Người ẩn mình dưới tên gọi
giai nhân
Vào những năm 1930-45 thế kỷ
20, tại dải đất Bàn Thành, thị trấn An Nhơn thuộc Bình Định có bốn người bạn
làm thơ, họp lại thành nhóm “Tứ hữu Bàn Thành”. Nhà nghiên cứu văn học thời bấy
giờ tên Trần Kiên Mỹ, quê ở đất võ Tây Sơn, chơi thân với họ, ông yêu mến và nhận
thấy thơ của bốn ông bạn tuy ngẫu nhiên nhưng sao tương ứng với các linh vật,
thơ Hàn Mặc Tử thì như rồng (Long), thơ Yến Lan lành như Lân, Quách Tấn như
Qui, còn Chế Lan Viên như Phụng; vì vậy ông lấy tên các linh vật ấy đặt cho từng
người và gọi nhóm với tên “Tứ Linh”. Từ đó, cái tên Tứ hữu Bàn Thành hay
Tứ Linh luôn song hành trong văn đàn là vậy đó.
Từ khi ra đời, mỗi người mỗi
vẻ, bằng những tài thơ của mình, họ đã hòa nhịp âm vang cùng với thơ Xuân Diệu,
Phạm Hổ của Bình Định, góp phần không nhỏ cho sự phát triển nền văn học quê
hương và Dân tộc Việt Nam .
Ấy thế mà trong thực tế, nhắc
đến Yến Lan, hầu như chẳng mấy ai biết đến, nhất là lớp trẻ. Nếu ai đó vô tình
đọc thơ của ông, thấy hay hay họ cho rằng đó là của nữ thi sĩ!.
Giả sử đem thơ các vị ấy so
sánh một cách công bằng thì cũng khó phân biệt được thơ ai hay; giàu lòng nhân
ái, sống có tình và thủy chung hơn; nhưng nếu đem so sánh bằng phương pháp điện
quan có lẽ dễ nhận ra tấm chân thiện, trách nhiệm và tầm nhìn của người nghệ sĩ
nào hơn ngay thôi…
Người yêu thơ đinh ninh rằng
tại thành cổ Đồ Bàn - Bình Định có một bến sông tên gọi là “Bến My Lăng”. Bến
sông ấy, một đêm sáng trăng nọ, nàng Hằng Nga đã để ánh vàng mình rơi đầy trên
mặt sách của ông lái đò đang đợi khách, khiến lòng ông buồn vời vợi đến độ mặc
kệ cho gió lén vào râu ông để mơn.
Những tên bài “Bến My Lăng”
“Bình Định năm 1935” “Lại về tỉnh nhỏ” “Nhớ làng” là những bài thơ gốp phần làm
giàu thêm ngôn ngữ cho nền văn học Việt Nam của Yến Lan trong Sách Giáo Khoa;
khi biên sọan lại đã bị bỏ ra! Còn lớp trẻ, phần lớn chỉ thích ngồi chát hàng
giờ trên vi tính hoăc xem ti vi với những quãng cáo “Làm cách nào để thành người
sành điệu”…hơn là ngồi đọc sách, báo thì làm sao mà biết Yến Lan là ai! Thậm
chí một chị học cùng lớp; ở trường Học sinh Miền Nam với tôi mà còn nhầm lẫn
trong vẻ hiểu biết “Thơ má em hay thiệt!”.
Lại nữa, vào cuối tháng 11
năm 2013, trên VTV3 trong chương trình Ai là triệu phúcó câu hỏi về nhà
thơ nổi tiếng trong Bàn Thành Tứ Hữu của Bình Định. Ngoài ba nhà thơ
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn còn ai trong số các nhà thơ : Bích
Khê, Xuân Diệu, Yến Lan của nhóm thơ nổi tiếng của Bình Định,… Thật mỉa mai
thay, ngay cả sự trợ giúp của cả hội trường, không một ai có thể nghĩ tới Yến
Lan ! Vậy đó các bạn ạ!…
Trong lời tựa tập “Thơ Yến
Lan” do NXB Văn Học in cách đây gần 30 năm, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết “Có
nhiều lý do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng, nếu không
ai nhắc đến, chỉ ra, gọi tên tán dương thì nó bị vùi lấp đi. Đầu là trong im lặng
mà sau là sự lãng quên”.
Từ góc nhìn hạn hẹp của người
con, thông qua những mẫu chuyện đời thường để bạn yêu thơ hiểu về Yến Lan – người
mà theo sự đánh giá của các bạn vong niên, đồng niên của ông hay các nhà nghiên
cứu – Đây là nhà thơ tài hoa rất sớm, đầy tâm huyết với quê hương và cái chữ
nhưng lận đận về đời và cả về sự nghiệp thơ của mình nhất.
Từ trước đến nay theo tư liệu:
Yến Lan tên thật là Lâm Thanh Lang, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1916 trong một gia
đình nghèo. Cả tuổi thơ ông phải nương tựa vào chùa Ông ở thị trấn An Nhơn-Bình
Định.
Thực ra, tên ông là Lâm Xuân
Lan ; sinh ngày 22 tháng 4 năm 1917. Khi đi học, trục trặc giấy tờ,
nên tên và ngày sinh của ông có sự nhầm lẫn; cha ông thấy không cần sữa, cứ để
vậy cho xong
Những ngày chập chững bước
vào làng thơ, bằng những vần lục bát để tuyên truyền cho người dân trong thị trấn
hiểu và tham gia Cách mạng, ông lấy bút danh Thọ Lâm. Trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
bút danh là Xuân Khai. Còn bút danh Yến Lan là sự ghép tên của hai giai nhân:
Thầy giáo Lang và 12 học trò
cùng quây quần bên nhau trong một gian nhà mái ngói âm, dương, đối diện với cây
me cổ thụ. Trong lớp có 2 cô trông dễ thương, kháu khỉnh. Một cô tên Yến, một
cô tên Lan, hai cô thân nhau như chị em ruột. Thầy Lang làm thơ hay và có tài kể
chuyện, lại rất dí dỏm nên được các em học sinh yêu thích. Thầy thường đọc thơ
trên báo và thơ mình cho lớp nghe. Nhìn thầy rất trí thức và đẹp trai nên cả
hai cô đều thầm thương, trộm nhớ. Ngày nghĩ họ vẫn rũ nhau vào chùa, lấy cớ học
thêm để được gặp thầy. Một hôm, thầy nghe lõm được lời của hai người: “Tao với
mày chơi thân như thế này, sau này có lấy chồng chỉ lấy một người thật đẹp trai
làm chồng chung để khỏi phải xa nhau”. Nghe được vậy thầy Lang tủm tỉm cười.
Ít lâu sau đó, cô Yến theo gia đình chuyển vào Nha Trang. Chỉ còn
cô Lan ngày ngày vẫn tới lớp thầy Lang để học.
Trong thị trấn bé nhỏ ấy,
gia đình cô Lan thuộc loại khá giả. Nhiều nhà giàu ở huyện muốn hỏi cưới cô cho
con trai nhà mình, nhưng cô đều từ chối. Bởi trong cô đã có hình bóng của chàng
thi sĩ nghèo họ Lâm thôi. Cha cô Lan biết chuyện, tìm mọi cách can ngăn. Vì ông
thấy chàng thi sĩ nghèo không môn đăng hộ đối với gia đình.
Không lấy được chàng thi sĩ,
cô Lan nhất quyết đi tu. Cô vào tu tại chùa Sư Nữ ở Phan Thiết. Cả nhà không biết
đâu mà tìm. May sao bà chị con ông cậu đi lễ Phật, bắt gặp, tin cho gia đình biết.
Chàng thi sĩ họ Lâm nghe được, cùng anh trai cô, khăn gói đi tìm, vì thế mới có
bài Phan Thiết:
Bài THƠ PHAN THIẾT
Bài viết sau khi Lan bỏ
nhà xin vào tu ở
chùa sư nữ Phan thiết. Lan
lúc ấy đã 18 tuổi.
Nghe rằng đó: Cõi khói, mây,
lửa, gió
Bờ biển khô, quì mệt gối
trăng nghiêm
Nơi, kẻ đến hắt hiu xuân ngọn
cỏ
Người ra đi, ngờ hoặc bóng
trăng đêm
Nơi trận cát bao la chim lạc
hướng
Lầu ông Hoàng lở lói đá vôi
lăn
Giang tay chỉ lên trời xanh
vạn trượng
Những vai buồm hàng hải lã
băn khoăn
Bãi thông cõi phong phanh tà
áo cũ
Cụm cừ sưa cuối uống vũng
chiều bầm
Mỏi đến héo những hoa hồng
chớm nụ
Tóc lại xàu bao đọt liễu
đang tầm
Đường sạn úa, bụi lồng cơn
gió đuổi
Mảng trời nghiêng bạc bợt cả
màu xanh
Hồn bể lớn chơi vơi trên bọt
muối
Mùi san hô bừng dậy nắng
trưa hanh
Nhúng nến đỏ dựng cao hang
tháp lệ
Vẫn rưng rưng nhểu đọng giọt
tương tư
Kinh sách giở như buồm neo
trước bệ
Chực đưa hồn trở lại bến non
vu
Ôi Phan Thiết một trời ngâu
vàng võ
Dòng sông sâu đâu dễ dứt Cầu
Ô
Chiều nay đến lòng ta đầy
bão gió
Muốn bùng lên xáo trộn cả trời
mây
Tay trước ngực chấp nên hình
Chuông thỉnh Kinh liền nhịp
dậy trông hồn
Đau thương ứa trên thân hình
bát rạn
Bởi thấy lòng dồn vơi hết sầu
thương
Nén nhang nguyện xông lên
hương huyền ảo
Nhen ái tình ta là kẻ đầu
tiên
Lá phượng trắng dựng trên nền
Tam Bảo
Hướng lên trời Phan Thiết kết
nhân duyên
Ôi Phan Thiết, sông Cầu,
Lăng Cô, Đà Nẵng
Đến một lần chỉ để nhớ mãi
không khuây
Đêm lạnh, tóc mai dầm hướng
gió
Nặng tình xanh trăn trở giữa
chăn đơn
Tôi thức uống bầu sao từng hớp
nhỏ
Gạn vô lòng chất biếc mỗi
tình thương ….
“Phan
Thiết” Tháng 4/1944
Sau 4 năm, cha cô Lan thấy
hai người vẫn quyết tình nên đành chấp nhận cho họ lấy nhau. Trong giai đoạn
gian nan nhất, cô Yến thường viết thư động viên, vun đắp chân tình cho hai người
và không hề nhắc lại lời hứa năm xưa. Lần đi tản cư, cả gia đình cô Yến bị lật
thuyền, chết. Nhớ lại câu chuyện tâm tình xưa của hai người, và để kỷ niệm tình
bạn của họ, ông đổi bút danh Xuân Khai ra Yến Lan.
Khi cái tên Yến Lan đã trở
nên quen thuộc và gần gủi với khách thơ thời bấy giờ, Tòa Soạn Báo Phụ Nữ do
ông Minh Vĩ làm chủ bút rất sôi động, phải liên tục giải thích những lá thư hâm
mộ kèm theo sự tò mò: “Yến Lan là ai?, nam hay nữ?, đẹp hay xấu?…”
Tôi Là con cả của nhà thơ,
tôi học ở trường Học Sinh Miền Nam tại Hải Phòng, tuy ít được gần gia đình
nhưng không hiểu sao thường được ông tin cậy, tâm sự những bức xúc của đời, của
thơ. Tôi đọc, tìm hiểu qua sách báo mới cảm nhận về người cha của mình: “Cha quả
là tài hoa mà sao đời lại phụ bạc với cụ thế? phải chăng vì mang bút danh Yến
Lan, nó quá yểu điệu và nữ tính có lẽ vì thế mà suốt những tháng năm sống trên
cõi trần và khi đã trả hết nợ trần gian ông vẫn không gặp may như bạn cùng thời!…
Là nhà thơ, ngay còn trẻ,
ông sáng tác nhiều, nhưng không nhà thơ nào bị mất những đứa con tinh thần nhiều
như ông. Ông mất do chiến tranh lọan lạc, mất trong bạn bè (điều này ông chỉ
nói cho tôi biết và dặn không được nói với ai vì sợ mất tình anh em)
Vào thập niên năm 60-70 của
thế kỷ trước, khi hai chị em chúng tôi - lớn lên trong sự tồn tại bút
danh Yến Lan, đã chứng kiến những ngạc nhiên, sự tò mò của khách thơ đến là tức
cười và cũng rất dễ thương. Người thì bảo: “Yến Lan là nam” và người thì đinh
ninh “Yến Lan đích thị là nữ 100%.”
Một ngày nọ, có chàng trai để
chứng minh mình đúng, đã đến tận nhà tôi kiểm tra. Anh chạy từ dưới lên tận gác
2, nhà 37 Hàng Quạt - Hà Nội. Thấy hai chị em gái đang ngồi ngay cửa ăn mía;
anh nhìn tôi thăm dò: “Em ơi, phải đây là nhà của nữ sĩ Yến Lan?” con em đang
hít hít khúc mía nghe chữ “nữ sĩ” nó rũ ra cười sặc sụa. Một tay bụm miệng, tay
kia chỉ về phía người đang hì hục chửa cái chân ghế hỏng “Đấy! đấy là nữ sĩ Yến
Lan của anh đấy.” Rồi, tôi nghe rất rõ câu anh thốt lên với ba tôi: “Thôi
chết rồi anh Yến Lan ơi! Em đã thua cuộc lớn lắm phải đãi mấy thằng bạn một chầu
phở.” Anh nhìn ba tôi cười lém lĩnh rồi chạy xuống cầu thang - nơi các bạn anh,
những người chiến thắng đang chờ kẻ thua trận để xử lý.
Hồi ấy, phần lớn những người
yêu thơ Yến Lan còn rất trẻ, chỉ hơn chị em tôi 2 -> 3 tuổi nhưng cứ gọi ba
tôi bằng anh xưng em ngọt xớt. Họ nghĩ rằng với bút danh Yến Lan, nhà thơ không
có con hoặc con còn bé tí tẹo, vì thế nhiều người ngỡ ngàng khi bất chợt gặp
chúng tôi tại nhà, họ tỏ thái độ ngạc nhiên đến mức có lúc làm ba tôi tự ái:
“Trời ! anh Yến Lan mà đã có hai cô gái như thế này ư!”.Và khi đã biết Yến Lan
có 2 cô con gái lớn thì người yêu thơ Yến Lan càng tò mò muốn biết mặt mũi
chúng ra sao. Chẳng thế mà anh chàng có tên nghe cũng rất thi sĩ -Trường Thi,
không ngại quãng đường đã đi qua, đạp ngược lại để theo chân anh bạn tên cũng rất
thi sĩ là Mai Ngữ ( từ Suối Hai về đến Phùng) lên lại Nông Trường Ba Vì - Hà Tây
dài 52km - nơi tôi làm việc, chỉ để tận mắt xem con gái nhà thơ Yến Lan mặt mũi
ra sao, tròn hay dài v.v…?
Lại nữa, có người còn muốn
làm bạn với chúng tôi cũng chỉ vì – Đó là con gái nhà thơ Yến Lan. Hiện, tôi còn
giữ lá thư của chàng thanh niên chưa hề quen biết. Thư đề ngày 28/3/1966 trong
đó có đọan:
“Xưa nay tôi ít quen biết - bè bạn của tôi là tất cả mọi người. Tôi cũng chưa từng có ý kết bạn với ai như
với Bích Thủy, lẽ đó làm tôi ngạc nhiên….Qua một số lời mô tả về bạn…tôi không
hình dung được chút nào. Tôi chỉ biết rằng dòng máu của nhà thơ Yến Lan đang chảy
trong người bạn - một nhà thơ mà tôi ưa trong các nhà thơ…
Và anh nói toẹt không chút
do dự: Tôi muốn chúng ta là bạn.”
Nay, mặc dù tôi đã về hưu
nhưng khi biết tôi là “ái nữ của Yến Lan” thì khách thơ hầu hết đã có tuổi, bằng
sự ngưỡng mộ thật lòng, đọc cho tôi nghe những câu thơ hoặc cả bài thơ của
ba tôi mà họ thích hay nói những lời nghe thật thân mật :
– Vậy cô là con gái của “ông
lái đò đã để gió lén mơn râu đấy ư !” rồi họ đọc thuộc lòng hoặc cả bài hoặc một
đoạn thơ của ông với tôi
“Khế chua chị nấu lá mòng
tơi
Em ướt được ăn đến trọn đời
Tang mẹ mãn rồi bà mối dục
Chị đi bát đũa cũng mồ côi”
Đọc xong trong niềm xúc động,
họ trầm mặc “Yến Lan chọn từ thật đắt, chẳng có ai mồ côi hơn ông khi mà cả bát
đũa ông cũng mồ côi. Như vậy, nhà thơ mồ côi đến những ba lần : Mẹ, chị và bát
đủa ” Có lúc, khách thơ cất giọng ngâm trong niềm cảm xúc tận cùng bài Xuân
muộn
Vụng sắm cành đào không kịp
tết
Ra giêng mới hé một vài bông
Xuân người lã tã bay đâu hết
Ngoãnh lại xuân ta mới chớm
hồng
Ai đã từng sống và biết Yến
Lan chắc không quên mảnh đời cơ khổ mà thanh bạch của nhà thơ. Ông không chọn
cho mình cách sống trong bon chen, nhưng cũng không nản lòng trước nghịch cảnh
bạc bẻo của đời, trái lại ông sống chung thủy với bạn, nhân nghĩa với đời. Ông
lẳng lặng làm việc, lẳng lặng vượt khó khăn, không than thở, tự mình hàn vết
thương đau:
Ứa nhựa hàn vết đau
Tĩnh yên cành gió quật
Quả đu đủ góc ao
Lặng dâng đời quả ngọt
Lúc còn trẻ, ông quen tự lập.
Khi trưởng thành, cuộc đời ông đã khắc khỏai, trăn trở với bao thăng trầm của
xã hội trong chiến tranh, chia cắt. Bản thân ông phải vận động sao cho phù hợp
với lẽ sống mới. Hơn ai hết với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ đã quen tự lập,
ông mạnh mẽ đón lấy ngọn gió thời đại. Cảm hứng mới đem lại diện mạo mới cho
thơ Yến Lan, làm cho thơ ngày càng bay bỗng, khiến nhạc sĩ, nhà thơ tài hoa Văn
Cao đã không ngần ngại viết nhận xét:
“Từ một người bình dị Yến
Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống
của chúng ta. Tôi thấy ở anh một sự chuyển biến, một sự mở ra có sức lực..”
Với tôi, là con, tôi càng nhận
ra được từ những vần thơ lưu của cha mình, dù hoàn cảnh nào cũng đều hướng
về cuộc sống bình thường, giản dị và thiện chí. Con người với con người là một
thực thể xã hội, với muôn vàng quan hệ chồng chéo:
Nhà không vườn, không gác,
không sân
Tôi nợ đời rau trái tôi ăn
Nợ hàng xóm trưa hè bóng mát
Nợ em cài bên cửa một vầng
trăng.
Trong cuộc sống, ông sống
theo qui luật của nước “nước chảy vào chỗ trũng”, trước sau như một, thủy
chung, sẻ chia cho bạn. Với bạn bè là tình cảm yêu thương, chan hòa nâng đỡ. Ví
dụ: Thời trai trẻ, ông cùng bác Quách Tấn, chú Nguyễn Đình lo hòa giải
cho tình cảm của gia đình và tình yêu của hai vợ chồng chú Chế Lan Viên và cô
Giáo-người vợ đầu của chú. Chăm sóc an ủi chú Bích Khê, Hàn Mặc Tử trong cơn bạo
bệnh; những ký gạo giúp bác Quang Dũng trong thời kỳ tem phiếu, khó khăn
vất vã. Và chắc chắn hình ảnh ông một mình đi sau linh cữu cụ Phan Khôi đến nơi
an nghĩ cuối cùng trong một ngày cuối đông ở Hà Nội vào thời đấu tranh khốc liệt
nhất của giới văn nghệ sĩ đối với “Nhân Văn Giai Phẩm” với “nghĩa tử là nghĩa tận.”
Với gia đình, ông sắt son và
thủy chung:
Em có cháu gọi bà
Gọi em anh vẫn gọi
Năm mươi tuổi ai già
Chúng mình sao trẻ vậy…”
Trong những năm cuối đời, ba
thường nói với hai chị em gái đầu lòng: Ba rất mừng vì hai con đã biết thương
và hy sinh cho các em. Là phận gái trong gia đình này các con đã phải chịu
thiệt thòi nhiều. Nhưng các con có quyền tự hào về ba vì suốt đời ba đã phấn đấu
là người làm thơ khiêm tốn và biết tự trọng. Thực ra, ba tôi không cảm nhận được
niềm tự hào của chúng tôi về ông đấy thôi. Bởi vì hai đức tính này nghe thì rất
bình thường, nhưng đã mấy ai làm được, nhất là vào những thời điểm mà chân giá
trị đích thực của con người chưa được đặt đúng vị trí.
Lâm Bích Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét