Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành du xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân...
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành du xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân...
Mấy câu lục bát vừa dẫn được xem là một trong những sáng tạo
đáng kể của thi hào Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều. Bởi thiên tiểu thuyết Kim
Vân Kiều truyện do Thanh Tâm Tài Nhân chấp bút bằng văn xuôi chữ Hán trước Nguyễn
Du hơn trăm năm hoàn toàn chẳng có đoạn trên. Thanh Tâm chỉ phác gọn lỏn:
"May sao một ngày trong tiết Thanh minh, con cái họ Vương cùng đi tảo mộ,
nhân tiện xem hội đạp thanh." (Bản dịch Việt ngữ của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm
được ấn hành bởi Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá, Sài Gòn, 1971). Vậy mà Tố
Như ngẫu hứng triển khai thành trường đoạn tả cảnh với bao chi tiết sinh động,
nên được đông đảo dân Việt yêu văn chương lấy làm thích thú và thuộc nằm lòng.
Phải chăng vì quá thuộc câu 43 trong áng Nôm kiệt tác kia khiến
bấy lâu nay hầu hết mọi người - kể cả các nhà nghiên cứu của nhiều thế hệ - cứ
đinh ninh tiết Thanh minh luôn rơi vào tháng ba âm lịch? Thực tế đúng thế
chăng?
Vô số tài liệu thiếu chính xác!
Đầu thế kỷ XX, Phan Kế Bính biên soạn công trình Việt
Nam phong tục (Nhà in Lê Văn Phúc, Hà Nội, 1915; NXB Văn Hoá Thông Tin in
lại năm 2003; trang 63) đã ghi nhận: "Trong khoảng tháng ba có một
tiết hậu gọi là tiết Thanh minh. Thanh minh nghĩa là trời độ ấy mát mẻ quang
đãng".
Sách Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua lễ - Tết - hội hè của
Toan Ánh (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2000; tr. 96) còn cho biết: "Thanh minh
là tiết thứ năm trong nhị thập tứ khí và được người phương Đông coi là một lễ
tiết hàng năm. Tiết Thanh minh đến với chúng ta 45 ngày sau ngày Lập xuân.
Thanh minh là gì? Theo đúng nghĩa đen, Thanh là khí trong, minh là sáng sủa.
(...) Người xưa đã mượn cảnh đất trời mà đặt tên cho đệ ngũ tiết khí trong năm,
do đó có tên gọi tiết Thanh minh để ghi lấy thời gian trong đẹp nhất của năm.
Tiết này thường bắt đầu trong tháng ba hoặc muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch tuỳ
từng năm".
Chuyên luận Văn hoá ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt
Nam do tiến sĩ Nguyễn Quang Lê thực hiện (NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội,
2003; tr. 110) cũng viết y hệt: "Theo lịch tiết nông nghiệp của người
phương Đông (trong đó có Trung Quốc và Việt Nam) thì Thanh minh là tiết thứ năm
trong nhị thập tứ tiết khí một năm. Như vậy tiết Thanh minh đến vào khoảng 45
ngày sau tiết Lập xuân. Do vậy tiết này thường bắt đầu vào cuối tháng ba
hoặc đầu tháng tư âm lịch, tuỳ từng năm".
Tầm nguyên tự điển của Bửu Kế (NXB Nam Cường, Sài Gòn,
1955; NXB TP. HCM in lại, 1993) giải thích ở mục từ Thanh minh: "Một cái
tiết vào tháng ba. Về tiết này người ta thường hay đi thăm mộ".
Điển cố văn học do Đinh Gia Khánh chủ biên (NXB Văn Học,
Hà Nội, 2001, tr. 522) thì viết: "Theo âm lịch, Thanh minh là một tiết của
mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba. Tiết này khí trời trong sáng nên gọi là
Thanh minh".
Sự mâu thuẫn giữa các tài liệu đã làm bạn đọc phân vân: tiết
Thanh minh thật sự xuất hiện vào đầu tháng ba, hay cuối tháng ba, đầu tháng tư
âm lịch? Mức độ phân vân ấy hẳn tăng vọt khi thấy hai ấn phẩm của cùng một
soạn giả danh tiếng lại khác biệt lẫn nhau như trường hợp sau đây.
Bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (NXB Quan Hải
Tùng Thư, Huế, 1932; NXB Trường Thi in lần thứ ba, Sài Gòn, 1957) cắt nghĩa từ
Thanh minh: "Một tiết ở trong nhị thập tứ khí, tức mùng 5 mùng 6
tháng ba âm lịch - Trong sạch sáng sủa - Thần khí trong sáng". Một cuốn
sách mới phát hành, cuốnPhongtục tập quán người Việt của Vũ Mai Thuỳ (NXB
Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2004, tr. 149) có lẽ đã tham khảo từ điển đó song chẳng
kiểm tra nên viết không khác về tiết Thanh minh: "Làm vào ngày 5, 6
tháng ba âm lịch".
Thật bất ngờ! Chính học giả Đào Duy Anh biên soạn Từ điển
Truyện Kiều (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1974, tr. 384) lại đưa ra lời giải
thích khác trước: "Tiết Thanh minh là tiết nhằm vào khoảng đầu tháng
ba âm lịch (thường vào ngày 5 hay ngày 6 tháng 4 dương lịch)".
Nếu bỏ công tra cứu và đối chiếu âm lịch với dương lịch - chẳng
hạn sử dụng các pho Lịch vạn niên vẫn được phổ biến rộng rãi ở Trung
Hoa lẫn Việt Nam - cam đoan bạn đọc quá đỗi ngạc nhiên bởi phát hiện ra rằng:
riêng vấn đề nhật kỳ của tiết Thanh minh 清明, tất cả thư tịch nêu trên đều
thiếu chính xác!
24 tiết khí
Theo dã sử và truyền thuyết, âm lịch lưu hành tại nhiều quốc
gia Á Đông vốn khởi phát từ đất nước Trung Hoa vào đời nhà Hạ, ước khoảng thế kỷ
XXI trước Công nguyên. Vì thế, âm lịch còn được gọi Trung lịch 中曆 và
Hạ lịch 夏曆.
Trải qua thời gian, nhận thức của con người về thiên văn và
toán học dần phát triển thì lịch pháp cũng liên tục thay đổi. Khó liệt kê đầy đủ
loại âm lịch đã ra đời trên dặm dài lịch sử: nào lịch Xuyên Húc, lịch Thái Sơ,
lịch Tam Thống, lịch Tứ Phân; nào lịch Can Tượng, lịch Nguyên Gia, lịch Đại
Minh, lịch Hoàng Cực, v.v. Điều ấy dẫn tới hậu quả khá rắc rối là ngày nay ngay
tại Trung Hoa tồn tại lắm bảng đối chiếu kỷ niên thiếu thống nhất, chủ yếu liên
quan các triều đại xa xưa. Giai đoạn cận và hiện đại, chuyện sử dụng lịch ổn định
hơn, nhất là từ thế kỷ XVII, lúc Vạn niên thư hình thành trên cơ sở cải
cách lịch pháp theo sự tính toán của một giáo sĩ người Đức mang họ tên Johann
Adam Schall von Bell, phiên chuyển qua Hoa ngữ thành 汤若望 - Bính âm phát Tangruowang, âm Hán Việt phát
Thang Nhược Vọng. Tới năm Kỷ Hợi 1959, Trung Quốc chọn múi giờ 8 (múi giờ Bắc
Kinh) làm mốc tính toán để lần nữa chỉnh lý âm lịch.
Âm lịch Việt Nam xưa nay đều phỏng âm lịch Trung Hoa, song
không rập khuôn hoàn toàn. Ngày 8-8-1967, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà ban hành quyết định số 121/CP nêu rõ: "Căn cứ vào sự vận chuyển
của mặt trăng trên quỹ đạo xung quanh trái đất và theo kinh tuyến 105º đông
đã được Nhà nước công nhận mà tính can chi năm tháng ngày giờ cho lịch". Tổ
làm lịch (trực thuộc Nha Khí tượng) do kỹ sư Nguyễn Mậu Tùng điều khiển, đã
theo múi giờ 7 (múi giờ Hà Nội) để soạn thảo âm lịch từ năm Mậu Thân 1968 đến
năm Canh Thìn 2000 rồi công bố thành sách Lịch thế kỷ XX (NXB Phổ Thông,
Hà Nội, 1967). Sách ấy được bổ sung và tái bản với tiêu đề Lịch Việt Nam
1901 - 2010 (NXB Khoa Học Và Kỹ Thuật, Hà Nội, 2001). So sánh âm lịch hai
nước cận kề, đó đây xuất hiện đôi chỗ khác biệt nhưng không nhiều, cơ bản vẫn
"đại đồng, tiểu dị".
Vì bố trí các tháng thiếu, đủ, thường, nhuận bám sát chuyển động
biểu kiến của nguyệt cầu, nên âm lịch còn được người Âu Mỹ gọi là lịch mặt
trăng / lunar calendar / calendrier lunaire. Kỳ thực, âm lịch cũng gắn bó chặt
chẽ với mặt trời. Nhị thập tứ tiết khí chính là phản ánh sự thay đổi của vầng
thái dương trên cung hoàng đạo. Nói cho đúng thì đấy là 24 thời kỳ nối tiếp
nhau với những biến dịch mang tính chu kỳ và tuần hoàn về nhiệt độ, độ ẩm, lượng
gió, lượng nắng, lượng mưa, v.v., trên mặt đất khu vực Á Đông do vị trí địa cầu
thay đổi khi quay quanh mặt trời, đồng thời địa cầu lại tự quay quanh trục của
nó. Do đó, đã có ý kiến đề nghị gọi âm lịch là âm - dương lịch.
Nhị thập tứ tiết khí được đặt tên và sắp xếp thứ tự như sau:
1. Lập xuân (đầu xuân);
2. Vũ thuỷ (ẩm ướt);
3. Kinh trập (sâu nở);
4. Xuân phân (giữa xuân);
5. Thanh minh (trong sáng);
6. Cốc vũ (mưa rào);
2. Vũ thuỷ (ẩm ướt);
3. Kinh trập (sâu nở);
4. Xuân phân (giữa xuân);
5. Thanh minh (trong sáng);
6. Cốc vũ (mưa rào);
7. Lập hạ (sang hè);
8. Tiểu mão (kết hạt / duối vàng);
9. Mang chủng (chắc hạt / tua rua);
10. Hạ chí (giữa hè);
11. Tiểu thử (nắng oi);
12. Đại thử (nóng nực);
8. Tiểu mão (kết hạt / duối vàng);
9. Mang chủng (chắc hạt / tua rua);
10. Hạ chí (giữa hè);
11. Tiểu thử (nắng oi);
12. Đại thử (nóng nực);
13. Lập thu (đầu thu);
14. Xử thử (mưa ngâu);
15. Bạch lộ (nắng nhạt);
16. Thu phân (giữa thu):
17. Hàn lộ (mát mẻ);
18. Sương giáng (sương sa);
14. Xử thử (mưa ngâu);
15. Bạch lộ (nắng nhạt);
16. Thu phân (giữa thu):
17. Hàn lộ (mát mẻ);
18. Sương giáng (sương sa);
19. Lập đông (sang đông);
20. Tiểu tuyết (hanh heo);
21. Đại tuyết (khô úa);
22. Đông chí (giữa đông);
23. Tiểu hàn (chớm rét);
24. Đại hàn (lạnh giá).
20. Tiểu tuyết (hanh heo);
21. Đại tuyết (khô úa);
22. Đông chí (giữa đông);
23. Tiểu hàn (chớm rét);
24. Đại hàn (lạnh giá).
Trong 24 thời kỳ nêu trên, những thời kỳ mang số lẻ gọi là tiết,
mang số chẵn gọi là khí hoặc trung khí. Theo quy ước, tháng nào không chứa
trung khí là tháng nhuận. Để giản tiện, nhân dân vẫn gọi chung là tiết cả. Ví dụ:
tiết Tiểu hàn, tiết Đại hàn.
Thanh minh trong tiết tháng... hai?
Nhị thập tứ tiết khí được phân đều đặn vào 12 tháng trong năm
âm lịch. Ấy là năm thường, còn năm nhuận thì 13 tháng. Bình quân, mỗi tiết cách
nhau 15 - 16 ngày. Sau tiết Lập xuân, lần lượt qua các tiết Vũ thuỷ, Kinh trập,
Xuân phân, đoạn tới tiết Thanh minh. Do vậy, kể từ khai tiết Lập xuân, phải sau
cỡ60 ngày thì bắt đầu tiết Thanh minh, chứ đâu phải chỉ 45 ngày như
một số nhà nghiên cứu đã nhầm lẫn dây chuyền!
Có lẽ thiên hạ thuộc làu, nhưng lại chưa quan tâm thích đáng
một câu thơ Nguyễn Du. Ấy là một câu thơ đượm... toán:
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Thiều quang 韶光 là ánh sáng đẹp mùa xuân. Trong bản
Kiều in bằng chữ quốc ngữ Latinh lần đầu năm 1925, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim giải
thích: "Chín mươi cái bóng sáng, đẹp đẽ, nghĩa là 90 ngày hay là 3 tháng
mùa xuân, mà đây đã ngoài 60 là đã quá 2 tháng rồi". Trong Từ điển
Truyện Kiều (sđd, tr. 397), Đào Duy Anh cắt nghĩa tương tự, song lại suy
diễn hơi bị... quá đà: "Ánh sáng mùa xuân, tức ngày xuân là 90 ngày rồi, tức
là sang đầu tháng ba".
Với âm lịch, nhị thập tứ tiết khí bố trí thành bốn mùa rõ rệt.
Mùa xuân khởi đầu chẳng phải từ Tết Nguyên đán (mùng 1 tháng giêng), mà từ tiết
Lập xuân. Tiết này có năm rơi vào tháng giêng, nhưng có năm lại thuộc tháng chạp.
Vì thế, tiết Thanh minh chưa hẳn thường xuyên nằm vào đầu tháng ba, càng
chẳng bao giờ xuất hiện cuối tháng ba hoặc đầu tháng tư cả!
Giở Lịch vạn niên 1901 - 2050 do Đại học Vũ Hán ở
Trung Hoa thực hiện năm 2000, sẽ thấy trong khuôn khổ âm lịch: tiết Thanh minh lắm
phen bắt đầu từ giữa tháng hai (sớm nhất là ngày 14 tháng 2, chẳng hạn các
năm Đinh Tị 1917 và Đinh Hợi 1947), lắm phen bắt đầu từ trung tuần tháng
ba (muộn nhất là ngày rằm tháng ba, như năm Bính Ngọ 1966). Thử thống kê
trọn thế kỷ XX, suốt 100 năm (Tân Sửu 1901 - Canh Thìn 2000), còn thu được kết
quả: có tới 54 năm mà tiết Thanh minh mở màn vào tháng hai, chiếm quá bán tổng
số trường hợp. Bước sang thế kỷ XXI, hiện tượng ấy cũng cực kỳ phổ biến. Năm
Nhâm Ngọ 2002, tiết Thanh minh bắt đầu ngày 23 tháng 2. Năm Giáp Thân 2004, tiết
Thanh minh đúng rằm tháng 2 (nhuận). Năm Ất Dậu 2005, tiết Thanh Minh ngày 27
tháng 2. Năm Đinh Hợi 2007, tiết Thanh minh ngày 18 tháng 2. Năm Mậu Tý 2008,
tiết Thanh minh ngày 28 tháng 2. Năm Canh Dần 2010, tiết Thanh minh ngày 21
tháng 2.
Cuốn Sổ tay văn hoá Việt Nam do Trương Chính và Đặng
Đức Siêu hợp soạn (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1978, tr. 275) có nêu đôi nhận xét đáng
chú ý: "Nhật kỳ của tiết khí không cố định với ngày tháng âm lịch, nhưng
tương đối cố định với ngày tháng dương lịch (...). Tết Thanh minh vào ngày
5 tháng 4 (dương lịch) giữa ngày xuân, có tục tảo mộ, du xuân".
Nhận xét thứ nhất chẳng sai. Nhận xét thứ hai cần phải bổ
đính.
Giữa xuân nào phải Thanh minh, mà là tiết Xuân phân. Suốt 150
năm (Tân Sửu 1901 - Canh Ngọ 2050), tiết Thanh minh không chỉ xuất hiện
ngày 5 tháng 4 dương lịch, mà nhiều lần rơi vào ngày 4 hoặc ngày 6 tháng 4
dương lịch. Liên tục ba năm Tân Sửu 1901, Nhâm Dần 1902, Quý Mão 1903, tiết
Thanh minh bắt đầu ngày 6 tháng 4 dương lịch. Khảo sát thời khoảng một thế kỷ
rưỡi vừa nêu, thấy 15 trường hợp như vậy. Còn tiết Thanh minh mở màn vào ngày 4
tháng 4 dương lịch gồm 32 trường hợp cả thảy. Năm Quý Mùi, tiết Thanh Minh khởi
sự từ thứ bảy 4-4-2003. Năm Giáp Thân, tiết Thanh minh ngày chủ nhật 4-4-2004.
Năm Ất Dậu, tiết Thanh Minh ngày thứ hai 4-4-2005. Năm Mậu Tý, tiết Thanh Minh
ngày thứ sáu 4-4-2008. Năm Kỷ Sửu, tiết Thanh Minh ngày thứ bảy 4-4-2009.
Thanh minh trong tiết tháng ba
Hoá ra, câu thơ Tố Như không tổng kết một quy luật tự nhiên phổ quát như nhiều người vô tình ngộ nhận. Nội dung câu lục kia chỉ đúng trong bối cảnh nhất định của mạch truyện:
Hoá ra, câu thơ Tố Như không tổng kết một quy luật tự nhiên phổ quát như nhiều người vô tình ngộ nhận. Nội dung câu lục kia chỉ đúng trong bối cảnh nhất định của mạch truyện:
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Ai đó có thể thắc mắc:
- Gia Tĩnh là niên hiệu của hoàng đế Minh Thế Tông, kéo dài những 45 năm, từ Nhâm Ngọ 1522 tới Bính Dần 1566. Vậy nàng Thuý Kiều cùng hai em đạp thanh và bén duyên chàng Kim Trọng năm nao?
- Gia Tĩnh là niên hiệu của hoàng đế Minh Thế Tông, kéo dài những 45 năm, từ Nhâm Ngọ 1522 tới Bính Dần 1566. Vậy nàng Thuý Kiều cùng hai em đạp thanh và bén duyên chàng Kim Trọng năm nao?
Xin thưa, nếu dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân (sđd, hồi 5) thì dễ dàng xác định được rằng bấy giờ là niên hiệu
Gia Tĩnh thứ XI, tức năm Nhâm Thìn 1532. Ngặt nỗi, vì đặc trưng thể loại, Truyện
Kiều của Nguyễn Du chỉ ghi niên hiệu mà chẳng kèm số liệu cụ thể. Thế thì
năm nào cũng hợp, miễn sao thoả mãn hai điều kiện: nằm trong khung thời gian đã
ấn định và đúng năm mà tiết Thanh minh không nhảy vào tháng hai!
Cũng cần thêm rằng chẳng phải bao giờ và ở đâu, cứ kỳ Thanh
minh tất bầu trời đều trong ngần và sáng đẹp, dù ngay tại xứ Trung Hoa. Hãy
nghe thi sĩ Đỗ Mục (803 - 853) từng cất tiếng than từ thời vãn Đường:
Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn.
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn.
Nghĩa:
Thời tiết Thanh minh mưa lất phất,
Lữ khách trên đường buồn nẫu ruột.
Lữ khách trên đường buồn nẫu ruột.
Phanxipăng
Trả lờiXóavé máy bay eva air
mua vé máy bay đi mỹ ở đâu
vé máy bay korean air
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu tiền
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch