Phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) là sự bứt phá ngoạn mục của thơ Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX để giã từ phạm
trù văn học trung đại, gia nhập vào quỹ đạo văn học hiện đại, là tiếng nói giải
phóng cái tôi cá nhân cá thể (individu), một cái tôi nội cảm, cái tôi sáng tạo
xuất phát từ mối bất hoà trước thực tại trên cả hai phương diện nhân sinh và thẩm
mỹ. Nói đến cái tôi cá nhân là nói đến sự cô đơn. Biểu hiện thường trực của cô
đơn là nỗi buồn. Thơ Mới ngập tràn nỗi buồn.
Văn học trung đại có sự điều
tiết rất lớn của lý trí cái tôi cộng đồng nên nỗi buồn ít được bộc lộ trực tiếp
mà ẩn hiện sau ngôn từ, nấp sau cảnh vật. Ví như nỗi buồn trong thơ Nguyễn Khuyến
là nỗi buồn ẩn sau mùa thu làng cảnh Việt Nam của một nhà nho ý thức về thời đại
nhưng bất lực. Nỗi buồn ấy thấm sâu trong hình ảnh, trong chữ:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân
bèo
(Thu điếu)
Thơ Mới thể hiện cái buồn rất
khác với văn học trung đại. Nó ngang nhiên xuất lộ: Hôm nay trời nhẹ lên cao/
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu). Nó thường hằng: Với
tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau (Chế Lan Viên).
Nó dai dẳng: Tai nương nước giọt mái nhà/ Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn
buồn (Huy Cận)…
Nỗi buồn chất chứa da diết
trong Thơ Mới có nguyên nhân trước hết là do bản chất của nghệ sĩ, nhất là nghệ
sĩ lãng mạn. Cơ chế văn chương lãng mạn là cái tôi cô đơn - một trạng thái cảm
xúc tinh thần không được chia sẻ và không chia sẻ được. Cô đơn là điều kiện
sáng tạo, là phẩm chất nghệ sĩ, phẩm chất tài năng lớn.
Một nguyên nhân khác là các
nhà Thơ Mới coi cái buồn, cái đau là một phạm trù mỹ học. Cái buồn đã thấm sâu
vào quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ. Huy Cận quan niệm:“Cái đẹp bao giờ cũng
hơi buồn”, hay như thi sĩ Hồ Dzếnh: “Tình mất vui khi đã vẹn câu thề/ Đời chỉ đẹp
những khi còn dang dở” (Ngập ngừng).
Nỗi buồn Thơ Mới vừa nằm
trong quan niệm lại vừa là kết quả của sự tác động ngoại cảnh. Cái tôi lý tưởng
của Thơ Mới khi va đập thực tế nghiệt ngã của thời đại - xã hội thực dân phong
kiến - đã mất phương hướng, mất chỗ bấu víu, đành phổ nỗi buồn vào thơ. Đâu đâu
cũng bàng bạc nỗi buồn, từ thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư đến thơ Chế Lan Viên, Huy Cận,
Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Thâm Tâm… Bởi thế, Hoài Thanh - tác giả Thi
nhân Việt Nam - viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta
đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta
phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền,
điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận.”
Thơ Mới là thơ của những điệu
cảm xúc buồn, song có thể quy về ba dạng thức chính. Khi cái tôi đối diện với
toàn cõi nhân gian (cả chiều kích không gian và thời gian), cá nhân nhận ra
mình chỉ là hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi, nhận ra tình trạng lênh đênh, phù du của
phận người thì nảy ra mối sầu nhân thế - nỗi buồn phổ biến của cái
tôi lãng mạn, của thơ lãng mạn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp
Con thuyền xuôi mái nước
song song
Thuyền về nước lại sầu trăm
ngả
Củi một cành khô lạc mấy
dòng
(Huy Cận)
Sầu nhân thế làm nảy sinh
tâm lý về sự vô nghĩa của kiếp người. Tư tưởng hư vô nảy sinh, con người thấy
chẳng có gì là bền vững, không có gì là nghĩa lý cả:
Trời hỡi trời hôm nay ta
chán hết
Những sắc màu hình ảnh của
trần gian
(Chế Lan Viên)
Khi cái tôi đối diện với thời
cuộc (môi trường sinh tồn) cảm thấy bơ vơ, lạc lõng thì nảy sinh nỗi sầu
thời thế, thấy mình như kẻ lạc thời, sinh bất phùng thời, “đầu thai lầm thế kỷ”
hoặc thấy thời mình chưa tới hoặc thấy thời mình đi qua mất rồi:
Một đôi người u uất nỗi chơ
vơ
(…) Lũ chúng ta lạc loài dăm
bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống
nòi khinh
(Vũ Hoàng Chương)
Cái tôi khi đối diện với bản
thể (chính mình) có thể nảy sinh sầu thân thế, nảy sinh tâm lý thấy mình
là kẻ thất bại, thậm chí sinh ra đã là kẻ thất bại, chủ yếu trên hai phương diện
tình duyên lỡ làng và công danh sự nghiệp dở dang:
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Em đi dang dở đời sương gió
Chị ở vuông tròn phận lãnh
cung
(Nguyễn Bính)
Thơ Mới cất tiếng đan xen ba
mối sầu đồng hành và chuyển hoá nhau thành dàn giao hưởng có ba bè sầu: sầu
nhân thế - sầu thời thế - sầu thân thế, nổi bật là Xuân Diệu. Ở “nhà thơ mới nhất
trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh), cảm thức về thời gian đã trở thành nỗi ám ảnh.
Xuân Diệu ham sống, say sống là thế mà buồn bã, cô đơn. Từ cái buồn tưởng chừng
như không duyên không cớ, cái buồn vơ vẩn: Ít nhiều thiếu nữ buồn không
nói / Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì (Thơ duyên) đến cái buồn vì tình yêu đã
hết: Anh một mình nghe tất cả buổi chiều / Vào chầm chậm ở trong hồn hiu
quạnh (Tương tư, chiều) và cái cô đơn, lạnh lẽo: Bốn bề ánh nhạc: biển
pha lê / Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề / Sương bạc làm thinh, khuya nín thở /
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê (Nguyệt cầm)….
Cái buồn da diết, ảo não là
cái buồn trong Lửa thiêng (Huy Cận) – man mác cả không gian, tràn lan
khắp cảnh vật: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu (Tràng giang),Muôn
sao bàng bạc sầu nhân gian (Hồn xa)… Đó còn là cái buồn thiên cổ xa xăm tự
ngàn xưa theo gió thổi về: Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu (Ê
chề), Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về (Chiều xưa). Hồn thơ Huy Cận
bơ vơ, đơn độc: Trời! Ảo não những chiều buồn Hà Nội/ Hồn bơ vơ không biết
tựa vào đâu (Trò chuyện).
Nỗi buồn trong thơ Hàn Mặc Tử
là hành trình của cái tôi “đau thương” từ nỗi buồn chia lìa ban đầu: Gió
theo lối gió, mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay/ Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay? (Đây thôn Vĩ Dạ); càng về
sau, nỗi cô đơn, buồn đau càng quằn quại, tuyệt vọng: Gió rít tầng cao
trăng ngã ngửa/ Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô/ Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra (Say trăng)…
Tác giả Nguyễn Bính nghiền
ngẫm nỗi sầu bi phẫn của một cái tôi lỡ dở trong biến thiên thời cuộc. Nguyễn
Bính tự nhận mình là “kiếp con chim lìa đàn”, ra đi “dan díu với kinh thành”
nhưng đơn côi, thất vọng giữa phố thị: Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang/ Phồn
hoa thôi hết mộng huy hoàng/ Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị/ Tôi đã về đây rất vội
vàng (Sao chẳng về đây?). Cái tôi trôi dạt ấy đành tìm về với “thời trước”
trong mộng tưởng nhưng trên con đường về “chân quê” xa lắc, những thôn Đoài,
thôn Đông, làng Vân, làng Đặng… cũng mờ mịt xa: Thôn Đoài thì nhớ thôn
Đông/ Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? (Tương tư)…
Thế Lữ mang nỗi hận của chúa
sơn lâm bị tù hãm “Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt”; Chế Lan Viên có “nỗi buồn
thương nhớ tiếc giống dân Hời”; Lưu Trọng Lư “lịm người trong thú đau thương”,
vương nỗi buồn của tiếng thu tan ra, loang ra trong không gian; Thâm Tâm xoáy
sâu vào nỗi buồn ly biệt ra đi theo tiếng gọi của khát vọng Tống biệt hành …
Tất cả góp nhau tạo nên nỗi buồn Thơ Mới, nỗi buồn một thời thơ Việt.
Tâm trạng buồn là nét phổ biến
ở những nhà thơ lãng mạn 1932 - 1945. Đấy không chỉ là nỗi niềm riêng tư mà đấy
còn là cái bệnh thời đại, nói như Xuân Diệu: “Nỗi buồn đó vốn là nỗi buồn chung
của con người, bọn thi sĩ chúng tôi nhẹ lòng nhẹ dạ nên lĩnh mang giùm tất cả
cho nhân gian”.
Cái buồn trong Thơ Mới là
cái buồn đẹp, thanh khiết và tích cực vì đó là cái buồn của những tâm hồn chưa
khô héo, chưa lạnh nhạt, thờ ơ, phó mặc trước cuộc đời chung. Với nỗi sầu buồn ấy,
các nhà Thơ Mới gởi đến người đọc thông điệp về sự hòa nhập giữa nỗi buồn, sự
cô đơn cá nhân với cuộc đời chung: “Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một
cõi bơ vơ trong đất trời là một khung bơ vơ; chúng ta đồng một bơ vơ với nhau,
vậy thì người cũng bớt bơ vơ một chút” (Xuân Diệu).
Chế Diễm Trâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét