Tôi xa Hà Nội năm chín mười
tuổi, mặc dù chưa một lần biết yêu để u mê, ám chướng với tha nhân và ngoại cảnh,
nhưng rất gần gũi và gắn bó với Hà Nội như bất cứ ai. Khi lãng đãng thả hồn về
một khỏang không gian hoặc thời gian nào đó...Tình yêu cũng như bạn bè đều có một
nơi chốn nằm ở đầu đường cuối ngõ với những dấu ấn riêng tư cùng năm này tháng
nọ...Càng có tuổi, tôi càng thân thuộc với thành phố trăm nhớ nghìn thương ấy
qua những tình khúc bất tử, những bài viết ngắn dài của những người đi trước,
những tác giả thời danh. Những năm tháng cùng những hoài cảm còn một chút gì để
nhớ với quên của một quãng đời. Ấy là những người xưa năm cũ lãng đãng thả hồn
về Hà Nội mắt chừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hoặc kia bãi dâu chiều, văng vẳng âm u tiếng chuông chùa Trấn Quốc bao la gọi về
u uẩn dấu xe ngựa cũ hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương...
Hà Nội của tôi những ngày
còn bé với những ký ức khi ẩn khi hiện, khi đậm khi nhạt như đền Hai Bà Trưng với
cây đa già nua, cành cây sần sùi vươn ngang bên hồ. Nhà máy Diêm, hàng me, rặng
sấu chạy dài theo bức tường vôi vàng loang lổ. Viện Bác cổ Viễn Đông, chung
quanh bao bọc là khu đất hoang vu với những cây bằng lăng lâu đời. Hoặc giả với
chùa Một Cột, Văn Miếu, ngược dòng lịch sử với Lý, Trần, Lê, Nguyễn...Với tôi,
tất cả đều lãng đãng và mơ hồ của cậu học trò tiểu học, bây giờ hỏi chốn ấy nơi
nào, thực tình tôi cũng mù mờ.
Hà Nội đơn thuần với tôi
không bèo bọt chỉ có vậy, còn nhiều nơi chốn khác nữa nhờ trốn học. Sáng đu xe
điện lên chợ Đồng Xuân, trưa tạt qua hồ Gươm để học mót được câu mình ơi
có đi bờ hồ, cùng ta ăn kem kẹo dừa. Có ngày, lúc phất phơ với mấy ông thầy
bói mù ở phố Huế, khi lang thang tới tận núi Nùng, gò Đống Đa. Bây giờ nếu có hồi
tưởng lại cũng chỉ thấy mờ nhân ảnh trong một cõi đi về, chỉ thấy những bồi hồi
xa vắng để lâu lâu lại hướng về Hà Nội qua nhà văn Mai Thảo với một thoáng Tây
Hồ năm xưa: "Trở về những mảnh tôi xưa. Trúc Bạch dưới trăng vàng.
Thiếu thời ấy là một Nghi Tàm lồng lộng. Lưu thủy cộng trường thiên nhất sắc. Cổ
Ngư đêm mùa hè. Làng Láng mầu cốm đậm và những hình ảnh muôn thuở của Hà Nội
chưa tiều tụy. Ánh lửa khuya dưới vàm ô Quan Chưởng. Mầu đỏ khé cầu Thê Húc. Và
những tiếng động, gió Hồng Hà mùa nước lũ. Tiếng còi tầu Long Biên. Tiếng
tỳ bà Ngã Tư Sở đìu hiu lau lách. Tiếng phách Khâm Thiên..."
Mai Thảo hoài niệm Vũ Khắc
Khoan viết về Hà Nội với nhiều dấu chấm đậm đặc, phiêu bồng đâu đây ngào ngạt
hơi hướng của ả phù dung với khói mây mịt mùng. Một cõi văn chương, một mảng kịch,
trường ca Mông Cổ với Thành Cát Tư Hãn, Lôi Vũ đề kháng, Phồn Y ngủ yên, cát bụi
và hư không như xa vắng để rồi còn ai nữa...những người muôn năm cũ, hồn ở đâu
bây giờ.
Tuy vậy, đã từ lâu, lâu lắm
rồi thì phải, tôi ngứa tay ngứa chân, như thôi thúc muốn trải dài trên giấy trắng
mực đen dăm ba trang về Hà Nội..."trong mắt tôi". Như một Quang Dũng u
uẩn chiều luân lạc, buồn viễn xứ khôn nguôi với một thoáng Hà Nội về trong
đáy cốc. Nhưng mỗi lần cầm bút, chân tay lại lóng ngóng, đầu óc cứ rối mù. Thực
tình tôi không biết bắt đầu từ đâu, ngừng lại ở chỗ nào và cũng chẳng muốn thêm
bớt một hai nét đan thanh để phá thể bức tranh vân cẩu có sẵn, mây vắt ngang trời,
ngang ngang đầu núi. Thôi thì hãy để tay bút đồng canh đồng tuế Nguyễn Tường
Phong đảo về Hà Nội một ngày cuối năm với bài Nỗi buồn chạm mặt. Mặc
dù người viết chưa một lần làm quen với xe tứ mã, áo the thâm, váy sồi, khăn mỏ
qụa như tôi vậy, nhưng văn phong của ông rất ư linh động và sắc nét:
"Ngày trước mỗi khi nghe
nhắc đến tên tuổi như Nguyễn Văn Siêu hay tháp rùa hồ Hoàn Kiếm, tôi dửng dưng
xa cách, vô can...để mãi tận hôm nay. Kẻ đã rời đất Bắc từ mới lên ba năm nào,
nay trở về đứng giữa lòng Hà NộI bên hồ Gươm, Tháp Bút, đền Ngọc Sơn và hồn như
nhập với bóng ảnh những con người trong lịch sử. Cảm xúc dâng tràn, tôi thấy
lòng bâng khuâng khác lạ. Tuy nhiên mới trở về đôi ba ngày, mới nhìn qua một
đôi lần, mà hình ảnh chiếc Tháp Rùa ba tầng rêu phong đạm bạc, lặng lẽ u tịch
in trong bóng chiều, như đã đứng tự trăm năm trên cồn đất nổi ngang giữa mặt hồ
sao như gần gũi thân quen và bâng khuâng để hình như tôi bắt đầu yêu Hà Nội, đất
của nghìn năm văn vật. Tôi có cảm tưởng sống trong cái không gian của thập niên
30, thời của những Số Đỏ, Chí Phèo, Lão Hạc, của những Nam Phong, Tiểu Thuyết
Thứ Bẩy, Tự Lực Văn Đoàn, Phong Hóa, Ngày Nay....".
Bỏ lại đằng sau người tuổi
trẻ Nguyễn Tường Phong, trở lại Thăng Long đất kinh kỳ nghìn năm mây bay với 36
phố phường có từ đời nhà Lê. Phường đây là phường Tầm Tang, phường Yên Thái,
phường Bưởi....của những làng nghề, còn phố chỉ là nơi buôn bán để không thể
không bùi ngùi những con đường đất cùng dăm nhà tranh vách bùn, đã đi vào quên
lãng, đó là ba phố ở Thăng Long Ngọai Thành là phố Lò Rèn, phố Hàng Bừa và phố
Hàng Cuốc. Đi sâu vào chút nữa sát Thăng Long Nội Thành cũng là ba phố tiên khởi
là phố Hàng Đào, phố Hàng Ngang và phố Hàng Đường. Giữa hai phố Hàng Đào, Hàng
Đường, cùng thời với Phố Hiến với Phố Khách, chúa Trịnh tập trung người Hoa vào
đấy cho bán buôn mà trong Thượng Kinh Ký Sử vào đời Lê, cụ Hải Thượng
Lãn Ông được cáng võng vào đây chữa bệnh cho Trịnh Cán và đã thuật lại rằng chỉ
loe ngoe dăm tiệm thuốc Bắc. Và để dễ kiểm sóat, tối tối hai đầu đường nhà Chúa
cho đóng lại bằng cổng tre chắn..."ngang" nên được gọi là phố Hàng
Ngang. Tất cả chỉ là cụm từ danh xưng chỉ chung cho nơi chốn một thời của người
Kẻ Chợ, chứ chẳng phải như câu ca dao sáo mòn truyền tụng đến nhập tâm chẳng đổi
thay tự bấy lâu nay:
Rủ nhau đi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Cho đến thập niên 20 và
30,Hà Nội thêm nhiều phố, bớt phường, nhưng chẳng mấy ai nhắc đến phố Hàng Hòm
ngày nào, ở đó lổm nhổm có vài ba tiệm thịt...chó. Luẩn quẩn đâu đây hình tượng
những tha nhân, chân đi đất, quần xắn móng lợn, quấn khăn đầu rìu như Ba Giai,
Tú Xuất. Bên này bầy hàng "sơ mi gỗ" một thước hai thước, bên kia ngả
con cầy, chết xuống âm phủ còn có hay không. Tránh Diêm Vương lại lạc qua phố
Hàng Mã gần đấy, chồm hổm một tiệm phở...chó, lạc lõng, chơ vơ như quán gió
biên thùy. Hà Nội 54 vơi phố Hàng Buồm cùng tửu lầu Đông Hưng Viên, cái thớt chặt
thịt dầy cả thước, lại vẫn với chú "khách trú" đứng quơ dao phay ngay
trước cửa tiệm. Gần hơn nữa cùng một thuở xa xưa với những ngõ ngách, đường phố
đã in đậm trong tranh Phố Phái, hai chữ này do cụ Nguyễn Tuân đặt tên cho tranh
Bùi Xuân Phái. Người họa sĩ gần như bỏ cả đời người cho dòng tranh phố cổ hình ống,
mái âm dương liêu xiêu cùng cửa đóng then gài nhưng vẫn thấy sâu hun hút...
Hà Nội với những bước gập ghềnh,
hẫng hụt của chữ nghĩa một thời văn học. Đến ngõ Trạng Trình thì phải ghé ngõ
Văn Chương. Qua ngõ Tràng An thì không thể quên ngõ...Huyện. Vô chi bất mộ, gặp
gỡ ngõ Cấm Chỉ thì không thể một chiều thiếu vắng bóng ngõ Tạm Thương. Ấy vậy
mà "tạm thương" đây chẳng dây mơ rễ má đến "cấm chỉ", rằng
chỉ là nơi chốn nằm "tạm" để đợi vào nằm...thật trong nhà
"thương" Phủ Doãn.
Rồi thì nửa khuya đèn vàng,
tiếng rao như gọi đò sang sông của ông Tàu tẩm quất mù nghe buồn như trấu cắn,
chốc chốc lại buông một tiếng "q...u..ấ...t..." kéo dài ngân cao, như
xóay vào bóng đêm, trong khi tiếng "tẩm" như chìm vào ngõ tối. Rồi đến
âm thanh hai khúc tre gộc nhịp một "tắc...". Ngừng lại một chút rồi
"tắc..." một cái nữa ròn rã. Và điểm nhẹ theo câu mời gọi "xực
...tắc...đây.." rời rạc, đầy chán chường của xe mì gõ như chìm vào đêm vắng.
Cuối ngõ Tạm Thương là ngõ Yên Thái với những tiếng chát, tiếng tom cùng với tiếng
đàn, tiếng phách thi đua với khu Khâm Thiên, lụp xụp một dẫy nhà hát cô đầu với
dăm ả đào non...Những tay chơi Hà Thành một cõi đây là những ông thông, ông
phán và đêm đêm họ...thương nhau chí chát..."thật" tình chứ chẳng hề
phất phơ, yêu một bến tạm, bến vắng này kia cùngHồng Hồng, Tuyết Tuyết, mới
ngày nào chẳng biết cái chi chi.
Hà Nội 36 phố phường của
Thạch Lam và Món ngon Hà Nội của Vũ Bằng không thể quên một giấc mơ
phai cùng âm hưởng với hương xưa, cả hai như trộn lẫn với nhau như động với
tĩnh. Ngay từ sáng tinh mơ, người Hà Nội đã bị đánh thức dậy bởi những tiếng
rao ơi ới "lạp xưởng lồ mái ph..à..n". Phụ họa âm thanh vỗ
vào không gian vắng lặng với "bánh mì đ..i..i.." dài lê
thê, hòa lẫn tiếng rao nghe buồn đến nẫu ruột như "bánh dầy, bánh
giò, đâ..y..y". Đến gần trưa pha trộn thêm ba thứ tiếng Ta, Tây, Tầu
"chè trân châu lát-xê xệch cấu", phụ họa với tiếng chuông tầu điện
leng keng, tiếng kính coong của chuông xe đạp.
Người bán hàng rong lười rao
nhất là ông hàng phở, đầu đội mũ "phớt" bạc phếch, năm thì mười họa mới
nghe vẳng lên một tiếng ngân dài "ph...ơ...ở". Cũng từ đó, người Hà Nội
thản nhiên bắt quàng làm họ gọi cái mũ "feutre" là cái mũ phở. Nặng
chĩu kẽo kẹt từ đầu đường cuối ngõ là tiếng rao cộc lốc, nhát gừng của một bà
vai gánh quai gồng, rao lanh lảnh"ai có chai, bao chè, đồng nát lông vịt,
tóc rối đổi kẹo kh...o.. ô..ng". Để rồi người Hà Nội, lại thân thương
gọi họ là bà "đồng nát". Quá khuya tiếng bánh xe ba gác khua lóc cóc
trên mặt đường, hòa nhịp tiếng thùng thiếc chạm vào nhau rổn rảng, tiếng gọi
nhau ơi ới như họp chợ, đó là tao nhân mặc khách từ làng Cổ Nhuế, tên Nôm là
làng Kẻ Noi sát Hà Nội nghìn năm văn vật qua...đổ thùng.
Hết động đến tĩnh, ngoài mấy
ông thầy bói mù ngự quanh quẩn bên tháp Bút đài Nghiên ngay đền Ngọc Sơn, cả
ngày không nói một tiếng vì ế khách. Sát hồ Hòan Kiếm, ngòai Bưu Điện, quanh
năm suốt tháng âm thầm, cô đơn lạc lõng, ngồi dựa lưng vào cái tháp vuông nhỏ để
tránh gió là ông Tầu già bán lạc rang húng lìu. Bước qua bên kia cầu Gỗ là cà
phê Nhân, phở Giảng, là người đàn bà chít khăn mỏ qụa, ngồi âm thầm ở một góc
phố quạt phành phạch vào cái bếp than, mùi thịt nướng bún chả tỏa ra ngào ngạt
thơm phức....Lặng lẽ hơn nữa là tòa Đốc Lý của Tây, như người khách lạ với cái
buồn viễn xứ, như sợ bị bỏ quên, nên cứ đúng ngọ hướng về bên kia sông Hồng hú
lên một hồi dài vang dội ra tới tận ngoại thành...xa vắng.
Vắng xa hơn nữa hãy trở về
Hà Nội ngày tháng không tên với người muôn năm cũ của thập niên 20 và 40. Như mấy
ông mặc quốc phục, khăn lượt, giầy Gia Định mũi nhái, đi xe tay bánh cao su đặc.
Còn mấy bà, dáng dấp Nam Phương hòang hậu với áo dài phủ gót, vấn tóc đuôi gà
trong chiếc khăn tròn lẳn.
Còn cảnh trí thì mỗi năm mỗi
một vắng để có cùng một hoài cảm, ông đồ vẫn ngồi đấy, qua đường không ai hay,
lá vàng rơi trên giấy, ngoài trời mưa bụi bay...
Và Thạch Lam đã u hòai cùng
người xưa cảnh cũ:
" Bên này cửa hàng tạp
hóa đầy đủ quả sơn đen, có chồng giấy bản và ống bút nho. Bên kia nhà ông cụ
tú, có tiếng trẻ học vang vang, có cậu học trò xinh trai đứng hầu chè thầy bên
trảm kỷ. Giữa nhà, mảnh sân vuông lộ thiên, có bể non bộ và cá vàng, có dẫy chậu
lan và trên tường có đôi câu đối chữ nho. Hà Nội đã thay đổi nhiều lắm, những
phố cũ hẹp và khuất khúc, với những nhà ống thụt ra, thụt vào, mái nhà ngói âm
dương, tường đi xuống từng bực như cầu thang, những cửa sổ nhỏ bé và kín đáo...
"
Cuối cùng, ông đã hoài cảm:
"...Chúng ta không biết
được mấy về dĩ vãng, về phố sá kinh thành hồi cụ Lãn Ông, một túi thơ, một bồ
thuốc, từ Bát Tràng đến Thăng Long thành, bốc thuốc ở Vạn Thảo Đường, chữ son sắc
nước đỏ tươi, bay bướm nửa chân nửa lệ, và bây giờ ở phố Hàng Đường cũng có ba
chữ Vạn Thảo Đường, nhưng được viết bằng lối chữ vuông tân thời... ".
Sau năm 54 cùng Hà Nội trong
cơn say, có rượu Đình Bảng, rượu làng Vân, qua Hoàng Cầm với Bờ hồ trong
sương bụi. Hòang Cầm ngất ngưởng để bờ hồ đâu không thấy, chỉ thấy hình ảnh Hà
Nội chìm đắm, hạn hẹp trong căn gác nhỏ của chính ông đẵng cuối con ngõ nhỏ phố
Lý Quốc Sư: "Nhà nền đất thó, một cái bàn gỗ mộc, dăm ba chiếc ghế
lung lay xô xệch..." và Hà Nội như lá diêu bông của riêng ông.
Trần Dần cũng không đi ra
ngoài con ngõ Phan Huy Chú vào độ cuối đông: "Hà Nội thu mình khép
gió, những tàn cây trơ trụi, lá co ro chống đỡ cơn may hiu lạnh, mênh mang nhớ,
rưng rức đau nỗi niềm không tên gọi, có đây rồi vụt mất...Tôi đi giữa trời mưa
đất Bắc, đất hôm nay tầm tã mưa phùn...".
Riêng Văn Cao, nào có khác
gì Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, cùng những níu kéo
không rời: "Thời trẻ đối với tôi, gần như tình yêu dính dấp đến phố
phường, những con đường mình đi qua để chẳng bao giờ quên. Hà Nội như chất muối
mặn, ngấm vào da thịt, ngấm vào khổ đau để rồi xa vắng với nhừng phố phường của
năm tháng cũ...".
Hà Nội bây giờ với một vũng
tang thương nước lộn trời, phong thái kim tiền bên ngòai thì có đấy, thế nhưng
đằng mỗi khúc quanh của mỗi con phố, dường như ẩn hiện nét ảm đạm, ẩn ức và
chán chường. Thiếu vắng hẳn hào khí ngất trời cùng những khúc mê trần của
một Kinh Kha sang Tần với một Vũ Hoàng Chương, với một Đinh Hùng. Hay sôi động
bùng cháy khói lửa kinh thành ùn về nhà Hát Lớn Hà Nội với một Thần Tháp Rùa Vũ
Khắc Khoan vang vang vọng về... Đó là tất cả những gì rất Hà Nội hôm nay, rất
gió bấc mưa phùn của một thế hệ, của một lớp người vừa mới nắm xuống và ngủ
yên.
Như một Hà Nội trong cơn mê
trần...
Nhìn lại năm mươi năm cũng
chẳng là bao, như gió thỏang mây bay...Nhưng mường tượng đến nửa thế kỷ lại giật
mình, mới đây đã vàng bay mấy lá năm già nửa, để dùng dằng với những mời gọi
của những người viết trước, kéo theo những dục dã của cái tuổi bắn bi đánh đáo.
Cuối cùng thì đường mưa ướt đất, tôi cũng lớ ngớ có mặt ở Hà Nội như Từ Thức về
trần, để có những cái nên quên thì lại nhớ, những cái đáng nhớ thì lại quên. Để
chẳng tìm thấy năm cửa ô mãi tận đâu đâu, như ô Cầu Giấy, Cầu Rền, Đông Mác,
Quan Chưởng, Chợ Dừa. Tất cả còn lại chỉ là cái tên mơ hồ nhạt nhòa trong tâm
khảm, lặng lờ ẩn nấp trong sách vở. Nói cho cùng Hà Nội một nắng hai mưa của
riêng tôi thì không ngòai những hòai cảm mêng mang đầy xô bụi khi lang thang,
ngẩn ngơ giữa những phố xưa ngày nào năm ấy:
Tôi đi giữa phố, giữa phường,
như không thấy nhà, không thấy cửa, chỉ thấy quầy gỗ, sạp tre, những gánh hàng
rong. Ngay giữa khu phố cổ Hà Nội, không còn những khoảng trống để bước lên những
bước đi của Thạch Lam. Những căn nhà mái rêu phong ẩm ướt, như đắm chìm trong
con phố vĩnh hằng một thời hoang vắng của phố Phái. Dĩ vãng cùng những ngày
tháng như nấp kín bên trong căn nhà hình ống, sâu lắng với sân giữa gạch nung đỏ,
cùng cái chum nước mưa bé con con. Tất cả còn lại chỉ là những cột đèn sơn hắc
ín, bảng tên đường mầu xanh chữ trắng từ thập niên 50 hoặc trước nữa. Cũng
không có khỏang không gian, mây thu bàng bạc của Vũ Bằng, đượm mùi hương phấn củanhững
cô gái làng Vòng, cái quai gánh nặng trĩu một đầu cong cong để vẫn hỏi
lòng mình là hương cốm, chẳng biết tay ai làm lá sen. Và tận cùng cũng thiếu vắng
hẳn, để chẳng bao giờ tìm lại được những giọng nói tiếng cười của người Hà
Thành thanh lịch, trầm bổng ấm êm, như còn văng vẳng lẩn khuất ở đâu đây...
Rũ áo phong sương bên gác trọ,
hãy tạm gác Hà Nội văn chương chữ nghĩa, trăn trở khôn nguôi, để trả lại Hà Nội
ngày là lá, tháng là mây với cỏ cây của mấy ông bác ông chú, mỗi lần Tết đến là
u uẩn mỗi năm hoa đào nở, lại nhớ cánh mai vàng. Tuổi ấu thời như tôi
ẩn hiện nhạt nhòa với cây me, cây sấu, với tiếng ve sầu râm rả. Cùng một phần
thân cây sơn mầu trắng, nghĩ chẳng có gì, nhưng như một dấu ấn nằm ẩn khuất
trong tâm khảm. Ngay lúc này với Hà Nội trầm mặc, bàng bạc để tôi có những giây
phút bồng bềnh qua Trịnh Công Sơn cùng Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội, cây
cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ phảng phất...thơm mùi hoa sữa, không ít thì
nhiều ẩn hiện như một biểu tượng nào đó.
Tần ngần đứng trước cây hoa
sữa ở chùa Quán Sứ, thân mầu nâu đen, dân gian gọi là cây mò cua. Lá có bẩy
cánh xanh đậm, xòe ra như lá...khoai mì, vì hoa mầu trắng như sữa và chỉ thơm về
ban đêm như dạ lý hương. Nên được người Hà Nội đong đưa vào mảng chữ nghĩa cái
tên rất thơ, rất tình, văn vẻ gọi là hoa sữa vậy thôi. Mò mẫm với cây cơm nguộI,
nôm na với các cụ ta xưa là cây vú trâu, hoa vàng, hơi ngả sang mầu hồng,
trái mọc thành trùm mầu đen, trong có hột, ăn vị ngòn ngọt, dai dai như...cơm
nguội.. Thế nên chẳng có gì mà thở than một nhớ hai thương với cây
bàng...mồ côi. Thế nhưng cũng chẳng quên người làm nhạc hôm nay vớiHà Nội
mùa này vắng những cơn mưa, cái rét đầu đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh, hoa
sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp, đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta
về...
Qua đường Cổ Ngư xưa chầm chậm
bước ta về...
Ngày tôi trở về thăm căn nhà
cũ ở phố Chợ Đuổi, mái ngói đỏ ngày nào đã ngả mầu xanh nâu, rêu phong đọng nước,
ngai ngái mùi ẩm mốc. Từ ngoài cổng nhìn vào, những chiếc lá bàng ửng vàng nâu
đỏ chơ vơ bên bể nước. Tôi đã chẳng không thể tránh khỏi những giao động với
hoa đào năm ấy còn chờ gió đông cùng những năm tháng của cái tuổi mới lớn. Ở
nơi chốn này, tôi có hai người bạn gái nhỏ, cũng là hai chị em thường nhẩy dây,
chơi ô quan ở cái sân gạch tàu, năm cũ người xưa, không biết bây giờ luân lạc ở
phương nao. Để rồi bồi hồi cùng cảnh vật, đều còm cõi qua một kiếp phù sinh, và
rồi lắng đọng qua Quang Dũng với bài thơ có cái tựa Không đề:
Ơi, con đường xưa
Những mùa trút lá
Cành bàng mồ côi
Cổng cũ rêu phong
Ý đợi người
Những mùa trút lá
Cành bàng mồ côi
Cổng cũ rêu phong
Ý đợi người
Đã là người Hà Nội, ai chẳng
một lần hoài cảm tới những mùa trút lá với cổng cũ rêu phong. Hà Nội đâu đó như
ẩn hiện trong tôi, bám cứng không rời để tự thầm nhủ, chẳng mấy ai hai lần tìm
về cùng một dòng sông của qúa khứ và đành thở dài, tiếc nuối một thoáng Tây Hồ
cùng Hà Nội một thoáng hương xưa...
Trúc gia trang
Thu phân, Quý Mùi 2003
Phí Ngọc Hùng
Trả lờiXóahãng vé máy bay eva
giá vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
đặt vé máy bay korean air
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich