Thành ngữ Việt và văn hóa Việt
qua truyện ngắn của Nguyên Hồng
1. Mở đầu
Nguyên Hồng là một trong các nhà văn có
quá trình sáng tác liên tục và đã để lại khối lượng tác phẩm khá đồ sộ, gồm nhiều
thể loại khác nhau như: truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký, bút ký và thơ. Nhiều
tác phẩm của ông đã rất thành công và góp phần vào những thành tựu rực rỡ cho nền
văn học Việt Nam hiện đại.Khác với các thể loại văn xuôi khác, truyện
ngắn là một thể loại khó, đòi hỏi sự cô đọng. Trong truyện ngắn, người viết
không thể lan man, dàn trải những quan sát, suy ngẫm trong miêu tả tình huống,
khắc họa tính cách nhân vật mà phải hết sức hàm súc và cô đọng. Có thể nói,
Nguyên Hồng đã rất thành công trong lĩnh vực này.Truyện ngắn của Nguyên Hồng với những đặc
điểm riêng biệt của thành ngữ tiếng Việt không chỉ góp phần làm nổi bật nét độc
đáo trong truyện ngắn của nhà văn Nguyên Hồng mà còn thể hiện đặc sắc nét đặc
trưng riêng của nền văn hóa Việt Nam.Đối tượng nghiên cứu của bài viết là 53
truyện ngắn trong Nguyên Hồng toàn tập, NXB Văn học, 2008, do Phan Cự Đệ
sưu tầm và giới thiệu.2. Số lượng thành ngữChất liệu thành ngữ với những sáng tạo mới
mẻ đã làm cho vốn từ tiếng Việt của Nguyên Hồng thêm phong phú và sâu sắc. Có
thể nói, đây là một sáng tạo độc đáo trong truyện ngắn của Nguyên Hồng.Có 95 thành ngữ được sử dụng trong truyện
ngắn của nhà văn Nguyên Hồng. Trong đó, có nhiều thành ngữ được sử dụng lặp lại.
Tổng số lần sử dụng lặp lại của thành ngữ lên đến 145 lần. Tỉ lệ sử dụng như vậy
là khá nhiều. Trong đó, có 4 thành ngữ 3 âm tiết và không có sự lặp lại. Số lượng
thành ngữ 4 âm tiết là 91 thành ngữ.Chúng ta có bảng sau:
Thành ngữ
Thành ngữ 3 âm tiết
Thành ngữ 4 âm tiết
Số lượng: 4
Số lượng: 91
Không lặp lại
Lặp lại
Thành ngữ |
|
Thành ngữ 3 âm tiết |
Thành ngữ 4 âm tiết |
Số lượng: 4 |
Số lượng: 91 |
Không lặp lại |
Lặp lại |
Thành ngữ gồm 3 âm tiết không lặp lại. Ví
dụ:
(1) Nàng hết sức kháng cự nhưng hai
bàn tay Năm cứng như sắt. [2; 91](2) Đứa bé, đứa lớn quấy khóc
như rươi thế này thì còn đi cất hàng cất họ gì được. [2; 232](3) Bên ngoài đen như mực. [2;
613](4) Nhanh như cắt, anh lộn vào trong
khoang,… [2; 169]Thành ngữ gồm 3 âm tiết đều thuộc thành
ngữ so sánh. Thành ngữ so sánh tiếng Việt được xuất hiện ở mẫu tổng quát nhất
là: A như B. Trong đó, A là đối tượng so sánh, như là
quan hệ so sánh, B là đối chứng so sánh.Quan hệ cụ thể giữa A và B trong cấu trúc
thành ngữ so sánh gồm 3 âm tiết được biểu hiện cụ thể như sau:Trước hết, A là tính chất của sự vật được
so sánh, biểu hiện bằng các tính từ (cứng, đen, nhanh), động từ (khóc). Điều cần
so sánh trong đối chứng lại không phải là bản thân các sự vật mà chính là tính
chất điển hình mà các sự vật ấy biểu thị (sắt, rươi, mực, cắt), chẳng hạn “sắt”
trong “cứng như sắt”. Bởi lẽ, “sắt” có đặc tính “cứng”, biểu trưng cho tính chất
cứng ở mức độ cao thuộc đặc tính vật lý, đồng thời cũng biểu trưng cho cơ bắp,
thể lực thuộc đặc tính của con người.Thành ngữ 3 âm tiết xuất hiện trong truyện
ngắn của nhà văn Nguyên Hồng đều sử dụng từ quan hệ so sánh “như”. Đối tượng so
sánh và đối chứng so sánh đều rất dễ hiểu, dễ cảm nhận và vì vậy, nó trở nên
quen thuộc với tất cả mọi người. Điều này cũng phù hợp với phong cách văn
chương của Nguyên Hồng khi nhân vật trong truyện ngắn của ông phần nhiều là những
người dân lao động nghèo khổ.Số lượng thành ngữ 3 âm tiết và thành ngữ
4 âm tiết được thể hiện cụ thể qua biểu đồ sau:Hình: Biểu đồ so sánh số lượng thành ngữ 3 âm tiết và thành
ngữ 4 âm tiết.Thành ngữ 4 âm tiết chiếm số lượng lớn
hơn hẳn so với thành ngữ 3 âm tiết. Và vì vậy, chúng có những nét đặc trưng
riêng, quy luật và cụ thể trong phân tích dưới đây.3. Thành ngữ 4 âm tiết trong truyện ngắn của Nguyên Hồng3.1. Tần số sử dụngThành ngữ 4 âm tiết lặp lại nhiều nhất là
Đầu tắt mặt tối với 14 lần sử dụng. Các thành ngữ còn lại có tần số sử dụng ít
hơn. Số liệu cụ thể được thể hiện trong bảng khảo sát dưới đây: Bảng khảo sát các thành ngữ 4 âm tiết được
sử dụng nhiều nhất:
STT
Thành ngữ
Tần số
1
Đầu tắt mặt
tối
14
2
Đầu đường xó
chợ
6
3
Tha phương cầu
thực
5
4
Hang cùng ngõ
hẻm
4
5
Chen vai thích
cánh
3
6
Nay đây mai đó
3
7
Một thân một
mình
3
Tổng
38
Hầu hết các thành ngữ đều được sử dụng lặp
lại. Thành ngữ được sử dụng lặp lại nhiều nhất là Đầu tắt mặt tối, với 14
lần. Các thành ngữ Đầu đường xó chợ, Tha phương cầu thực, Hang
cùng ngõ hẻm xếp sau với lần lượt 6, 5, 4 lần xuất hiện. Trong khi đó, các
thành ngữ còn lại chỉ có từ 2 đến 3 lần lặp lại.Nhìn chung, các thành ngữ được sử dụng
nhiều trong truyện ngắn của Nguyên Hồng phần lớn đều thể hiện nội dung về sự
lam lũ, khó nhọc, sự lo toan, vất vả của những cảnh đời bất hạnh và bần cùng
trong xã hội.Thành ngữ được sử dụng nhiều nhất
là Đầu tắt mặt tối với 14 lần xuất hiện, vượt xa các thành ngữ còn lại.
Theo Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, ý nghĩa của Đầu tắt mặt
tối: “Làm lụng vất vả quần quật suốt ngày, hết việc này đến việc khác, không có
thời gian thư giãn, rỗi rãi”. [11; 296]; Theo lí giải của Từ điển thành
ngữ - tục ngữ - ca dao Việt Nam, thành ngữ Đầu tắt mặt tối: “chỉ sự làm việc
quá độ, làm việc đến quên ăn, quên nghỉ, quên ngày, quên giờ, vì công việc thúc
ép phải làm cho xong. Nhà Nông của ta đều phải làm việc như vậy trong suốt vụ
mùa. Khi đã làm không nghĩ đến việc ngưng tay, ngơi nghỉ” [1; 487]. Xét cả
hai cách lý giải trên, thành ngữ Đầu tắt mặt tối nhằm chỉ sự lam lũ,
vất vả của người lao động đói rách, thiếu thốn, nghèo khổ quanh năm phải “bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời”. Như vậy, có thể nói thành ngữ trong truyện ngắn của
Nguyên Hồng đã được sử dụng một cách hiệu quả và không những thế, nó còn mang đến
sự liên tưởng phong phú và chân thực về công việc của người dân lao động Việt
Nam, là điển hình của một đất nước nông nghiệp. Chẳng hạn:(5) Vài cô mới đi lấy chồng kẻ vừa
có con, kẻ đương to bụng, còn thì đều ở nhà làm lụng quần quật chờ một ngày kia
về làm dâu con một gia đình mà cha mẹ kén chọn để rồi cũng lại đầu tắt mặt
tối. [2; 197-198].(6) Đã mấy mươi năm ròng rồi, bà mẹ
ít nói, ít cười ấy dãi dầu làm lụng đầu tắt mặt tối trong một gia đình nề nếp:
bố chồng trước là ông đồ, chồng là ông đồ, mẹ chồng chất phác và nhịn nhục cũng
như bà. [2; 224-225](7) Nhưng, ở cái nụ cười luôn mở rộng
ấy vẫn thắm thiết cái vẻ hiền từ và chịu đựng của một lòng mẹ già chỉ biết có
con và cháu trong cái cảnh đầu tắt mặt tối đổ mồ hôi lấy bát cơm ăn.
[2; 274]Những thành ngữ còn lại cũng xuất hiện với ý đồ
miêu tả sự thiếu thốn, túng quẫn của người dân nghèo mạt hạng. Chẳng hạn:(8) Họ - hơn hai chục con người vừa
đàn bà vừa đàn ông, chen vai thích cánh nhau trong cái không khí ngùn
ngụt của căn nhà lá úp xúp ấy. [2; 227](9) Những con người cùng khổ không
còn thấy chút nghĩa lí trong những công việc dằng dặc của mình: buôn bán đầu
đường xó chợ, kéo xe, khuân vác,… [2; 229]Hình tượng nhân vật hiện lên qua chất liệu
thành ngữ điển hình với cuộc sống của những con người cùng khổ, những người đàn
bà dân nghèo và những trẻ em con nhà nghèo. Đó là những nhân vật “nặng ký” xuất
hiện hầu khắp trong các trang truyện tạo nên những hình tượng đặc sắc, góp phần
thể hiện phong cách ngôn ngữ nghệ thuật rất riêng của nhà văn Nguyên Hồng.Ngoài ra, cách sử dụng lặp lại các thành
ngữ trong truyện ngắn của Nguyên Hồng còn nhằm nhấn mạnh đến tư duy và cách
liên tưởng phong phú và sâu sắc của người dân Việt Nam về sự khó khăn và vất vả
trong công việc của mình.3.2. Đặc điểm văn hóaTác giả Nguyễn Xuân Hòa cho rằng “Thành
ngữ tiếng Việt vừa là một đơn vị ngôn ngữ đặc trưng vừa là một thực thể văn
hóa, nghĩa là trong cơ cấu thành ngữ Việt có chứa đựng yếu tố văn hóa - dân tộc
liên quan đến khế ước xã hội cộng đồng người Việt”. [7; 610]Tác giả Nguyễn Công Đức có viết như sau:
“Có thể nói thành ngữ là phương tiện phản ánh đắc dụng trong văn phong nghệ thuật
và văn phong chính luận và còn thể hiện trí thông minh, sự tài hoa, chỗ thân
tình và cởi mở của văn phong hội thoại trong đời sống hàng ngày. Vì thế, việc
hiểu đúng và biết cách dùng đúng thành ngữ là một nhu cầu tự nhiên của người Việt
Nam. Bên cạnh các đặc điểm chung như các đơn vị từ vựng khác, thì thành ngữ lại
có những nét riêng có tính đặc thù về cấu tạo và ngữ nghĩa, mang nặng những dấu
ấn về văn hóa và tư duy dân tộc”. [3; 6]Tác giả Nguyễn Công Đức có đưa ra các đặc
điểm văn hóa của thành ngữ tiếng Việt như sau:– Đặc điểm của đời sống sinh hoạt nông nghiệp;– Đặc điểm lịch sử dân tộc;– Đặc điểm của quan niệm sống, lối tư duy dân tộc.Trong các đặc điểm trên, thành ngữ trong
truyện ngắn của Nguyên Hồng nổi bật với dấu ấn của một đơn vị văn hóa liên quan
đến đời sống sinh hoạt nông nghiệp, đặc điểm của nền nông nghiệp lúa nước và đặc
điểm của quan niệm sống, lối tư duy dân tộc của người Việt Nam.Nhìn vào thế giới nhân vật trong truyện
ngắn, Nguyên Hồng xứng đáng được gọi là nhà văn của những người cùng khổ, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em thuộc các tầng lớp bị áp bức bóc lột trong xã hội
cũ. Đây chính là tầng lớp xuất hiện nhiều nhất trên các trang viết và cũng là tầng
lớp có ảnh hưởng lớn nhất đến các sáng tác của ông. Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyên Hồng là tiêu biểu cho lớp người nghèo mà cụ thể là: những
người làm phu phen, tạp dịch nặng nề (Đây bóng tối, Người mẹ không con, Những mầm
sống, Một trưa nắng, Người đàn bà tàu, Hai dòng sữa, Hơi thở tàn); những người
đàn bà dân nghèo (Nhà bố Nấu, Hàng cơm đêm, Đây bóng tối, Những ngày thơ ấu,
Người con gái); những trẻ em nghèo, lang thang, đói rách, thiếu thốn tình cảm (Những
ngày thơ ấu, Cuộc sống, Hơi thở tàn, Những mầm non, Giọt máu, Những giọt sữa),…
Tuy nhiên, ông được mệnh danh là nhà văn của những người cùng khổ không chỉ bởi
vì ông viết nhiều về họ mà điều quan trọng hơn là ông đã dành cho họ những dòng
tâm huyết, cảm thông và trân trọng nhất.Từ cuộc đời nhiều bất hạnh đến con đường
đầy gian khổ khi đến với văn chương, ông phải tích lũy kiến thức bằng tự học một
cách miệt mài, quyết liệt. Khao khát văn hóa, cần cù học hỏi cũng là một nét
quan trọng của cá tính Nguyên Hồng. Ngoài ra, chất dân nghèo, chất lao động khi
gắn bó cuộc đời và những trang viết với những con người cùng khổ đã đem đến cho
Nguyên Hồng một đặc điểm khác hết sức độc đáo. Đó chính là đặc điểm của chất liệu
dân gian được sử dụng một cách tinh tế và sâu sắc.Nguyên Hồng sử dụng thành ngữ có 2 dụng ý. Thứ
nhất, là sự lặp lại nhiều lần của một số thành ngữ theo hệ thống cùng về một
chủ đề nhằm nhấn mạnh tư tưởng của tác giả, nội dung của truyện, khắc họa sinh
động hình tượng nhân vật. Thứ hai, là sử dụng có chọn lọc một số
thành ngữ trong những trường hợp riêng biệt nhằm thể hiện lối tư duy mang những
nét đột phá của tác giả.Phần lớn thành ngữ được sử dụng trong
truyện ngắn của Nguyên Hồng đều thấy thấp thoáng bóng dáng của sự lo toan, vất
vả, nghèo túng trong đời sống sinh hoạt nông nghiệp của người dân nghèo Việt
Nam, đặc biệt là giai đoạn 1936 - 1945, chẳng hạn: đầu tắt mặt tối, bôi
gio trát trấu, cắm đầu cắm cổ, cày sâu cuốc bẫm, chân lấm tay bùn, dãi dầu mưa
nắng, đất khách quê người, đầu hôm sớm mai, đầu trâu mặt ngựa, đồng chua nước mặn,
hai sương một nắng, lặn ngòi ngoi nước, lôi thôi lếch thếch, mưa dầu nắng lửa,
mồ hôi nước mắt, nay đây mai đó, no dồn đói góp, no ăn ấm cật, nghèo rớt mồng
tơi, ngày một ngày hai, sống dở chết dở, sống gửi chết nhờ, sưu cao thuế nặng,
trao xương gửi thịt, thấp cổ bé họng, thân tàn ma dại,…Thành ngữ mang dấu ấn của lối tư duy
trong cách nghĩ của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Có thể nói, đây là đặc trưng hết
sức thú vị trong thành ngữ tiếng Việt. Trong lối tư duy dân tộc, có những đặc
điểm đã in đậm nét, trở thành quan niệm thường dễ nhận thấy nhất, chẳng hạn
quan niệm về vai trò của những người bố, người mẹ, những người có trách nhiệm
trong gia đình thường gắn với sự hy sinh, gánh vác, lo toan như các thành ngữ:
đầu tắt mặt tối, buôn thúng bán bưng, buôn đầu chợ bán cuối chợ, chân lấm
tay bùn, dầm mưa dãi nắng, đầu tắt mặt tối, thắt lưng buộc bụng, tay xách nách
mang,…Hệ thống thành ngữ mang đậm dấu ấn của cư
dân nền nông nghiệp lúa nước như: cày sâu cuốc bẫm, cày thuê cuốc mướn,
chân lấm tay bùn, dầm mưa dãi gió, dãi dầu mưa nắng, đầu trâu mặt ngựa, đồng
chua nước mặn, hai sương một nắng, lặn ngòi ngoi nước, lạ nước lạ cái, mưa to
gió lớn, mưa dầu nắng lửa, no dồn đói góp, nghèo rớt mồng tơi, ruộng sâu trâu
nái, sơn cùng thủy tận, thẳng cánh cò bay, còn nước còn tát,…Tuy nhiên, những dấu ấn tư duy không phải
bao giờ cũng thành hệ thống. Trong các thành ngữ, lối tư duy còn thể hiện ở những
trường hợp riêng lẻ cũng không phải là ít. Chẳng hạn như khi sử dụng thành ngữ Mẹ
tròn con vuông nhà văn muốn cầu chúc, mong muốn cho sản phụ là một nữ
tù nhân có được một ca sinh nở dễ dàng, thuận lợi: “Nàng chỉ còn có thể trông cậy
vào quyền pháp của Đấng cao siêu phù hộ cho nàng cho qua khỏi nỗi gieo neo, cho
nàng tới kỳ sinh nở ở nơi tù ngục được mẹ tròn con vuông [2; 88]. Khi
lý giải về thành ngữ này, theo cách nghĩ dân gian, các cụ quan niệm trời tròn,
đất vuông. Nhưng, cách biểu trưng này có liên quan gì đến người sản phụ? Đáp án
“vuông tròn” là nói tới lẽ thuận với trời đất, cầu mong thuận ý trời đất để mẹ
tròn con vuông, để đứa trẻ sinh ra khỏe mạnh. Thành ngữ Chôn rau cắt rốn được
sử dụng trong truyện ngắn của Nguyên Hồng nhằm nhấn mạnh về nơi sinh ra và gắn
bó máu thịt với bố con Láng: “Con sống có, con chết có ở cái nơi chôn rau
cắt rốn mình và có mồ mả tổ tiên mình này, cho con Tỵ đã cất được một cái
nhà tre” [2; 489]. Giải thích thành ngữ này, dân gian đã có sự liên tưởng đến
rau là một bộ phận đặc biệt để nuôi dưỡng bào thai trong bụng mẹ. Còn rốn là một
ống dài, có tác dụng dẫn chất dinh dưỡng. Khi em bé lọt lòng, rau hết chức năng
và lọt ra ngoài, còn rốn vẫn còn nguyên ở bụng, người đỡ phải cắt rốn cho đứa
bé. Người nhà của sản phụ và đứa bé lấy rau chôn vào trong lòng đất. Vậy là
chôn rau và cắt rốn là hai việc đầu tiên phải làm gắn liền với sự ra đời của một
con người. Thành ngữ Chôn rau cắt rốn cũng hình thành từ thực tế đó.
Thành ngữ Lời ong tiếng ve trong ví dụ “Thấy bà còn trẻ đẹp, lại tươi
tắn và dễ thân mật, họ hàng nhà chồng nghi ngay bà có ngoại tình. Trước những lời
ong tiếng ve, bà chỉ cười” [2; 320] cho thấy cách ứng xử của người đàn bà trước
sự bàn tán chê bai của mọi người. Thành ngữ này được dân gian lý giải như sau:
Ong và ve là con ong và con ve. Đặc điểm của con ong và con ve là hay châm
chích khi chúng di chuyển. Hai giống côn trùng này liên tục phát ra những tiếng
kêu vo ve rất khó chịu nên người ta đã nhân cách hóa để nói về chuyện đàm tiếu
của con người.Thông qua việc sử dụng hàng loạt các
thành ngữ theo hệ thống liên tưởng hay chỉ là những trường hợp riêng lẻ, Nguyên
Hồng cũng đã góp phần đưa văn hóa của người Việt Nam vào trong tác phẩm của
mình. Mỗi thành ngữ đều có những cách lýí giải rất riêng, cách liên tưởng bóng bẩy
nhằm thể hiện đặc điểm của tư duy và văn hóa của người dân Việt Nam.Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy thành
ngữ được sử dụng trong truyện ngắn của Nguyên Hồng dù ở kiểu loại nào thì nghĩa
của chúng vẫn là cái tiềm ẩn bên trong lớp vỏ bên ngoài. Nghĩa của thành ngữ
thuộc tầng thứ hai, sau khi bóc tầng nghĩa thứ nhất. Đó là tầng nghĩa không được
biểu hiện hiển ngôn. Những cái hiển ngôn chỉ là cơ sở có tính chất gợi mở để từ
đó nghĩa của thành ngữ được tạo lập với những liên tưởng, những cách lập ý, lập
tứ mang bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người.3.3. Những kết cấu gần giống thành ngữTruyện ngắn của Nguyên Hồng có sử dụng những
kết cấu rất đặc biệt. Hình thức của những kết cấu này gần giống với kết cấu của
thành ngữ. Cách sử dụng độc đáo này cũng đem đến những thành công nhất định cho
truyện ngắn của Nguyên Hồng, đồng thời, cũng góp phần làm nổi bật hình ảnh về
những người dân lao động nghèo khổ. Thông qua các kết cấu độc đáo này, chúng ta
có thể nhìn thấy được một phần dấu ấn của đời sống văn hóa vật chất và tinh thần
của dân tộc được phản ánh qua ngôn ngữ.Có 102 kết cấu tương tự thành ngữ. Trong
đó, có 61 kết cấu có yếu tố lặp lại (chiếm 59,8%) và 41 kết cấu không có yếu tố
lặp lại (chiếm 40,2%). Chúng ta có thể hình dung trong biểu đồ sau:Biểu đồ thể hiện sự lặp lại và không lặp
lại của các kết cấu gần giống thành ngữ.Các kết cấu có yếu tố lặp lại như: nên
vợ nên chồng, hủi cùn hủi cụt, khóc nức khóc nở, vật đi vật lại, vừa đi vừa về,
vừa thịt vừa mỡ, đứng đường đứng chợ, chúi mắt chúi mũi, cắm đầu cắm cổ, bán
thân bán xác, rụt đầu rụt cổ, ở nhờ ở vả, nghe chúng nghe bạn, cướp công cướp của,
Sài Gòn Sài chéo, xin dấm xin dúi, ăn mày ăn nhặt, từng li từng tí, hàng xay
hàng xáo, hút máu hút mủ, chết vạ chết vật, dỡ của dỡ nhà, ăn đầu ăn đuôi, chết
khốn chết nạn, phơi sương phơi nắng, học khổ học sở,… Yếu tố phụ vốn là lặp
lại của một yếu tố có vị trí ở đầu và ở giữa kết cấu. Hai yếu tố chính vốn là một
yếu tố được tách ra. Chẳng hạn: vợ chồng (nên vợ nên chồng); thân xác (bán
thân bán xác); nhờ vả (ở nhờ ở vả); dấm dúi (xin dấm xin dúi); vạ vật (chết vạ
chết vật),…Kết cấu không có yếu tố lặp lại
như: lê la lạy lục, giời rét chết cò, mọc mũi sủi tăm, mòn mỏi héo hắt, no
đời mãn kiếp, nóng tai đỏ mặt vàng nanh đỏ mỏ, voi giầy quạ mổ, cất đầu mở mặt,
ăn chắt để dành, bê tha rạc rài, ăn tây ở riêng, sông mê biển khổ, phanh thây
xé xác, quanh năm suốt tháng, sinh sôi nảy nở, ngày tư phiên chính, thủy chung
hiếu nghĩa, rát cổ bỏng họng, tiền chục bạc trăm, trêu gan chọc tiết, róc xương
lột xác,… Có thể thấy các yếu tố kết hợp trong những kết cấu dạng này thường
có ý nghĩa gần nhau. Chẳng hạn: năm và tháng (quanh năm suốt tháng); thây
và xác (phanh thây xé xác); đời và kiếp (no đời mãn kiếp; gan và tiết (trêu gan
chọc tiết); ma và quái (yêu ma tác quái); chục và trăm (tiền chục bạc trăm); giầy
và mổ (voi giầy quạ mổ),…Để các kết cấu trên được sử dụng một cách
sinh động và hài hòa trong truyện ngắn, có thể nói Nguyên Hồng đã bắt gặp các
cách sử dụng này trong đời sống của mình hay chính nhà văn đã tạo ra chúng.
Nhưng cần nhận thấy rằng chúng chắc chắn được hình thành nhờ vào sự quan sát
các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội với một quá trình lâu dài được định
hình trong tư duy làm nảy sinh những cách kết hợp thân thuộc và gần gũi trong
cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Vì vậy, khi sử dụng các kết hợp
này, Nguyên Hồng đã đồng thời mang theo cả yếu tố văn hóa dân tộc vào trong câu
chữ của mình.Trong truyện ngắn của Nguyên Hồng, những
thành ngữ có cấu tạo như trên thường có tính chất nhấn mạnh đến hoàn cảnh sống
của con người và có lẽ đều lấy ý tưởng từ các yếu tố chân thực nhất trong đời sống
hàng ngày. Có thể nói Nguyên Hồng là người am hiểu và sử dụng khá thành thạo
các yếu tố dân gian vào truyện ngắn. Từ nhỏ, ông đã được tiếp xúc và sống gần
những người dân lao động, được nghe tiếng hát ru, câu vè, câu đố, điệu hò, tiếng
hát trong các trò chơi dân gian, những câu ca than thân,… tất cả đã được Nguyên
Hồng khắc ghi và vận dụng trong tác phẩm của mình. Hơn nữa, ông đã biết sáng tạo
với những yếu tố quen thuộc trong đời sống hàng ngày tạo thành những kết cấu 4
âm tiết rất vần và xuôi tai.Những kết cấu này ngoài giúp cho câu văn
của Nguyên Hồng sinh động và giàu giá trị biểu cảm, nó còn giúp ý tưởng của ông
được truyền tải đến người đọc chân thực và trọn vẹn hơn. Dùng ý tưởng dân gian
trong đời sống xã hội để phản ánh hiện thực xã hội là một sáng tạo độc đáo và
thông minh của Nguyên Hồng. Nó giúp khẳng định phong cách Nguyên Hồng, khẳng định
sự thủy chung trọn đời của ông với cuộc sống nghèo khổ của người dân lao động,
đặc biệt là hình tượng người phụ nữ và trẻ em. Ngoài ra, cách vận dụng các kết
cấu gần giống thành ngữ còn thể hiện sự ứng biến linh hoạt của tác giả với vốn
từ tiếng Việt và sự hiểu biết sâu rộng của Nguyên Hồng với nền văn hóa của dân
tộc.4. Kết luậnViệc sử dụng một cách linh hoạt và hiệu
quả thành ngữ tiếng Việt đã góp phần vào thành công trong truyện ngắn của
Nguyên Hồng, đồng thời đưa truyện ngắn của ông đến gần gũi hơn với người đọc.
Vì vậy, thành ngữ chính là một trong những yếu tố quan trọng giúp ông thể hiện
nội dung sâu sắc và chân thực nhất trên từng trang viết.Thành ngữ giúp câu văn của Nguyên Hồng
hài hòa hơn, vì vậy, nhiều lúc có cảm giác như ông đang làm thơ vậy. Mỗi thành
ngữ đều ẩn chứa những ý nghĩa riêng có vai trò quan trọng trong việc phản ánh
chân thực và sinh động cuộc sống của người dân nghèo khổ. Vì vậy, thành ngữ tiếng
Việt không những là một đơn vị ngôn ngữ đặc trưng mà còn là một thực thể văn
hóa - dân tộc. Từ đó, thành ngữ đã giúp Nguyên Hồng phản ánh chính xác hơn cả
cuộc sống của những người lao động nghèo khổ mà không bút pháp nào miêu tả và
truyền tải chân thực hơn.THƯ MỤC THAM KHẢO1. Việt Chương, Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt
Nam, NXB Đồng Nai, 1995.2. Phan Cự Đệ, Nguyên Hồng toàn tập, NXB Văn học, 2008.3. Nguyễn Công Đức, Bình diện cấu trúc hình thái - ngữ
nghĩa của thành ngữ tiếng Việt, Là Phó tiến sĩ Ngôn ngữ học, 1995.4. Nguyễn Thiện Giáp, Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục,
1995.5. Hoàng Văn Hành (chủ biên), Kể chuyện thành ngữ tục
ngữ, NXB Khoa học Xã hội, 2002.6. Hoàng Văn Hành, Thành ngữ học tiếng Việt, NXB Khoa học
Xã hội, 2004.7. Nguyễn Xuân Hòa, Đối chiếu ngôn ngữ nhìn từ góc độ
ngôn ngữ văn hóa, Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học Liên Á lần thứ 4, NXB Khoa học
Xã hội, 2005.8. Nguyễn Thế Lịch, Các yếu tố và cấu trúc so sánh nghệ
thuật, Ngôn ngữ, số 1, 1988 số phụ.9. Phạm Văn Tình, Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kỳ 1853-1945, Ngôn ngữ và đời sống, số 6, 2003.10. Phạm Văn Tình, Tiếng Việt từ chữ đến nghĩa, NXB Từ
điển Bách khoa, 2005.11. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển giải thích thành ngữ tiếng
Việt, NXB Giáo dục, 1995.12. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển
Bách khoa, 2010.19/10/2019Lê Thanh HươngNguồn ảnh: infographics.vn
STT |
Thành ngữ |
Tần số |
1 |
Đầu tắt mặt
tối |
14 |
2 |
Đầu đường xó
chợ |
6 |
3 |
Tha phương cầu
thực |
5 |
4 |
Hang cùng ngõ
hẻm |
4 |
5 |
Chen vai thích
cánh |
3 |
6 |
Nay đây mai đó |
3 |
7 |
Một thân một
mình |
3 |
Tổng |
|
38 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét