Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2021

Hoàng Quý - Người hát du ca mùa đông

Hoàng Quý - Người hát 
du ca mùa đông

Cuộc đời làm báo giúp tôi đi nhiều, giúp tôi có được một công việc tôi thú nhận là đôi khi cũng phiền hà, đôi khi phiêu lưu, nhưng nhìn chung thích hợp với cái máu ba phần liều mạng, cũng chừng ấy cẩn thận còn non nửa là phù vân của tôi. Cái sự đi nhiều thường thì khối cái được, nhưng chưa hẳn đã hay. Ví thử niềm mong có một thời lượng đích đáng cho ham muốn viết về mấy chân dung thi nhân thời tôi sống, những bậc người hiền tôi trọng quý và mến yêu, những số phận nhiều khác thường hoặc dị biệt ghi đậm trong đường văn cũng nhiều khác thường, hoặc giả chỉ là đám bạn vặt của riêng tôi... Ấy vậy mà cứ ậm ừ lần lửa mãi.
Tôi nào có đại lãn. Tôi tự nhận mình là một kẻ cũng nhiều chăm chỉ, một chút bốc đồng không hơn nhưng cũng chả tệ hơn người. Thế mà vào tuổi chạm sáu mươi, tôi mới nhận ra hình như tôi mắc nợ, món nợ chả ai đòi mà cứ là nợ. Tôi hỏi vợ tôi như thế có hâm không? Vợ tôi thở dài, nói, thế là trọng người, trọng đời. Lại bảo, thời gian chẳng chờ ai, càng chẳng trải chiếu cho kẻ nhiều mộng mị.
Tuổi thơ. Cái thành Hưng xa hút. Nơi ấy tôi sống những ngày đáng sống nếu đời người có những tháng ngày nên được ngợi ca là đáng sống. Nó đáng sống không phải vì tôi được hưởng một tuổi thơ khác thường và hơn người. Nó đáng sống vì quanh quanh cái cổ thành hoang phế có một đám trẻ nhỏ, trong đó có tôi, sống dễ như rau dợ sắn khoai, cố kết như rà ruột, mặt mày thường vàng võ thiếu đói, áo quần vá đụp vá chằng mà mơ mộng chật căng. Cầm đầu cái lũ trẻ mộng mị là Hoàng Quý, cái thằng rất khôi ngô và thuộc loại con nhà...
Trong đáy mắt lũ tôi thời ấy thì Hoàng Quý thuộc thế giới khác, một thế giới phía hồn nhiên có thể xoay trần súng phốc, đánh khăng, có thể úp thìa cật đêm trong ổ lá ổ rơm hay kềnh dưới bãi mịn phù sa cuối bến dốc bưng đặc thuyền đinh ngắm sóng sông Thao bất biết ngày mai rồi sẽ thế nào, nhưng chợn chợn xa, cơ chừng bước chạm cửa nhà lim là hồ nghi, là dặt dè ái ngại, buông tuột cái phởn phơ thành những cụ măng cố làm nghiêm nghị. Đã đành lũ như tôi toàn hậu duệ nhà chân đất. Mà Hoàng Quý lại con cụ chủ chính hãng sơn ta lẫy lừng ngày nào nhưng giò cẳng có nhiêu khê bít tất giày tây cách biệt diệu vợi gì. Có lẽ, sự đáng nể là con út cụ chủ sống bình dị giống với lũ tôi, sống dễ dàng tự nhiên như chưa bao giờ khác, lại rất biết nhường nhịn, biết đồng lõa, đặc biệt hay cho chúng tôi mượn sách, san sẻ bất luận thứ gì có thể, thi thoảng "toáy" những hoa quả bánh trái mẫu thân mang về từ Hà Nội cất trên cái đĩa Giang Tây to phát thèm và lục túi chia tới hào cuối cho cả bọn. Cái đận gia đình tôi lam lũ nhập đoàn người khai hoang làm kinh tế mới hút hoắm Sông Vàng, cũng vẫn Hoàng Quý lôi một đám thiếu sinh ngược bộ ngót năm mươi cây số dốc, vào cái làng Tề Lễ cắc cớ đò giang nơi tôi gần hóa người rừng diễn hẳn một đêm kịch. Cái vở kịch hú họa tôi sáng tác ở tuổi tập yêu với lớp lang lằng nhằng, lời thoại hơi nhiều hiên ngang, lý sự éo le dầu mỡ, giờ chả dám mang ra làm dáng hoặc làm quà.
Thế rồi 16 tuổi, Hoàng Quý giấu bạn bè, giấu gia đình nhập ngũ tham gia chiến tranh chống Mỹ. Bạn bè ngơ ngác biết bạn ghẻ lạnh những ưu ái sẵn mở cho em trai một cán bộ cấp cao. Những ưu ái khó gọi rẽ rành mà chúng tôi chả dám mơ trong những giấc nhọc nhằn.
Tôi có gặp bạn không lâu sau đó ở sư đoàn 304B, trong một chiều nhá nhem trên đường hành quân dọc con kênh đào ở phủ Phú Bình, Bắc Thái (cũ). Vẫn nét cười nhẹ. Vẫn cái cách móc túi dúi vào tay chúng tôi những gì có thể. Chỉ khác chăng khuôn mặt gan góc nhiều hơn và ánh nhìn dường cô liêu hơn. Nhưng, có một thứ vẫn rất Hoàng Quý, đó là sách. Sách nhét phồng trong những túi ôm vòng chiếc ba lô cóc. Sách độn cao khẩu AK vắt lạnh ngang miệng chiếc ba lô nặng phồng và dang dở một cuốn trên tay...Lần gặp ấy phải chờ 30 năm sau, tôi mới có một cuộc gặp khác, cầm lại bàn tay vĩnh viễn là tri kỉ!
Tôi lược vài chi tiết trong rừng chi tiết, cách ứng nhân, để khảng định một điều rằng sự tử tế làm nên một nhà thơ tử tế có tên là Hoàng Quý - một nhà thơ nếu chưa ghi lại ít nhiều, chưa thử xăm soi những tác phẩm mang tinh thần, mang hơi thở giữa cái tương quan thời gian được mặc định mong manh chữ, tìm dấu họ nghĩ suy, tìm thử cả lòng yêu và nỗi người, cả sự đóng vón hoặc vỡ òa những chất chứa, thì có thể ta còn nợ một món nợ mơ hồ. Nhưng nghĩ cho cùng, đó cũng là một cách tự ta còn cố ngoan cố chưa nhập bọn trong cái ruộng thị trường tìm thực lợi rồi lãnh cảm với thời ta.
Hoàng Quý đến với thơ muộn, điểm xuất phát phảng phất chút liêu trai!
Tháng 7 năm 1996, khi đã tuổi 44 (tính theo tuổi thực) ông mới chào bạn đọc tập thơ thứ nhất - tập Giấc Phì Nhiêu. Cái tập đầu lòng do công của nhà thơ Vân Long trong một dịp ghé Vũng Tàu, bắt chợt phát hiện một giọng thơ rất riêng, tiếng thơ vạm vỡ, mĩ cảm vỡ òa, cách nghĩ, giọng điệu nhiều mới mẻ trước vệt thi ca đã quá quen mà ông mang bản tập về Hà Nội cho Nhà xuất bản Văn học phục sinh. Tập thơ này Hoàng Quý viết không cưỡng được sau một năm ở chùa đọc kinh nhà Phật như khách sang của sư thầy. Thế thơ nó tìm đến với ông thế nào, ông bảo chịu, không hiểu được. Rồi trong mươi năm tiếp sau, ông in một loạt bốn tập và tới miếu Văn Quốc Tử Giám theo lời mời để đọc non một chương - chương Nhân Dân (*) - trong trường ca Đối Thoại Trắng, gây chú ý và tán thưởng đến độ rất nhiều hoa của bạn hữu và của cả người yêu thơ dự khán ùa lên sân thơ tặng người thơ. Một tên tuổi cỡ Phạm Tiến Duật nhiều năm trước đó đọc tập "Ngang qua cánh đồng" và vài mươi khúc trường ca "Đối thoại trắng", bản thảo mới khởi đi còn chưa đầy đủ, từng dùng hai từ sừng sững nói với Hà Đình Cẩn và bạn hữu, bày tỏ yêu quý trước tiếng thơ bước lên thi đàn sau con sơn tước Trường Sơn nhiều năm, dẫu thế không thể tầm thường. Về tuổi tác Hoàng Quý thuộc thế hệ những người lính giữa Mậu Thân. Nhưng với cuộc chiến tranh chống Mỹ, họ cùng màu áo, họ không cách biệt một lượng thời gian sau trước quá lớn. Trường Sơn đều che chở và gửi vui buồn họ. Cuộc chiến bổng trầm có thể nhặt thưa riêng mỗi họ. Nhưng, thơ là những nghiệm không thẳng hàng. Mà nào riêng Phạm Tiến Duật! Một rừng thi nhân lừng danh thời chống Mỹ, giờ điềm tĩnh đọc kỹ từng bài, từng tập, tôi càng trì néo cái ý nghĩ, tiếng thơ mang dấu ấn chiến tranh của Hoàng Quý cũng không thẳng hàng. Ở đây không nên nhầm lẫn chiếu gấm, chiếu điều hay hay chiếu cói các nhà thơ đang ngự. Ở đây tôi chỉ thử lược giải điều gì in hằn thành nghiệm khác giữa họ. Họ đều là những người lính sẵn sàng quyết tử cho cuộc chiến giải phóng giữ nước. Nghĩa là, tình yêu của họ với dân tộc, với Tổ quốc thẳng hàng. Nhà báo truyền hình Dương Hùng Phong cho rằng, hai câu thơ: Khi chiến tranh đi qua đời cha/ Mỗi sợi tóc một câu chinh phụ (Khi chiền tranh đi qua) của Hoàng Quý là là hai câu ở tầm tổng kết mất mát khôn cùng và cũng dữ dội nhất cho mọi cuộc chiến tranh mà con người vừa là kẻ thủ ác, vừa là nạn sinh. Và cũng vì thế, Dương Hùng Phong gọi đó là loài thơ trung thực. Về ý nghĩa rằng thơ cũng là một thể thực có tử có sinh, thì gọi Thơ là loài cũng đâu có ngoa ngôn! Cố nhà thơ Trần Quốc Thực, nói, ông ngẩn người khi đọc: Chỉ cánh chúng ta chẳng nghĩ lo nhiều/ Đi vào chiến tranh như đi chợ/ Cứ như không cánh ta chợ rất là buồn (Khi chiến tranh đi qua}, cái cách viết về một thể tài ngợi thiêng cộc đầu lằn kị, giấu một nụ cười buồn, thoáng chút tự trào, thôi thúc Thực tìm bằng được người viết những câu thơ ấy trong một mùa đông Hoàng Quý ra Hà Nội.
Ở bài "Buổi sáng ra vườn nghe mưa ký ức", lại càng rõ, Hoàng Quý viết về đề tài chiến tranh bằng một nghiệm riêng ra, cái nghiệm riêng ra rõ một sự quậy cựa, hay quậy cựa nên chả rào đón khi trò chuyện, chả biết tránh né cái ngổn ngang lòng mình, không vẽ hình, không đơm bóng:
Buổi sáng ra vườn nghe mưa ký ức
Những câu thơ cay đắng nhất
Mang rất nhiều rủi ro
Bao đồng đội tôi đã nằm trong mồ
Đêm đêm hiện hồn về gõ cửa
Đạn găm đầy hình hài
Nỗi đau không nói được
Bông cúc ta từng hái ở mùa thu
Khô xác gần 30 năm trong ba lô cóc cũ
Ta cầm lại trên tay như cầm lửa chiến tranh
Chả vàng được cho ai - Hoa cúc!
Những khuôn mặt vây quanh nói cười huyên thuyên
Bia rượu đầy mồm
Bia rượu đầy mặt
Bia rượu tràn trên đất
Đất trổ đầy rong rêu
Chả vàng được nữa đâu - Hoa cúc!
Buổi sáng ra vườn nghe mưa ký ức
Mưa ký ức rơi như một bài hát buồn
Mưa ký ức rơi vào bông cúc cũ
Mỗi cánh hoa như một linh hồn...
Và đây nữa:
Khi nhân dân tôi đắp lũy Sông Cầu vua xuống lũy như dân
Khi nhân dân tôi họp Hội Diên Hồng vua ngồi giữa nhân dân
Những rừng cọc Bạch Đằng
Như thế đứng ngàn năm vát nhọn
Bao đạo binh hung hăng
Bao chiến thuyền dữ tợn
Tan chìm và tả tơi...
Rồi vàng son lại cao thấp vàng son
Vuốt cọp vuốt rồng nào chả nhọn
Thương, sĩ náu kinh kỳ cửa hẹp
Phượng, nghê thiêng đội nến sân chầu
Nhân dân nổi nênh theo dòng như bọt
Nắm gạo trong bồ giật mình vì chuột
Hoa mướp vàng
Rơm rạ cũng vàng ngây
Phên rách tháng ba
Rào thưa ngày tám...
(Đối thoại trắng)
Các thi gia Việt Nam nửa cuối Thế kỷ XX - cái nửa cuối mà cuộc chiến đấu vì chủ quyền độc lập dân tộc trải qua những khốc liệt dường đã vượt ngưỡng chịu đựng, những mất mát hy sinh lớn lao cũng vượt cả tới hạn, nhưng vinh quang (Tất nhiên!), xứng đáng để kiêu hãnh không hổ thẹn trước tiền nhân - Hầu hết họ là người trong cuộc, hoặc chí ít cũng chứng nhân, họ kết thành một khối cả phía bỏng rát đối đầu chết chóc, cả ở phía dành dụm những hạt gạo cuối cùng, bởi thế những trang viết của họ dẫu nặng, mỏng khác nhau tùy thuộc tầm tài đều không thể đem ra mặc cả hoặc phủ định bằng những cảm tính, bằng cái cách quấy hôi, bằng những huyễn hoặc trường phái, cũ, mới này nọ.
Tôi trò chuyện với Hoàng Quý trong những dịp có thể, cả bằng emai. Tôi nêu cái cảm giác rằng thơ ông nhiều khác với các nhà thơ cùng thời theo cái cách nói là không thẳng hàng? Ông tỏ ra phấn khích và không khen hoặc chê cái cách ví von ấy. Ông chỉ bảo, ông không khác họ ở không gian sống, nhưng thế hệ các nhà thơ như Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Lưu Quang Vũ, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo và bao nhà thơ lính đều sống, chiến đấu, viết, ngay trong các chiến hào còn khét nồng thuốc súng, hoặc sau những lần bom Mỹ gieo chết chóc phía hậu phương. Cả những nhà thơ mặc áo lính không quá cách biệt tuổi tác với ông như Đỗ Trung Lai, Nguyễn Đình Chiến, Hoàng Nhuận Cầm...đều thành danh và viết được không ít thi phẩm rung động khi họ còn rất trẻ, họ cũng sống và bắt đầu viết song trùng năm tháng chiến tranh. Ông rất kính trọng những thi phẩm tươi rói hình hài năm tháng. "Trước mặt là bao nhiêu miền quê/ Sau lưng là bao nhiêu miền quê/ Ngọn lửa ta đốt lên ở giữa/ Nếu mẹ biết ta còn đông đủ/ Đang bập bùng thương nhớ suốt hành lang/ Giọt đèn ấy bớt đi nhiều khuya khoắt/ Chia bình yên cho mỗi con đường" (Hữu Thỉnh). Ông cũng hiểu cả những dằn vặt thẳm sâu trong họ. "Cây cúc đằng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay" (Phạm Tiến Duật), "Cũng có thể chỉ một cơn ác tính/ Sau một cái rùng mình và cứ thế ra đi" (Hữu Thỉnh). Với ông chỉ giản dị là thơ đến muộn. Thơ chỉ tìm ông (hoặc ngược lại) khi ông đã trút bộ quân phục màu rêu, khi cuộc chiến ông vốn là vi tế liên hữu thúc nhớ ông, day dứt những vọng động. Có thể vì thế mà thơ viết về đề tài chiến tranh của ông giống sự ngoái nhìn, sự ngoái nhìn tích nghiệm, sự tích nghiệm ít nhiều đã cô vón khi tuổi tráng niên với tươi tắn, hồn nhiên, nông nổi ruồng bỏ bởi thời gian. Ông đùa, như thế thơ ông khéo mà lạc loài:
Một ngày ba lô con cóc lên đường
Từ tạ tuổi thơ. Từ tạ mẹ
Tôi mang trong hành trang ngăn ngắt ra đi
Những đọn cói quê người và góc vườn xưa cũ
Tôi không vui và tôi không buồn
Tôi ra mộ cha lạy người ba lạy
Tôi về nhà tôi quỳ lạy mẹ
Chỉ mộ anh tôi là không thấy
Nó tan vào chiến tranh.
(Có một tuổi thơ tôi)
Cái chết bây giờ không khét na pan
Cái chết không rung từng cơn sốt rét
Không bọc trong tăng, không vây trong chốt
Cái chết không ăn nhầm nấm độc trong rừng
Không vắt vẻo thép gai
Không! Không! Không!... Không!...
Sao vuốt mắt chúng mày mấy lần không được
Chúng mày cứ nhìn tao mắt mở trừng trừng
Thôi. Không nói nữa
Cầu cho vong hồn mấy đứa được yên!
(Khi chiến tranh đi qua)
Đồng đội tôi giờ thưa thớt cả
Đứa cấy ruộng quê
Đứa tất tả thị thành
Tôi chỉ muốn gào to trước cánh rừng xưa cũ
Có ai về mắc võng với tôi không?
(Gọi người)
Tháng Tư 2008, nhà thơ Hoàng Quý ra Nha Trang. Tận dụng thời gian ông rảnh ở trại viết, vợ chồng tôi đón ông tới nhà để có dịp hàn huyên, và tất nhiên không thể không nói chuyện văn. Vẫn biết tính bạn, chuyện văn chương đụng đến cái ngoài văn bạn thường im lặng. Tuy nhiên, nghe tôi nói về mấy bài viết cả trên báo giấy và báo mạng vài năm trở lại đây, có những lúc ồn lên một số ý kiến phủ nhận những thi phẩm và đôi khi là tác giả thời chống Mỹ, ông lập tức bất bình. Ông bảo, thời chiến tranh ông chưa làm thơ chỉ làm lính. Ông nói thẳng, giữa cái ác liệt, cái chết chóc những "Lửa đèn", "Vùng rừng không dân", "Phan Thiết có anh tôi", "Đường tới thành phố", "Nhớ cơn mưa quê hương", "Tre Việt Nam", "Đò lèn", "Những người đi tới biển", "Gửi các anh", "Tiếng Việt", "Sân ga chiều em đi"... và bao nhiêu thi phẩm uyển chuyển giàu ánh lửa trong cánh rừng thi ca rộng lớn giúp chúng ta tự cân bằng, ấm lòng, biết đặt vận mệnh Tổ quốc, vận mệnh dân tộc trên mọi nhỏ nhoi, tầm thường dù mất mát, hy sinh và bao nỗi buồn cả có tên lẫn không tên, thì tức là thơ khi ấy đã làm cái việc cần làm. Thơ khi ấy không cần những lời lãng nhách của đám hoang tưởng mới viết một vài đã phách lối, thậm chí nhâng nháo, lộng ngôn. Ông cho rằng thơ khó lắm, có thơ hay thậm khó, loại thơ có tuổi trường sinh thì mỗi thế kỷ may ra có được một vài, Ông bảo tôi, bạn đọc nhiều, thử làm một thống kê các thi phẩm từ mọi thời, liệu còn bao nhiêu ta nhớ được? Khối tác giả ta chỉ láng máng một cái tên, còn tác phẩm thì... Vậy, hãy cứ viết như trái tim mách bảo. Cuộc cờ người, bàn tiệc đời có anh hay vắng anh, được lòng hay bươu đầu mẻ trán cũng chả quá ư trầm trọng:
Ở phía ấy là chân trời chưa một lần cầm nắm
Cứ đè sóng anh đi như chả nghĩ tới bờ
Biển có thể động bây giờ hay lát nữa
Thuyền có thể chìm bất chợt. Có hề chi!
Không toan tính phận người dày hay mỏng
Miễn là bao la, miễn là Tự Do
Ghì lấy tay chèo. Chân choài thật vững
Buồm phồng căng
Gió lộng
Và... đi!...
Đất phía sau lưng chưa hẳn là vướng bận
Vũ trụ mênh mang hẹp một đời người
Phóng tầm mắt soi tìm vào biển lớn
Anh câu đời mình trong những giấc mơ...
(Tự nguyện)
Ừ nhỉ! Có khi anh hãy coi Thơ anh đang dụng nó (hay ngược lại) cũng chỉ nên là những giấc câu. Dù Hoàng Quý không nói thì cái ngờ ngợ tôi, rằng thơ của ông là những nghiệm không thẳng hàng cũng đã nhiều sáng tỏ...
Tôi hay lẩn thẩn tự hỏi, thiếu Thơ loài ta sẽ thế nào? Chắc cũng chả thế nào. "Mua vui cũng được một vài trống canh". Thi hào Nguyễn Du quá khiêm cung (hay quá kiêu) viết cuối những trang Kiều bất tử đấy thôi. Tôi thì tôi đồ rằng thơ hay cũng cần kiêu, kiêu sa. Thơ bậc tuyệt thi hơi kiêu mới đẹp, sang mới đẹp. Thơ chứ đâu phải quấy bánh đúc hay nặn kẹo! Thơ vốn không định nghĩa được. "Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội. Còn Thơ là gì thì ta không biết". Tiên thi sĩ Bùi Giáng từng nói thế, nói lúc minh trí chứ không phải lúc bệnh phiêu.
Có những lúc lên đồng
Chữ rồng rắn nghềnh ngàng như ám bùa ém ngải
Câu thơ đói, Và câu thơ no
Câu thơ kiêu dũng. Câu thơ hào hoa
Câu thơ không chối từ phẩm hạnh
Thách đố tháng ngày gieo một hạt vui
Chả trách móc đêm buồn
Chả giận rỗi năm xô tháng dạt
Ấm lạnh chả vẽ hình khoe khối
Cứ nhẹ như sương hồng hào như khói
Đôi lần lanh canh tiếng chuông
Chiếc chuông tí hon của bà phù thủy gày khẳng khưu có
chiếc mũi lưỡi liềm
Làm thích thú và kinh hãi
(Đối thoại trắng)
Đọc Hoàng Quý, như thể Thơ với ông luôn ám chảy trong những phút lên đồng. Mà khéo ông lên đồng thật chứ không ư. Lên đồng không múa may. Lên đồng lúc đóng vón vui buồn. Lên đồng trong ngẫu hứng men:
Một năm hội Tú Mường chỉ có một lần
Một năm anh ơi nhớ mà đến chơi chơi với em, với hội!
No xôi no thịt thì cứ chơi liền liền đi
Trên đầu lắc lư con ma rượu rồi có đứa trốn ra nương, hai đứa khéo mà thành một đứa!...
Em ơi! Cái bụng anh thèm nói lời yêu
mà sao không nhìn thấy em đâu
Cái ruột, cái gan anh gào hoài hơi trên ống sáo
Có thích nhau thì mới đi tìm nhau
Sao không thấy mùa này em về chơi hội
Em để cho dây đàn anh thiếu nốt vợ, nốt chồng
Hay là em chê anh?...
Ô! Cái Mường mình ơi, cái Mường ta ơi
Ta yêu Mường vì pố, mế sinh ra ta ở đó
Pố, mế già pố, mế về núi
Pố, mế về núi có nhớ Mường, có nhớ đàn con!
Ta lớn phổng lớn phang như cây măng vầu đốt mập
là vì được làng chăm
Ta có cái nghĩ khôn là do sự bảo ban của người già tóc bạc
Ô cái Mường của ta! Cái Mường của ta!
Tao yêu mày như hòn đá lở rồi
vẫn còn lại vết vỡ trong ruột núi!
(Ngẫu hứng qua Mường)
Đặc sản "Ngẫu hứng qua Mường" của Hoàng Quý gồm 9 khúc 79 câu. Nữ sĩ Nông Thị Ngọc Hòa gọi chín khúc ngẫu hứng là đặc sắc, chị ví nó như như "Một tầng mới nữa, một chương mới nữa của Đẻ Đất - Đẻ Nước nhưng khái quát, nhiều ước lệ, sống động, trẻ trung và gần với người đọc hôm nay hơn". Nhà thơ Y Phương dành lời đánh giá thán phục: "Chỉ cần một Ngẫu hứng qua Mường, Hoàng Quý xứng đáng đại diện cho cả một cộng đồng tộc người".
Thi phẩm "Ngẫu hứng qua Mường" có tới hai số phân. Những năm từ 1978 đến 1985 Hoàng Quý làm sưu tầm Văn hóa dân gian. Ông tìm được nhiều bài bản đánh trống đồng cổ tưởng đã thất truyền rồi phục dựng thành công trong dịp Giỗ Tổ (Hội Đền Hùng) 1979, truyền xúc động tới hàng triệu người dù có về tưởng niệm các Vua Hùng hay không có điều kiện hành hương Nghĩa Lĩnh. Tháng ngày lang thang trên các bản Mường, nhà thơ viết chín khúc ngẫu hứng nhưng chả biết dùng vào việc gì. Khi ấy ông đâu có biết số phận ông rồi sẽ thuộc về thi ca. Thế là, khi cao hứng viết tập "Truyện cổ Mường Châu Phong", ông "xé" bài thơ ra "tương" từng đoạn vào mồm các nhân vật trong truyện. Ngay khi đọc các truyện còn đăng lẻ, nhà thơ - họa sĩ Hoàng Hữu, người nổi danh với bài thơ tình tuyệt vời "Hai nửa vầng trăng" đã dự báo, rằng con người tài hoa lãng tử của chín khúc ngẫu hứng sẽ thành một nhà thơ sáng giá một ngày không xa. Xin cảm ơn nhà thơ Vân Long một lần nữa, vì nếu không có con mắt xanh và trái tim nồng nhiệt của ông, rất có thể "Ngẫu hứng qua Mường" cũng chỉ thăng hoa cho riêng một Hoàng Quý. Nếu như thế, "nó" mua vui vài trống canh trong bụi một đời người cũng không chừng. Gần đây, nhà thơ trẻ tuổi mới xuất lộ với "Đứa bé", "Tuổi trẻ", Sacalet áo xanh", Lỗi lầm"...và loạt bài "Hậu hiện đại là cái quái gì" gây sóng nhiều chiều trên thi đàn đương đại vớ được "Ngẫu hứng qua Mường", liền nêu câu hỏi, tại sao không đưa bài thơ vào giáo khoa thư. Anh hàm ý rằng, giáo khoa thư Việt cần những thi phẩm như "Ngẫu hứng qua Mường"! Đó là một ý kiến công tâm. Nhưng than ôi, cái làng văn ta, thơ ta, và kể cả không ít các ông cỡ viện nào mấy chịu ai, vô khối phấp phỏng sợ thiếu mình, sợ mình cũ, một số lẵng nhẵng trồng cây si với những tân hình thức, với lối thơ sắp đặt kiểu Mỹ, với lối canh tác lỏi những hậu hiện đại...Ấy là chưa kể... thì một ý kiến Trịnh Sơn chứ đến vạn ý kiến Trịnh Sơn mùi mẽ gì.
Hoàng Quý không dụng văn chương để lập danh, cũng không dụng văn chương để lấp liếm diện mạo mình cũng như tô trát diện mạo đời. Ông chỉ viết những nỗi niềm ông, như trái tim ông bức thúc:
Tôi không muốn ép tôi phải làm vui lòng họ
Tiệc rượu vắng tôi chưa hẳn bữa tiệc buồn
Thôi, đừng có phỉnh phờ xưng tụng nữa
Với mía đường tôi đỏ mặt thì hơn
Tôi không muốn mỗi khi sai thề thốt
Những lời thề chả lẽ nói nhơn nhơn
Tai no chán những hình dung cửa miệng
Tôi không thề nhưng đỏ mặt thì hơn
Kẻ ganh ghét rủa rằng tôi đáng ghét
Người yêu tôi chăm chú lúc tôi buồn
Với sự ghét tôi thường yên giấc
Trước niềm yêu chong mắt ở trong hồn
Cái mặt tôi chả cần ai chán nó
Cũng chả cần tô trát nó nhiều thêm
Tôi gieo hạt gặp mùa thất bát
Cánh đồng tôi đầy đắng cỏ ưu phiền
Có người nhắn rằng tôi sống vụng
Phải biết chắn che rào đón ở trên đời
Tôi không định ép tôi phải làm vui lòng họ
Tôi thế nào như thế thì hơn!
(Tôi thế nào như thế thì hơn)
Hoàng Quý coi mình là gã có đi ngang qua cánh đồng thi ca, ngắm no chán nó, rồi ngứa chữ mà dốc chữ ra lục vấn chính mình:
Đi suốt cả bon chen gặp cánh đồng mình
Đồng sau gặt nước về như nước mắt
Còn nặng lòng ư cây trái của ta
Hoa vông đỏ một trời lửa đuốc
Em gói chờ mong trong hạt vàng thu
Ta gọi cánh đồng, đồng vang tiếng ếch...
Gặp lại ta
Gặp lại trăm năm
Ta gặp thơ ngây bướm trắng trên đồng
Ta gặp cầu ao con chuồn ớt đỏ
Mải mê hát mãi những lời dung dăng
(Ngang qua cánh đồng)
Ông hát những lời dung dăng dung dẻ thôi mà, như cái đám thanh đồng mục nhi thời xa lắm. Hát rằng: Giọt mồ hôi mặn cả lốt trâu đi/ Những mùa gieo vãi/ Những chiều chim về/ Cây cau đẫm mỏi dưới vòm sương khuya/ Rặng tre lá trút nói lời đón đưa/ Ta tìm ta lại/ Ta tìm cố tri... (Ngang qua cánh đồng). Khi ruộng vườn làng quê thảo hiền đã mùa chao chát, thì tìm được cố tri cũng heo may tăm cá bóng câu. Ngôn ngữ bài thơ dịu dàng quá, đẹp quá, mà cũng thật buồn! Ta gọi cánh đồng chỉ tiếng ếch đáp trả. Chả chìm trĩu nỗi buồn thì là gì? Và các em, những đứa trẻ này rồi sẽ thế nào?
Bài hát rất đắm say
Ca từ tươi vui ví tuổi hoa em bằng mỹ từ Buổi Sáng
Buổi Sáng theo gánh xôi soi nhìn nuốt nước bọt
Run run vé số trên tay
Buổi Sáng mười một mười hai lồng ngồng chưa biết đọc
Mẹ nhặt rác, cha cuốc mướn
Chiều ba mươi tết
mua quần áo "si đa" cho Buổi Sáng còn phải tần ngần
Buổi Sáng đánh giày mặt mày đen nhẻm
Câu chửi thề thành vốn chữ đầu tiên
Buổi Sáng sách đồ thuê và ma cô dẫn gái
Buổi Sáng bị quỵt tiền và bợp tai
Buổi Sáng bỏ làng theo phố
Rửa bát quán ăn, quét dọn nhà người...
(Hãy gọi tên em là Buổi Sáng)
Rất có thể với cách viết thẳng căng như thế sẽ làm ai đó rất không bằng lòng. Nhưng rõ khổ, nhỉ, thế là nhà thơ, anh mũ ni che tai trước cái mảng ám khói ư? Nó có thể gây ngứa (muỗi ấy mà), nhưng dám viết và viết đáng đọc lúc nào chả là sự khó! Tôi cũng là người lính của những năm tháng quyết liệt ngày nào. Tôi từng tin cậy như mọi chúng ta. Tôi vẫn gắng nhủ lòng rằng niềm tin chưa cạn bạc, chưa rơi vào cứng tê nhạt khuyết. Tôi cũng không phải không nhìn tỏ ngổn ngang nhiều tháng ngày đầu, chiến tranh tất yếu di chứng: "Người cắp thúng đi dọc đường số một/ Người thắt cổ dưới gốc cây bình bát/ Người đi nhờ phóng ảnh để thờ con". (Hữu Thỉnh), Nhưng có một cái gì đó quá chậm, có một cài gì đó đang dần nhạt nhòa, hay ngày càng nhiều vô cảm hơn cho không chỉ những đứa trẻ ta vô tình hay cố ý thản nhiên gọn lỏn là "bụi đời"!
Xin trích thêm ít câu thơ nữa trong loạt những bài thơ mà Hoàng Quý có lý buồn lây tôi:
Và...
Nước mãi chảy về phía biển
Những dòng sông không ngủ bao giờ
Trăng non thế!
Trăng tơ non thế
Rót đôi bờ lênh loáng cả phù sa
Ta đã thề không thèm day dứt
Sao đêm nay nước vỗ lên buồn
Những bãi phù sa mênh mang diều sáo
Bồi hồi mắt chớp lên ta
Ta đã gặp những dòng sông câm lặng
Vùi trong sâu hút buồn vui
Đã ngược thác, đã trôi về biển
Đi suốt ngày lại hoàng hôn thôi
Ta đã gặp những miền phố mộng
Những Luy lâu meo mốc rêu phong
Đã hội họp những chợ - phiên - thiện - ác
Sao lại nhớ về, nhớ một dòng sông...
(Sông cũ)
Và đây:
Mỗi ngày
Mọi hiện hữu lại bước ra từ hư không
Ta cứ tưởng đã hiện hữu không còn lo thất lạc...
Mỗi ngày
Những hình dung từ đến chào từ biệt
Như những chiếc là vàng buồn và đẹp
Đã từng xanh muội mê xanh!
Mỗi ngày
Sự minh triết cô đơn như gió
Sự minh triết càng chất chồng càng hoang vu như cỏ
Gió mãi loay hoay đi tìm mái nhà mình
Cỏ chen vật vã mưu sinh
Mỗi ngày
Đời người thêm đoạn văn viết dở
Những hình hài như có, như không
Chưa chợp mắt đã hoang đường hiện hữu
Đầy đường nhân nghĩa rêu rong...
Ta cứ lăm le đóng đinh câu rút
Đắp Thánh đường trong cõi Nhân
Giá tình yêu vô tư như đất
Xoay vòng!
(Điệp khúc)
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiến trong một bài phê bình văn học nhan đề "Hoàng Quý - một chân dung thi sĩ", nhận định: "Hoàng Quý là một nhà thơ có phẩm chất thi sĩ bẩm sinh. Tài năng ông thể hiện ở chỗ không bao giờ ông chịu viết non tay và ở đâu ông cũng viết được. Địa danh, con người, thiên nhiên...ùa vào thơ ông chả cần giấy phép. Hiện thực trong thơ ông không thô nhám, quặng sạn mà là một hiện thực được chưng cất, tinh lọc qua một trường liên tưởng đậm đặc hình tượng và dào dạt tình người". Nhà thơ tu nghiệp và tốt nghiệp hạng ưu Học viện Gorky còn chỉ ra cái cốt lõi trong thơ Hoàng Quý, cái tinh thần nhất quán để tạo nên sức tỏa lan khi bập vào thơ Hoàng Quý, một ma lực cám dỗ cả trên và dưới chữ, buộc ta dè chừng lươn trạch, nhưng luôn có khoảng lặng để òa vỡ thăng hoa, để trò chuyện, thậm chí tâm giao, là bởi vì: "Bài nào ông cũng gửi gắm được những tâm trạng, những suy ngẫm của mình về số phận con người và đặt cách lý giải những câu hỏi về kiếp người. Ông xông pha vào trung tâm của trận địa thi ca. Ấy là thế giới nội tâm đầy mâu thuẫn, phức tạp, sâu xa với những chấn động lớn và cả những rung động tinh tế, vi diệu nhất của con người", (trích theo Nguyễn Đình Chiến - bài đã dẫn)
Hoàng Quý khái quát cái giấc người phập phồng nỗi phì nhiêu. Là thực! Mà bỏng mơ:
Rất nhiều khi ta thảng thốt mơ giấc phì nhiêu của đời người. Em đâm đuống, em trỗ ống, ta đánh cồng và ca hát khúc ca của Mường Người. Đây là non xanh, kia là thung xanh, con trâu thở hơi sương tung bọt dãi dưới vòm tre kẽo kẹt. Thằng bé đánh cù, con cù quay tít. Ông ké già, bà ké già tóc xòa như cước vẹo xiêu men đắng men nồng. Vũ trụ bơ thờ hương lửa. Ta và em ngắm nhìn mê sảng giấc phì nhiêu.
(Giấc phì nhiêu)
Trong cái giấc ái ân mãi mị quan xoay, lính xoay, quản tượng xoay, mọi cá thể và cả đa thể xoay mù tít quanh chiếc đèn kéo quân giấc người. Em ư, tôi ư, có có không không hay khứ lai vô ảnh:...
Em tha thiết, em tươi nồng vũ trường chớp xanh chớp đỏ. Chợ chạ người anh khoe sức lực điền kẻ xem người trả. Em nhìn ta đăm đắm như buồn một thuở, thánh thót loang dài nước mắt phì nhiêu.
(Giấc phì nhiêu)
Có một lượng bài đáng kể, cái "Cánh đồng người" nắng phơi mưa táp réo xiết thơ ông. Có thể coi đó là âm chủ trong giao hưởng thơ Hoàng Quý. Ông lấy nỗi người làm trung tâm hầu mọi bài thơ, trong cả những trường ca, đôi khi tê cóng, đôi khi quyết liệt và bức nóng. Ông buồn cùng nỗi buồn người, ái ân trong giấc người và không lạnh lẽo tìm quên. Đôi lúc vĩ thanh vụt tắt cũng là vị người thôi:
Tôi đã đến, đã gieo trồng và vun xới
Trên thửa ruộng tôi, trên cánh đồng đời
Tôi đã đến đã tìm và đắm đuối
Trong hoang mang những Cánh - Đồng - Người!
Những cánh đồng ngổn ngang và xanh tươi
Ông đã cày, cha đã cày, ta đã cày rồi con ta cày xới nữa
Gieo xuống những gì, gặt hái những gì
Trong phì nhiêu có nắng, bão, nước, và lửa...
Tôi đã đứng thẳng và đã khom xuống không chỉ một ngày
Đã đứng thẳng và khom xuống giữa chấp chới
những sát - na tối và sáng
Giữa đỏ và xanh
Giữa đen và trắng
Giữa đối nghịch và yêu thương
Đã cho
Và đã xin...
(Tự khúc)
Và tất nhiên, trên cái cánh đồng lẽ ra con người cần trách nhiệm, cần cố kết thì tốt đẹp nhường nào. Ông nhận chân vết chân tơi tả, dẫm đạp bởi vụ lợi làm đớn đau:
Tôi đã đến, đã gieo trồng, vun quén
Trên thửa ruộng tôi, Trên thửa ruộng đời
Tôi đã nhìn đau đáu
Thấy thửa ruộng kia tơi tả vết chân người...
(Tự khúc)
Một lần cùng vợ ghé Cổ viện Chăm ở Đà Nẵng, bà thấy ông chôn chân trước những linga, tượng vũ nữ, những ngựa chiến, voi thần hóa đá. Dường lệ đá thấm thấu ông. Ông thấy cái giấc Kinh kha đầy khí lạnh:
Dâu bể bảy trăm năm
Lạnh lẽo bảy trăm năm
Những vũ nữ nhìn câm trên đá lạnh
Ngựa chiến rũ bờm
Voi thần chết lặng
Tiếng gầm sôi thôi có phôi pha
Trụ phồn thực chuốt căng vòng vú đá
Núm nhụy vồng cong xa xót giọt hờn
Núm bình minh của em
Núm hoàng hôn của mẹ
Lặng thinh tứa những giọt buồn
Trong ánh chiếu thâm u như huyễn hoặc
Hết tất rồi Shiva!
Lịch sử một mai rẽ đường tiệt diệt
Hết rồi,
Shiva!
Tôi đứng chôn chân soi từng ngấn lạnh
Sẹo đá giăng dày những vết tai ương
Trên hằng hà u linh khoét vẹt mòn sa thạch
Khóc cùng tôi tan nát linh hồn...
(Trong Bảo tàng Chăm)
Cái nhìn rất riêng, giọng điệu thăm thẳm, ai nhẫn, mà thình lình chớp mi ngay cả trong những bài thơ ông tự xếp vào loạt bài thơ tình theo cách ông, dưới đây chỉ là ví dụ:
Những cơn mưa chưa chạm mặt
Đất khô xót cả bầu trời
Hồ rộng có bông sen nở
Không buồn tàn phai!
Lại đám mây đen ứ trong tâm tưởng
Ta tìm gì sau rũ rượi mồ hôi
Tìm hoài mà chả biết
Em gái cười ta, cười mãi không thôi
Cuối đồng từng đám rạ cháy
Đom đóm mở đèn rong chơi
Cây gạo trong chiều chạng vạng
Cháy - một đài hoa lên trời...
(Tự tình)
Hay trong bài "Chợt cúc", một bài thơ đọc xong dường chữ bay đi, chỉ còn dư ba ở lại. Cảm giác như ông thuộc làu Bạch Cư Dị, lĩnh hội chuyển hóa được cái lối viết vô ngôn:
Sáng nay
Một bông cúc vừa nở
Chả biết nó thuộc giống cúc gì
Quên hỏi người cho cúc
Người tặng khóm non từ mấy tháng trước
Cắm đại ở góc vườn
Tưới đôi ba lần
Rồi thôi
Rồi quên
Sáng nay một đóa nở
Như vàng chớp
Như nắng nhen
Chợt nhớ người cho cây
Chợt nhớ heo may trời người
Chợt nhớ câu thơ "Mùa thu vào hoa cúc"
Thu rồi!
Mà ta quên...
Ánh nhìn vi tế, ngôn ngữ nhẹ lan, thi ảnh diệu ẩn, tâm trạng thanh êm, ngỡ như vô tâm không sắp đặt. Cảm xúc thăng hoa, tạo được hiệu ứng gợi nghĩ nhiều cung bậc. Thơ Hoàng Quý viết tưởng không bận tâm vận công, nhưng không phải, mà do "Nội lực ông thâm hậu, bút lực dồi dào, mạnh mẽ" (Nhận xét của Nguyễn Đình Chiến). Vì thế, khi đọc tập "Ngang qua cánh đồng", cố nhà thơ - nhà phê bình Trịnh Thanh Sơn từng kêu lên: "Đây là thơ của một hồn thơ trữ tình mộng mơ và nhiều chiêm cảm. Đây là thơ của một thi sĩ có thể song hành với thơ dài lâu. Đây là thơ của một Người thơ mà thơ có thể tin cậy được". Trịnh thi sĩ cũng không ghìm nén phẩm bình, khảng định: " Một giọng thơ vâm váp, tràn đầy nội lực, có bản lĩnh và rất tự tin". Ông ghi trong bút văn, gọi Hoàng Quý là "Một nhà thơ sung mãn và độc đáo". (Dẫn theo "Đi dọc cánh đồng thơ", quyển 2, nxb Hội Nhà văn, 2006).
Quê sinh như tâm nhang trong thơ Hoàng Quý. Nghĩa phu thê như giọt ấm giêng hai trong thơ Hoàng Quý. Nơi mẹ sinh ông là làng Bủng Thượng, cái làng gò đồi, cái làng đồng rừng xơ xác ngay chân núi Thắm vùng Thanh Ba, Phú Thọ - ngọn núi rồi thành địa chỉ đáng nhớ sau cái thiên truyện "Ông lão chăn bò trên núi Thắm" héo hon buồn của nhà văn Xuân Thu (Bùi Xuân Tùng). Cha, mẹ vội vã rời Hà thành trong cuộc tản cư lịch sử mùa đông 1946. Ông chào cuộc người lúc nhá đèn, năm Thìn, khi mẹ ông chỉ còn thứ có giá duy nhất là bọc hạt sen khô do một nhà sư quý hóa cho mấy ngày trước. Mẹ ông kể, ông sống được là nhờ những hạt sen từ tâm giữa cái đận lao đao tưởng chừng cả nhà sẽ vật xuống ở rừng này. Đó có phải là ngọn nguồn cách ứng xử Phật thiện của ông chăng? Ba lần đoạt giải văn chương đều dành tặng không giữ dù một hào nhỏ. Lần giúp cứu một người tù suy tim mới mãn hạn đổ gục trên đường tàu ở ngõ Nhà Dần, thị xã Phú thọ. Lần nuôi một cháu nhỏ bị lạc cha mẹ ở Vũng Tàu...Và nhiều việc từ tâm không mấy người biết. Tôi nhờ đọc những tin văn trên báo chí, và lần vui chuyện với bà Liên, người vợ hiền của ông buột kể, trong lúc ôn nhớ vài mẩu dĩ vãng.
Tôi muốn có vài dòng về nơi sinh ông. Cái núi Thắm quý linh mà tôi vừa nhắc, bên mạn mái tây bắc thuộc địa hạt huyện Thanh Ba, là nơi chào đời của Phạm Tiến Duật. Duật sinh ở làng Đồng Bở, cũng làng đồng rừng, cách Bủng Thượng rất gần. Mạn đông bắc lại thuộc Hạ Hòa, thi sĩ Lưu Quang Vũ cất tiếng khóc thứ nhất ở thôn Gia Điền, cũng làng rừng úp bát. Hai mạn núi rộng lớn chứng sinh ba nhà thơ. Thơ của mỗi họ đều thuộc tiếng thơ bậc người hiền. Họ đều mặc áo lính thời chinh chiến. Số phận thuận mùa hay ba đào chìm chĩu có thể không giống nhau, những cung đường đời có thể nhiều khác biệt, nhưng Thơ là nợ nhân gian mỗi họ. Trong biên niên hành trang tinh thần họ, trung du nghi ngút chảy nơi thượng nguồn hóa sinh:
Trung du!
Ngăn ngắt ngàn xanh
Sông vờn uốn quanh
Sông Đà, sông Lô, sông Thao mênh mông
Trung du!
Chập trùng núi non mờ sương
Lượn vòng bãi sông phù sa
Gập ghềnh đồi thung...
Dòng Thao trôi
Dòng Lô trôi
Đà Giang ơi!
Đồng bãi phù sa cổ kính còn đây
Đường làng đầy nắng tươi vàng khoe sắc rơm phơi
(Trung Du)
Bài thơ khỏe khoắn vạm vỡ mà mịn như dải lụa lập tức đi vào ca từ trong một hợp xướng của nhạc sĩ Hoàng Hà. Hoàng Hà có lần nói: Nửa thế kỷ làm âm nhạc, chỉ duy nhất thơ Hoàng Quý, như Chiều nay mùa thu, Mang theo mùa đông...và đặc biệt là Trung du hòa hợp tôi. Khi phổ nhạc thơ Hoàng Quý tôi không có lý do thêm bớt dù chỉ một từ. Lời tâm sự của người nhạc sĩ danh tiếng đã là lời bình.
Như đã nói, quê sinh là tâm nhang trong thơ Hoàng Quý. Nén tâm nhang cháy âm thầm nội tâm ông. Nhớ quê sinh, nhớ bạn, ông viết:
Bạn ở ngoài kia còn nhắc ta không
Ta đã xa người mười năm có lẻ
Thư ta viết đã mấy lần dập xóa
Mấy lần e thẹn gửi cho nhau
(Thư cho làng đồi)
Trong bài thơ tâm sự dưới dạng một lá thư, ông nhắc từ cây cọ, nhắc bến cũ bóng xưa, nơi ông từ đó ra đi phỏng cũng hoang đường: Khấp khểnh khập khềnh sông Thao mùa lũ/ Bứt phăng ta về phía những hoang đường. Và lời xin tha thiết như là tự vấn, như là dằn vặt, như còn hồ nghi:
Này người ơi cho xin một lời thương
Một chút làng đồi, một chiều sương đẫm
Những hàng cọ ngày xưa xiêu vẹo đứng
Có còn khỏa lòng tay xanh ngắt lên trời!
(Thư cho làng đồi)
Có thể đọc niềm nhớ quê sinh trong loạt bài thơ: Tu hú kêu chiều, Bên bến sông xưa, Viết ở sông Vàng, hát Xoan, Gửi Kim thi sĩ và nhiều nữa. Bài nào cũng khắc khoải, vệt buồn trong vắt phập phồng trong ngôn ngữ rất riêng.
Trong thể loại thơ văn xuôi, một thể loại ông viết rất ít, gồm: Giấc phì nhiêu, Ảo ảnh, Hơi thở mùa xuân, Ngang qua cánh đồng và vài bài khác, tôi chú ý một bài có tựa đề rất lạ, bài: "Và em, và anh, và mùa thu":
Anh gần kiệt mùa đi gần kiệt nỗi xác xơ mới ngoái thu sương, mới biết vì thu mà tóc bạc mới thấu lửa em vì sao ngun ngút vì sao sen tận chói chang tận ngác ngơ rồi nhè nhẹ vút đài hoa day dứt. Anh đầy lau hay lau đầy anh? Diệp lục phai anh hay anh phai diệp lục? Điều gì chăng còn gì không sương âu yếm ướt bầm thu như thế!
Em âm thầm tận hiến không giữ gì riêng cả chỉ mong mùa êm anh dẫu thu nhuốm phai, dẫu bao lần anh giở xanh giở đỏ cứ hiền nhẫn tro than nuôi lửa dù anh đang thu hay phai tàn thu, dù anh hoang tàng hay cơ man uổng phí vẫn nguyên em bời bời hương tỏa bởi em còn tin sen vì bùn sen xanh sương nhuộm thu sương hồng lá ngọt thu lá chín...
Và đêm nay, thu rưng rưng che chở chỗ ta ngồi, em gom góp bóng thu xếp một vầng sen rồi dịu dàng nhóm lửa!
Bài thơ này ông viết thuộc hành trang thơ riêng. Nó hiện chưa có trong các tập thơ đã in. Bài thơ có yếu tố bút pháp bán tượng trưng ông hay sử dụng. Cùng các bài Em về bên tôi, Mắt biếc, Buồn Tường vy, Bài thơ cuối hạ, Thư ở sông Hàn... bài dẫn trên cũng thuộc chùm thơ ông viết tặng người vợ thủy chung, người chăm lo và lặng lẽ gánh vác mọi việc, là nơi ông được an ủi trong ngày tháng kiếm sinh và cả đường thi ca nhiều bất trắc:
Chiều nay em ạ ta buồn
Bùa mê cỏ lú ta biền biệt xa
Một đời vọng nguyện cho ta
Rằng là chân cứng, rằng là đá non
Trăng chưa khuyên, đã héo mòn
Trăng còn thế, tháng ngày em còn gì...
Em về chân vấp nẻo khuya
Ta đi chân vấp tứ bề nhân gian!
(Lục bát cho em)
Và đây nữa:
Người còn ở phía xa xôi
Ta co ro trước biển trời rộng rênh
Trời xanh, xanh đến ngại ngùng
Gió kêu khan tiếng, mây chùng chình trôi
Áo buồn khăn lạnh người ơi
Không người ta biết ai người tri âm
(Một mình)
Dành một khoảng không gian thơ riêng cho người bạn đời và cũng là tri âm, thiết nghĩ, cái nghĩa tình phu thê mà ông là người chịu ơn từ người vợ phúc nhẫn đã giúp ông tìm được nhiều "không gian mềm" ngay cả trong dòng chảy riêng "Không giống như một dòng suối róc rách, mà giống như một thác nước xối xả tuôn trào" (Trịnh Thanh Sơn - Đi dọc cánh đồng thơ, quyển 2, nxb Hội Nhà văn, 2006).
Và, chỉ ở những tình yêu trung thực mới có được những câu thơ trung thực, chắt ra từ cách nghĩ rất Hoàng Quý:
Em vẫn nói về ta, vẫn nhắc về ta
Âm thầm đọc câu thơ mùa rụng lá
Em vẫn yêu ta, vẫn rất yêu ta
Bông sen muộn xót xa mùa hạ
Ta cầm tay nhau, nắm lấy tay nhau
Đừng hỏi câu buồn tháng ngày xa cách
Sao nghe lạnh buốt trong người
Tiếng hú gọi vang trong tiền kiếp...
Em rưng rưng thảng thốt gọi ta về
Vẫn thiết tha như ngày xa ngái ấy
Như sen, em nở hết mùa mình
Ta cuối hạ!
Ta tàn thu trước mặt...
(Bài thơ cuối hạ)
Tôi muốn ghi bên lề bài thơ này, bà Liên vợ nhà thơ, được vị sư trụ trì ngôi chùa Hoàng Quý đọc sách Phật và ở một năm, đặt pháp danh là Như Đài, tức đóa sen.
Với Hoàng Quý, ý thức tự lập, tự chịu trách nhiệm trở thành bản lĩnh sống của ông từ rất sớm. Tôi nhớ rằng, năm Hoàng Quý vừa học xong lớp một, nghĩa là mới bảy tuổi, người anh trai thứ ba đưa ông về Hà Nội, rồi lôi tuột xuống Hải Phòng giao cho người em có vợ con tận làng Tràng Duệ, An Dương, Kiến An. Không hiểu người anh của Hoàng Quý được trang bị cái lí thuyết cải tạo cho "nó" (Hoàng Quý) trở thành người của giai cấp tiên phong như thế nào, chỉ biết dấu ấn tháng năm người anh lôi khỏi mái ấm rất sớm ấy hằn vệt đẫm trong thơ ông sau này. Lúc người mẹ đón Hoàng Quý trở về lại thành Hưng, Hoàng Quý kể về cách bắt cua bằng que móc, những ngày vớt rươi tiết tháng chín tái lạnh những cơn mưa gọi nước, cách thức làm vó tôm, nhưng kiểu đặt trũm đơm lờ, cách chọn cói tốt có thể cắt bán cho người kẻ dệt ...làm đám liu riu tròn mắt. Đặc biệt, cái phương pháp ủ đốt khi nấu cơm bằng "củi" toàn rơm rạ nát mót được, để nấu một phần gạo chín phần khoai lang khô, làm sao chín đều cơm riêng, khoai riêng thật chả dễ chút nào. Không biết có phải từ cái dấu vết Tràng Duệ nên nhiều năm chúng tôi chung học sau ngày Hoàng Quý trở về, hình thành một người bạn thích một mình, hay nghĩ đâu đâu, không câu chấp mọi chuyện, hay chúi vào những cuốn truyện cổ kim hiếm hoi...Tôi không hiểu mọi sự. Cũng chưa có dịp hỏi cặn kẽ.
Thời gian được ông anh lôi đi "giác ngộ" có thể là hạt nhân cái hạt thủy sinh khởi giòng chảy một tiếng thơ vạm vỡ mà trữ tình mấy mươi năm sau, lấy tích nghiệm làm nguyên liệu, lấy số phận con người làm căn bản nội hàm cho thơ:
Ta đi trong cuộc cờ đời
Khi thì khóc, lúc lại cười ha ha
Có lần ta đối diện ta
Ngây ngô tự hỏi: ta là ai đây?
(Bốn câu)
Rồi đây nữa:
Như ngọn gió thiên di trên mặt đất
Mê tơi anh đi trong cát bụi đời người
Bên lẻ chán dành, anh gieo bên chẵn,
Tiếng bạc sau cùng lộn túi ra chơi...
Như ngọn gió thiên di trong trời lộng
Trên mây hằng hà lớp lớp là mây
Không đáng đồng cân cuộc bay anh không trọng lượng
Ngoài trời còn trời mà mây lừa tay
Nương ngọn gió anh đi tìm được mất
Anh sục vào bùn
Anh chui vào đất
Cỏ rất nhiều nhưng mùa gặt mấy hoa
Có lúc phổng phao cây mà chẻ ra toàn bấc
Giọt đèn anh liệu cháy được bao ngày!
Như ngọn gió ngang qua cõi tạm
Cát bụi kia rồi cũng lọt qua tay...
(Đi nương ngọn gió)
Nếu ví cuộc đời Hoàng Quý như một chuyến đi thì nó đúng cả nghĩa đen và nghĩa biểu tượng. Ông cuốn theo những xê dịch có tính số phận. Thơ cuốn ông tìm câu trả lời cái u khuất người, nhịp thời gian hư hóa, ngõ ngách biến thiên của đời sống, tựu chung là bản lai hình - tượng - con - người qua nghiệm ông, tất nhiên!:
Ta muốn an ủi em rất nhiều lời chim phượng
Những lời chim phượng lên men trong từ vựng là a, là b, là c...
Là con chúng mình rồi cường sinh như Gióng
Mọi ngõ ngách đâu đâu cũng dáng hình Phù Đổng
Sau cuộc hiến sinh
Cứ tưởng toàn áo cưới
Cứ tưởng ruộng cày mãi thuộc về em đấy
(Mà ruộng cày rất rẻ
Như rau rưa trong vại nhà ta!)...
Tương lai không định sẵn cách tìm
Tương lai gợi những thuộc tính của mong ước
Tương lai như nước xiết
Nhọn như nước
Sắc như nước
Cũng có thể...
Đục và váng vất như nước...
Ta!
Và em!
Đều được mẹ cắt nhúm bằng ca dao
Tắm bằng phong ngôn
Phòng vệ bằng tục ngữ
Câu ca dao phóng túng như diều mềm yếu như diều
Phong ngôn như lụa buộc
Tục ngữ thành giáp, mộc, lao, tên
Chúng ta quen định vị tình yêu bằng những thách đố kiêu hãnh
Rằng trạch đẻ ngọn đa ta sang cưới em
Em có tin mình đoan trang như trúc
Áo phong tình vin trĩu cả cây ngoan...
Câu thơ chảy trôi từ trái tim rung, máu, và nước mắt
Chắt hằng đêm sau rất nhiều lực hút
Mảnh mai trăng và ướt mưa bay
Níu hy vọng sau mùa màng thất bát
Gìn giữ khuôn mặt ta yêu mờ tỏ trước đèn
Cả tiếng khóc cười em
Cả bước mẹ liêu xiêu trước cửa nhẫn nhịn...
Có một ngày, một ngày
Em tô son, em chen hích chợ đời
Thích rổn rảng Helo mà không chào bằng tiếng mẹ
(Đối thoại trắng)
Để rồi, ông nhìn thấu bởi quá cả tin, quá nhiều hy vọng, ngập ngụa những phờ phỉnh, những huyễn hoặc, mộng ảo, hư danh đến độ Lấy cả trời xanh gương lược cho mình/ Em - Cội rễ của thu vàng thì ta quên hết.(Đối thoại trắng). Cái căn bản cần là Nhân Ái - Độ Lượng là cội rễ bền dai của Đạo Hạnh thì loài ta... hay quên!
Hoàng Quý đi nhiều quá. Làm một cuộc điểm danh những vùng miền, những địa danh hiện hình lộng lẫy trong nhiều bài thơ, có thể biết được phần nào bước chân ông. Vừa thấp thoáng nơi "Phố nhỏ duềnh trong sương ngọc/ Ngựa hồng nhịp móng trong mây, với tíu tít Đường gấp hoa đào nhớm tóc/ Cánh rơi tưởng dấu môi ai/ Em gái H'mông xuống chợ/ Khăn rung đỏ cả mặt người phóng túng, man mê trong "Nâng Sa Pa tràn tay", đã gặp trời thu sông Hàn tao mặc:
Em ạ sông Hàn nắng đã phai
Dòng châu chín lịm sắc thu rồi
Vòm quang mây biếc, hàng cây biếc
Trời đất xênh xang cả mắt người
Tiếc thế, giá mà em ở cạnh
Ta men dọc gió tới Hòa Vang
Thèm trông non nước trèo Non Nước
Tàn chiều lội ngược Ải Vân quan
Ở đây thu đẫm từng con phố
Thu đẫm lên chừng cả dáng cây
Những người buôn gánh tràn ra ngõ
Bưởi, quýt, lòong boong, na, mít đầy...
Đà Nẵng lập thu dường rất sớm
Cầu Hàn cong lả nét mày duyên
Em ạ!
Giá mà em ở cạnh
Ta lên cầu
Thu... theo ta lên...
 (Thư ở sông Hàn)
Viết những bài đưa cả địa danh vào thơ thì hầu các thi nhân đều làm. Nhưng viết nhiều nhưng có thể hay đến độ bài nào cũng truyền lây sang người đọc là không nhiều thi sĩ thành công. Hoàng Quý xuất sắc trong số ít đó. Ví dụ, khi ngang qua Cấm Sơn, nhớ Thi sĩ Thôi Hữu từng đề thơ lên miền thẳm, ông viết:
Một dốc
Hai dốc
Rất nhiều dốc
Bỗng gặp nắng đầy thung lũng thơm
Bản làng cuối chạp lơ mơ rượu
Anh bỗng dưng thèm môi mắt quen
Cấm Sơn ruộng núi như thang bắc
Tầm xanh, thác trắng nước reo òa
Có người em gái môi khèn lá
Hương mặt trời ánh ướt thịt da
Một dốc
Hai dốc
Rất nhiều dốc
Cấm Sơn ngày này tôi mới qua
Câu thơ người hái thời chinh chiến
Còn tươi trên lá đến bây giờ.
(Tời Cấm Sơn nhớ thi sĩ Thôi Hữu)
Thiên nhiên , con người Cấm Sơn vào thơ Hoàng Quý thật diễm ảo, lung linh!
Pha Đin đầy tâm trạng trong "Viết trên đèo Pha Đin", Tên sông và địa danh Châu Ổ, Ba Làng An ngân rung trong "Ngẫu hứng sông Trà", bến Ninh Kiều lả lơi say trong "Đêm tài tử" v.v... Bao nhiêu tên vùng miền, địa danh cả Bắc Trung Nam, hễ ông mài vào nghiên thi, là quậy cựa sống động, có khi tinh ảo đến độ có thể nghe được cả tiếng nhạc vang lên qua chữ: "Lách cách leng kheng xà tích xà tang/ Vòng cổ vòng tay chói sáng lấp loáng/ Vừa nhịp ống ép khung khinh lên tiếng/ Đã rộn ràng Đuống chọi cắc cung khoang (Một thoáng hội Mường). Nhà thơ Nguyễn Đình Chiến đến được nơi nào là lôi ngay một bài thơ viết về nơi đó của Hoàng Quý ra đọc, vừa cảm sướng, vừa... được việc. Nhưng, Nguyễn Đình Chiến nghiêm túc khi nói: "Các nhà thơ cũng hay đưa địa danh vào thơ, nhan nhãn chỉ là điểm kê vô hồn. Địa danh vào thơ bậc tài nhân chứa đựng hồn non nước, cả hình bóng tha nhân dưới lấp lánh chữ...". Một nhà thơ sống cùng tôi ở Nha Trang, khi đọc "Chốc lát Cao Bằng" của Hoàng Quý bàn mãi về từ ướp trong câu cuối. Xin chép bài thơ ngắn này, cùng đọc:
Biên giới đây
Tổ quốc tận cùng đây
Đèo Gió, Đèo Giàng ngợp đầy trăng sáng
Dẫu chỉ là chốc lát lên thăm
Sông Hiến, sông Bằng vẫn chảy
Xin nâng bát ngang mày
Xin rót nữa!
Rót tràn câu sli, lượn thơm nồng
Uống đầy em, uống đầy đêm ngây ngất
Áo chàm chao nghiêng ngả cây rừng
Mai chào biệt tôi đi về cuối biển
Bỏ lại trời lại núi phía sau lưng
Riêng câu hát với rượu dâng em ạ
Còn ướp đêm biên tái Cao Bằng!
Tách riêng "thơ địa danh" ghi dọc đường Hoàng Quý cũng đầy đặn một tập thơ hay. Cố thi sĩ Hoàng Cầm, chàng Trương Chi miền Kinh Bắc từng nói như vậy.
Hoàng Quý đề thơ ở các địa chỉ ông qua có như là cách cân bằng tinh thần trong hợp âm chủ ào ạt của giao hưởng thơ ông? Có thể đấy cũng là thuật "lấy đà " trước khi dấn sâu hơn vào những mở ngỏ ông thao thức? Đọc những tác phẩm đã in và phần đã công bố trong hai trường ca "Kịch câm và trò chơi" ,"Đối thoại trắng" có thể nhận thấy những khoảng cân bằng này. Cứ sau loạt bài vạm vỡ, nhiều day trở, có lúc quyết liệt lại là những bài thơ tiêu dao êm nhẹ hơn. Hoàng Quý có thói quen sắp đặt sáng tác theo trình tự thời gian, do đó ta có thể suy ra như vậy.
Là nhà thơ không tham viết vội vã, không in nhiều để tính đầu sách, thơ Hoàng Quý luôn có phẩm cấp, là thứ thơ thuộc "loài" thơ trung thực. "Không bao giờ ông chịu viết non tay". Dưới tầng chữ là những nghiệm sống hoặc vết hồi chiếu từ đời sống muôn màu phức hợp tích tụ, nhưng chọn lọc kỹ. Nói như thi sĩ Đỗ Trung Lai: "Thơ Hoàng Quý là thứ thơ để đọc và là một tập người để chơi". Nhà thơ tài danh có tính khí rất ngang tàng họ Đỗ ít đánh giá ai quý yêu và trọng thị đến vậy.
Những vấn đề Hoàng Quý viết đôi khi gây sốc hoặc dễ cám dỗ lối suy diễn phức tạp, nhưng nhờ trung thực, giỏi dụng thi ảnh, thi pháp ẩn dụ nhiều tượng trưng, ông có thể "nói" gọn gàng, dễ dàng và sinh động bằng ngôn ngữ rất riêng:
Chợt sông Trà
Một đêm trăng man dại
Bỗng xót câu thơ Chu Thần hỏi trăng
"Vì sao quyến luyến đi không nỡ"
Chén rượu mời trăng, "Trăng vào đi trong chén"
153 năm còn sóng sánh hương trăng
Ta muốn hỏi sông, hỏi vầng trăng đỏ
Hồn Chu Thần còn đâu đó không?
Chao ôi! Trăng - Sông - Bất - Tuyệt
Anh hùng đã đi!
Mỹ nhân giờ mĩ miều khỏa thân lên mạng
Trai dũng mặt đỏ đáo đôn hợp đồng hai ba bốn chiều
Đến ma "Tồn Chân bạn cũ cửa sông Đà" cũng bứng về Văn Điển Keo dính chuột maketin đến tận thềm nhà
Chữ nhạt múa dao phay loang loáng
Quan xơi đất xơi tình như xơi thức ăn nhanh
"Vương vấn tình người xa nhau" là món hàng xa xỉ
Trượng phu chống kiếm nhựa
Làm sao đàn bà lúc phân ly còn dám khóc òa!
Trời ạ! Trăng, sông man dại
Bỗng muốn đọc to "Trà Giang thu nguyệt ca"
Trời ạ! sông này, trăng ấy
Lòng bỗng tái tê như là...
(Trăng sông Trà)
Có khi, ông nén bào tâm vào thơ gửi bạn - gửi nhà văn Hà Đình cẩn, ta vẫn nhận được tín hiệu ông, những day dứt không ngừng, cảm giác ớn gai đâu đó, cách diễn đạt gặm nhấm và thức dậy cả một quá khứ:
Ô! Chim vít vịt sao lại kêu cữ này
Chim vẫn thường kêu vào tháng tưng bừng sương
Sốt ruột mà kêu sớm?
Bây giờ mới tháng chín!
Hay chú chim huyền nhung
Thảng thốt giấc mơ thời gian thần thánh
Những giấc mơ ràn rạt muỗi mòng
Những giấc mơ chỉ phong lương khô
cũng ngang giá một lời an ủi
Cuối một đêm rùng mình đếm đồng đội thưa ngón tay
Cuối một đêm rưng rưng mắt huyền xa hút
Võng chao đảo ta
Ghì những trang nhàu mưa phù thũng nước
Cố giỗ một giấc ngủ
Giấc ngủ lem lém cháy
Giấc ngủ lem lém máu
Giấc ngủ bất trắc...
(Đêm qua có tiếng chim vít vịt)
Dụng chữ tài tình nên có cách diễn đạt uyên ảo. Hoàng Quý có kho vốn tiếng Việt rất phong phú, nghệ thuật chữ tinh vi. Không ít nhà thơ dùng tiếng mẹ đẻ hình như không thạo, hình như ẩu, hình như biếng nhác trau dồi, lười mài cho chữ nhọn sắc. Dân trí ta đã tương đối cao, nên những bài thơ với giọng điệu trơn phẳng, quẩn quanh bức bí, đọc cứ gường gượng hoặc sáo mòn thế nào. Không làm chủ ngôn ngữ và tích nghiệm vốn đời thơ khó bay lên. Mở cửa nhìn ra thế giới và tiếp nhận những gì là ở mỗi nhà thơ. Nhưng đọc một bài thơ của nhà thơ Việt Nam, tiếng Việt trong ngôn ngữ biểu đạt thế nào sẽ rõ tác giả thế ấy. Thơ Việt ngày càng hay, nhiều tác giả trẻ có tài năng và báo hiệu đường thơ trường lực. Tuy nhiên có không, một số thi bản của không phải ít, ngộ ngôn, lý sự nhạt, hoặc vay mượn chữ sống sít sần sượng mà lớn lối hình thức này, trường phái nọ, tưởng Ăng - lê hóa thơ, Mỹ hóa thơ là nhảng chân vào thế giới. Thậm chí vô số bài viết cổ súy thứ thơ đọc không hiểu mô tê răng rứa mà thổi phồng là đầy ắp triết luận nhân sinh, ẩn chìm sâu xa, rằng người đọc phải tìm ra khóa giải mã mới thấu thị thì rất khôi hài. Chìa khóa của thơ hay, là đọc bị hút vào, bị ma lực thơ lôi đi, ám ảnh, rồi lâng lâng "sướng", bồi đắp nghĩ suy v.v. chứ sao mù mờ những mã là mã.
Hoàng Quý thuộc số các nhà thơ tự trọng tiếng Việt ta. Thơ ông lao động chữ nghiêm cẩn, có ý thức sáng tạo chữ cho phong nhiêu tiếng Việt. Những đuềnh đoàng, ánh ướt, thưa thót, muội mê xanh... hay nhiều từ ông sáng tạo khác có thể gợi nghĩa mới, cần ghi nhận là đóng góp thêm vào kho tàng tiếng Việt.
Chưa phải lúc tổng kết một đời thơ. Chưa có điều kiện đi sâu vào năng lực tinh thần và hướng tìm chọn cách tân thơ mà vẫn nhuần Việt của nhà thơ. Nhà thơ Hoàng Quý vẫn đang sung sức và mạnh mẽ trong nghệ thuật ngôn từ, do vậy hy vọng sẽ trình bày ở các bài viết khác, ở những hướng tìm khác. Dẫu thế, trong thi giác tôi thơ ông như những khúc du ca mang nỗi người phong kín băng đá. Tổng thể thơ ông thăng hoa, nhiều ước lệ., bật thốt, đi ra từ nhiều nỗi buồn vạm vỡ. Ông viết một thứ thơ thanh và trong, minh trí, sang trọng, nhiều uyên ảo nhưng cũng nhiều sương gió. Thơ Hoàng Quý se se lạnh và đẹp. Rất đẹp ! Khi vạm vỡ vẫn ẩn buồn trong vắt phía sau thơ. Đề tài rộng, tung phá và chất chứa niềm thế nhân. Bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học đã bình viết về thơ ông: Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Vân Long, Y Phương, Trịnh Thanh Sơn, Vũ Nho, Đỗ Trung Lai, Ngô thị Kim Cúc, cả vợ lẫn chồng cặp thi sĩ Phạm Hồ Thu - Trần Quốc Thực, Nông Thị Ngọc Hòa, Nguyễn Đình Chiến... và rất nhiều tác giả đương đại ba miền Bắc Trung Nam. Tôi nghĩ đó là tao hạnh cho một thi sĩ. Những khúc du ca ông dành tặng con người rồi còn dài lâu cùng năm tháng. Và, xin dẫn bài "Du ca mùa đông" thay cho vĩ thanh:
Cứ loay hoay tìm mãi đốm than hồng
Cửa bỏ ngỏ, trái tim bỏ ngỏ
Ai hát khúc du ca mùa đông
Cô xót cả vòm trời cám dỗ
Ta dửng dưng không thèm ta nữa
Cây sấu chua bẻ lá cho người
Thương tóc tiếc một đời rũ gội
Buồn thơm thảo sấu chua ơi
Rồi sông
Sông bèo bọt trôi
Rồi đồng
Tìm không bóng người
Rồi nghe
Đất chừng đã lạ
Xòe tay
Ướt khói sương trời...
(*) Tháng 1 năm 2011, Chương Nhân dân trong Trường ca Đối thoại trắng thành ca từ trong chương 3 - chủ đề Bất khuất - Hợp xướng "Bền vững muôn đời Tổ Quốc Việt Nam ơi!" của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Chính.
Tài liệu tham khảo:
- Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, nxb Hội Nhà văn, 2000.
- Tuyển tập Thơ văn xuôi Việt Nam và nước ngoài, nxb Văn học,1997.
- Thơ mười năm đầu Thế kỷ XXI, nxb Hội Nhà văn 2010.
- Đi dọc cánh đồng thơ (quyển hai). Tiểu luận - Phê bình - Chân dung văn học, Trịnh Thanh Sơn, nxb Hội Nhà văn, 2006.
- Tạp chí Nhà văn, Tạp chí Văn, Báo Văn nghệ, Báo Văn nghệ trẻ, Báo Thanh Niên, Tạp chí Người Hà Nội.
- Băng, đĩa thu của Chương trình phát thanh Văn nghệ, Đài TNVN.
-Vanvn.net;phongdiep.net;trannhuong.com;hoingovanchuong.com, hadinhcan.com;lucbat.com;vanthoviet.com...
- Giấc phì nhiêu, tập thơ, nxb Văn học, 1996.
- Đi bên mùa lá rụng, tâp thơ, nxb Văn học, 2000
- Ngang qua cánh đồng, tập thơ, nxb Hội Nhà văn, 2002, 2004.
- Giả trang, tập thơ, nxb Hội Nhà văn, 2007
- Nguồn tư liệu cá nhân và bè bạn khác
ĐỐI THOẠI TRẮNG
(Trích)
... Ai có thể vạch một ranh giới rõ ràng giữa trí tưởng
tượng và tư duy? Nó không có đâu, cái ranh giới ấy
KONXTANTIN
PAUXTOPXKI
1.
Con ngựa xanh lao lên vòm trời
Mang theo anh không yên cương
Gọi anh từ hằng hà tinh tú lấp lánh
Giằng thoát mọi lực hút
Hiến tặng vô vàn gió
Mềm mượt nhẹ nhõm gió
Đanh như gió, tất bật như gió
Anh muốn bỏ quên mọi buộc ràng để nói lời chào biệt
Cả những cuộc tình hồng hào của Tiên Dung, của Tấm, của Tô Thị trong không gian giấc người
Rất có thể đều không níu giữ được!
Cả cây tre trăm đốt ngàn năm đeo dính những mụn mơ cổ tích
Cũng không níu giữ được!
Anh sẽ đáp lời mời gọi Tự Do
Trong những cuộc đối thoại
Cuộc đối thoại mong manh
Cuộc đối thoại với đóa hoa dường như khô xác
Từng nở tưng bừng anh
2.
Em của tôi bao ước mơ xinh xẻo
Vo từng đêm buông dưới tay mình
Em đợi đón ta
Em chờ ngóng ta
Từ hoang hoải chia xa
Của ông trước Tổ tiên
Của cha trước mẹ
Của ta, con ta trên vô tích con đường
Suốt ngang dọc nhỏ nhoi Tổ quốc
Một cuộc chờ vò võ
Một vệt chờ nhàu nhĩ
Vẹo xiêu khung cửa
Dựng vội vàng từng lóng thời gian
Tiếng mọt kẽo cà vời vợi thâu đêm
Đục chằng chịt cả phong rêu lịch sử
Ta chỉ tặng em quà - một nụ hoa bé tí
Nụ hoa có phần cánh là thủy chung còn phần kia máu rỏ
Tích tụ lần hồi tự tổ tiên ta
Giờ, ta dâng em lau nước mắt
Mong nguôi đớn đau em đêm trở dạ một mình
Và, che chắn những ngày đông thấu ruột
Thổi từ bao cuộc chiến chinh
Ta muốn an ủi em rất nhiều lời chim phượng
Những lời chim phượng lên men trong từ vựng là a, là b, là c...
Là con chúng mình rồi cường sinh như Gióng
Mọi ngõ ngách đâu đâu cũng dáng hình Phù Đổng
Sau cuộc hiến sinh
Cứ tưởng toàn áo cưới
Cứ tưởng ruộng cày mãi thuộc về em đấy
(Mà ruộng cày rất rẻ
Như rau dưa trong vại nhà ta!)
Em chả phải đêm đêm vò võ
Tạc niềm mong như Tô Thị tạc chờ
Em hóa đá đợi anh xin hãy chớ lo buồn
Chả lẽ màu thu dường không có thực?!
Lá đang bay, đang ngơ ngẩn bay
Chao run cả những mảnh hồn xanh xướp
Thiên lý xinh lặng lẽ tỏa bên giàn
Bao nụ cúc sẽ nở thành hoa cúc
Cô Tấm của bà rồi từ quả bước ra
Hương thơm thị cứ chờ thu mà chín...
3.
Không ai có thể mơ thay giấc mơ nghiệt ngã của anh
giấc mơ tham lam của anh
Bây giờ
Và mai nữa!
Chỉ mẹ dạy anh tiếng bập bẹ đầu đời
Cha dạy anh cách đứng
Đời dạy anh cách đi
Định số đọa anh cách chết
Trong tan hợp ngũ hành
Anh thành kẻ tự bảo vệ!
Tương lai không định sẵn cách tìm
Tương lai gợi những thuộc tính của mong ước
Tương lai như nước xiết
Nhọn như nước
Sắc như nước
Trong trẻo như nước
Cũng có thể...
Đục và váng vất như nước
Anh có tin còn ngày mai không
Những ngày mai vật vã
Có rất nhiều cám dỗ
Anh - Trang sách mở ngỏ
Hãy tự mình sang trang
4.
Ta!
Và em!
Đều sinh trong ngùn ngụt truy hoan
của lịch sử giao cấu bội thực
Cả tin ta trong suốt
Cả tin sự cao cả
Sự trong suốt minh triết
Sự cao cả tinh khiết
Ta!
Và em!
Đều được mẹ cắt nhúm bằng ca dao
Tắm bằng phong ngôn
Phòng vệ bằng tục ngữ
Câu ca dao phóng túng như diều mềm yếu như diều
Phong ngôn như lụa buộc
Tục ngữ thành giáp, mộc, lao, tên
Chúng ta quen định vị tình yêu bằng những thách đố kiêu hãnh
Rằng trạch đẻ ngọn đa ta sang cưới em
Em có tin mình đoan trang như trúc
Áo phong tình vin trĩu cả cây ngoan
Xin lạy mẹ ngàn lần những nong nia huyền thoại
Con - thơm - thảo - khế - đợi - đại - bàng - ăn
Con - hiền - dịu - quá - hóa - thành - vàng - anh
Đoạn đường mở ra đã là Bụt đắp
Hạnh phúc Bụt ban
Vinh danh Bụt tặng
Có còn con chăng?
Đường trời quá rộng!
5.
Có những lúc lên đồng
Chữ rồng rắn nghềnh ngàng như ám bùa ém ngải
Câu thơ đói và câu thơ no
Câu thơ kiêu dũng, câu thơ hào hoa
Câu thơ không chối từ phẩm hạnh
Thách đố tháng ngày
Gieo một hạt vui
Chả trách móc đêm buồn, chả giận dỗi năm xô tháng dạt
Ấm lạnh chả vẽ hình khoe khối
Cứ nhẹ như sương, hồng hào như khói
Đôi lần lanh canh tiếng chuông
Chiếc chuông tí hon được trao từ bà phù thủy gầy khẳng khiu
có chiếc mũi lưỡi liềm
Làm thích thú và kinh hãi!
Có những lúc
Lòng bợt muối
Như mớ rau bấy không ai vời mua
Ý nghĩ sạm đen
Ý nghĩ héo hắt
Như ruộng diếp già ngập úng trong mưa
Ta bỏ mặc hồn ta thây kệ trước đời
Hay ta sợ đời nhiều ghềnh lắm thác
Tìm chưa được nước đi thì đã tàn cờ
Xóa ván này để bày ván khác
Loài cả tin không thạo trò phù chú
Ván nào mà chả thua!
Có những phút
Ta lặng im
Như đá
Như đất xác trơ đã rã trắng
Thèm một tiếng hạc kêu xuyên thấu đêm sương
Thèm bàn tay nóng hổi của em chắn ngang mùa ngỗ nghịch
Cái mùa ngạo ngược mọi cái đều có thể chào mời
đổi chác bán mua
Không mấy ai ngượng
Không mấy ai xót
Không mấy ai đỏ mặt
Sao người ta lại nói rất to như quá nhiều người điếc
Em có nghe anh nói rõ không
Ngang dọc chờn chờn đỏ tím vàng xanh
Cười
Hát
Hò reo
Vào hùa
Và cút bắt
Em có nghe được tiếng anh không
Ăn nhậu
Làm tình
Rồi nhảy
Bôi xóa và tô vẽ
Nói dối mãi thành quen
Những con vẹt muôn màu trong chiếc lồng tao nhã
Thật thà bơ vơ
Thật thà thành khách trọ
Vườn cây thế kia sao vội đốm vàng
Lá tự úa đâu thành thu sớm được
Những ngày lá rớt rụng
Còn cố xạc xào còn chưa thấu đau
Chiều nay, chiều nay bợt bạt khói bay
Có chiếc diều kêu nhớ
Gió xơ xước cả vòm trời dạt lá ...
6.
Câu thơ chảy trôi từ trái tim rung, máu và nước mắt
Chắt hằng đêm sau rất nhiều lực hút
Mảnh mai trăng và ướt mưa bay
Níu hy vọng sau mùa màng thất bát
Gìn giữ khuôn mặt ta yêu mờ tỏ trước đèn
Cả tiếng khóc cười em
Cả bước mẹ liêu xiêu trước cửa nhẫn nhịn
Chả lẽ nhạt rồi ư - câu thơ thánh tín?!
Những câu thơ mướt mát lá mầm
Những câu loay hoay
Rất nhiều đơn độc
Câu dâng em
Có hồng được môi xinh sau những phút em buồn
Câu dâng người
Có sưởi ấm được ai mỗi khi lòng trở rét
Có một ngày, một ngày
Em tô son, em chen hích chợ đời
Thích rổn rảng Helo mà không chào bằng tiếng mẹ
Thơ hoen rỉ tiếng chuông vui? Có thể
Những câu thơ hóa bụi
Chất chồng trên giá sách kia
Những câu thơ dạt xô trang trắng
Thôi đành an ủi lấy mình
Thầm ru
Chờ một tháng ngày khác!
7.
Đã tàn cây, tái lạnh da người
Củi chất đầy hồn đốt hoài không nháng lửa
Giã biệt mùa thu!
Một câu hát buồn!
Trong điệu thức trầm luân tiếng gió
Từ tạ sắc may hồng
Thôi, xin lá một lần thêm
Một lần chở che cho đất đai khốn khó
Trả vía đất cây đâu tiếc lá
Mang nặng vía người ta trả cho ai?
Thơ mộng du về phía rộng dài
Phía rộng dài bời bời lá đổ
Thơ chiêm bao về đậu cõi người
Em Tấm hả hê làm mắm con dì ghẻ...
Lỗi của ta là rất nhiều yêu
Lỗi của ta là quá nhiều say đắm
Quá nhiều cả tin
Quá nhiều hy vọng
Trước trùng vây phờ phỉnh hư danh
Cố tin rằng quả thị dấu nàng tiên
Cố tin lồng son chim vàng anh đến ở
Em cô đơn. Em chiếu chăn buồn
Quên quá nửa vòng xoay vì ta em héo úa
Như cây! Em vời vợi buồn thu
Như đất trơ ta ủ lá em cho không đớn đau
không tiếc xót...
Lấy cả trời xanh gương lược cho mình
Em - Cội rễ của Thu Vàng thì ta quên hết!
8.
Ôi! Nhân dân tôi
Nhân dân cô đơn
Nhân dân khiêm cung
Kham nhẫn và dịu dàng
Người là nước mà luôn thiếu khát
Người như lúa khắp ruộng nương nước Việt
Những hạt lúa dại vụng
Ấm và xót
Ngoi trên nắng
Dạt trên nước
Xác cháy trên tay chai
Xướp ráp tận ruột
Lấm láp và tinh tươm
Thơm tho sen súng
Giấc mê mẩn người
Thảng như ca dao
Xum xuê như cổ tích
9.
Ôi! Nhân dân kiêu dũng của tôi
Nhân ái và thật thà
Cởi mở và bồng bột
Người nâng thuyền mà nổi trôi như lá
Người bộc trực, tuyềnh toàng
Cả nghe và hiếu thiện
Tin đạo mà chở đạo
Đạo rối
Thuyền chao
Qua mỗi cửa bão giông lại đắm đuối nâng thuyền
Néo chèo theo lái
Bến yên bình một giấc tít xa
Mà người có bao giờ không nhẹ dạ
10.
Khi Tổ quốc lâm nguy
Người mài gươm tuốt giáo
Rèn ngựa sắt
Đúc trống đồng
Lớp lớp hóa thành Ông Gióng
Giáo gươm gãy vơ cuốc thay rìu
Gậy sắt gãy nhổ tre làm chiến cụ
Chả kể máu xương thương tích đầy mình
Bốn phía
Người là lá chắn!
Người thích những làn chèo lịm ngọt
Khúc lưu thủy luếnh loang vời vợi gió đồng
Một luyến nam ai, một láy nam bằng
Một vuốt chói trên ngón đờn tài tử
Những lời hằng yêu
Xanh như mạ
Dễ yếu đau như mạ
Chia sớt
Nhớ thương
Như kênh rạch chịt chằng
Nảy nót tóc đuôi gà yếm thắm
Váy túm tó xả buồn mẹ Đốp
Oan đau ẩn Thị Kính, cô Màu
Khi vụng trộm lơ lác Tuần Ty
Lúc cả ghen chiết chì Đào Huế
Thương trách ròng ròng men ủ sáu câu
Xem nỗi người phôi pha như đất!
11.
Khi nhân dân tôi đắp lũy Sông Cầu
Vua xuống lũy như dân!
Khi nhân dân tôi họp Hội Diên Hồng
Vua ngồi giữa nhân dân!
Những rừng cọc Bạch Đằng
Như thế đứng ngàn năm vát nhọn
Bao đạo binh hung hăng
Bao chiến thuyền dữ tợn
Tan chìm
Và tả tơi!
Rồi vàng son lại cao thấp vàng son
Vuốt cọp vuốt rồng nào chả nhọn
Thương, sĩ náu kinh kỳ cửa hẹp
Phượng, nghê thiêng đội nến sân chầu
Nhân dân nổi nênh theo dòng như bọt
Nắm gạo trong bồ giật mình vì chuột
Hoa mướp vàng
Rơm rạ cũng vàng ngây
Phên rách tháng ba rào thưa ngày tám...
12.
Tôi đi tìm hồn cốt dân tôi
trong mảnh gốm mảnh ghè ẩn dưới bùn đất ấm
Dưới tán cây
Trong đá cứng
Ven núi đồi khai mê
Sau lớp lớp phù sa thiên cổ
Nâng ngắm
Tìm soi
Cố hiểu những tín xác mờ cũ
Tôi thở cùng đất đai từ mảnh tước sứt vỡ
Lặng trước thạp đồng in dấu quần hôn
Những tượng cóc cầu mùa
Bầy chim lạc mỏ tên không biệt phân cao thấp
Lưỡi cuốc đá, lao dài
Mũi tên đồng, hái sắt
Hùng vĩ binh thuyền vút vành trăng khuyết
Đi băng băng qua hoa sóng kỷ hà
Để chạm mặt thuở hoang khai Tiên Tổ
Xin - người - hãy - nhận - ra - tôi!
Tôi! Đứa con chắp nối của người
Nở từ thời trăm trứng
Da vàng
Mắt hạnh
Đen tóc
Và đỏ trầu
Lá chuối hơ mềm như kén tằm bọc ủ
Mẹ vẫn lên rừng
Cha vẫn đi khơi
Giết Giao Long và trồng khoai lúa
Vẫn hú gọi nhau ấm cả triền sông đỏ
Cần mẫn
Âu lo
Khi tùng tiệm
Khi cởi lòng phơi dạ
Quen sống vì người
Và, đắm đuối vì nhau!
13.
Hạt lúa cháy than
Đã hóa thạch từ Phùng Nguyên, núi Đọ
Giấc nguyên lúa
Tín xác gửi người sau!
Sẽ hạnh phúc tột vời có một lần hái lượm
Giữa bạt rừng rợp bóng Mẹ Tiên
Thỏa sức với Cha Rồng xuôi bể
Xăm kín mình rồi kéo mặt trời lên
Sẽ run rẩy ướm gậy đồng nón sắt
Vùi cát Chử Tiên xem tắm Tiên Dung
Thư thái rước Bánh Tròn Vuông Trời Đất
Theo Lang Liêu dâng tiến Vua Hùng
Nhưng giấc mơ
Giấc mơ lúa thiêng
Trôi vừa chớm ban mai là hóa thạch!
Một giấc hiền thục đất
Trải bốn ngàn năm sinh!
Nha Trang cuối Chạp, Canh Dần
Nguyễn Chính
Theo https://www.rongmotamhon.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nghề văn chương tiếng vậy chứ rất vui, rất kỳ thú  Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn có trách nhiệm và có ham t...