(Trịnh Công Sơn)
Cách nay hơn sáu chục năm, một chiều thu Việt - Bắc heo may.
Trên đường đi công tác về, gần tới ATK - an toàn khu, Tố Hữu hồ hởi bảo tối nay
cơm nước xong, xin đọc hầu các ông mấy bài thơ mới làm, hay lắm. Nào ngờ, Văn
Cao giội luôn gáo nước lạnh bẽ bàng rằng thơ phú chi ông, họa là ca dao thì có!.
Bảo rằng nhạc sĩ là người ngoại giới, xem nhẹ ca dao còn ra một
lẽ khả dĩ cho qua. Chứ một nhà thơ lừng danh làm cách mệnh rốt ráo, thật không
thể tưởng tượng nổi, sao lại ấu trĩ không thấy: "Tiếng nước tôi là
tiếng ca dao ngọt ngào" (Từ Huy) mà coi thường, lại còn nén giận hờn
bị khinh khi trong lòng đến mãi mai này.
Chẳng riêng Tố Hữu, Xuân Diệu cũng ngán ca dao ra trò. Ông
hoàng thơ tình một thời xởi lởi tâm sự sở dĩ không bao giờ đụng đến lục bát, chỉ
vì rất sợ làm dở, không ra thơ mà thành ca dao - mất mặt lắm!.
Sau này cho rằng rằng câu kết "Gắng ngồi viết cạn
bài thơ. Liệu bài thơ có hư vô như mình" cứ ra "ca dao"
sao ấy mà nhà thơ giám đốc nhà xuất bản Quang Huy đã loại thẳng thừng không
thương tiếc bài thơ của chính mình khỏi tuyển tập lục bát!
Ca dao gần như nhất quán một thể thơ lục bát - lục bát ca
dao, ca dao lục bát. Thơ lục bát ôm vận, cắt nhịp chẵn, bước thơ đều đều nhịp
đôi nhẹ-nặng, dày đặc các thanh bằng, nghe cũng có phần đơn điệu thật. Ca dao
là văn chương truyền khẩu, chữ nghĩa đời thường, cấu trúc đơn giản, ý tứ mộc mạc.
Cũng phải cung cách ấy, điệu thức ấy mới ứng với tâm thái dân ta chất phác, đôn
hậu, hướng nội, hướng tới sự quân bình, hài hòa. Cuộc sống một phong phú, một nổi
trôi, tình người càng đằm càng đa đoan, ca dao theo đó trau chuốt hạ chữ, gieo
vần gợi cảm, vang dội thanh âm, bay bổng giai điệu, chất chồng cấu tứ, đầy
tính cách thơ: "Đêm đêm tưởng giải ngân hà, Mối sầu tinh đẩu đã ba
năm tròn"
Thông thường là vậy. Để chuyển tải đầy đủ các cung bậc, sắc
thái cuộc sống, tư duy, tình cảm, ca dao lục bát vươn lên những biến tấu kì diệu: Vì sông/ nên phải lụy đò. Vì chiều tối/ phải/ lụy cô bán hàng. Vì tình/ nên
phải đa mang.Vì duyên/ thiếp biết quê chàng/ ở đây.
Ca dao là thân xác, lục bát là vòng tay. Cứ thế lục bát ôm trọn
ca dao vào lòng để ấp ủ cái hương thơ của hồn quê, của lình người. Tự nhiên như
không, ca dao thành câu hát ru êm ái, thành khúc dân ca ngọt ngào. Ca dao ru
con trẻ vào giấc ngủ "Con cò bay lả bay la". Ca dao tình tự gái
trai nên vơ nên chồng thuận hòa "tát bể đông cũng cạn"
Một dạo, bạn bè nhất hô bá ứng đòi ca dao trả lại hai câu cuối
trong bài thơ Trăng quê cho chính chủ Bàng Bá Lân làm hồi giữa thập niên ba mươi thế
kỉ trước. Không hiểu từ đâu, vì sao, chỉ hăm mấy năm sau đấy, học giả Vũ Ngọc
Phan lại đưa. câu lục bát "Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh
trăng vàng đổ đi" vào hai tập tuyển ca dao công phu, được giới văn
nghệ đương thời trân trọng, tán dương. Phần vì quá cách trở, phần vì uy tín quá
lớn của soạn giả uyên bác, Bàng Bá Lân cho đến cuối đời vẫn không một lần đánh
tiếng cải chính đó là thơ mình làm. Hẳn trong thâm tâm thấy ca dao chỉ chỉnh đảo
một chữ thôi trong câu thơ của mình ".. lại múc trăng vàng " thành ca
dao" ,, múc ánh trăng vàng" làm dậy lên một hồi âm vang dội, một
hình tượng nghệ thuật thật đắt để biến một câu luc bát thường thường bậc trung
thành câu thơ tuyệt vời. Trước đó, "ánh trăng" không sáo mòn ấy đã
làm nên câu thơ mới trọn vẹn bước thơ, vang dội cấu tứ trong bài Nhớ rừng để đời
của Thế Lữ: "Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan" Sau này, Cung Trầm
Tưởng tân kì lục bát là thế cũng "Ánh trăng quện nước gầu sòng. Trời
loang loãng cháo dưới dòng sao tâm"
Như bao nhà thơ khác, Bàng Bá Lân một mực ngưỡng mộ câu ca
dao lục bát: "Gió đưa hoa cải lên trời. Rau răm ở lại chịu đời đắng cay" thơ hơn bất kì một câu thơ trác tuyệt nào khác. Một tính thơ mơ hồ, đa
nghĩa, huyền ảo của câu lục bát ca dao ấy đến độ cực đại. Giữa các từ ngữ, nhịp
điệu, hình tượng là những quãng không, Mỗi lần đọc là một thao tác lấp đầy các
khoảng trống đó, là một diễn dịch mới mênh mông thi tứ, đong đầy cảm xúc. Nghe
Tùng Dương hát "Quê nhà" của Trần Tiến, ai mà chẳng thấy phiêu
linh cứ như bay, bay lên tít trời cao xanh cùng hoa cải, nhưng lại nặng lòng nỗi
đắng cay, ngọt bùi nhân gian níu kéo lại với rau răm nơi trần thế. Đằng nào
hơn, sao tỏ tường được đây, mỗi người mỗi phách!
Qua bốn ngàn năm, các thi sĩ tài hoa dân gian đã đi vào dĩ
vãng, ca dao còn lại thành di sản văn chương, không đứt đoạn với thơ ca mà làm
nền móng vững chãi, màu mỡ để lục bát thăng hoa hiện đại.
Huy Cận đã làm thay đổi thẩm mĩ lục bát ca dao - bãi bỏ tính
tự sự để chất ngất cái trữ tình , cổ kính hóa lục bát như thơ Đường cao sang bằng
sự cô đọng chắt chiu, biến cái buồn vật vờ thành nỗi sầu vạn cổ... Bái phục,
nhưng Cung Trầm Tưởng vẫn cứ thoát khỏi vầng vàng son ảnh hưởng, tác động lớn
lao ây để bước trên con đường lục bát ca dao tân kì của mình.
Giữa thế kỉ trước, Cung Trầm Tưởng xuất hiện trên thi đàn
chói sáng với tập thơ đầu tay Tình ca được đón nhận nhiệt liệt - năm trong số
13 bài tức thì được các nhạc sĩ đua nhau phổ nhạc ăn theo.Trong số đó. nổi trội
đặc sắc bài thơ hẹn tình Kiếp sau với cô gái bên trời Âu: "Quên em xanh
mắt bồ câu. Tơ vàng sợi nhỏ xin hầu kiếp sau" mang hơi thơ cổ điển, nặng
hồn lục bát ca dao.
Với Cung Trầm Tưởng, làm thơ là làm chữ, chữ cặp với chữ
thành bước thơ tung tẩy thi tứ. Trong Kiếp sau, ông trau chuốt buông chữ: bù
em, quên em.. đầu câu: Bù em nối núi chung đồi, rồi treo chữ: cũng rồi, nghe
dường.. vần lưng trong câu tám kế tiếp: Thiêu nương đốt là cũng rồi hoang sơ,
lại còn đảo chữ - mòn trông, tạo cảnh : chiều lu: Mòn trông ngưỡng cửa chiều
lu mãi sẩu. Ông khổ công gieo chữ thần tình, làm lỗi nhịp, đảo cái thần lục bát
ca dao là nhằm tục lụy hóa cái cổ điển, hóa thân ca dao lục bát hiện sinh . Bà
Thụy Khuê lí luận văn chương ở Pháp rúng động: "Cung trầm Tưởng đã xướng
lên một thứ cổ dao tân kì hiện sinh: "... Quên thôi bông sẽ phai hường.
Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu. Non sông bóng mẹ sầu u. Mòn trông ngưỡng
cửa chiều lu mãi sầu... "
Ca dao nhất nhất nói lên điều hay lẽ phải, cái đẹp cái hay,
tính hướng thiện, lòng nhân ái. Ca dao là tâm hồn dân tộc. Nó chuyển tải suy
tư, chất chứa tâm tình cho người, cho đời. Cho những hẹn hò gái trai, cho những
náo nức hội mùa, cho xôn xao làng trên xóm dưới. Cho cả những vết thương lòng.
Ca dao còn "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn", cảm hóa người thương cảm
người hơn, san sẻ cho nhau hơn, bồi đắp tình làng nghĩa xóm.
Ca dao tuyệt nhiên không dung cái xấu xa, cay nghiệt, cái hận
thù, ác độc, sự chém giết, sát hại lẫn nhau. Ca dao không bao giờ có cô Tấm từ
trong trái thị thơm tho bước ra lại ác nghiệt xúi dại em gái Cám tắm gội bằng
nước rõ sôi hòng da dẻ trắng mịn như trứng gà bóc, rồi làm mắm trả ác gới di ghẻ.
Ca dao chỉ trải nghiệm: "Mấy đời bánh đúc có xương, Mấy đời di ghẻ có
thương con chồng" thế thôi.
Cứu cánh của ca dao là nuôi dưỡng tâm hồn Việt: "Mẹ ru
cái lẽ ở đời. Sữa nuôi thân xác, hát nuôi phần hồn" Yên bình, Huy Cận
tinh tế, cảm nhận ngay cái "hồn thiêng đất nước" trong tiếng ru hời
ca dao mẹ Việt Nam: " "Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi. Hồn thiêng đất nước
còn ngồi bên con "Thế hệ sau, Trịnh Công Sơn lòng quặn thắt những xô bồ,
ác nghiệt làm nhạt nhòa, xô đẩy ca dao xa rời cuộc sống, đời người: "Em
chưa hát ca dao một lần... (để) máu lạnh trong tim ...(để) lời nói yêu
thương mất rồi " Cùng một suy tư âu lo ấy, Cao Xuân Hạo, sinh thời, không
biết bao lần khẩn khoản đề nghi đưa ngay ca dao vào học đường, khi con trẻ vừa
cắp sách tới trường. Trước là dễ học, dễ nhớ, để một yêu: "Tiếng Việt
rung rinh nhịp đập trái tim...Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt" Sau
là "Ai đời sau nói tiếp những lời yêu " (Lưu Quang Vũ) , là "Từ nay người biết yêu người" như Văn Cao khát khao cất lên thành tiếng
hát Mùa xuân đầu tiên.
Lê Lành
vé máy bay eva giá rẻ
vé máy bay đi mỹ rẻ
hãng máy bay korean airline
khuyến mãi vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich