Cách
đây hơn 300 năm có một ông hoàng tên Khurram, cháu nội Akbar là ông vua lừng
danh của dòng họ Moghol, gốc tích Mông Cổ xa xăm, lại chiếm đóng miền bắc Ấn Độ.
Thông minh, thanh lịch, phong nhã, có học thức, ông hoàng nầy còn thạo cầm quân
khiển lính. Khổ là mang phải một tính ngang bướng nên tuy là đứa con có thiên
tài nhất của vua Jahangir, ông bắt đầu đời mình với một hành vi phi đạo: ám
sát một người anh rồi sau đó gây hấn với vua cha vì bất bình trong chuyện
nối ngôi. Với những rắc rối gia đình như vậy, suốt đời trai trê ông phải rời khỏi
triều đinh lê la khắp nước.
Tình
yêu vô thủy vô chung
Năm
21 tuổi ông lấy vợ. Cô Arjmand Baru, trẻ hơn ông hai tuổi, đẹp đẽ, thông minh,
lại vừa hiếu học, cũng không phải con nhà tầm thường. Ông nội cô ta, Mirza Ghiyas,
cũng như ông thân, Asaf Khan, đều là thị vệ đại thần. người cô của cô ta, thi
sĩ Nur Jahan, lại là vợ vua Jahangir. Arjmand yêu chồng, quí chồng, rời bỏ
cha mẹ, lầu son cung cấm, theo chồng bôn ba xa chốn kinh thành, chia sẻ miếng
cơm tấm áo thời buổi hàn vi. Khi vua cha Jahangir băng hà, nhờ sự tận tình,
khéo léo của ông gia Asaf Khan, ông hoàng Khurram lên nối ngôi lấy niên hiệu
Shah Jahan (nghĩa là Hoàng đế của thế giới). Hồi ấy ông mới 35 tuổi. Bà vợ lên
chức hoàng hậu, được phong tước Mumtaz Mahal (tức là con cưng của hậu cung). Số
mệnh long đong, chưa hưởng thụ cuộc sống vàng son được bao lâu thì bốn năm sau,
theo chồng đi chinh phục miền Deccan về, bà từ trần sau khi sinh hạ đứa con thứ
14 (có tác giả chỉ nói đến con số 9, cũng đã nhiều lắm rồi). Vua Jahan đau đớn
vô cùng, mất ăn, mất ngủ, bỏ đèn, bỏ sách, hết còn nghe nhạc, hết chịu tẩm
hương, bần thần mất trí cho đến lúc quyết định xây ngay ở kinh đô Agra một nhà
mồ để lưu truyền lại mãi kỷ niệm của người vợ yêu. Đặt tên nhà mồ Taj
Mahal (vòng hoa cung điện), ông muốn nó lộng lẫy như nhan sắc bà vợ đã xấu
số qua đời. Ông thành công xây dựng một công trình vô cùng tuyệt diệu ngày nay
được sắp vào các cung điện đẹp nhất thế giới, một viên ngọc quý, một kỳ
quan của nhân loại mà hằng ngày khách thập phương từ mọi nơi tụ về, xếp hàng
dài đằng đẵng để vào chiêm ngưỡng.
Cũng
nên biết thêm, nhà vua còn có ý định cho xây bên kia bờ sông Yamura, ngay truớc
Taj Mahal, một ngôi mộ cho chính mình bằng cẩm thạch đen thay vì cẩm thạch trắng
như Taj Mahal, và cho nối liền hai nhà mồ qua một chiếc cầu hai màu đen trắng,
tượng trưng cho mối tình bất diệt. Nhưng cuộc sống đã dành cho ông một cuối đời
đau khổ : chưa kịp xây cất ngôi mộ thứ nhì nấy thì một đứa con ông,
Aurengzeb, truất phế ông để chiếm ngôi. Ông bị giam giữ tám năm cho đến chết
trong một đồn ải gọi là Hồng đài (Red Fort), cũng ở kinh đô Agra, không quá xa
để qua cửa sổ, ngày ngày ông có thể ngồi ngắm nhà mồ của bà vợ và mặc sức tưởng
niệm đến quá khứ xa xăm. Khi ông qua đời, Aurengzeb, một ông vua háo chiến, vô
nhân, chỉ dành cho ông một chỗ nhỏ cạnh mả bà vợ trong nhà mồ Taj Mahal. Âu
cũng là một chút an ủi cho mối tình tuyệt vọng.
Yêu
vợ tha thiết để xây nhà mồ cho vợ là chuyện thường tình ở thời buổi ngày nay.
Nhưng đây ta ở giữa thế kỷ XVII: hồi ấy Hồi giáo không có tục lệ xây mộ, nhất là
cho một người đàn bà, và nghệ thuật tang lễ cũng hoàn toàn bị cấm đoán. Ta
phải tìm nguyên do ở dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ. Lúc bị Mông Cổ đô hộ, họ đã bắt đầu
xây dựng những nhà quanh mộ. Vua Tamerlan, đầu thế kỷ XV, có nhà mồ của
mình, tuy nhỏ nhưng đã thành hình. Đến lượt người Thổ qua chinh phục miền bắc Ấn
Độ. Trong số con cháu của Tamerlan, gần một thế kỷ sau, có Babur đến đóng đô ở
Delhi, dựng lên vương triều Moghol sánh chói, hùng mạnh, tồn tại hơn một trăm
năm cho đến đời Aurengzeb. Cháu nội Babur chính là Akbar. Ông vua nầy tuy
theo Hồi giáo, vẫn còn tiêm nhiễm tục lệ miền Trung Á và rất khoan hồng về mặt
tôn giáo: đấy là một đức tính cần thiết để cai trị một vùng đầy dẫy tín ngưỡng,
đạo giáo rất khác nhau. Ông có lẽ là ông vua siêu việt nhất của Ấn Độ. Tuy
nhiên, chỉ ba đời sau, vào triều vua Aurengzeb, khi toàn thể lãnh thổ Ấn Độ thu
về một mối, đất nước thống nhất, cũng là lúc bắt đầu một cuộc thoái hóa, suy đồi: ấy chỉ vì Aurengzeb là một ông vua Hồi giáo cực đoan, hết còn khoan hồng
độ lượng như các vua trước, người hiền lần lượt rời bỏ triều đình ra đi.....
Có
thể nói là trong thời vương triều Moghol, Ấn Độ thịnh vượng nhất dưới hai triều
vua Jahangir và Shah Jahan: dân giàu, nước mạnh, văn hóa nghệ thuật tối cao.
Nghệ thuật Hồi giáo, nhập cảng từ phương Tây, đem vào Ấn Độ nhiều ý tưởng mới lạ: vườn tược, nóc bằng, cẩm thạch, tòa lầu ở bốn góc,.... Đi ngang qua Ba Tư,
nhiều tượng được ghép thêm vào: của tò vò Iwan nội tiếp trong những khoảng
hình chữ nhật, vừa có kênh chia ra làm bốn phần để cấu thành tchkar bagh (bốn
vườn), mộ bia bai tầng có tám phòng bao quanh tạo ra hach behecht (tám
thiên đường),.... Đáng phục là các nghệ sĩ hấp thu rất tài tình mọi chi tiết
và thực hiện cũng thật khéo léo. Một điều đáng chú ý, cho đến nay nhà mồ chỉ được
xây cho mấy ông. Trong phong tục Hồi giáo, người vợ luôn phải phục tùng chồng,
không vừa ý bị đuổi về ngay, khi chia gia tài chỉ nhận phần nhỏ, đi ra ngoài
luôn phải có khăn che mặt, trong khuê phòng tất nhiên mất hết tự do,.... Ta phải
đợi đến triều đại Moghol mới thấy mặt mũi người phụ nữ đưa ra ánh sáng. Điển
hình nhất là trường hợp nữ sĩ Nur Jahan, vợ của vua Jahangir. Đẹp đẽ, thông
minh, có học thức, bà lại còn khéo léo, duyên dáng, biết giúp chồng cai trị
khi ông rơi vào vòng rượu chè, trụy lạc. Tên bà còn để lại, ghi tạc trên các đồng
tiền cạnh tên chồng. Sau nầy, khi Aurengzeb lên ngôi, ông ta giết rất nhiều bà
con trong gia đình, nhưng đối với Nur Jahan thì luôn luôn trọng vọng.
Trong
bối cảnh ấy, ta dễ hiểu hơn tình yêu của Shah Jahan và nhà mồ Taj Mahal. Không
biết ai đã điều khiển cuộc xây cất, có lẽ nhà vua tự tay đốc suất. Cũng không
biết tên các kiến trúc sư : nhiều đề nghị đã đưa ra nhưng chẳng có một bằng chứng
rõ rệt. Rất có thể Ustad Ahmad và em là Ustad Amid đã vẽ họa đồ; Geronimo
Veroneo từ Venise xa xăm đến, lo về kế hoạch hòa hợp tòa nhà và vườn tược ; một
kiến trúc sư người Thổ Nhĩ Kỳ, Austin de Bordeaux, mà vua Jahangir đã ban cho
chức "người sáng tác nghệ thuật", cũng đóng góp nhiều trong cuộc xây
dựng và nhất là về trang hoàng…. Nghệ sĩ, thợ thuyền thì lại càng ít được biết
hơn, nếu không là nhà vua đã cho đi tìm từ các phương xa. Vua Jahan rất thích cẩm
thạch trắng, nhất là lại để diễn tả vẻ ưu nhã, yêu kiều của một phụ nữ, thì
không nề hà bắt chở về từ mỏ đá Djodhpur bên xứ Radjasthan. Tuy nhiên ông không
quên tài nguyên địa phương là sa thạch đỏ thường được dùng để xây dựng các đồn ải.
Hòa hợp hai loại đá nầy đã được thực hiện rất hài hòa. Cũng nên nghĩ đến tổ chức
của một công trường khoảng hai vạn thợ thuyền, ăn, ở, làm việc trong hơn 16 năm
trời.
Tôi
và nhà tôi được đưa đến trước Taj Mahal một sáng đầu thu, sương mù còn vương
víu làm cảnh vật thêm mờ ảo, thần tiên. Sau khi vượt qua nhà cổng đồ sộ bằng sa
thạch đỏ hoe, khách giật mình trước một bể nước dài soi bóng nhà mồ nằm ở đằng
xa, trắng xóa và nổi bật như viên ngọc quý bày trong tủ kính. Lại gần hơn, một
bể nước thứ nhì chắn ngang bể thứ nhất, chia vườn làm bốn phần. Vượt quá bể nước
nầy còn phải nhiều bước nữa mới đến chân nhà mồ chính xây trên một cái nền khá
cao, thành thử du khách dù đông bao nhiêu cũng chỉ thấy lúc nhúc ở dưới, không
che lấp chút nào nhà mồ. Công trình là một lâu đài hình tám cạnh, cao hơn 60 m,
rộng cũng xấp xỉ cở ấy, trên cùng là một cái trần hình củ giống như một quả cầu
phía dưới bị cắt ngang. Ở bốn góc là bốn cái lầu minaret thấp hơn nhà
mồ chính nhưng lại thon hơn nên nhìn rất thoáng mắt. Tất cả các bộ phận nầy đều
bằng cẩm thạch trắng, chạm trổ trang hoàng với đủ loại đá quý, không cầu kỳ mà
lại có vẻ đơn sơ, kín đáo, cho thoát ra một ý tưởng tận thiện tận mỹ, gợi lên một
phản ảnh thần linh, một vẻ đẹp cao cả của sự chết. Đứng trước Taj Mahal, ta có
cảm tưởng như linh hồn đã thật lên đến chốn cực lạc vì chính ngay ở nhà mồ
cũng như vườn tược xung quanh, mọi cách sắp đặt, trang trí đều được đắn đo để tạo
ra một thế giới thiên đường.
Người
ta thường bảo vào buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, thì nhà mồ nhuốm một màu hồng
đẹp. Vì vậy cho nên chiều hôm ấy chúng tôi đã kiếm cách trở lại xem. Nhà mồ hôm
ấy trở nên hồng thật nhưng, sau khi mặt trời khuất bóng, dưới bầu trời thắm đỏ,
ngôi nhà cẩm thạch trắng bổng nhuộm đủ màu sắc, tím, xám, xanh, vàng, có khi mường
tượng phản ảnh của những viên ngọc bích, hồng bảo,....Tôi còn tiếc không có dịp
trở lại viếng Taj Mahal dưới ánh trăng thanh vì nghe nói khi ấy khách mới cảm
nhận trọn vẹn linh hồn nhà mồ. Không phải tình cờ mà UNESCO đã ghi Taj Mahal vào
danh sách các tài sản thế giới như cung điện, lăng tẩm thành phố Huế của chúng
ta. Cái khác nhau là ở Huế, các đế vương khi còn sống đã lo xây cất nơi mình sẽ
yên giấc ngàn thu, bên nầy nhà mồ là kỷ niệm một mối tình nồng nàn mà một ông
vua muốn dành cho người vợ yêu quý. Rút cuộc, cái may của bà hoàng hậu Mumtaz
Mahal là có được một ông chồng độc đáo, cái may của vua Shah Jahan là xây cất
được một nhà mồ tuyệt diệu đến nỗi người đời tha thứ những tội lỗi của
ông, và cái may của ta là nhờ cuộc gặp gỡ các nghệ thuật Hồi giáo, Ba Tư, Ấn
Độ, ngày nay có diễm phúc say mê ngắm nghía một bảo vật như Taj Mahal.
Bài
và ảnh Võ Quang Yến
đại lý vé eva air
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
vé máy bay hãng korean air
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich