:
http://www.pbase.com/bac_ninh/sapa
Qua Internet, tôi đã được xem rất nhiều
các hình ảnh của Vịnh Hạ Long từ mấy năm trước nên tôi "biết" là Hạ
Long rất đẹp. Chú H. thuê riêng một cái xe nhỏ để chở BN, chú và tôi đi thăm Hạ
Long. Ngồi trên xe từ Hà Nội ra Hạ Long, tôi chẳng thấy vui thú gì hết mà còn
thấy sợ hãi nữa. Chả là vì đường đi đầy ổ gà mà bác tài nhà ta cứ lạng xe sang
bên trái mà đi để tránh ổ gà. Tôi thấy hú hồn mỗi lần thấy các xe bus, xe vận
tải lù lù tiến tới từ đằng xa! Tôi được đền bù khi vào xem các hang động và khi
chèo lên thuyền đi trong Vịnh Hạ Long. Trời hơi âm u, nhưng không lạnh. Chúng
tôi thuê riêng một chiếc thuyền có 24 chỗ ngồi nhưng chỉ để dành riêng cho 3
anh em chúng tôi mà thôi. Tôi ra ngồi "hóng gió" trước thuyền để chụp
hình cho rõ ràng trong khi BN và chú H. ngồi bên trong nói chuyện với nhau. Khí
trời lành lạnh, nhưng rất dể chịu làm tôi nhớ tới nhiều bãi biển bên Úc
vào những tháng mùa đông. Tôi cũng nhớ đến những bải biển tại Âu Châu, Bắc Mỹ,
Trung và Nam Mỹ mà tôi đã thăm viếng. Nhiều cảnh biển trên thế giới rất là đẹp,
nhưng tôi thấy dửng dưng và tôi cảm thấy một khoảng cách giữa cảnh và tôi: tôi
tới rồi tôi đi, chẳng có gì để mà lưu luyến! Tuy nhiên, trên mui thuyền tại
Vịnh Hạ Long, tự nhiên tôi cảm nhận thấy rất xúc động được trở về với quê hương
thực sự của tôi và nơi này rất là gần gũi với tôi. Tôi cảm thấy phần hồn tôi
cũng thuộc về nơi này, thuộc về quê hương Việt Nam của tôi đã từ lâu rồi mặc dù
tôi biết chắc chắn rằng tôi sẽ trở về Canada để sống hết quãng đời còn lại của
tôi với các con, các cháu.
Tôi đã từng đi vào nhiều nghĩa trang tại
Bắc Mỹ và những lần này tôi thấy rất yên tĩnh, yên tĩnh đến độ dửng dưng. Khi
tôi vào thăm nghĩa địa gia đình bên nội của chúng tôi tại Bắc Ninh, tôi thấy
rộn lên một niềm vui, những xúc cảm của một "ngày về" và của một cuộc
hội ngộ đột ngột với những người thân thương nay đã quá vãng. Tôi cũng cảm thấy
gần gũi với tổ tiên, với chính tôi và tôi thấy thanh thản vô cùng. Khi tôi vào
thăm nghĩa địa Yên Kỳ tại Sơn Tây, tôi cảm thấy rất xa lạ, ma quái, trống vắng
và có một cảm giác trong tôi thôi thúc tôi phải ra khỏi vùng đất bất ổn đó càng
sớm càng tốt. Tôi cảm thấy đây không phải là "vùng đất của tôi" và
tôi không hề có một ràng buộc gì với vùng đất này.
Trên đường về Nam Định thăm từ đường của
dòng họ Phạm Ngọc, "phái đoàn" của chúng tôi đã viếng thăm nghĩa
trang của họ Phạm. Giữa mùi hương tại một cánh đồng hoang và làn khói của nhang
cắm trên các mộ thờ, tôi cảm thấy nhẹ nhàng và bình an vô cùng. Tôi cảm thấy
như tôi đang được trở về thăm lại những người thân, họ hàng sau khi tôi đã sống
lưu vong trong rất nhiều năm. Tôi ước ao được ở lại nơi này lâu hơn để tôi được
"hưởng" thêm những giây phút "giao cảm" này. Tôi bước lên
xe bus với cảm giác thơ thới và cảm thấy rất mãn nguyện, giống như mỗi lần tôi
kiếm ra được một thứ gì mà tôi đã đánh mất vậy.
Tôi sẽ mang về lại Canada những hình ảnh,
những xúc cảm của tôi với Sapa, với Vịnh Hạ Long, với những nơi tôi đã đi
thăm tại Việt Nam. Cái bức tường vô hình ngăn cách giữa tôi và quê hương cội
nguồn Việt Nam của tôi đã không còn tồn tại nữa. Tôi cũng sẽ chẳng luyến tiếc
và u sầu nữa vì thực ra quê hương tôi vẫn còn sống trong tôi. Tôi vẫn sẽ tiếp
tục đi du lịch nhiều nơi trên thế giới. Đi để mà tôi có thể "móc nối lại
được mạch điện nội tâm" mà đã nhiều lần bị đứt đoạn tại nhiều chỗ.
Trong vòng một tuần về thăm lại quê hương
tại xứ Bắc trước vụ Gọi Hồn, tôi cảm nhận thấy tôi được trở về với quê cha, đất
tổ và với chính bản thân tôi. Tôi thấy tôi bị thu hút, lôi cuốn rất nhẹ nhàng,
rất thân thương bởi nhiều địa danh. Tuy nhiên, tôi thấy ngẩn ngơ thương nhớ cha
mẹ tôi đã phải bỏ quê hương mà vào Nam để rồi thân mẫu của tôi đã mất tại Sài
Gòn vào năm 1955 và thân phụ của tôi đã mất tại Montreal, Canada vào năm 1988.
Tôi ao ước có được một cuộc du lịch tâm linh để hy vọng chúng tôi có thể đối
thoại được với cha mẹ, họ hàng đang sống ở "thế giới bên kia" và nhất
là để tôi tự thuyết phục chính tôi rằng linh hồn con người vẫn còn tồn tại sau
khi chết...
Phần 2: Gọi hồn người xưaTrước khi viết bài này tôi đã
phải tốn mất nhiều thì giờ để ngồi xuống xem và ghi chép lại những diễn biến
chính trong phần đối thoại. Tôi xin nhắc lại, trong phần tường trình
(reporting) này, tôi chỉ ghi lại những gì mà BN và tôi mắt thấy, tai nghe được
trong 3 cái VCD này mà thôi. Vì tính cách riêng tư của gia đình, tôi không có
thể tường trình tất cả các chi tiết của những vị đã về trong chuyến Gọi Hồn
này. Tin hay không tin về đề tài "Gọi Hồn" là tùy vào cá nhân người đọc
và tôi không muốn bàn cãi, tranh luận về phần này.
Phần nhận xét và cảm nhận, tôi sẽ trình bày trong Phần Ba:
"Cảm xúc và những tín hiệu kỳ lạ".
Theo lời chỉ dẫn của cô đồng, ba hôm
trước đó, chúng tôi đã xin phép thổ thần tại nhà chú H để cho họ nội, họ ngoại
của mỗi người trong đám chúng tôi (chú H, thím L, BN và tôi) được phép
"vào nhà" và nói chuyện với chúng tôi.
Như đã thỏa thuận trên điện thoại từ tuần
trước, khoảng 9 giờ sáng ngày 21, tháng 12, 2005, cô đồng đến gặp chúng tôi tại
nhà của vợ chồng chú H. Ngoài 4 người chúng tôi dự buổi lễ Gọi Hồn này còn có
cô H và cô T (hai cô em gái ruột của thím L).
Trên bàn thờ chúng tôi bầy cháo, xôi,
rượu, hoa quả, vàng mã. Ngay trước mặt bàn thờ, chúng tôi đặt một cái bàn thấp
trên đó chúng tôi cũng đặt đồ cúng, 3 ly nước trà, thuốc lá. Chúng tôi trải
chiếu và ngồi trên chiếu trước bàn thờ.
Chú H. thắp nến và cô đồng thắp hương rồi ngồi xếp vòng tròn trong tư thế tọa
thiền (lotus position). Cô đồng ngồi khấn vái, đọc họ và tên của 4 người chúng
tôi để chúng tôi được đón tiếp cha mẹ, họ hàng của chúng tôi bên cõi Âm. Sau
khi khấn họ nội, họ ngoại (last names) bên phía BN, tôi, chú H, thím L; cô đồng
đổ 2 đồng xu trên đĩa để "xin âm dương", nghĩa là đã được người khuất
mặt chấp nhận. Cô đồng "xin âm dương" 3 lần cả thẩy.
Tôi ngồi phía bên trái của cô, bên cạnh
bàn thờ và dùng cái Handy camcorder để ghi lại hình ảnh và tiếng nói. Tôi đã
được người nhà cho biết trước là phần gọi hồn này sẽ kéo dài khoảng 3 tiếng
đồng hồ cho nên tôi đã để sẵn 3 cuộn băng thu hình cộng thêm một cái battery
phòng hờ nữa, miễn làm sao là tôi thâu hình được tất cả các diễn biến vì đây là
"cơ hội ngàn vàng" cho tất cả mọi người hiện diện ngày hôm đó.
Có tất cả 19 nhân vật hiện về trong 3 cuốn
băng thâu trong vòng khoảng 3 tiếng đồng hồ, không kể 2 nhân vật mà chúng tôi
không nhận ra "lý lịch" và 1 nhân vật mà tôi quay không kịp trong lúc
đổi battery. Mỗi nhân vật bên cõi Âm về đối thoại với chúng tôi khoảng từ 3
phút tới 9 phút nhưng cha mẹ chúng tôi thì nói lâu hơn. Tôi xin mạn phép trình
bầy ngắn gọn phần đối thoại của nhiều nhân vật.
Cô đồng ngồi theo lối tọa thiền, nhắm mắt,
tay để ngửa trên đầu gối và các ngón tay gấp lại. Bổng thấy cô ngáp rồi nói:
- Ph về đây!
Ðây là nhân vật đầu tiên xuất hiện và là
cụ tổ 5 đời của BN và chú H. Cụ mất khoảng gần 100 năm rồi.
Nhân vật thứ 2 là cụ tổ 4 đời của BN và H
sau khi chúng tôi và người bên Cõi Âm đã đối thoại và xác nhận được vai
vế của mình. Chú H rót trà mời cụ; cô đồng uống trà và nói truyện. Cụ cho biết
mộ của cụ đã bị thất lạc và vì Cụ thương con cháu nên mới về thăm.
Cô đồng lại vuốt mặt, ngồi một lúc và nhân
vật thứ 3 xuất hiện. Đây là ông nội của BN và H. Cụ cho BN biết nên mang tro
cốt của thân phụ BN từ Canada về lại VN nếu không vong linh của thân phụ của BN
sẽ không được yên ổn. Tro cốt để ở trong chùa không tồt bằng đem ra nghĩa địa
mà chôn cất! Cụ rất thương chú H và vẫn thường về thăm chú H. (Mộ của cụ ở
nghĩa trang Yên Kỳ, tuần trước đó chúng tôi đã lên thăm, thắp hương và cúng các
cụ).
Nhân vật thứ 4 là cụ bà NTN, vợ của cụ tổ
4 đời của BN và H. (BN và tôi đã thắp hương khấn cụ khi chúng tôi viếng mộ của
cụ tại nghĩa trang Yên Kỳ tại Sơn Tây tuần trước đó). Mọi người và tôi rất đỗi
ngạc nhiên khi nghe cụ nói:
- Phán đâu?
(Cụ mất đã lâu năm và trên thực tế Cụ chưa
hề gặp mặt tôi).
Cụ cho biết ngày giỗ của cụ là vào ngày
mùng 2 tháng Giêng âm lịch.
Nhân vật thứ 5 là cháu D. Cháu là con trai
đầu lòng của chú H, thím L và qua đời khi mới 14 tuồi. Hồn chào 2 dì và cô đồng
rồi quay qua BN mà hỏi:
- Thế quà của cháu đâu, bác Nga?
Thím L đứng lên lấy gói kẹo của bác BN đưa
cho cô đồng. Cô đồng xem gói kẹo rồi nói thím L đặt gói kẹo lên bàn thờ cho
cháu D.
Nhân vật thứ 6 xuất hiện rất đột ngột. Chỉ
nghe cô đồng nói rất khẽ:
- Nh về!
- Nga đâu?
- Phán đâu?
- Thế chú B không về hả?
Cả Nga và tôi đều bồi hồi xúc động vì
"Nh" chính là quý danh của thân phụ của BN. Cách xưng hô và gọi tên
những người trong cõi Dương rất là đúng.
Cụ cho biết là ông nội của BN và H muốn
tro cốt của cụ được mang từ Canada về chôn cất tại nghĩa địa Yên Kỳ. Cụ hỏi
thăm anh chị em của BN. Cụ cũng cho tôi biết là bố mẹ tôi "cũng về
đấy"! Theo lời cụ thì năm 2005, chú H không sang Mỹ thăm gia đình được
nhưng năm 2006, chú ấy mới qua Mỹ được.
Nhân vật thứ 7 là bác X (bác của BN và H
-Tuần trước đó, chúng tôi đã thắp hương khấn Bác khi chúng tôi viếng mộ của Bác
tại nghĩa trang Yên Kỳ ở Sơn Tây). Bác hỏi vì lý do gì mà mời Bác về? Bác còn
cho biết nhiều chi tiết liên quan tới gia đình chú H.(Các chi tiết này rất đúng
sự thật).
Nhân vật thứ 8 là Ng (em họ của BN và H.
Ng là con trai; chết trẻ trong chuyến vượt biên). Cuộc đối thoại không lâu và
chú chào từ biệt.
Nhân vật thứ 9 "đến" rất bất
ngờ. Cô đồng nói rất sẽ:
- Thu đây!
Chúng tôi không biết cụ là ai nên lên
tiếng:
- Thưa cụ, cụ bên họ Đàm, họ Dương hay họ
Nguyễn ạ?
- Họ Đàm!
Tôi lắp bắp:
- Thưa có phải là bà tổ cô của Ðàm Trung Phán không ạ?
- Thế không nhận ra được hả?
Tôi phải xin lỗi Bà vì tôi chỉ biết tên
bên cõi Dương của bà là ĐTK trong khi bà xưng tên bên cõi Âm là Thu nên tôi
không nhận ra ngay được!
(Ðây là lần đầu tiên tôi mới được
thực sự "gặp" Bà -close encounter- sau gần 20 năm khi tôi đã
đặt bàn thờ để tưởng nhớ đến Bà tại nhà tôi ở Canada).
Cô đồng quay qua phía BN và nói:
- Các con đã vào nhà thờ và thăm mộ Bà, hôm nay bà về thăm các con!
Bà cho biết bà vẫn thường về thăm căn nhà
của bố mẹ tôi tại Bắc Ninh và thăm viếng những người "ở thuê" trong
căn nhà đó.
Cô đồng quay qua tôi và nói:
- Bà luôn luôn theo và che chở cho con!
Thế con đã tìm ra mộ ông nội của con chưa?
(Bà là em gái của ông nội tôi và Bà mất khi còn khá trẻ).
Bà cho biết mộ ông nội tôi vẫn còn nhưng
nay đã bị thất lạc và bà sẽ giúp tôi trong việc tìm kiếm mộ của ông nội tôi.
- Ngang vai con có một người đã mất. Sao
con không cúng anh ấy?
Tôi nghĩ ngay đến anh Hán của tôi, mất năm
1945 khi anh ấy còn rất trẻ. Vì Bà trách tôi sao tôi không cúng nên tôi lắp bắp
xin lỗi và xin bà cho biết ngày giỗ của anh ấy.
- Lát nữa anh ấy sẽ về. Cả hai bố mẹ con
nữa đấy! Bà luôn luôn về thăm con! Có việc gì bà sẽ về báo mộng cho con biết.
Thôi bà đi nhé!
Tôi hỏi vội:
- Có phải sau khi thăm mộ Bà ở làng Me về,
tối hôm đó, Bà đã "tặng" cho con một giấc mộng với rất nhiều hình ảnh
hoa Lan đẹp rực rỡ trong một cái nhà kính, phải không ạ?
Bà không trả lời, tôi chỉ thấy cô đồng gật
đầu, rồi bà thăng.
Nhân vật thứ 10 là mẹ của H và H nhận ra
ngay được thân mẫu (thím của BN). Quay qua BN, hồn nói:
- Mẹ cháu cũng về đó.
Nhân vật thứ 11 là anh P. Anh là con trai
của bác X và là con chú con bác ruột với BN và H.
Nhân vật thứ 12 xuất hiện với tên Ng và sau
một hồi hỏi tên họ, chúng tôi mới biết là họ Nguyễn và là em gái của L (vợ chú
Hùng). Cô Ng chết trẻ nên mãi một lúc sau cả thím L và hai cô em gái của thím L
(có mặt trong buổi gọi hồn này) mới nhận ra được cô.
Nhân vật thứ 13 xuất hiện, nói tên rất nhẹ
như trong làn gíó vậy.
Tôi ngồi quay phim ở phía xa nên nghe không rõ nhưng BN đã trả lời ngay:
- Mợ về!
Ðây là thân mẫu của BN. Cụ hỏi thăm
BN tất cả các anh chị em của BN và nói tên rành rọt từng người một, ngay cả tên
cô con gái nuôi (tên H) của cụ nữa. Cụ muốn BN mang tro cốt của cụ từ Saigon ra
chôn cất tại nghĩa địa Yên Kỳ (Bất Bạt tại Sơn Tây) để cụ được "đoàn
tụ" với thân phụ của BN!
Cô đồng quay qua tôi và nói:
- Ông bà sui cũng về nữa đấy!
Cụ nói truyện với BN một hồi rồi thăng.
Cô đồng lắc lư đầu, ngáp một cái và nhân
vật thứ 14 khai tên:
- Tr. về!
Tôi đoán đó là người anh họ nội của tôi
nên tôi chào hỏi ngay:
- Em là Ðàm Trung Phán đây, có phải là anh
Ðàm Trung Tr. không?
Hồn trả lời:
- Anh về thăm chú đấy!
Rồi quay qua BN, hồn hỏi:
- Con Cún nó đâu?
BN và tôi ngẩn ngơ, chưa biết trả lời ra
sao thì chú H đã lên tiếng:
- Cún là con gái của chị đấy!
Hồn hỏi:
- Nó không về à?
Tôi hỏi anh có nhắn gì con cháu của anh
không, anh lắc đầu:
- Anh chỉ về thăm chú thôi! Anh đi nhé!
Nhân vật thứ 15 nói tên rất nhanh:
- Hán đây!
Tôi trào nước mắt vì đây là anh ruột của
tôi, anh mất năm lụt Ất Dậu 1945, lúc đó anh mới 5, 6 tuổi gì đó. Tôi chỉ kịp
nói:
- Anh!
Hồn nói:
- Chú ra ngồi đây với anh!
Tôi trao máy quay phim cho BN để quay giùm
tôi.
Hồn hỏi:
- Hôm nay có việc gì mà chú mời anh về?
- Em mời họ hàng về để em hỏi thăm xem có cần gì không?
- Chú thăm mộ anh chưa?
- Em không biết mộ anh ở đâu!
- Sao chú chẳng cúng giỗ anh gì cả?
Tôi lắp bắp:
- Lúc anh mất, em còn bé quá rồi em lại đi xa nhà quá lâu nên em không biết
ngày giỗ của anh!
- Nhớ giỗ anh vào ngày 27 tháng 4 âm lịch. Chú phải cúng giỗ anh, anh vẫn về
thăm chú đấy!
Anh còn hỏi thêm:
- Hai con trai của chú đâu? Chú có trách nhiệm phải mang chúng nó về với dòng
họ nội nhà mình đấy! Mà tại sao chú và BN lại không có một đứa con trai với
nhau để nó mang máu mủ họ nhà mình?
(Mặt mũi cô đồng lúc đó cười nói rất hóm
hỉnh).
Tôi lại phải ấp úng giải thích. Anh còn
cho biết:
- Khi chú về làng thắp hương cúng
các cụ, anh cũng theo về đấy!
Bố mẹ nhà mình không muốn mang mộ phần về Việt Nam đâu, phần mộ của bố ở Canada
đẹp lắm.
Anh còn cho biết lát nữa mẹ tôi cũng về
nữa. Tôi hỏi anh cuộc đời về sau của tôi ra sao, anh chỉ trả lời:
- Anh luôn luôn che chở cho chú!
Sau đó anh nói:
- Anh đi đây!
Cô đồng ngồi vuốt mặt và ngồi im một lúc.
Xin mời quý vị nghe cuộc đối thoại với nhân vật thứ 16 dưới đây.
Tôi đang quay phim bỗng nghe tiếng cô
đồng:
- Phán đâu? Bố đây!
Hồn hỏi ngay:
- Pháp có về không?
Tôi thật xúc động vì đây là lần đầu tiên
tôi được "nói chuyện" với thân phụ tôi sau khi cụ qua đời vào năm
1988 tại Montreal, Canada. Cụ cho biết là cụ thường ở bên cạnh các anh chị em
chúng tôi. Cụ hỏi:
- Thế con đã về thăm đất làng Me chưa? Có
biếu tiền cho người ta trông nom phần mồ mả cho các cụ nhà mình không?
Cụ hỏi thăm hai thằng cháu nội M. và S.
(con trai tôi) và cả thằng chắt nội của Cụ (con trai đầu lòng của M. và là cháu
nội đích tôn của tôi). Cụ cho biết Cụ vẫn thường "về thăm" các cháu,
chắt này.
Cụ nói tiếp:
- Phần mộ của Bố ở Montreal đẹp lắm, không
phải chuyển đi đâu hết. Bố muốn các con sống hạnh phúc và các cháu thành đạt.
Người vợ cũ của con đối xử với bố, với con như thế nào, con là người trong
cuộc, con biết rõ; Bố càng thương con bấy nhiêu. Mà mẹ con cũng về cùng về đấy!
(Vẻ mặt cô đồng rất đăm chiêu).
Cụ còn kể cho tôi biết nhiều chuyện riêng
tư trong gia đình và cuộc đời mà chỉ hai bố con chúng tôi biết mà thôi. Tôi
nghẹn ngào vì thương Bố. Tôi chỉ biết cầu mong để cụ quên đi những chuyện không
vui ngày xưa. (Những chuyện này đều đúng sự thật mà cô đồng, ngay cả BN cũng
chẳng hề biết được).
- Thôi Bố đi đây!
Rồi cụ thăng.
Cô đồng ngồi xoa tay lên mặt và ngồi im
lặng khá lâu, bỗng tôi nghe thấy tiếng nói rất khẽ của nhân vật thứ 17:
- Th đâu? (Th đúng là tên của chú em trai
út của tôi).
Tôi vội gọi:
- Mẹ!
Tiếng cô đồng hỏi rất nhẹ:
- Cháu Steve đâu?
(Steve là tên con trai út của tôi, nghe như cụ gọi nó là "Ti"
vậy).
- Sao nó không về gặp bà?
Tôi trả lời:
- Cháu sẽ về Saigon tháng sau, đi cùng với mẹ của nó ạ.
Tiếng mẹ tôi qua cô đồng:
- Việc vợ con của con ngày trước, con vất vả lắm. Con phải cố gắng mà mang
thằng "Ti" về lại với dòng họ nội nhà mình nhé!
Mẹ tôi hỏi thăm tất cả các anh chị em tôi,
không gọi sai một tên nào hết!
Cụ nói:
- Mẹ thương các con lắm, mẹ luôn luôn theo và che chở cho các con.
Rồi quay qua BN, mẹ tôi nói tiếp:
- Mẹ cám ơn BN đã mang lại hạnh phúc cuối đời cho Phán. Các con sống hạnh phúc
thì mẹ mới vui. Khi nào "Ti" nó lấy vợ thì nhớ cho Bà biết với nhé!
Tôi hỏi:
- Ở bên đó đời sống của mẹ ra sao, mẹ có cần gì không?
Mẹ tôi trả lời:
- Mẹ ngày nào cũng vào chùa, cuộc sống của Mẹ bây giờ an nhàn lắm. Con không
cần phải cúng gì thêm cho mẹ cả. Mẹ ở với anh T, mẹ hài lòng lắm (tro cốt của
mẹ tôi đang để ở nhà anh T của tôi tại Texas; chị dâu tôi đã mang tro cốt của
Cụ từ Việt Nam sang Mỹ khi chị sang đoàn tụ với anh tôi).
Cụ tiếp lời:
- Các con thương yêu và đùm bọc lẫn nhau, con cháu thành đạt là mẹ mãn nguyện
lắm rồi.
Trước khi từ giã, mẹ tôi nói:
- Con có hiếu lắm, nghe tin con về, âm phần ai cũng vui. Sang năm con về nhớ đi
tìm mộ ông nội để báo hiếu. Anh Hán cũng đã về ở với mẹ rồi. Thôi Mẹ đi nhé!
Cô đồng lại xoa mặt và nhân vật thứ 18 nói
rất khẽ:
- Bé về!
Chúng tôi hỏi cô là ai. Sau đó mới biết
đây là cô em gái chót út của BN và mất khi còn rất nhỏ tuổi. Cô cho biết là
phần mộ của cô đã bị san bằng, và muốn BN cúng cô vào ngày 16 tháng 4 âm lịch.
Cô nói:
- Em luôn luôn ở cạnh chị và phù hộ cho
chị.
Bỗng cô đồng cười to:
- Sao chị không cúng ông "Trưởng
giả" à? Mà chị có biết ông Trưởng giả là ai không?
(Vẻ mặt cô đồng rất là tinh nghịch).
Chúng tôi ngồi im vì chưa biết ông
"Trưởng giả" là ai thì cô lại cười và nói tiếp:
- Lát nữa, ông "Trưởng giả" về
thì chị sẽ biết là ai!
Cô đồng cười tinh nghịch. Sau đó hồn thăng.
Nhân vật thứ 19 kế tiếp là anh Ph (anh
ruột của BN). Anh quay qua hỏi thăm BN tất cả các anh em của BN, nói đúng tên
từng người một. Anh hỏi thăm cháu H (con gái của BN) vì ngày xưa anh ấy hay đưa
cháu đi học. Anh cho biết cháu H sẽ sinh con vào tháng 8 Âm lịch năm tới (năm
2006).
Anh cho biết là anh vẫn gặp bố mẹ BN. Trước khi thăng, anh cho biết là không
còn ai về nữa đâu.
Hóa ra anh Ph chỉ "đóng vai" con
trai "Trưởng giả" của bố mẹ BN ở bên cõi Âm, vì thực ra anh là con
trai thứ chứ không phải là con trai "Trưởng thật"!
Cô đồng ngồi một lúc, sau đó vuốt mặt vài
cái rồi đứng lên lễ tạ.
Trong khi mọi người lo đốt vàng và chia phần trái cây, BN và tôi tiếp chuyện cô
đồng. Cô chừng 36 tuổi và đang có bầu được ba tháng, vẻ mặt hiền từ của một
thôn nữ trông khác hẳn vẻ mặt khi cô tiếp xúc với các nhân vật bên cõi Âm. Cô
đồng cho biết khi cô khoảng 13 tuổi cô bị ốm nặng đến độ hôn mê tưởng chết, sau
đó thỉnh thoảng cô nghe được tiếng người bên cõi Âm nói chuyện và nhìn thấy
được một nửa người của họ.
Chúng tôi đang nói chuyện thì có một bà đến nhà chú H. Bà khẩn khoản mời cô
đồng đến nhà bà để nhờ cô gọi hồn chồng bà về nhưng cô đồng khước từ.
Sau khi bà kia đã ra về, cô đồng nói:
- Cháu phải về lại Hải Phòng để làm lễ tạ
ơn. Cô chú hôm nay may mắn lắm nên các cụ mới về nhiều như thế.
Tiễn cô đồng ra về, tôi cảm thấy thật là
vui vì tôi đã được "nói chuyện" với những người rất thân thương của
tôi nhất là các chi tiết của gia đình tôi không có chỗ nào là "trái
cựa" cả. Tôi đã tưởng rằng tôi đã "mất bố mẹ tôi" nhưng thật ra
hồn của hai cụ vẫn còn quan tâm và về thăm chúng tôi nữa. Thật là huyền bí
nhưng tôi đang cảm nhận được niềm an vui và thấy thanh thản y như là hai cụ "vẫn
còn sống" vậy! Mai này, khi tôi chết, tôi sẽ không cảm thấy sợ hãi vì tôi
đã có những người thương yêu tôi đang chờ đón tôi tại "một cõi khác"
và chính hồn tôi cũng sẽ về thăm và giúp các con cháu của tôi. Hai chữ
"linh hồn" trong tôi, tôi cảm nhận thấy được rõ ràng hơn trước khi
chúng tôi Gọi Hồn. Hóa ra "sống" và "chết" là như vậy sao?
Phần 3: "Cảm xúc và những
tín hiệu kỳ lạ"Tôi xin mạn phép nhắc lại rằng trong
Phần 2: "Gọi hồn", cuộc đối thoại với 20 nhân vật bên Cõi Âm (không
kể hai nhân vật mà chúng tôi không nhận biết được liên hệ gia tộc và một nhân vật
mà tôi không thâu kịp trong lúc thay battery) kéo dài trong khoảng 3 tiếng đồng
hồ. Tôi đã trình bầy cho ngắn gọn trong Phần 2 và bây giờ tôi xin góp thêm ý
kiến về các nhận xét và về phần cảm nhận riêng tư của tôi.
Các thành viên gia đình trong Cõi Âm của 4
người ngồi Gọi Hồn "xuất hiện" theo hệ thống ngôi thứ (rank and file)
qua lời nói của cô đồng. Các cụ bên gia đình BN và H "về" theo thứ tự
rất là quy củ: Cụ tổ 5 đời về trước tiên, sau đó là cụ tổ 4 đời rồi 3 đời. Các
cụ tự xưng tên và các cụ cho biết sự liên hệ giữa đời nọ với đời kia. Riêng cụ
tổ 5 đời của BN và H, vì cả BN và H không biết đích danh của Cụ lúc ban đầu, Cụ
cho biết cụ là thân sinh của cụ tổ 4 đời và cụ cũng cho biết họ và tên của cụ
tổ 4 đời nữa, vì vậy mà BN, H mới biết Cụ là ai.
Còn bên gia đình tôi, bà Tổ Cô của tôi (Cụ
cho biết Cụ là Bà Cô Trẻ của họ Ðàm) "về" trước tiên trong dòng họ
nội của tôi. Vì Bà tự giới thiệu tên bên Cõi Âm là Thu nên tôi lúng túng nhận
không ra ngay được. Cô đồng quay qua phía BN:
- Họ Ðàm ấy mà! Thế không nhận ra sao?
Nhờ vậy tôi mới "đoán" được là
Bà Tổ Cô của tôi. Lời nói của Bà qua cô đồng rất là ôn tồn và vẻ mặt cô đồng
trông thật là an nhiên tự tại. Về phần tôi, tôi cảm thấy rất vui mừng vì đây
thực sự là tôi đang được đối thoại với Bà Tổ Cô của tôi. BN và tôi hết sức ngạc
nhiên khi nghe Bà nói:
- Các con đã về thăm nhà thờ (từ đường) và
thăm mộ Bà, hôm nay Bà về thăm các con đây!
Lời nói này làm tôi nhớ lại những gì đã
xẩy ra: tuần trước đó, chúng tôi đã về thăm làng quê tại Bắc Ninh. Chúng tôi đã
vào từ đường thắp hương khấn vái các vị đã khuất bóng. Khi vào thăm mộ của gia
tộc, tôi đang mải chụp hình, bỗng nhiên tôi nhìn thấy ngay ngôi mộ của Bà Tổ Cô
và vợ chồng chúng tôi thắp hương khấn vái Bà. Chuyện về thăm mộ bà, tôi chưa
nghĩ đến mà lúc đó - qua lời cô đồng - Bà nhắc lại, các chi tiết rất đúng sự
thật, thật là không thể tưởng tượng được! Một điều hết sức ngạc nhiên nữa là Bà
cho biết một người anh trai tôi cũng "về" nữa. Anh trai tôi (anh Hán)
mất hồi anh ấy còn nhỏ, khi đó tôi mới lên 3 cho nên tôi đâu có biết nhiều,
huống chi là còn nhớ. Ðây là lần đầu tiên tôi "có chứng cớ" là vong
linh Bà đang thực sự hiển linh và chính Bà đã cho tôi biết "Bà luôn luôn
che chở cho tôi" qua lời nói của cô đồng. Cái "tin vui" về người
anh khuất bóng của tôi là một tin thật bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của tôi;
ngay cả BN cũng chưa chắc biết chuyện về anh tôi nữa vì tôi chưa kể cho BN nghe
nhiều về anh tôi, có lẽ vì tôi đã quên rất nhiều những việc xẩy ra hơn 60 năm
về trước!
Tôi nhận xét thấy những nhân vật chết trẻ
như anh tôi, cháu D. con chú H. và cô Bé (em gái của BN), khi họ về, nét mặt
của cô đồng lộ vẻ rất tinh nghịch, cười đùa hồn nhiên và cách ăn nói qua cô
đồng lại "lau tau" đúng như trẻ con, khác hẳn với vẻ mặt và cách ăn
nói của người chết khi đã lớn tuổi.
Một số chi tiết của những điều các Cụ nói
ra rất "ăn khớp" với nhau khi chúng tôi ngồi kiểm chứng lại sau vụ
Gọi Hồn này. Tôi xin lấy vài thí dụ dưới đây.
Cụ tổ 4 đời của BN và H (nhân vật thứ 2)
cho biết một chắt trai của cụ (ngang vai vế với BN và H) mấy năm về trước đã bị
bệnh hiểm nghèo may nhờ Cụ phù hộ cho nên mới tai qua, nạn khỏi. Ðiều này, thân
phụ của BN (nhân vật thứ 6) cũng cho biết:
- May nhờ Ông Nội (của thân phụ BN) che
chở cho nó, chứ không thì nó không qua khỏi!
Trên thực tế, câu chuyện hoàn toàn đúng sự
thực: chắt trai của cụ (chúng tôi biết rõ tên tuổi của người đó) đã phải trải
qua hai kỳ giải phẫu hiểm nghèo nhưng sau đó thực sự khỏi bệnh. Các chi tiết mà
Cụ tổ 4 đời và thân phụ BN cho chúng tôi biết về người chắt trai này không hề
"trái cựa" với nhau!
Các Cụ bên gia đình BN và H còn cho chúng
tôi biết ngày giỗ của các Cụ nữa. Khi tra gia phả, những ngày giỗ này đúng y
như đã ghi trong gia phả. Một điều ngạc nhiên ly kỳ khác: cụ bà NTN (vợ của Cụ
tổ 4 đời của BN và chú H) không những đã cho biết ngày giỗ của Cụ vào mùng Hai,
tháng Giêng âm lịch mà còn gọi đúng tên tôi nữa (Cụ chưa hề gặp tôi bao giờ)!
Tôi nhớ rõ là hôm lên thăm nghĩa địa Yên Kỳ tại Sơn Tây với vợ chồng Chú H, BN
và tôi đã thắp hương và khấn vái trước mộ Cụ. Tôi còn chụp hình phần mộ của Cụ
Bà và trong hình, tôi thấy ghi rõ trên mộ bia ngày Cụ mất: mùng Hai, tháng
Giêng âm lịch! Phải chăng vì tôi đã thắp hương và khấn vái Cụ mà Cụ biết tên
tôi rành mạch? (Ðiều này rất giống câu chuyện giữa Bà Tổ Cô và vợ chồng chúng
tôi khi chúng tôi viếng mộ Bà).
Thân phụ BN cho biết chú H. không thể qua
Mỹ thăm gia đình vào năm 2005 được nhưng "sang năm" (tức là năm 2006)
thì chú H sẽ qua Mỹ thăm gia đình được. Sau khi Gọi Hồn xong, chú H cho chúng
tôi biết ngay từ đầu năm 2005, chú ấy đã nộp đơn xin giấy tờ đi Mỹ nhưng giấy
tờ bị trục trặc và rốt cuộc không sang Mỹ được. Quả nhiên trong năm sau (năm
2006), việc xin giấy tờ sang Mỹ rất dễ dàng và vào Mùa Thu năm 2006, chú H đã
qua thăm thân phụ và gia đình bên nội của chú ấy tại Hoa Kỳ. Xem ra 10 tháng
sau khi Gọi Hồn, lời nói của thân phụ của BN đúng với sự thực.
Ngày giỗ mà các Cụ bên gia đình Bích Nga
nói đều giống hệt như đã ghi trong gia phả. Tuy nhiên, anh tôi dặn chúng tôi
cúng anh ấy vào ngày 27 tháng Tư âm lịch. Khi về tới Canada, tôi coi trong gia
phả gia đình họ nội, tôi thấy gia phả ghi anh ấy mất vào ngày 24 tháng Bảỵ, âm
lịch. Chẳng lẽ anh ấy đã nói lộn cho tôi biết ngày và tháng?
Theo lời mẹ tôi (nhân vật thứ 17) thì anh ấy đã về ở với mẹ tôi. Trước khi vợ
chồng chúng về thăm Việt Nam, chúng tôi thường hay thắp hương khấn vái Bà Tổ Cô
và Bố Mẹ tôi để báo tin cho các Cụ biết rằng chúng tôi sắp về Việt Nam thăm
làng quê và họ hàng, chẳng lẽ vì vậy mà anh tôi đã nói:
- Khi chú về làng thắp hương cúng vái các
Cụ, anh cũng về theo!
Rồi:
- Anh luôn luôn che chở cho chú.
Và mẹ tôi cũng cho biết:
- Nghe tin con về, Âm phần ai cũng vui!
Qua những mẩu chuyện này, tôi có cảm tưởng
rằng người bên Cõi Âm đang hiện diện ở một nơi rất gần với chúng ta nhưng họ
"sống" ở trong một môi trường khác (medium, frequency) với môi trường
sinh sống của chúng ta cho nên chúng ta không thể nhìn thấy họ và cũng không
nghe được tiếng họ nói.
Tôi để ý thấy khi các Cụ tổ bên phía BN
và chú H "về thăm" chúng tôi, nét mặt của cô đồng lộ vẻ bình
tĩnh và lời nói không tỏ vẻ vui hay buồn. Tuy nhiên, khi cha mẹ của vợ chồng
chúng tôi nói chuyện với chúng tôi, nét mặt của cô đồng trông khá đăm chiêu
(tense). Dường như các Cụ vẫn còn nhiều vương vấn với Cõi Trần, nhất là còn
chưa quên được những liên hệ mật thiết với các con, các cháu?
Tôi chưa bao giờ được gặp mặt hai đấng
thân sinh của BN nhưng theo lời BN, thân mẫu của BN có những điệu bộ chẳng khác
gì như lúc Cụ còn sống nhất là cách cụ gõ các ngón tay trên sàn chiếu khi Cụ
nói chuyện. Cách xưng hô của bố mẹ đôi bên đều chẳng có gì khác khi còn sinh
thời. Các Cụ còn nói rõ tên và hỏi thăm từng người con một. Bố mẹ tôi kể cho
tôi nghe những chuyện riêng tư trong gia đình mà chỉ một mình tôi mới biết được
mà thôi. Thân mẫu của tôi đã mất 50 năm trước đó và cô đồng mới có 36 tuổi thì
không tài nào cô đồng "nghe lóm" được những gì đã xẩy ra trong gia
đình nhà tôi trước khi cô sinh ra đời được. Cô đồng cũng không thể "dựa
hơi" mà nói tên rành rọt từng người trong gia đình của chúng tôi vì chúng
tôi không nói tên của tất cả các anh chị em chúng tôi!
Thân phụ của tôi đã phải di tản đến 2 lần:
năm 1954 và 1975. Khi còn sở Sài Gòn cũng như khi Cụ sống với chúng tôi tại Mỹ
và Canada, Cụ thường kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện làng quê tại Bắc Ninh, nhất
là cái gia trang của hai Cụ. Cụ hay nói tới đồng lúa, lũy tre, cái cầu ao, đền
thờ Cụ Tiết Nghĩa, đề thờ Cụ Quốc Sư, họ hàng… Vì vậy mà tôi không hề ngạc
nhiên khi nghe Cụ hỏi tôi qua lời cô đồng:
- Thế con đã về thăm làng Me chưa? Có biếu
tiền cho người ta trông nom phần mồ mả cho các Cụ nhà mình không?
Trong lúc Gọi Hồn, tôi cứ ngỡ như là tôi
đang ngồi nói chuyện với những người bên Cõi Dương vậy. Một số thân hữu đã hỏi
tôi:
- Thế anh không sợ "gặp ma"
trong lúc Gọi Hồn ả ?
Ðối với tôi, trong lúc hay sau khi Gọi
Hồn, tôi thấy rất vui vì tôi đã "gặp" được nhiều người thân thương
của tôi trong Thế Giới Bên Kia. Có lẽ tôi "ớn ma sống" trên Cõi Dương
còn hơn là "sợ ma chết" trong Cõi Âm nữa!
Tôi có thói quen hay thức khuya từ lúc còn
đi học cho tới khi đi dậy học và kéo dài cho tới bây giờ. Tôi thích đêm khuya
vì trong những lúc đó, tôi thấy được yên tĩnh và làm việc bằng đầu óc thấy dễ
dàng hơn. Tôi còn nhớ sau khi thân mẫu tôi qua đời lúc tôi mới 13 tuổi, tôi
thường mơ ngủ thấy Cụ . Khi thì Cụ chui vào mùng trong lúc tôi đang nằm ngủ,
khi thì Cụ vỗ về tôi trong những lúc tôi buồn hiu hắt. Khi còn nhỏ, tôi thường
tự trách mình là tôi hay "mơ mộng" vì bị ám ảnh bởi cái cảnh bà mẹ
Cúc Hoa từ Cõi Âm về lại Cõi Dương để vỗ về, âu yếm hai đứa con thơ. Sau khi anh
chị em chúng tôi đã có gia thất và nhất là sau khi tôi nghe anh lớn tôi kể
truyện Mẹ về báo mộng cho anh ấy trong Tù Cải Tạo, tôi linh cảm có một cái gì
kỳ lạ, huyền bí trong những giấc mơ của tôi.
Những năm đầu khi tôi đi học tại Úc Ðại Lợi, tôi chỉ có biết học
để mà ra trường. Sau khi đã ra trường, như nhiều các sinh viên khác, ban ngày
tôi đi làm với chức vụ Kỹ Sư, ban đêm tôi đi học Cao Học. Sống một mình ở nơi
xứ lạ quê người, tôi cảm thấy buồn và cô đơn. Tôi nghĩ tới chuyện lấy vợ. Mà
lấy ai bây giờ nhỉ? Ban ngày tôi bận rộn với công việc, ban đêm bận bịu với
việc học hành. Chỉ những đêm khuya trong căn nhà trọ một mình, tôi thường hay
ngồi suy nghĩ về việc lấy vợ và tạo dựng tương lai gia đinh, nghề nghiệp về
sau. Một đêm tôi nằm mơ ngủ gặp một linh mục mặt mũi rất phúc hậu (tôi là người
gốc Phật Giáo). Cha nói tiếng Anh với tôi và tôi nghe loáng thoáng như:
- You will meet
your wife in coma. (Con sẽ gặp vợ của con trong trạng thái hôn mê).
Khi thức dậy, nghĩ
lại về giấc mơ, tôi thấy nó "không có ăn nhậu gì hết" như nhiều các
giấc mơ khác. Tuy nhiên, tuần sau đó, tôi đi trượt tuyết cùng với một số bạn bè
tại địa danh Kooma (địa danh này do thổ dân Úc đặt ra và phát âm giống như chữ
"Coma"). NT cùng đi trượt tuyết với cả bọn chúng tôi để rồi hai đứa chúng
tôi bắt đầu đi chơi riêng với nhau và hai năm sau đó, chúng tôi lấy nhau. Hóa
ra tôi đã thực sự "gặp" NT, vợ tương lai của tôi tại địa danh Kooma,
giống như lời nói của vị linh mục trong giấc mơ vậy!
Sau khi đã lập gia
đình, chúng tôi rất muốn biết sẽ lập nghiệp tại quốc gia nào. Một đêm, cũng
trong một giấc mơ khác, tôi lại thấy một vị linh mục người da trắng rất hiền từ
và linh mục đã nói với tôi bằng tiếng Anh:
- You will be
there alright but keep trying! (Con sẽ tới được nơi đó nhưng phải cố gắng).
Quả nhiên, vài
tháng sau, đôi vợ chồng trẻ chúng tôi đã tới lập nghiệp tại Canada rất thuận
buồm suôi gió. Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa đoán được hai vị linh mục đó là ai
và tại sao lại có sự "trùng hợp" thật đúng với sự thật như vậy?
Năm 1992, hai ngày
trước khi bà ngoại của hai con trai tôi mất tại tư gia của chúng tôi, tôi nằm
mơ nhìn thấy một bóng ma của một người đàn bà mặc đồ tang trắng đang ngồi vắt
vẻo trên một cành cây ở ngoài vườn. Bóng người mặc tang trắng này đang ngó vào
trong nhà chúng tôi. Tôi sợ toát mồ hôi và thức giấc. Lúc này thì gia đình bên
ngoại của các cháu đã từ Hoa Kỳ và Âu Châu về tề tựu đầy đủ tại tư gia chúng
tôi để cầu nguyện cho Cụ. Và Cụ đã thanh thản ra đi trong lúc nhà vắng người
nhất.
Năm 1991, Cụ bị
ngã trước cái chân cầu thang khi Cụ trèo lên gác. Cụ bị nứt xương tay bên phải
và chỉ khi về đến nhà, chúng tôi mới biết điều đó. Kết quả là Cụ đã phải vào
nhà thương bó bột. Cụ đã kể lại cho chúng tôi biết là sau khi Cụ đã ngã, tuy
quá đau tay nhưng Cụ đã "nghe thấy" giọng một người đàn bà Việt Nam
nói với Cụ:
- Tôi biết là Bà
đã ngã và Bà đau lắm. Thôi để tôi giúp đưa bà trèo lên gác mà vào phòng nằm
nghỉ!
Mùa Thu năm 1992,
sau khi Cụ mất được ít lâu, một đêm tôi nằm mơ. Thoạt đầu trong giấc mơ, tôi
"nghe" thấy tiếng động như một vật gì nặng mới rớt xuống đất. Sau đó,
tôi "thấy" Cụ nằm sóng soãi trên sàn nhà ngay trước bậc cầu thang đầu
tiên từ phòng khách lên gác. Cụ mặc cả quần lẫn áo cà sa. Phải chăng là là hồn
của Cụ đã về báo mộng cho tôi biết Cụ đã ngã tại chỗ nào (điều mà Cụ chưa kịp
nói rõ cho tôi trước khi Cụ mất) và bây giờ Cụ đã được siêu thoát ở Thế Giới
Bên Kia (người Tây Phương gọi là The Beyond).
Sau khi bà ngoại
của các cháu qua đời, đời tôi bắt đầu rất "vất vả" và kết quả là tôi
đã phải dọn ra sống một mình trong một thời gian khá lâu. Tôi đã đi vào Thiền định để cố gắng lấy lại sự bình an trong tâm hồn. Trong lúc ngồi thiền, tôi đã "nhìn
thấy trong đầu" nhiều hình ảnh như những khi tôi đang đi du lịch vậy, đặc
biệt là từ trên cao nhìn xuống. Một đêm khuya thanh vắng như thường lệ, trong
lúc ngồi thiền trong một căn phòng cao ốc một mình, tôi cảm-nhận-thấy rõ hình
bóng mẹ của bạn tôi. Cụ đã qua đời được 1, 2 hôm trước đó và tôi cũng đã ngồi
tụng niệm cho Cụ với mọi người trong gia đình của bạn tôi. Tôi "thấy"
Cụ đang tiến lại phía tôi, tôi không hề sợ hãi mà còn thấy "vui" là
đằng khác nữa rồi tôi cảm thấy Cụ "nhập" vào người tôi. Tôi vẫn ngồi
nhắm mắt niệm Phật và không hề sợ hãi. Tự nhiên tôi cảm-nhận-thấy một luồng
sinh lực (energy source) chạy xung quanh thân thể. Tôi cảm thấy khỏe khoắn và
an vui lạ thường. Tôi cũng có cảm tưởng là tôi không còn ngồi trên sàn đất nữa
mà thân thể tôi đang lơ lửng chừng 30, 40 cm cao hơn mặt sàn nhà. Tôi vẫn tiếp
tục niệm Phật và tôi "nói trong đầu":
- Con xin cám ơn
Bác đã đến "thăm" con!
Vài ba phút sau,
tôi không còn cảm-nhận-thấy luồng sinh khí đó nữa và tôi "thấy" tôi
trở về lại với vị trí của tôi trên sàn nhà.
Tháng Hai, năm
1992, trong lúc tôi đang rất bận rộn với công việc nhà trường và sinh hoạt
thiện nguyện. Sáng sớm một hôm Chủ Nhật, tôi mơ ngủ thấy bạn tôi đến "thăm
tôi". Anh ta tươi cười và ăn mặc rất chỉnh tề như khi đi ăn cưới vậy. Anh
ta nói với tôi:
- Tôi đến chào ông
đây!
Nói xong, anh ta
vui vẻ vẫy tay chào tôi rồi bỏ đi. Tôi bàng hoàng tỉnh giấc và chẳng có thể ngủ
tiếp được nữa. Ðến trưa hôm đó, tôi được biết bạn tôi đã qua đời tối hôm Thứ
Bảy, hưởng dương 44 tuổi! Ðặc biệt là ngoài tôi ra còn có 2 người khác bạn của
chúng tôi cũng đã được anh đến "chào" như vậy! Anh và tôi đã từng
sinh hoạt cộng đồng với nhau trong nhiều năm và thân nhau như hai anh em ruột
vậy. Những khi nào anh em chúng tôi gặp những việc "khó nuốt" trong
lúc sinh hoạt mà chẳng biết nói cùng ai, chúng tôi thường hay nhìn nhau rồi
nói:
- Thôi thì tôi với
ông mỗi đứa ngậm một quả bồ hòn vậy!
Nói xong, hai đứa
phá ra mà cười với nhau. Sau khi bạn tôi đã vĩnh viễn ra đi, một mình tôi ngậm
hai quả bồ hòn: một cho một kẻ Cõi Âm và một cho một kẻ Cõi Dương! Lâu lâu, tôi
"gặp" lại anh trong giấc mơ; trông anh già hẳn đi nhưng có vẻ an
nhiên tự tại và ít nói, ít tươi cười như ngày xưa!
Năm 1995, khi đời
tôi đang đi vào một khúc quanh một chiều, cũng trong một buổi sáng sớm tinh
sương, tôi mơ ngủ thấy một một chị bạn đồng trang lứa với tôi. Chúng tôi đã đi
du học cùng năm với nhau rồi cùng trở thành hai nhà giáo. Bạn tôi rất tươi
cười, mặc áo đầm dài và chị nói với tôi trong giấc mơ:
- Tôi đến chào P.
đây! Ở lại bình an nghe!
Tôi toát mồ hôi
hột, giật mình thức giấc và tôi không tài nào nhắm mắt mà ngủ được nữa vì tôi
nhớ đến giấc mơ với anh bạn kia của tôi.
Buổi trưa hôm đó, tôi được biết là bạn tôi đang hôn mê ở trong nhà thương và
đang thoi thóp sống nhờ "hệ thống trợ sống" (life support) và qua đời
sau đó một ngày. Tôi được nhà thương cho biết là bạn tôi đã bị "brain
dead" (phần óc đã chết) ban đêm, trước khi chị "về chào từ biệt"
tôi lúc buổi sáng sớm! Bạn tôi mất lúc 53 tuổi và để lại bốn đứa con thơ trong
sự thương tiếc của bạn bè. Tuyệt nhiên, tôi chưa hề "gặp lại" bạn tôi
trong một giấc mơ nào cả.
Qua những giấc mơ
lạ lùng này (hay thực sự ra là những tín hiệu kỳ lạ?), tôi thường tự đặt câu
hỏi cho chính tôi:
- Thế nào là
‘sống’, thế nào là ‘chết’? Sau khi ‘chết’, ‘linh hồn’ sẽ đi về đâu? Mà làm sao
chứng minh được là con người có ‘linh hồn’ nhỉ?
Tôi đã đi vào
Thiền Ðịnh và rất muốn tìm hiểu về Thế Giới Tâm Linh.
Nhờ Thiền Ðịnh,
nhờ những câu hỏi mà tôi tự đặt ra trong đầu óc, nhờ những kinh nghiệm sống
ngoài đời và những giấc mơ lạ lùng mà tôi đã có hứng để viết bài "Chữ Tâm
kia mới bằng ba chữ Tài" liên quan tới những điều mà tôi hằng nghĩ tới:
http://www.khoahoc.net/baivo/damtrungphan/chutam.htm
Trong bài này, tôi
đề cập đến phần thông minh về Trí Óc (Intelligence Quotient), phần thông minh
về Cảm Xúc (Emotional Intelligence Quotient) và phần thông minh về Tâm Linh
(Spiritual Intelligence Quotient). Qua Internet, tôi đi kiếm các tài liệu về
Tâm Linh và Gọi Hồn và tôi mới kiếm ra website dưới đây của một nhóm khoa học
gia Tây Phương viết về phần linh hồn của những người đã chết (body dead):
http://www.worlditc.org/c_01_lohf_part1.htm
Quý Vị tin hay
không tin là "chết là hết" và cái "chết" của con người mà
các khoa học gia Tây Phương trong ngành Tâm Lý Dị Biệt/ Tâm Lý Nửa Vời (Parapsychologists)
cho rằng đó chỉ là "cái chết của xác thân" mà thôi (body death)
nhưng phần hồn vẫn còn tồn tại, xin mời Quý Vị vào đọc website này. Quý Vị sẽ
thấy họ đã viết về những tín hiệu kỳ lạ (paranormal signals) của nhiều "người"
ở Thế Giới Bên Kia" (The Beyond) về báo mộng cho những người thân của họ
đang sống trên Cõi Dương này.
Sau phần Gọi Hồn
tại Hà Nội, tôi cảm thấy đầu óc rất thảnh thơi vì tôi đã cảm-nhận-thấy những
câu hỏi về "sống, chết, linh hồn" mà tôi tự đặt ra cho tôi trong
nhiều năm đã hầu như có câu trả lời tuy chưa thật là thỏa đáng nhưng cũng đã có
một số chứng cớ khá rõ ràng mà chính tôi đã được dự kiến.
Tôi thấy phấn khởi
và vui vẻ muốn đi thăm nhiều nơi trên quê hương, đất nước Việt Nam của tôi. Chỉ
ở ngay tại Việt Nam, tôi mới bắt đầu cảm - nhận được thế nào là "Hồn
Sông Núi" và vì vậy mà hai vợ chồng chúng tôi tiếp tục chuyến đi thăm quê
hương cội nguồn từ Bắc xuống Nam.
Phần 4A: Xuôi Nam (Huế, Ðèo Hải
Vân, Hội An)Sau khi cô đồng ra về, chúng tôi ăn
cơm trưa và tôi ăn vội để còn xem lại 3 cuộn phim Gọi Hồn mà tôi vừa quay xong.
Tôi ngồi chăm chú nghe đoạn Bà Tổ Cô, bố mẹ tôi và anh tôi đối thoại với vợ
chồng chúng tôi. Tôi đã được người thân kể cho nghe những chuyện rất riêng tư
của gia đình chúng tôi mà các chi tiết lại rất là chính xác. Bao nhiêu năm
trước dây, tôi đã từng thắc mắc: "Liệu thực sự vong linh Bà Tổ Cô có theo
và phù hộ tôi không hay là người coi Tử Vi cho tôi chỉ nói mò mà thôi".
Ngày hôm đó, quả thực là vong linh của Bà đã về và Bà đã trả lời chúng tôi:
"Hai con đã thăm mộ Bà, hôm nay Bà về thăm hai con đây!" Câu trả lời
của Bà thật là bất ngờ và rất đúng sự thật vì tuần trước đó, anh em chúng tôi
đã vào từ đường và khấn vái trước mộ Bà khi chúng tôi về thăm quê bên nội tại
Bắc Ninh. Các câu trả lời của Bà, của bố mẹ tôi, của anh tôi đã là một bằng
chứng hùng hồn là con người có linh hồn và khi một người trên Cõi Dương
"chết" thì chỉ có thân xác họ bị hủy diệt nhưng phần hồn của họ vẫn
còn tồn tại.
Tôi nở một nụ cười và trong đầu, tôi tự
nói với tôi: "Tuyệt vời! Chẳng còn nghi ngờ gì nữa"! Chẳng lẽ những
người Vô Thần còn phủ nhận sự hiện hữu của phần linh hồn hay họ vẫn còn ngụy
biện như thường lệ? Mà tôi còn rất muốn biết thêm những người không tôn trọng
Luật Trời sẽ bị quả báo ra sao, nhất là những kẻ giết người không tanh tay sẽ
phải đối diện ra sao với linh hồn của những người đã bị chúng giết hại sau khi
những kẻ độc ác này đã chết? Tôi sẽ đi tìm trong những tài liệu của Tây Phương
và Ðông Phương về điều này!
Tôi và chú H. mang ngay 3 cuộn phim này ra
hiệu nhờ họ chuyển sang VCD hay DVD để anh em chúng tôi mỗi người có một bộ
đĩa, phòng khi cuốn phim bị thất lạc hay bị hỏng.
Buổi tối hôm đó tại nhà chú H, tôi ngồi
ngay ở trong phòng bàn thờ. Tôi ngồi trên ghế, vừa Thiền thở vừa suy nghĩ về
cuộc đời. Tôi thấy đời sống trên Cõi Trần này rất hữu hạn, đầy tranh chấp,
tham, sân, si và tôi liên tưởng đến cái vô hạn khi tự mình thoát ra khỏi cái
"tục lệ hữu hạn của Cõi Trần" này. Tuy là đang đêm tại Hà Nội nhưng
tiếng xe cộ, tiếng còi xe vẫn không ngừng ồn ào. Chính trong cái
"động" này của Hà Nội mà tôi lại thấy cái "tĩnh" nội tâm
của tôi. Tôi chợt ngủ thiếp đi trong lúc đang ngồi và khi tôi trở về phòng ngủ,
cả nhà ai nấy đều đã đi ngủ hết.
Ngày hôm sau, vợ chồng chúng tôi lấy xe ôm
để tới một văn phòng du lịch đón xe đi thăm phong cảnh Tam Cốc, Ninh Bình. Tôi
chụp vài tấm hình của Ô Quan Chưởng tại Hà Nội mà âm hưởng còn vang trong đầu
tôi sau 50 năm xa cách.
Ðền thờ các vị vua nhà Lê, nhà Ðinh thật
trang nghiêm trong cái tĩnh mịch, đơn giản và an bình của đồng quê miền Bắc.
Ðiều này làm tôi thấy vui mừng vì tôi rất hãi cái không khí xô bồ đầy tiếng còi
inh ỏi và đầy ô nhiễm của Hà Nội. Nhìn những lá cờ xí đang tung bay trong gió,
tôi bỗng liên tưởng đến những chiến trận đã được mô tả trong văn chương Việt
Nam. Tôi có cảm giác là trong một tiền kiếp nào đó, tôi cũng đã từng ra chiến
trận để lại sau lưng một bà mẹ già, vợ trẻ và con thơ. Tôi cũng hình dung ra
được hình ảnh oai phong của các ông tướng và các đoàn quân khi đang xông ra
chiến trận. Tôi đã sống trên 40 năm trong thế giới Tây Phương và giờ đây không
những tôi đang được trở về với khung cảnh Việt Nam mà tôi còn đang đưọc trở về
với văn hóa và lịch sử Việt Nam nữa. Những cảm nghĩ này, tôi thấy rất khó có
thể mô tả trên giấy bút. Tôi thấy lịm người trong cái cảm nhận riếng tư này:
"Chàng từ khi vào nơi gió cát,
Ðêm trăng này nghỉ mát nơi nao!"
Chúng tôi bước lên thuyền để đi thăm Tam
Cốc. Cũng có cảnh cây đa bến cũ nhưng "bến đò" đã được xây bằng bê
tông nên trông có vẻ "gồ ghề" (commercial) một phần nào như các nơi
du lịch khác trên thế giới. Cảnh vật thật bao la và yên tĩnh. Tôi lắng nghe
tiếng mái chèo khua nước và thấy khoan khoái hít thở không khí trong lành. Thật
là quý hóa biết bao so với không khí ô nhiễm đầy khói xe và bụi bậm của Hà Nội.
Vợ chồng chúng tôi ngồi chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên, không quên chỉ cho nhau
những chỗ nào đẹp và thơ mộng. Tôi chụp hình và BN ngồi quay phim, thật là
thoải mái!
Xin mời quý vị vào xem hình ảnh:
http://www.pbase.com/bac_ninh/tam_coc
Trong chuyến về thăm Việt Nam, tôi có thói
quen mỗi ngày ghé vào Internet Cafe để đọc Email của bạn bè, nhất là một số bạn
cũ của tôi đang có mặt ở Việt Nam nhưng tôi không thấy thoải mái mỗi lần vào
Internet Cafe tại Hà Nội. Lý do chính là vì thời gian đó đang mùa đông nên họ
đóng cửa kính kín mít cho đỡ lạnh. Tôi đã bị đau họng tại Hà Nội vì cái không
khí ô nhiễm của khói xe. Trong Internet Cafe đầy khói thuốc lá, họng tôi lại
càng thấy đau hơn và tôi ho sù sụ. Tôi cũng không chịu nổi khi nghe tiếng chửi
thề của nhiều người xung quanh cho nên tôi chỉ đọc Email và trả lời rất ngắn
gọn rồi tôi bỏ đi ngay.
Sáng sớm hôm Giáng Sinh 2005, chúng tôi
lấy xe taxi lên một khách sạn gần hồ Hoàn Kiếm để cùng "phái đoàn"
lấy xe bus ra phi trường Nội Bài rồi cùng bay vào Huế, bắt đầu chuyến xuôi Nam.
Chuyến bay không mệt nhọc gì mà lại còn vui nữa vì tôi thấy các khuôn mặt Việt
Nam trong phi hành đoàn. Chỉ khổ mỗi tội là chúng tôi phải chia nhau sắp lại
hành lý cho đúng 25 kí lô cho mỗi người! Cũng may là BN và tôi đã để lại Hà Nội
cả một valise hành lý không còn dùng tới nữa.
Huế đón chúng tôi bằng không khí trong
lành sau một cơn mưa. Vào đến Huế, tôi thấy cái tĩnh của một thành phố khác xa
với Hà Nội: Huế không ồn ào, ít xe cộ và không khí mát lạnh sau cơn mưa. Tôi
cũng không thấy những biểu ngữ "dao to búa lớn" như ở Hà Nội nữa. Tôi
rất dị ứng thấy những sáo ngữ "trăm voi không được một bát nước sáo",
nói tốt mà không làm tốt, làm bậy thì lại dấu! Tôi thấy gần gũi với cái không
khí an lành, bàng bạc và những cây cối với mầu xanh tươi mát vì nhiều mưa của
Huế hơn.
Chúng tôi viếng thăm Thành Nội, lăng Tự
Ðức, lăng Minh Mạng, lăng Khải Ðịnh ... Tuy tôi không biết gì về Phong Thủy
nhưng tôi cảm nhận được sự an tĩnh, cái "phần hồn thăm thẳm" của các
địa danh mà tôi đã ghé thăm. Tôi cảm nhận được cái "hồn sông núi" của
nhiều địa danh tại đất Bắc nhưng ở Huế, tôi cảm nhận được niềm thân thương như
tôi đang được trở về lại với một cõi xa xôi nào đó trong Tiền Kiếp nhất là khi
tôi nhìn những bức tượng, những bức tường xanh rêu, những cây xanh rờn, những
cái hồ tĩnh lặng trong các lăng tẩm.
"Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo!"
http://www.pbase.com/bac_ninh/hue
Tôi sẽ lại ra đi và mang theo những
cảm xúc nhẹ nhàng, bàng bạc mà tôi đang có. Tôi sẽ ngồi trong cái không khí
tĩnh lặng nơi trời Tây Phương để nhớ về quê cha đất tổ đang vô hình chung đi
vào cái động, còn động hơn ở Phương Tây, thật là ngậm ngùi, xót xa!
"Phái đoàn" chúng tôi lên thuyền
đi dọc theo sông Hương. BN và tôi bắt đầu công việc của hai phó nhòm. Chùa
Thiên Mụ quả là đẹp. Tôi thích nhất cảnh đứng trong chùa Thiên Mụ nhìn ra sông
Hương lúc chiều tà.
Chúng tôi được một người quen dẫn đi thăm
các cháu nhỏ tại 2 trung tâm giữ trẻ và Hội Những Người Mù. Nhìn các cháu đứng
hát ngoài sân rồi vào ngồi ăn trưa mà lòng tôi thấy chùng xuống với niềm thương
cảm. Tội nhất cho những người mù: họ làm chổi quét nhà rồi tự đem đi bán để lấy
tiền sinh sống. Mỗi nơi chúng tôi đều tặng một số tiền mà bạn bè, họ hàng và cá
nhân chúng tôi đã đóng góp cho công việc từ thiện trước khi chúng tôi rời
Canada để về thăm quê hương Việt Nam.
Chúng tôi đã dự trù cái lộ trình tại Việt
Nam cả mấy tháng trước khi rời Hoa Kỳ và Canada: thuê nguyên cả một cái xe bus
lớn đi từ Huế vào Hội An. Ghé Hội An vài ngày để tham quan rồi ghé thăm Nha
Trang vài ngày. Sau đó vợ chồng chúng tôi sẽ ghé thăm Mũi Né trong khi
"phái đơàn" sẽ đi thẳng về Saigon. Từ Mũi Né, cặp vợ chồng già sẽ ở
lại Thung Lũng Tình Yêu tại Ðà Lạt hơn một tuần "trăng mật" và sau
đó, chúng tôi sẽ đón xe bus về Saigon "tiễn đưa phái đoàn" về lại Mỹ
và Canada. BN và tôi sẽ cứ tà tà sống ở Saigon một ít lâu: nếu thích thì đi
chơi tiếp, không thích thì ở lỳ tại Saigon để cho tôi có thì giờ kiếm lại những
hình ảnh, những con đường cũ của ngày xa xưa.
Trong chuyến đi xe bus từ Hà Nội về thăm
Nam Ðịnh, tôi đã rút tỉa được thêm kinh nghiệm chụp hình trên xe bus. Ba ngưòi
phó nhòm chúng tôi chia nhau công việc: một người ngồi trước xe bus chụp thẳng,
và một người ngồi bên trái và một người ngồi bên phải để chúng tôi cố gắng thu
được nhiều góc cạnh trong chuyến đi này. Phía nào mà phong cảnh ngoạn mục là
dân phó nhòm chúng tôi đổ xô ra mà chụp hình lia lịa. Tôi luôn luôn ngồi ngay
bên cạnh cửa kính xe bus, tì máy hình cho chắc vào kính xe và sẵn sàng chụp
hình cho thật đúng lúc, đúng góc cạnh mà tôi dự đoán. Tôi tắt flash để tránh
việc hình ảnh bị lóe sáng. Tuy hình ảnh không hoàn toàn đẹp được như ý muốn
nhưng tôi cũng biết cái thân phận "ăn mày chớ đòi xôi gấc" trong hoàn
cảnh chúng tôi lúc bấy giờ. Miễn sao là tôi ghi lại được nhiều tấm hình của quê
hương trong những lúc di chuyển - "có còn hơn không" này!-
Trời đang mưa khi chúng tôi rời Huế. Ðối
với tôi, đây là một cơ hội may mắn vì tôi rất muốn nhìn thấy cảnh đồng ruộng
Miền Trung trong cơn mưa và tôi cảm thấy "mát dạ" được ngắm nhìn thảo
mộc xanh tươi.
Chúng tôi ghé thăm một trung tâm du lịch
(resort) tại Lăng Cô để ăn trưa. Trung tâm này nằm ngay trên bờ biển, phong
cảnh khá đẹp nhưng khi tôi thấy một số phòng ốc đang được xây cất, tôi không
muốn để ý tới vì tôi được đào tạo trong ngành công chánh tại Tây Phương luôn
luôn phải quan tâm tới sự an toàn cho người thợ, người dân nhưng mà hầu như đây
là một thứ xa xỉ phẩm tại nhiều nơi ở Việt Nam! Chúng tôi ra bãi biển để hít
thở không khí trong lành và nghe tiếng sóng biển vỗ vào bờ. Bãi biển vùng Lăng
Cô tuy không đẹp bằng các bãi biển vùng Caribbean nhưng tôi cảm thấy nó
"mặn mà" hơn đối với tôi, chắc có lẽ tại vì nó thuộc về quê hương của
tôi?
Trời lại bắt đầu mưa tiếp. Trong xe bus,
chúng tôi trò chuyện nổ như pháo rang và tôi cảm thấy rất vui vì trên xe tất cả
mọi người, trừ bác tài, đều là những người thân của tôi. Mọi người trở nên im
lặng khi xe bắt đầu đi vào đường đèo Hải Vân.
http://www.pbase.com/bac_ninh/hai_van_and_hoi_an
Mọi người trong xe đổ xô về hướng bờ biển
và 3 anh chàng phó nhòm chúng tôi bấm nút máy hình mệt nghỉ luôn. Thoạt đầu cái
nút bấm hình máy ảnh của tôi nóng lên rồi bung ra và rớt xuống sàn xe. May mắn
thay là tôi kiếm được nó. Tôi lắp lại nhưng rồi nó lại bung ra, chung quy chỉ
tại vì tôi đã bắt nó làm việc "overtime" quá độ trong những
chuyến đi Sapa, Vịnh Hạ Long, Hà Nội, Bắc Ninh, Sơn Tây, Nam Ðịnh và Huế. Tôi
phải lấy băng keo "masking tape" ra "băng bó" cho nó và cầu
trời cho máy hình "tai qua nạn khỏi" cho tới khi chúng về lại Canada,
nếu không tôi sẽ bỏ lỡ mất quá nhiều cơ hội chụp hình trên những chặng đường
xuôi nam sắp tới!
Xe lên đèo, xuống đèo, đi vòng vèo theo
con đường đồi núi của đèo Hải Vân. Thật là ngoạn mục nhưng cũng có đôi lúc rất
hồi hộp nhất là khi xe đổ dốc quanh đèo dưới cơn mưa. Cảnh vật mờ mờ, ảo ảo
dưới thung lũng trong cơn mưa trông giống hệt như trong những bức tranh thủy
mạc. Lâu lâu tôi thấy đó đây những cột cây số và nhất là những cái miếu bên
đường. Tôi chợt nhớ lại con đường đèo tại Venezuela mà gia đình chúng tôi đã đi
qua trong cuối thập niên 80. Xe bus đi men theo sườn núi, lâu lâu tôi cũng thấy
mấy cái nhà nhỏ bằng gỗ được đặt tại ven đường trông chẳng khác gì những cái
miếu ở ven đường bên Việt Nam mình vậy. Tôi thấy họ để hoa trên những cái nhà
nhỏ này. Tôi gạn hỏi cô hướng dẫn viên trong xe bus về lai lịch những "căn
nhà" này và được cô cho biết rằng tại những nơi này đã có tai nạn xe hơi
chết người. Dân địa phương và khách qua đường thường đặt hoa tại đây để tưởng
nhớ đến những người đã tử nạn giao thông. Hóa ra phong tục tại Việt Nam và
Venezuela tuy hai nước cách xa nhau hàng ngàn dặm mà lại rất giống nhau ở điểm
này!
Chúng tôi ghé vào thăm Bảo Tàng Viện tại
Ðà Nẵng để xem di tích của nền văn minh người Chàm. Xe lại chuyển bánh và chúng
tôi ghé thăm một trung tâm làm đồ gốm và đồ bằng đá. Ðồ gốm Việt Nam rất đẹp và
giá cả phải chăng so với thị trường Bắc Mỹ.
Tới Ngũ Hành Sơn khi trời bắt đầu tối.
Nhìn cảnh vật và những ngôi chùa trong Ngũ Hành Sơn lúc chiều tà, tôi cảm thấy
rất thoải mái và quen quen. Tôi linh cảm thấy trong một tiền kiếp nào đó, tôi
đã từng sống dưới cửa Phật và tôi cảm thấy một niềm an vui, xa lánh các stress
và đời sống "vật lộn" hàng ngày của những năm tôi còn phải đi dậy tại
Canada.
Chúng tôi tới Hội An vào ban đêm. Khách
sạn tương đối sạch sẽ nhưng tất cả mọi người trong "phái đoàn" đều bị
váng đầu vì mùi nước cống nồng nặc xông vào phòng ốc của khách sạn. Lý do là vì
khách sạn không có các ống dẫn mùi sình ra thẳng bên ngoài khách sạn. Nói
chung, rất nhiều các khách sạn ở Việt Nam chưa được xây cất theo tiêu chuẩn
quốc tế, nhất là trên phương diện khám xét cách xây cất (building
inspection).
Khu Phố Cổ Hội An ban đêm với các đèn lồng
trông thật là ấm cúng và lạ mắt. Trong suốt 2 ngày dừng chân tại Hội An, tôi
chỉ thích đi bộ thăm các phố xá, cửa hiệu và các ngôi nhà cổ tại Khu Phố Cổ mà
thôi. Tại đây, rất nhiều cửa hiệu có thể may quần áo cho du khách trong vòng
nửa ngày hay một ngày. Nhưng theo tôi, quần áo tôi may tại Hội An không đẹp
bằng quần áo tôi may tại Saigon, nhất là cái "coupe" (kiểu và lối
may). Tôi vui thú và rất mê đứng xem nhiều loại đèn lồng đủ mọi cỡ, mọi kiểu,
mọi mầu sắc nên tôi đã "khuân lén" về Canada 2 cái đèn lồng mà quên
mất không xin phép "chính phủ tại gia" (spousal government). Về tới
Canada, tôi không kiếm thấy chúng đâu và tôi gạn hỏi "chính phủ" thì
"hỏi ai, ai cứ hững hờ không thưa"!
Một hôm tôi đi săn hình và shopping tại khu Phố Cổ. Ðang lúc đói bụng, tôi nhìn
thấy một bà đang bán chuối chiên trên hè phố. Nhìn thấy miếng chuối chiên vàng
còn đang bốc khói, tôi mua 1 miếng và ăn ngay tại chỗ! Trời đất, ngon ơi là
ngon và tôi mua 10 miếng chuối chiên đem về ... "nuôi vợ"! BN và tôi
ăn hết ngay, vừa ăn, vừa tấm tắc khen ngon.
Tôi nhận thấy Sapa và Hội An là hai nơi
tại Việt Nam mà du khách Tây phưong tới thăm rất nhiều. Nhìn thấy họ, tôi có
cảm giác khá lạ lùng: họ là những người Tây Phưong mà tôi đã từng gặp tại nhiều
nơi bên trời Âu Mỹ nhưng họ lại đang viếng thăm quê hương tôi. Sapa và Hội An
thuộc về quê hương cội nguồn VN của tôi mà tôi có cảm tưởng như là tôi đang
sống ở trong một thành phố Tây Phương vậy vì sự có mặt của rất nhiều du khách
Tây Phương! Gặp các du khách người Úc, đôi khi tôi hứng chí nói tiếng Anh theo
kiểu người người Úc (Aussie's English) cho nó ..." đã" vì tôi cũng
đang nhớ lại thời sinh viên của tôi tại đất Úc! Tôi thấy vui vui vì tôi
"ngộ ra" rằng đất nước tôi đang "lột xác" để hòa mình với
thế giới bên ngoài, nhất là thế giới tự do những mong người dân lành Việt Nam
thoát ra khỏi cảnh nghèo với hy vọng bắt kịp với đà tiến của thế giới bên
ngoài.
Phần 4B: Xuôi Nam (Nha
Trang, Mũi Né, Ðà Lạt, Saigon)Chặng đường
từ Hội An vào Nha Trang có nhiều phong cảnh khác nhau và rất ngoạn mục. Tôi ngồi
trong xe bus chụp hình lia lịa để làm kỷ niệm và giữ trong Hồ Sơ Hình Ảnh của
tôi. Nhìn cảnh đồng quê Việt Nam, tôi cảm thấy thanh thản vô cùng. Tôi có cảm
giác như tôi đang được trở về một cõi xa xôi, vui mừng nào đó. Những cảm nhận
này thật là khó mà có thể diễn tả bằng giấy trắng, mực đen được. Xe cứ chạy,
tôi cứ ngồi yên mà chụp hình và đón nhận những cảm nghĩ nội tâm. Tôi mừng rỡ cảm
nhận thấy cái "mạch điện" trong người đang chạy ngon trớn như một cái
computer vừa mới mua.
Lâu lâu, bác tài ghé vào một trạm xăng cho chúng tôi "ghé
bến". Nhà vệ sinh công cộng trên nhiều quốc lộ ở Việt Nam có tiêu chuẩn
quá thấp so với các nơi khác trên thế giới. Tôi đã có dịp được nghe mấy bà đầm
da trắng nói với nhau:
- Trong nhà vệ
sinh này, mình phải "làm như thế nào" nhỉ?
Thật ra lần đầu
tiên tôi cũng thấy ngỡ ngàng như họ nhưng tôi đã có dịp "học làm"
trên chuyến xe lửa từ Hà Nội đi Lao Cai khi chúng tôi thăm viếng Sapa.
Chúng tôi bị kẹt xe gần 2 tiếng đồng hồ vì vụ đá lở trên đoạn đường đèo trước
khi đến Nha Trang. Tới Nha Trang đã khuya, chúng tôi tạm trú 3 đêm tại một
khách sạn gần bờ biển.
"Nha Trang là
miền quê hương cát trắng..."
Bãi biển Nha Trang
tương đối không quá đẹp so với những bãi biển khác trên thế giới nhưng đối với
người Việt hải ngoại như tôi, tôi thấy nó rất đẹp vì tình cảm riêng biệt của
tôi với quê hương cội nguồn. Chúng tôi lên thuyền để đi xem san hô. Tôi sẵn
sàng dùng Camcorder để quay phim nhưng tôi thấy thất vọng vì san hô đã bị mất
đi rất nhiều. Số san hô còn lại không đẹp như tôi kỳ vọng. Chúng tôi ghé Hòn
Mun để tắm biển và ăn trưa.
Bãi tắm đẹp, không quá đông người và đặc biệt còn giữ được vẻ thiên nhiên. Tắm
biển xong, nằm trên ghế dưới bóng cây, tôi liên tưởng đến một bãi biển tại vùng
hẻo lánh tại Venezuela mà cuối thập niên 80 gia đình chúng tôi đã ghé thăm. Lần
đi chơi đó, đoàn xe jeep đã đi xuyên qua rừng, qua núi và chúng tôi đã đứng
ngay trong xe mà hái được vài quả xoài xanh trong lúc xe di chuyển. Bãi biển
thật là hoang vu và rất thơ mộng. Ban trưa, họ cho chúng tôi ăn món cá nướng bọc
trong lá chuối, ngon tuyệt trần đời. Trong lúc lim dim ngủ, tôi nghe thấy tiếng
gà gáy ban trưa. Tại miền Châu Mỹ La Tinh xa xôi, hẻo lánh này, cả một thời nhỏ
dại của tôi đã trở về làm cho tôi nhớ đến vần thơ của Lưu Trọng Lư:
"Mỗi lần nắng
mới hắt ven song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng.
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không"
http://www.pbase.com/bac_ninh/nha_trang
Hai mươi năm về
trước, tôi đã có những cơn buồn vời vợi, buồn vu vơ. Giờ đây, "mạch
điện" của tôi đã "chạy" được rồi, tôi cảm thấy an vui hơn nhiều.
Hy vọng rằng 30, 40 năm sau này, tôi sẽ được "sống thảnh thơi" hơn ở
một cõi trời mới nào đó, một đi không trở lại!
BN đã sống ở Nha
Trang khi gia đình mới di cư vào Nam nên BN hăm hở đưa tôi đi thăm thành phố
này. Chúng tôi về thăm căn nhà cũ của gia đình BN tại đường Phan Ðình Phùng mà
trước khi sang Canada định cư năm 1990, BN đã về thăm một lần. BN gặp hai người
hàng xóm nay đã già và họ nhận ngay ra:
- Cô Nga, phải
không?
Tôi chụp một số
hình làm kỷ niệm cho BN sau một thời gian dài xa cách.
Ðồ biển Nha Trang
ăn rất ngon. Theo lời đề nghị của BN, vợ chồng chúng tôi ăn đồ biển ở cái quán
trên hè phố gần khách sạn. Ngồi uống bia và hóng gió biển mà lại được ăn tôm
hùm nướng trên lò than hồng, tôi thấy thật là ... ấm bụng và ngon miệng lạ
thường. Hạnh phúc biết bao!
Chúng tôi rời Nha
Trang vào một buổi sáng sớm để trực chỉ Saigon. Tôi lại có dịp ngắm cảnh đồng
ruộng, núi đồi Việt Nam và chụp hình lia lịa. Trên đường đi đến Mũi Né, chúng
tôi ghé thăm Ðồi Cát Ðỏ. Ðồi Cát không cao lắm nhưng cũng đủ cao để làm cho
chúng tôi thở hổn hển khi lên tới đỉnh đồi. Ở đây, du khách có thể đi trượt cát
từ đỉnh đồi - giống như dân Bắc Mỹ đi tobogganing ngồi trên 1 miếng plastic
trượt tuyết từ đỉnh đồi xuống vậy -. Vài cháu nhỏ đi theo chúng tôi:
- Chú ơi, chú ngồi
lên miếng plastic này, cháu đẩy chú xuống!
Mục đích là để các
cháu kiếm tiền để phụ giúp gia đình của các cháu. Tôi
liên tưởng ngay tới cảnh con nít bên Canada khi đi "tobogganing"
(trượt tuyết) trên các đồi tuyết băng trong mùa đông. Mặt mũi chúng đỏ hồng,
khỏe mạnh trong bộ quần áo ấm mùa đông và được cha mẹ cho đi học tại nhà
trường, học nhạc, học võ ... Vẻ mặt chúng không lộ một chút ưu tư nào trong khi
đó tại Việt Nam, rất nhiều cháu và cha mẹ chúng phải sống quá chật vật. Tôi đã
thấy nhiều khẩu hiệu dao to búa lớn, trăm voi không được một bát nước sáo. Tôi
chợt "ngộ" ra thế nào là Thiên Ðường Ma trong cái thế giới mà người
Tây Phương mệnh danh là "Virtual World"! "Thiên đường" này
đang "ngự trị" ngay tại quê hương của tôi!
Xe buýt đậu ngay
trước khu du lịch Mũi Né. BN và tôi lấy hành lý để ở lại đây trong 2 ngày.
"Phái đoàn" chúng tôi ăn bữa cơm trưa cuối cùng với nhau trước khi
chúng tôi rẽ hướng.
Khu du lịch rất
khang trang và có tiêu chuẩn quốc tế. Tôi có cảm giác như là tôi đang du lịch
vùng Caribbean vậy vì phong cảnh, nhà cửa, thời tiết và nhiều du khách Âu Mỹ.
Tôi thích nhất là được rửa chân bằng cái gáo dừa dùng để múc nước từ cái chum
đặt ngay trước cửa của căn phòng. Bỗng dưng tôi nhớ đến cái bể nước trong căn nhà
của bố mẹ tôi tại Bắc Ninh hồi tôi còn nhỏ dại.
BN và tôi đi
thuyền thúng, phần vì không nỡ từ chối lời mời của "ông lái đò", phần
vì muốn "nếm mùi" đi thuyền thúng xem nó ra sao. "Ông lái
đò" khoảng 40 tuổi, trông rất khỏe mạnh đưa cho chúng tôi hai cái áo phao
để mặc cho an toàn. Tôi lại có dịp chụp hình các thuyền thúng, thuyền đánh cá
và các hàng dừa chụp từ ngoài khơi Mũi Né nhìn vào bờ.
http://www.pbase.com/bac_ninh/da_lat_nam_cat_tien
Người lái đò kể
cho chúng tôi biết về đời sống vất vả và nguy hiểm của những người đi đánh cá
ngoài biển khơi:
- Bây gờ cháu chở
các du khách như cô chú trên thuyền thúng để kiếm ăn. Ðời sống dễ chịu và đỡ
nguy hiểm hơn. Lát nữa, nếu cô chú có thì giờ, cháu mời cô chú ghé thăm gia
đình cháu.
Chúng tôi cũng
đang muốn biết dân chúng vùng này sinh sống ra sao nên sau khi "thuyền ghé
bến", chúng tôi theo anh chàng lái đò vào xóm.
Chúng tôi ghé vào
một quán nước và uống nước dừa do chính "ông lái đò chưa già" trèo
lên cây dừa hái xuống cho chúng tôi. Chúng tôi men theo con đường nhỏ xung
quanh có bụi tre, hoa dâm bụt, hàng dừa và tới nhà bà già vợ của anh ta. Quả
như lời anh chàng mô tả, bà cụ bị một cái bướu trên mặt, che gần hết một con
mắt bên phải, trông rất tội nghiệp. Hai cháu bé thấy chúng tôi đến, "e
lệ" ra khoanh tay chào, một cử chỉ rất đặc biệt và rất Việt Nam. Tôi nhờ
các cháu dẫn tôi ra đằng sau để thăm vườn dừa và vườn đu đủ. Tôi ngửi thấy một
mùi thơm nhẹ nhàng, là lạ nhưng lại rất là quen thuộc. Hoá ra đó là mùi hoa
dừa, giống như mùi hoa cau tại Bắc Việt mà sau hơn 50 năm tôi mới tìm lại được!
Trước khi từ giã,
chúng tôi tặng bà cụ, các cháu nhỏ và mọi người trong gia đình một số tiền
"làm quà". Người cảm thấy vui sướng nhất, có lẽ là vợ chồng chúng tôi
nhưng tiếc rằng những cảm xúc này tôi không thể diễn tả trên giấy bút được! Kỷ
niệm Mũi Né thật là khó quên và nhẹ nhàng!
Chúng tôi lấy xe
đò từ Mũi Né đi Ðà Lạt. Trên xe, chúng tôi gặp HT cùng chồng người Na Uy và 2
con nhỏ về thăm Việt Nam. HT đã truyền "bí kíp" cho BN:
- Cô ơi, tới Ðà
Lạt là cháu để ông xã và hai cháu nhỏ trong hiệu ăn để mình cháu đi kiếm khách
sạn. Dễ lắm, chẳng cần phải "book" trước làm gì cho tốn tiền!
Quả nhiên là khi
đến Ðà Lạt, HT kiếm ngay được khách sạn giá rẻ, ưng ý và cũng ở gần khách sạn
của chúng tôi mà BN đã đặt cọc khi chúng tôi còn ở Mũi Né.
BN và tôi rất ớn cái vụ đì ăn ngoài vì cứ nghĩ đến vụ Quan Tào rượt đuổi là tôi
muốn ... đào tẩu liền! BN và HT kiếm được một khách sạn khác tại Ðà Lạt có bếp
cho du khách sử dụng. Thế là hai cặp chúng tôi và hai cháu nhỏ được ăn ốc luộc,
rau cần xào, cá rán, canh rau đay, cà pháo và dưa cải muối. Toàn là món ăn gia
đình do hai nội tướng trổ tài, ăn vào rất là ... hả dạ! Ðặc biệt là chồng của
HT tuy là người Na Uy nhưng đồ ăn Việt Nam thì anh chàng không chê món nào hết.
Thung Lũng Tình
Yêu rất là thơ mộng và an bình. Ngồi bên bờ hồ, trong cái không khí lành lạnh
của Ðà Lạt, tôi ước mong được ở lại Ðà Lạt trong một thời gian dài để thỏa mãn
cái thú đam mê trồng lan của tôi. Chúng tôi đi xem vài nơi triển lãm lan: Ðà
Lạt có khí hậu lý tưởng để trồng một số Phong Lan và Ðịa Lan, quá tốt so với
cái khí hậu lạnh khắc nghiệt tại Canada - nơi tôi cư ngụ!
Buổi sáng sớm, tôi
chỉ thích đi mua xôi lạc (xôi đậu phụng), gói lớn giá 3000 đồng Việt Nam (chừng
20 xu Canada). Tôi mang về phòng khách sạn, pha một ly nước a tê sô, xôi ăn vừa
bùi, vừa no bụng lại vừa đỡ bị đau bụng như khi tôi ăn phở tại Việt Nam. Một hôm
trong lúc mua xôi, tôi thấy mấy cô nữ sinh mặc đồng phục: áo dài trắng, quần
trắng, áo len mầu xanh đậm. Các cô với đôi má đỏ hồng đã làm tôi nhớ lại những
tà áo dài đồng phục của các nữ sinh Trưng Vương, Gia Long của thuở tôi còn đi
học Trung Học tại Sài Gòn. Tôi được biết các cháu là nữ sinh của Trường Bùi Thị
Xuân và tôi hỏi các cháu đường đi đến trường Bùi Thị Xuân.
Sáng hôm sau, trong khi BN ra chợ Ðà Lạt, tôi mang máy hình và đi bộ tới trường
Bùi Thị Xuân. Trường này và tôi có một quan hệ rất là đặc biệt: tôi có một bà
chị (chị TND, chị là dì ruột của hai con trai tôi) đã từng dậy học tại đó trước
năm 1975. Trước khi chị TND mất tại Canada vào năm 2004, chị đã từng say mê kể
cho tôi nghe những năm chị đi dậy tại Ðà Lạt. Ðịnh mệnh cuộc đời đã chia rẽ hai
chị em chúng tôi sau khi tôi lặng lẽ ra sống riêng một mình và tôi chỉ
"gặp lại chị" trong lúc tang lễ của chị. Ngày chị mất, tôi không khóc
mà chỉ thấy một nỗi buồn lê thê, dài đằng đẵng. Tôi chụp hình hôm đám ma của
chị và tôi đã làm 4 câu thơ viết tặng chị khi tiễn đưa chị lần cuối cùng:
Tiễn chị về lại
Cõi Trời,
Còn em ở lại với đời Trần Gian.
Cầu mong chị sống an nhàn,
Ở nơi Vĩnh Cửu, thênh thang tiếng cười.
Chắc là Tâm Thức
của tôi đã thúc dục tôi thả bộ đến trường Bùi Thị Xuân như để tôi thăm viếng
chị hay là để thăm viếng ngôi trường dùm cho chị vậy. Tôi hỏi thăm người gác
cửa và vài người giáo sư trẻ nhưng họ không biết chị là ai hết. Một vị giáo sư
trẻ nói với tôi:
- Chú vào hỏi
thẳng bà Hiệu Trưởng họa may bà ấy biết cô TND là ai!
Bà Hiệu Trưởng cho
tôi biết ngày xưa chị TND của tôi đã từng là giáo sư hướng dẫn của lớp bà khi
bà học lớp 9 tại trường Bùi Thị Xuân! Bà hỏi thăm chị tôi bây giờ ra sao, ở đâu
... Sau khi tôi báo tin cho bà biết chị tôi đã mất vào năm 2004, tôi xin phép
được đi thăm trường và chụp vài tấm hình trường cũ của chị, coi như là một món
quà tinh thần mà tôi muốn tặng riêng cho chị, một một kỷ niệm đặc biệt của hai
chị em chúng tôi.
Tối hôm đó, tôi mơ
ngủ thấy chị đang tươi cười ngồi trong 1 cái xe "van". Ðặc biệt là
chị ngồi ngay bên cạnh mẹ tôi. Cả chị và mẹ tôi cùng đang tươi cười vẫy tay
chào tôi - Trên thực tế, chị và mẹ tôi chưa hề bao giờ quen biết nhau. Mẹ tôi
đã mất 26 năm trước khi tôi gặp chị lần đầu tiên vào năm 1981 khi chị tới định
cư tại Canada - Tôi bàng hoàng thức giấc. Sau khi tôi uống một ly nước, đi
toilet, tôi ngủ tiếp. Trong giấc mơ lần thứ hai, tôi lại tiếp tục nhìn thấy chị
và mẹ tôi vẫn đang tưoi cười vẫy chào tôi từ trong cái xe "van",
giống hệt như hình ảnh của giấc mơ đầu tiên. Tôi cảm thấy vui vẻ và tôi lại
thức giấc. Tôi đi rửa mặt cho "tỉnh ngủ" để biết chắc là tôi thực sự
đã mơ lần thứ hai trước khi tôi vào giường để ngủ tiếp. Thế rồi tôi lại mơ ngủ
và trong giấc mơ này, tôi cũng lại nhìn thấy chị và mẹ tôi vẫn tươi cười vẫy
tay như để gọi tôi hay vẫy tay chào tôi trước khi xe đi. Tôi chẳng hề sợ hãi
hay buồn bã mà trái lại, tôi cảm thấy an vui vô cùng vì tôi đã "gặp"
được hai người đàn bà mà tôi thương mến vô cùng.
Tôi đã có nhiều
giấc mơ lạ lùng trong nhiều năm trước đó nhưng chưa bao giờ trong một đêm tôi
mà tôi lại có cùng một giấc mơ trong 3 lần mơ ngủ liên tiếp! Chẳng lẽ chị tôi
đã thực sự về báo mộng cho tôi biết rằng chị rất vui mừng khi thấy tôi về thăm
trường cũ dùm chị? Mà tại sao lại có mẹ tôi đi cùng xe "van" với chị?
Phải chăng là mẹ tôi hiện về trong giấc mơ này như là một người "bảo
chứng" (collateral) báo mộng cho tôi biết đây không phải là một giấc mơ mà
thực sự là một tín hiệu tâm linh? Chẳng lẽ mẹ tôi và chị đã có liên hệ với nhau
trong tiền kiếp và đang vui vẻ "đoàn tụ" với nhau? Giá lúc đó mà tôi
được theo mẹ tôi và theo chị "cùng đi du lịch", chắc là tôi sẽ đi
theo ngay lập tức vì tôi cảm thấy rất vui và chẳng hề sợ ma hay sợ Cõi Âm gì
hết!
BN, HT và tôi đi
thăm một Cô Nhi Viện tại một ngôi chùa ở Ðà Lạt. BN đã mua mì gói, kẹo bánh,
sữa hộp và thuê một chiếc xe mang đến tặng cho các cháu mồ côi. Trong khi tôi
mải chụp hình các cháu mồ côi và ngôi chùa, BN và HT thi nhau bồng bế các cháu
bé. Tại đây tôi cũng được chiêm ngưỡng hàng trăm chậu Lan Ðất đang ra hoa mà
nhà chùa sẽ đem bán để lấy tiền trang trải cho các khoản chi tiêu. Buổi tối hôm
đó, HT ghé thăm chúng tôi tại khách sạn và tặng vợ chồng chúng tôi vài tấm
hình. Ðặc biệt là sau mỗi tấm hình, HT đã ghi vội vài vần thơ mà HT reo vần
chớp nhoáng. Xin đơn cử một bài thơ của HT (một cô gái thuyền nhân rời Việt Nam
lúc 9 tuổi!)
Số phận của
bé gái đội nón
Ai đã bỏ em
dưới gốc xoài
Mới được hai ngày, tuổi
lạc loài
Thơ ngây dương mắt nhìn
nhân thế
Một thoáng tia buồn,
dương mắt nai.
HT
Chúng tôi đón xe
đò về Saigon sau 9 ngày sống êm ả tại Ðà Lạt. Tôi không cảm thấy nao nức cho
lắm nhưng khi xe đã vào đến đường Nguyễn Huệ và tôi bắt đầu nhận ra những con
đường chính của Saigon, tôi thấy rất nôn nao và náo nức muốn được gặp bà con và
bạn bè. Tôi cũng muốn thấy "con đường Duy Tân cây dài bóng mát" của
BN trong những năm BN học Luật ... Nhưng Saigon cũng như Hà Nội đã "gây ấn
tượng" khó quên cho tôi: xe cộ quá đông và không tôn trọng luật lệ giao
thông, thành phố quá đông người, dầy ô nhiễm về cả âm thanh lẫn không khí! Tôi
đã được bạn bè dặn dò chớ nên đi lêu bêu chụp hình tại Saigon để tránh vụ bị
cướp giật. Tôi không còn cảm thấy được yên ổn như khi còn ở Sapa, Hạ Long, Tam
Cốc, Ðà Lạt, Mũi Né, Nha Trang, Hội An hay Huế nữa. Chúng tôi ăn mặc rất giản
dị khi ra khỏi nhà.
Một hôm cháu tôi
đến đón tôi bằng xe Honda và đưa tôi về thăm căn nhà cũ của thân phụ tôi ngày
xưa tại đường Yên Ðổ. Sau khi rẽ vào hai đường hẻm, cháu nói:
- Nhà cũ của ông
đây rồi, cậu ơi!
Tôi ngỡ ngàng, ngờ
vực lời cháu tôi nói vì cảnh vật đã quá thay đổi.
- Cậu nhìn số nhà
thì cậu sẽ thấy là đúng nhà của ông ngày xưa!
Ðúng là số nhà rồi
nhưng mà tôi vẫn chẳng tin được. Phải chăng là tôi đã không tìm được những hình
ảnh xa xưa của căn nhà 44 năm về trước? Tôi nói cháu tôi chở tôi đi nơi khác
ngay lập tức vì tôi đang bị "shocked". Vài hôm sau, tôi đi xe ôm và
mang theo máy hình để mà "muốn gì thì muốn, ta phải chụp hình cái
đã"! Kỳ này tôi đỡ bị "shocked" hơn. Tôi đi bộ vào cái hẻm bên
hông căn nhà để nhìn lên cái balcon mà ngày xưa, vào buổi chiều, tôi thường ra
ngồi hóng gió. Tôi thấy cửa sau của căn nhà đang mở và tôi ghé mắt nhìn vào bên
trong. Thật là tối tăm và bừa bộn. Tôi chạy vội ra phía trước nhà để nhìn vào
trong căn nhà. Mặt tiền đã hoàn toàn được sửa lại. Tôi lặng người nghĩ tới tấm
bảng đen ở trong phòng khách mà cha tôi đã thuê người đóng cho ba anh em chúng
tôi giải các bài toán hình học. Ngày xưa, một người bạn đã viết thư sang Úc báo
tin cho tôi biết rằng vài tháng sau khi tôi đã đi du học, cha tôi vẫn không cho
ai xóa những dòng chữ tôi viết trên bảng, chỉ vì lòng thương nhớ con trai nay
đã xa nhà! Ôi tấm bảng đen, đâu ngờ là anh Pháp và tôi cũng đã nối gót tổ tiên
và thân phụ chúng tôi để trở thành các nhà giáo, suốt đời gắn bó với phấn
trắng, bảng đen, sách vở và học trò!
Tôi gặp lại mấy
người cháu họ. Trong đám này, khi tôi rời Việt Nam 44 năm về trước, cô chị lớn
mới học lớp vỡ lòng và có nhiều lần tôi đã đi đón cháu khi tan trường. Gặp các
cháu, tôi vừa mừng, vừa thương. Mừng vì đã quá lâu, chú cháu chúng tôi mới gặp
lại nhau. Thương là vì các cháu không được đi học Ðại Học vì cha chúng được
"mệnh danh" là "ngụy" và đã chết trong trại cải tạo tại nơi
rừng thiêng nước độc ở ngoài Bắc. Tôi thấy nghẹn ngào cho các cháu vì một số
các anh chị của chúng đã khá thành công tại Bắc Mỹ: ở hải ngoại, các cháu tôi
đã được tự do đi học đại học để rồi có công ăn, việc làm chắc chắn như người
dân Bắc Mỹ vậy. Thế nào là ""Ðộc Lập, Tự Do và Hạnh Phúc" nhỉ?
Tôi chợt nhớ đến cuốn truyện "Trại Súc Vật" (Animal Farm) của George
Orwell với câu viết bất hủ: "Các con vật đều được bình đẳng nhưng có một
số con vật được bình đẳng nhiều hơn"!
Tại Saigon, tôi
thấy vui mừng khi gặp lại được một số bạn bè đang làm việc tại Việt Nam và một
số khác cũng đang về thăm Việt Nam như tôi. Họ đã từng đi du học trong chương
trình Colombo Plan ở Úc với tôi. Bốn mưoi năm về trước, chúng tôi đã từng tham
dự những sinh hoạt tập thể: tổ chức tết, ra Ðặc San, tổ chức triển lãm, đi
picnic, ra thư viện học thi cùng với nhau ... Giờ đây chúng tôi đã trở thành
những chuyên gia trong rất nhiều ngành nghề tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ, Canada.
Sau 37 năm tôi mới gặp lại một số bạn bè nên tôi tham dự luôn cả 3 lần họp mặt
để tha hồ mà hàn huyên tâm sự cho thỏa chí.
Về đến Saigon, BN
và tôi cảm thấy "mỏi gối" nên muốn ở lỳ tại Saigon trong ít lâu để
cho tôi có cơ hội kiếm lại những hình ảnh, những con đường, những cảm xúc của
tuổi mới lớn sau khi gia đình chúng tôi di cư từ Hà Nội vào Saigon.
Khi bước chân vào
sở thú với BN và khi đi bộ dưới hàng cây, tôi thấy vui buồn lẫn lộn: cô bạn gái
đầu đời của tôi đã từ giã Cõi Tạm này rồi và người bạn cuối đời của tôi là BN
đã biết hầu hết các cuộc tình trong đời tôi. Giá không có BN đi cùng với tôi,
chắc tôi không dám về thăm "con đường ngày xưa em đi" này đâu vì nó
sẽ gợi lại cho tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm đầu đời rất là khó quên.
Tôi thấy vui nhẹ
nhàng khi bước vào các hiệu sách tại Saigon vì tôi nhớ lại hiệu sách Khai Trí
ngày xưa. Thân phụ chúng tôi đã không tiếc tiền khi anh em chúng tôi mua sách
nhưng cụ không muốn chúng tôi đi coi Ciné!
Hơn 40 năm qua, tôi đã từng vào các hiệu sách bên trời Tây Phương, chỉ thấy
toàn là sách tiếng Anh, tiếng Pháp làm cho tôi thấy hụt hẫng, nhớ nhung những
cuốn sách tiếng Việt. Rất tiếc là là tôi không có đủ chỗ, đủ ký lô trong valise
để "tha về" các sách Việt Nam mà tôi thích đọc trong những đêm vắng
lặng.
Tôi thích đi bộ
vào những con đường hẻm để nhận xét đời sống của Saigon ngày nay để rồi tôi hồi
tưởng lại quãng đời Trung Học của tôi ngày xưa. Cũng vì vậy mà vợ chồng chúng
tôi tạm trú tại nhà bà con thay vì ở khách sạn. Nếu chúng tôi ở khách sạn, tôi
sẽ cảm thấy thành phố này rất xa lạ và sẽ có một khoảng cách giữa Saigon và tôi
trong tình huống của một du khách. Vợ chồng chúng tôi thích đi xe bus lên Chợ
Bến Thành đi xem hàng hóa, mua quà kỷ niệm cho con cháu rồi ngồi ăn hàng. Cũng
may là bao tử của tôi đã bắt đầu "có tiến bộ" và tôi không còn quá
hãi hùng với hình ảnh của Quan Tào nữa. BN và tôi mê nhất việc mua quà sáng từ
các hàng gánh rong. Không gì sướng bằng được uống một ly nước mía vừa mới được
ép mà không còn bị đau bụng nữa. Chỉ tội là tôi thấy vòng bụng của tôi "có
vẻ" càng ngày càng phát triển tỉ lệ thuận theo cái đà "phát
tướng" của tôi mà thôi!
Hôm nay khi ngồi
viết tiếp phần cuối của bài viết dưới bóng cây bên bờ hồ Lake Ontario trong
buổi trưa hè oi ả, tôi nhớ lại đoạn chót của chuyến về thăm quê hương. Cơn gió
mát thổi từ ngoài hồ vào dường như đã mang cái tươi mát, cái tĩnh nội tâm lại
cho tôi. Tôi đã được đi thăm nhiều nơi tại Việt Nam mà trong vòng bao nhiêu năm
tôi vẫn hằng nhớ đến. Tôi đã được toại nguyện với điều đó. Tôi đã được "đối
thoại" với nhiều người thân thương trong gia đình qua vụ Gọi Hồn. Tôi đã
được đi từ ngạc nhiên này qua nhiều ngạc nhiên tâm linh khác. Giờ đây,
tôi không còn phải băn khoăn và bận tâm với các câu hỏi về phần hồn, phần xác,
thế nào thực sự là quê hương và thế nào là "sống" với
"chết" nữa. Tôi đang an nhàn đi kiếm và đọc thêm những tài liệu về
tâm linh qua cái nhìn của người Tây Phương và người Ðông Phương. Tôi hoàn toàn
tin vào thuyết Nhân Quả. Tôi tin rằng người đời có thể may mắn tránh được cái
sơ hở của luật pháp trong Cõi Trần nhưng lưới trời lồng lộng, những điều sai
quấy và những hành động dã man, độc ác, tham nhũng...sẽ chẳng thể nào qua được
Luật Trời Ðất. Nhân nào, quả ấy; ở hiền, gặp lành; có vay và có trả!
Cơn gió mát đang
thổi từ mặt hồ vào và nghe đâu đây có tiếng chim hót. Tôi ngồi duỗi chân và
tiếp tục viết cho xong đoạn kết này. Tôi sẽ nhắm mắt để đánh một giấc ngủ trưa
hè bên bờ hồ "cho nó đả". Sau khi thức giấc, tôi sẽ gập chiếc ghế vải
này, bỏ vào bao rồi đeo trên vai. Tôi sẽ thong thả đi bộ ra xe và lái về nhà
bạn tôi để ăn cơm chiều với bạn bè và BN. Ngày mai, tôi sẽ đi tản bộ vào
buổi sáng, về nhà đọc sách và buổi chiều tối tôi sẽ dậy kèm cho mấy cháu học
sinh gốc Việt Nam. Thì cứ coi như là cái Cõi Tạm này cũng có cái an nhàn của nó
cho tới khi tôi thay hình, đổi dạng và bước sang một "cõi trời mới".
Thì cứ coi như là ngoài những chuyến du lịch trên Cõi Trần này, tôi còn có
nhiều chuyến du lịch tâm linh khác nữa, có gì là khác lạ đâu cơ chứ?
Xin tạ ơn Trời
Ðất. Cũng xin cám ơn nhiều quý vị đã ủng hộ tinh thần cho tôi và kiên nhẫn chờ
tôi trong những lúc tôi ngồi viết và đánh máy mổ cò cho loạt bài viết này.
Một lần nữa, xin
đa tạ.
15/9/2007
Ðàm Trung Phán
Theo
https://www.rongmotamhon.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét