Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2020

Bàn tay cũng là hoa 2

Bàn tay cũng là hoa 2
Nguyễn Bính (1918 - 1966) 
Nguyễn Bính sinh vào năm 1918 với tên thật Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội nay là xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam Ninh nay là tỉnh Nam Định. 
Thuở nhỏ Nguyễn Bính không được đi học ở trường mà chỉ được học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm. Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, lên 10 tuổi đã phải theo anh là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sinh sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà. Năm 13 tuổi ông đã bắt đầu làm thơ và năm 1937 được giải khuyến khích về thơ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi. Những năm đầu thập niên 1940, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào miền Nam và đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết. Năm 1943, Nguyễn Bính lại đi vào miền Nam lần thứ ba và đã gặp Đông Hồ, Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây... Chính vì vậy ông được gọi là "thi sĩ giang hồ". 
Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Nam. Đến năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà Văn ở Hà Nội một thời gian.
Năm 1956, ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ Trăm Hoa và tham gia vào phong trào Nhân văn - Giai phẩm. Đến năm 1958, bị buộc chuyển về tỉnh nhà Nam Định phục vụ trong Ty Văn hoá Nam Định cho đến khi mất. Nguyễn Bính mất ngày 20 tháng 1 năm 1966, để lại cho đời nhiều tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Lỡ Bước Sang Ngang (1940), Tâm Hồn Tôi (1940), Hương Cố Nhân (1941), Mây Tần (1942), Người Con Gái Ở Lầu Hoa (1942), Tình Nghĩa Đôi Ta (1960), Tuyển Tập Nguyễn Bính (1984); kịch thơ Bóng Giai Nhân (1942); truyện thơ Truyện Tỳ Bà (1944)... 
Tống biệt hành (Thâm Tâm) 
Đưa người ta không đưa qua sông 
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thẫm không vàng vọt 
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? 
Đưa người ta chỉ đưa người ấy 
Một giã gia đình, một dửng dưng. 
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ 
Chí lớn không về, bàn tay không 
Thì không bao giờ nói trở lại 
Ba năm mẹ già cũng đừng mong. 
Ta biết người buồn chiều hôm trước 
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt 
Một chị, hai chị cũng như sen 
Khuyên nốt em trai giòng lệ sót 
Ta biết người buồn sáng hôm nay 
Trời chưa vào thu tươi lắm thay 
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt 
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay. 
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật 
Mẹ! thà coi như chiếc lá bay 
Chị! thà coi như là hạt bụi 
Em! ừ xem như hơi rượu cay 
Nguyễn Bính - Hoa với rượu 
Còn ba giờ đồng hồ nữa, chùa Tổ - Chùa Từ Hiếu, Việt Nam - sẽ nổi chuông trống Bát Nhã đón mừng năm mới. Chúng ta vừa được thưởng thức ca khúc do sư cô Quy Nghiêm sáng tác cách đây mười năm. Trong bài hát này có câu rất đáng chú ý: Ta vẫn có ngày mai, ta vẫn còn quá khứ nên hôm nay ta vẫn sống nhẹ nhàng. 
An trú trong giây phút hiện tại là sự thực tập của Làng Mai. Vì an trú trong giây phút hiện, mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong mình và chung quanh mình. Hiện tại được làm bằng quá khứ và cũng được làm bằng tương lai. Hiện tại không có cái ngã riêng biệt nên hiện tại được làm bằng những yếu tố không phải là hiện tại. Do vậy, quá khứ đóng một vai trò khá quan trọng trong sự góp mặt tạo nên hiện tại. Nếu chúng ta chưa có một quá khứ, chúng ta cần xây dựng quá khứ. Bởi bất kỳ người nào cũng cần dựa trên một quá khứ, gia đình nào cũng phải dựa trên quá khứ, dân tộc, đất nước nào cũng phải có một quá khứ để mà dựa. Mình có thể xây dựng một quá khứ vững chắc làm chỗ dựa cho chính bản thân bằng cách sống của mình trong hiện tại. 
Người ta thường nói xây dựng tương lai chứ không ai nói xây dựng quá khứ, tại vì quá khứ đã đi qua, nhưng kỳ thực quá khứ có thể xây dựng được và quá khứ là cái rất cần thiết để làm chỗ nương tựa cho tương lai. Có những người trong chúng ta có quá khứ rất đẹp, chúng ta có một tuổi thơ hạnh phúc với những kỷ niệm êm đềm cùng gia đình và bè bạn. Đó là những người rất may mắn. Nhờ có quá khứ đẹp mà chúng ta có được niềm vui trong hiện tại và niềm tin trong tương lai. Nhưng cũng có những người trong chúng ta kém may mắn hơn, không có được một quá khứ như vậy. Có thể trong gia đình, mình đã phải chứng kiến cảnh ba mẹ, anh chị em làm khổ nhau. Có khi phải chứng kiến gia đình tan nát, chia rẽ. Bạn bè thì thù oán hoặc chơi xấu với nhau. Những nỗi đau đó chúng ta đã mang trong mình, và những vết thương của quá khứ ấy cứ ám ảnh chúng ta, nó như một bóng ma làm cho ta không có khả năng an trú trong giây phút hiện tại và không cho ta xây dựng tương lai một cách dễ dàng. Trong bài hát của Tịnh Thủy có câu: “Ta vẫn có ngày mai, ta vẫn còn quá khứ, nên hôm nay ta vẫn sống nhẹ nhàng.” Câu đó có nghĩa là ngày mai rất có triển vọng nhưng ngày hôm qua của mình cũng đẹp lắm và mình muốn giữ lấy ngày hôm qua để nuôi dưỡng hôm nay và ngày mai. 
Nếu ta không có một quá khứ đủ đẹp, đủ hạnh phúc thì ta phải biết sử dụng hiện tại để xây dựng cho mình một quá khứ đẹp. Nhưng xây dựng quá khứ như thế nào khi quá khứ đã đi qua? Ngày hôm nay, nếu mình sống với nhau hài hòa, an lạc, hạnh phúc, thì ngày hôm nay sẽ trở thành quá khứ của ngày mai. Do vậy, xây dựng quá khứ có thể làm được, và làm được trong hiện tại... 
Khi gặp khó khăn ở hiện tại, nhiều người thường nghĩ về quá khứ để được an ủi: Ngày xưa, thân của mình được như vậy, cảm thọ của mình được như vậy, tâm hành của mình được như vậy, nhận thức của mình được như vậy. Nhưng than ôi, ngày hôm nay, thân xác của mình lại như vậy, cảm thọ mình lại như vầy… Rồi trách móc, than khóc cho số phận mình. Trong bài hát Les Feuilles d’Automne cũng toàn đề cập đến tiếc nuối về những gì đã qua. Cái gì ngày xưa cũng đẹp, còn ngày hôm nay, cái gì cũng thật chán. 
Có rất nhiều người chỉ sống bám vào quá khứ. Họ không có khả năng sống trong hiện tại. Họ không lo xây dựng tương lai. Họ cũng không lo xây dựng một quá khứ mới mà chỉ khư khư ôm lấy cái quá khứ gọi là vàng son của họ. Có thể là chúng ta từng có một quá khứ thật hào hùng mà bây giờ nó không còn nữa, nhưng chúng ta không cần phải tiếc nuối quá khứ ấy vì chúng ta có thể xây dựng một quá khứ còn đẹp đẽ hơn cái quá khứ ngày xưa. Nếu có chánh niệm, chánh định, mình có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, mình có thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, và hạnh phúc hiện tiền này chính là quá khứ của ngày mai. Ta thường nói, “ngày ấy bên nhau”. Nhưng “ngày ấy” là ngày nào? Ngày ấy là ngày hôm nay, và nếu ngày hôm nay, mình biết sống bên nhau có hạnh phúc, ngày hôm nay trở thành một quá khứ thật đẹp. 
Hôm nay, mình sẽ thưởng thức những bài thơ với nội dung xoay quanh vấn đề vừa đề cập. Bài Xuân tha hương được Nguyễn Bính viết cách đây 60 năm, khi ông còn đang ở Huế. Ngày xưa, Nguyễn Bính sống với mẹ ở quê nhà, khi mẹ mất, Nguyễn Bính bỏ quê lên tỉnh thành - Hà Nội - tìm kiếm chút danh, chút lợi. Khi đuổi theo những đối tượng của sự ham muốn không lâu Nguyễn Bính đã nếm đủ mùi đau khổ. Trong những lúc khổ đau ấy, ông nhớ tới quá khứ, và nghĩ rằng chỉ có quá khứ mới đáng để cho mình sống thôi. Trong Xuân tha hương, Nguyễn Bính viết: 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Ôi, chị một em, em một chị 
Trời làm xa cách mấy con sông 
Lúc này Nguyễn Bính đã cùng với một người bạn rời bỏ Hà Nội, đi vào Nam. Sau nhiều tháng sống lăn lóc, rã rời ở Nam, họ trở về Huế. Khi đó Huế đang là mùa mưa, mưa dầm dề, mưa thối đất thối cát, mưa từ ngày này sang ngày khác. 
Trời mưa ở Huế sao buồn thế! 
Cứ kéo dài ra tới mấy ngày 
Mưa ở Huế không phải chỉ vài ngày, mà mưa suốt cả mười mấy ngày luôn, ai đã từng ở Huế thì biết. Với tâm trạng buồn chán, thất vọng, chẳng biết làm gì, đôi bạn dùng rượu để làm vơi bớt đi nỗi khổ đau. 
Hôm qua còn sót hơn đồng bạc 
Hai đứa bàn nhau uống rượu say 
Nón lá áo tơi ra quán rượu 
Chơ vơ trên bến nước sông đầy 
Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả 
Chén ứa men lành lạnh ngón tay 
Không hiểu vì sao đứa lại 
Chung lưng làm một chuyến đi đầy? 
Đây là những kỷ niệm với Huế, năm 1941, và năm 1942, Nguyễn Bính viết bài xuân tha hương để nhớ lại những kỷ niệm này. 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Ôi, chị một em, em một chị 
Trời làm xa cách mấy con sông 
Nguyễn Bính đã cùng một người bạn đi từ Bắc vào Nam, rồi từ Nam trở ra Huế. Huế với Hà Nội cách nhau bởi bảy con sông: sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông Đồng Hới, sông Quảng trị, sông Bến Hải rồi tới sông Hương. 
Em đi dang dở đời mưa gió 
Chị ở vuông tròn phận lãnh cung 
Chén rượu tha hương, trời, đắng lắm 
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông 
Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống 
Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng… 
Mình thưởng thức đoạn ba. 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Chao ơi, tết đến em không được 
Trông thấy quê hương thật não nùng! 
Ai bảo mắc duyên vào bút mực 
Suốt đời mang lấy số long đong! 
Người ta đi kiếm giàu sang cả 
Mình chỉ mơ toàn chuyện viễn vông 
Trong khi mọi người đang lao vào kiếm bằng cấp, đang cố gắng làm giàu còn mình lại từ bỏ tất cả để đi tu đó có phải là đang mơ chuyện viễn vông không? Hãy thử hỏi chính mình, có phải mình cũng giống Nguyễn Bính: toàn mơ chuyện viễn vông, Niết bàn, Tịnh độ xa vời? Người ta đi kiếm giàu sang cả 
Mình chỉ mơ toàn chuyện viễn vông 
Em biết giàu sang đâu đến lượt 
Nợ đời nặng quá gỡ sao xong? 
Chúng ta xuất gia vì một lý tưởng cao đẹp. Chúng ta biết con đường cần đi. Mỗi ngày, chúng ta biết cần làm gì. Mỗi giờ, chúng ta biết cần làm gì. Còn Nguyễn Bính rời quê hương với mục đích kiếm tìm một công danh, một tình yêu nào đó. Và ta biết rõ, công danh và sắc dục chỉ khiến cho người ta thất điên bát đảo mà thôi.
Chỉ cần đọc vài câu, là ta biết được tâm hồn của Nguyễn Bính lúc đó như thế nào. 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Tết này, ô thế mà vui chán 
Những một mình em uống rượu hồng 
Rượu cay nhớ chị hồi con gái 
Thương chị từ khi chị lấy chồng 
Cố nhân chẳng biết làm sao ấy 
Rặt những tin đồn chuyện bướm ong 
Qua những câu thơ trên, ta nhận biết được, những khổ đau, những giận hờn trong chuyện tình yêu của Nguyễn Bính. 
Thôi em chẳng dám đa mang nữa 
Chẳng buộc chân vào sợi chỉ hồng 
Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc 
Chắp nối nhau hoài cũng uổng công! 
Và với giọng rất là chua chát: 
Một trăm con gái đời nay ấy 
Đừng nói ân tình với thủy chung! 
Lúc này Nguyễn Bính không còn có thể tin tưởng được bất kỳ người con gái nào nữa. Bởi họ đã cho chàng leo cây, khiến chàng chật vật, lên xuống thất thường. 
Người ấy xuân già chê gối lẻ 
Nên người nong nả chuyện sang sông 
Sang sông là đi lấy chồng. Đây là cách dùng hình tượng. 
Đò ngang bến dọc tha hồ đấy 
Quý hóa gì đâu một chữ “đồng”! 
Đò ngang bến dọc tức là nếu không lấy được người này thì lấy người khác. Có hơi chút mỉa mai, cay cú, xen lẫn với sự giận hờn những người con gái đã đi qua, và để lại những vết thương cho lòng Nguyễn Bình. 
Vâng, em trẻ dại, em đâu dám… 
Thôi, để người ta được kén chồng 
Thiếu nữ hoài xuân mơ cát sĩ 
Chịu làm sao được những đêm đông… 
(Khốn nạn, tưởng yêu là khó chứ 
Không yêu thì thực dễ như không) 
Đây là tâm trạng của Nguyễn Bính khi tình duyên và công danh sự nghiệp thất bại. 
Chị ơi, tết đến em mua rượu 
Em uống cho say đến não nùng 
Uống say cười vỡ ba gian gác 
Ném cái chung tình xuống đáy sông! 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Sương muối gió may rầu rĩ lắm 
Còn vài hôm nữa hết mùa đông 
Xuân đến cho em thêm một tuổi 
Thế nào em cũng phải thành công 
Dù thất bại ê chề, nhưng vẫn cố bám víu và hy vọng ở tương lai. Xuân đến cho em thêm một tuổi 
Thế nào em cũng phải thành công 
Em không khóc nữa, không than nữa 
Đây một bài thơ hận cuối cùng 
Nguyễn Bính nói rằng, đây là bài thơ than khóc cuối cùng, nhưng sau bài thơ này còn có tới hàng trăm bài thơ than khóc khác nữa. Không than chắc hẳn hồn tươi lại 
Không khóc tha hồ đôi mắt trong 
Bài Hoa với Rượu viết vào tháng Chạp, năm Nhâm Ngọ tức 1942, khi Huế đang chuẩn bị đón tết. Bài Hoa Với Rượu cho ta thấy rõ hơn về thói thường của con người khi gặp khó khăn ở hiện tại đó là tìm về quá khứ để được an ủi. Quá khứ của Nguyễn Bính là mối tình con nít hồi còn sáu bảy tuổi. Ngày ấy, Nguyễn Bính sống với mẹ, và gọi mẹ bằng u. Hàng xóm của Nguyễn Bính là hai chị em cô hàng rượu. Cô bán rượu có một người em gái nhỏ xíu chừng sáu bảy tuổi. Nguyễn Bính thường sang chơi với cô bạn nhỏ này. 
Thấy rét u tôi bọc lại mền 
Cô hàng cất rượu ủ thêm men 
Loại rượu cô hàng bán là rượu nếp. Nó giống như rượu Sake của Nhật Bản. Khi trời lạnh, muốn cho nếp thành rượu dễ dàng hơn cần phải bỏ thêm men. 
Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ 
Say cả tứ mùa cho khách quen 
Cô gái cất rượu để đem bán vào các phiên chợ. Rượu của cô làm cho người ta say sưa, và đặc biệt làm cho khách quen say cả bốn mùa: làm cho họ say mùa xuân, say mùa hạ, say mùa thu, say luôn mùa đông. 
Em nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi 
Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi 
Cô bé Nhi, cô bạn của Nguyễn Bính, trạc tuổi hoặc nhỏ hơn Nguyễn Bính một chút. Hai đứa thường chơi chung với nhau. 
Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ 
Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi 
Mỗi khi đi chợ về, chị của bé Nhi đều mua bánh ú, bánh giò cho cả hai đứa. Lẽ ra thì chỉ mua cho Nhi thôi nhưng có thằng nhỏ hàng xóm hay sang chơi nên chị Nhi mua cho cả hai. 
Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà 
Người ta bắt chước chị người ta! 
Ra vườn nhặt những hoa cam rụng 
Về bỏ đầy nồi cất nước hoa 
Trong vườn của hai chị em cô hàng xóm có nhiều hoa cam đang nở. Và khi hoa cam rụng, chị Nhi hay nhặt lấy hoa cam rồi bỏ vào nồi nấu làm nước hoa. Con nít thấy người lớn làm vậy thì cũng bắt chước làm theo, chúng cũng nhặt hoa cam để nấu nước hoa. Giọng của con nít rất hay, rất ngộ nghĩnh: “Người ta bắt chước chị người ta!” 
Ra vườn nhặt những hoa cam rụng 
Về bỏ đầy nồi cất nước hoa 
Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy 
Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau 
Chúng đùa giỡn với nhau rất ngây thơ và dễ thương. 
Hý hửng bảo nhau: “Thơm đấy chứ 
Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu” 
Chất giọng Bắc rất hay: “Thơm đấy chứ, thấm vào đâu,…” 
Một tối nhà Nhi có giỗ thầy 
Chị Nhi cho uống rượu cay cay 
Cúng bố xong, chị Nhi cho hai đứa ăn, và còn cho uống rượu nữa. Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa 
Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say 
Chị rót cho hai đứa một chén nhỏ xíu, chén nhỏ bằng ngón chân, nhưng tụi nó say chếnh choáng, vì tụi nó đâu có biết uống rượu.
Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài 
Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai 
Hai đứa ôm nhau để ngủ, rất là ngây thơ. Đánh giấc một giấc dài tức là ngủ luôn một giấc dài. Đánh ở đây có nghĩa là liên tục không gián đoạn. 
Chị Nhi cứ chế làm sao ấy 
Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười 
Nghe người lớn chế nhạo, hai đứa trẻ không hiểu gì hết, chúng nhìn nhau cười rất ngớ ngẩn. 
Chị Nhi thường nói với u tôi: 
- “Hai đứa, thưa bà, đến đẹp đôi!” 
U tôi cười đáp ngay như thật: 
- “Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi!” 
Đó là những gì Nguyễn Bính có thể nhớ lại được, là những gì Nguyễn Bính bám vào để sống. Nguyễn Bính cần một chỗ để nương tựa, vì Nguyễn Bính có quá nhiều khổ đau trong chuyện tình duyên. Thuở ấy làm sao thật thái bình 
Trai hiền bạn với gái đồng trinh 
Đời say men rượu thơm hoa rụng 
Tràn những thơ ngây ngập cảm tình… 
Rượu và hoa là hai thứ mà Nguyễn Bính nhớ nhất. Giấc mơ trở về quá khứ là để gặp hoa và rượu ở ngày xuân. 
Ấy thế mà rồi cách biệt nhau, 
Nhà Nhi không biết dọn đi đâu? 
Cuộc đời thật vô thường, hai đứa nhỏ thân với nhau như vậy, hạnh phúc như vậy, mà phải bị lìa xa. 
Mình tôi giời bắt làm thi sĩ 
Mẹ mất khi chưa kịp bạc đầu 
Bỏ lại vườn cam, bỏ mái tranh 
Tôi đi dan díu với kinh thành 
Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới 
Chuốc mãi men say rượu ái tình 
Chàng có số làm thi sĩ, nên muốn tới chốn kinh kỳ để kiếm chút công danh sự nghiệp. Hơn nữa mẹ mất rồi, ở quê cũng chẳng làm gì. Và thi sĩ nghĩ rằng, mình sẽ tìm thấy hạnh phúc nơi kinh thành hoa lệ, nơi ấy sẽ có đủ những điều kiện mà một người con trai mới lớn cần tới. Nhưng sau một thời gian ngắn, Nguyễn Bính biết rằng, nó không hề dễ dàng như mình tưởng tượng. 
Rượu ái tình kia thành thuốc độc 
Vườn trần theo bướm phấn hương bay 
Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc 
Hoa hết thơm rồi, rượu hết cay 
Hoa với rượu là hai biểu tượng của hạnh phúc của nguyễn Bính. Nhưng hoa ngày xưa không còn thơm nữa, rượu ngày xưa cũng không còn cay nữa, nhạt nhẽo vô cùng, thất vọng não nề. 
Trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu 
Ba bốn năm rồi năm sáu năm 
Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại 
Men nồng gạo nếp nước hoa cam
Những thất bại, những khổ đau được diễn tả bằng câu: “trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu”. Còn ai chịu chung với mình đâu? Nhi bây giờ lớn rồi, có thể đã đi lấy chồng rồi, đâu biết mình đang trải qua cơn khổ đau oằn oại như vậy. Mẹ cũng mất rồi. Và vì vậy cảm giác cô độc, lẻ loi càng lớn hơn. Những nỗi khổ đau của mình chỉ mình biết, chỉ mình mình chịu thôi. 
Nguyễn Bính dùng chữ rất hay, rất đơn giản, trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu, ba bốn năm rồi năm sáu năm. Nói thơ như mình nói chuyện bình thường vậy. 
Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại 
Men nồng gạo nếp nước hoa cam 
Khi nhớ lại thời thơ ấu thanh bình hạnh phúc, thì tiếc nuối, đôi khi khóc thầm, khóc vụng. Cũng may mà Nguyễn Bính có một quá khứ của thời thơ ấu để nhớ về, nếu không có quá khứ ấy, chắc sống không nổi. 
Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi 
Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi! 
Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ 
Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi 
Đó là hình ảnh đẹp duy nhất của quá khứ. Nhưng nếu muốn trở về để tìm lại người cũ, thì cơ hội được gặp lại rất mong manh, chắc gì đã gặp được. Lâu quá rồi còn gì, trong thời gian ấy biết bao nhiêu biến cố đã xảy ra, không biết bây giờ người ấy ra sao rồi. Nên đã nói, muộn lắm rồi, xa lắm rồi. Mình đã bỏ lại miền quê của mình, lỡ bỏ thiên đường của mình để đi tìm danh vọng, đi tìm tình duyên ở kinh đô ánh sáng, và làm hình ảnh hạnh phúc của ngày xưa tan biến. 
Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi 
Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi! 
Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ 
Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi 
Thi sĩ đang tưởng tượng, nghề của các chàng là tưởng tượng, các chàng không thể sống trong hiện thực mầu nhiệm. Thi sĩ và nhạc sĩ là như vậy. Cũng như Văn Cao, tác giả bài Bến Xuân, tưởng tượng rằng, nhà tôi bên chiếc cầu ven suối, em đến tôi một chiều… Nhưng anh nào có một chiếc nhà bên suối, để cô nàng tìm tới suối với anh. Nguyễn Bính tưởng tượng: 
Chắc ở nơi nào dưới mái tranh 
Chị em Nhi vẫn sống yên lành 
Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán 
Hồn vẫn trong và mộng vẫn xinh 
Nguyễn Bính tưởng tượng Nhi lớn rồi, có thể bán rượu được rồi, nhưng nàng vẫn còn trong sáng và ngây thơ như ngày xưa. Điều này liệu có xảy ra được không? Hồn của em còn trong không? Mộng của em còn xinh không? Còn hồn tôi đã tan vỡ, đã xấu xí, đục ngầu. Tôi đã đi lên tỉnh thành, tôi đã lăn lóc, và đã thất bại, đã mệt nhoài, tôi đã như muốn chết. Do vậy, tôi vẫn mong rằng em đừng bị như tôi. Tôi muốn em cứ đẹp hoài như ngày xưa, nếu cả tôi và em đều bị cuộc đời làm vẩn đục thì chẳng còn gì để cho tôi bám víu mà sống nữa, lúc ấy chắc chỉ có chết mà thôi. Tôi ước rằng, em còn giữ gìn trong khung cảnh lành lặn của thôn quê, không bị những bụi bặm, những chất độc của kinh thành quyến rũ, làm hư hỏng. Tôi hy vọng rằng, hồn em vẫn trong và mộng của em vẫn xinh. 
Ngày xưa còn bé Nhi còn đẹp 
Huống nữa giờ Nhi đã đến thì 
Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ 
Cho người thiên hạ phải say mê 
Cô bán rượu rất đẹp và còn rất trẻ. Mỗi khi có chợ phiên, đem rượu ra bán, ai trông thấy cô hàng xinh đẹp, tươi mát cũng tới mua rượu. Đây là những câu hỏi tới tấp với cô hàng xinh đẹp: 
Xóm chị em Nhi ở mấy nhà? 
Bến đò đông vắng? Chợ gần xa? 
Xóm em ở có mấy nhà? Xóm em gần bến đò không? Cách bến đò, cách chợ bao xa? 
Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ? 
Vườn có trồng cam, có nở hoa? 
Nguyễn Bính mơ ước, người xưa vẫn còn sống ở trong một khung cảnh yên bình: Có xóm nhà tranh, có chợ phiên, có bến đò gần đó, và vườn nhà của người xưa vẫn còn có hoa cam mỗi độ xuân về. Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng 
Nguyễn Bính mơ mộng, và biết rằng mình mơ mộng. 
Thở vào tôi biết rằng tôi đang mơ mộng 
Thở ra tôi biết là tôi không có thực tế  
Không hẳn thi sĩ không thấy, nhưng sự thật có thể rất phũ phàng. Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng 
Thực ra có phải thế này không? 
Chị Nhi đã lấy chồng năm trước 
Nhi đến năm sau lại lấy chồng 
Hết rồi còn gì nữa mà mong. Biết vậy nhưng vẫn tiếp tục mơ tưởng như thường, vì nếu không mơ tưởng thì chết. Những câu tiếp theo, tác giả vẫn tiếp tục mơ mộng. 
Ước gì trên bước đường lưu lạc 
Một buổi chiều nào gặp gió mưa 
Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ 
Giật mình tôi thấy tiếng Nhi thưa 
Tưởng tượng rằng, mình đơn độc đi trong mưa gió lạnh lẽo, ở miền quê xa lắc xa lơ. Tối rồi mà vẫn chưa có chỗ ngủ trọ. Đánh liều tới ngôi nhà nào đó, rồi gõ cửa. Tác giả giật mình khi nghe tiếng người xưa đáp: Ai đó? Ai đó? Tác giả sung sướng quá. 
Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó 
Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu 
Nước rượu đầu ngon hơn nước rượu thứ hai, thứ ba. Nguyễn Bính được người xưa cho uống nước rượu đầu sau bao năm xa cách. Nhắc chuyện ngày xưa mà thẹn lại 
Nhắc lại chuyện xưa, hai đứa cảm thấy thẹn. Chuyện ngày xưa, hai đứa được chị cho một chung rượu rất nhỏ, hai đứa châu đầu uống chung với nhau. 
Nhắc chuyện ngày xưa mà thẹn lại 
E dè hai đứa uống chung nhau 
Họ nhắc lại chuyện cũ, rồi hai người bắt chước chuyện ngày xưa, rót một chén thôi, rồi uống chung với nhau. 
Tôi kể: “U tôi đã mất rồi, 
Cửa nhà còn có một mình tôi...” 
Mẹ mất, Nguyễn Bính không ở quê, bỏ lên tỉnh. Sống ở tỉnh mười mấy năm, bị gió bụi thị thành làm tan nát cả tâm hồn và thể xác. Nhưng Nguyễn Bính nói dối rằng, mẹ mất, mình vẫn một mình nơi quê nhà. Nói dối để được cô nàng thương xót. 
Ngậm ngùi Nhi bảo: “Không anh ạ 
Anh chẳng lo gì thiếu lứa đôi…” 
Nhi nói với tác giả thế này. 
“Chị em mới lấy chồng năm trước 
Chồng chị trồng cam ở mé sông 
Em ở mình đây nhà trống trải 
Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông...” 
Em ở đây có mỗi một mình, buồn lắm, nếu anh ở lại được thì rất quý. Chị em vừa lấy chồng, bây giờ nhà chỉ còn mình em chăm sóc. Nhà rộng quá, mỗi khi gió lùa vào rất lạnh: trăng đầy ngõ, gió mênh mông,... Tất cả những điều kiện đều rất thuận lợi để mình và người xưa thành đôi. 
Như truyện Tương Như và Trác Thị 
Đưa nhau trở lại đất Lâm Cùng 
Vườn xuân trăng sáng hoa cam rụng 
Tôi với em Nhi kết vợ chồng 
Ngày xưa, có Trác Văn Quân, một người có nhan sắc, rất giỏi văn chương, thơ phú, lại thích nghe đàn. Nàng còn trẻ, nhưng sớm góa chồng nên về sống với cha ở đất Lâm Cùng. Một hôm, có chàng nhạc sĩ tên Tư Mã Tương Như qua thăm, và đã gảy lên khúc đàn Tư Mã Phượng Cầu (Phượng Cầu Hoàng). Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn thì không thể cưỡng lại được sự say mê, nên lén bỏ nhà đi theo Tư Mã Tương Như lên tận thành đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau một thời gian, hai người trở về đất Lâm Cùng, và mở ra một một quán ăn. 
Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo 
Say người thiên hạ lại say nhau 
Rượu của Nhi bán làm say thiên hạ, và làm say cả hai đứa - Nguyễn Bính và Nhi. 
Chiều chiều hai đứa sang thăm chị 
Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu 
Thi sĩ đã tự họa cho mình bức tranh rất đẹp. Dù biết rằng, đó không thật nhưng vẫn phải mơ ước, vì ngoài mơ ước ra đâu còn gì để bám vào mà sống. Nhiều nghệ sĩ đã sáng tác, đã trình diễn, vì họ muốn cống hiến cho mình những ước mơ. Mình cần những ước mơ đó, vì mình có quá nhiều khổ đau, khó khăn, tuyệt vọng. 
Nhưng những bài thơ, những bản nhạc, những cuốn sách, những tác phẩm nghệ thuật đó chỉ có thể giúp mình quên đi trong chốc lát những tình trạng khó khăn, khổ đau trong cuộc sống hiện thực này. Những thi phẩm của Nguyễn Bính cũng không ngoài tác dụng “giảm đau tạm thời” ấy. Rõ ràng, những điều này đi ngược lại với sự thực tập theo tinh thần của đạo Bụt. Sự thực tập của đạo Bụt là lìa bỏ những giấc mơ để đi vào thực tế. Nếu có niệm và định, chúng ta có thể tiếp xúc được mầu nhiệm của sự sống, và thấy rằng, những điều ta cần tìm không cần tìm ở quá khứ hay tương lai xa xôi, nó nằm ngay trong hiện tại. 
Nếu mình tu học nghiêm chỉnh, có sự tu chứng, có kinh nghiệm, có sự hiểu biết về giáo pháp, về sự hành trì thì khi đọc những bài thơ như thế này, mình thấy rất rõ con đường mình đi. Dầu cho mình đọc thơ tình hay chuyện chưởng của Kim Dung cũng vậy, mình không bị những cái đó kéo đi. Cho nên trong đạo Bụt có nói bất cứ cái gì cũng có thể trở thành Phật pháp, có khả năng tưới tẩm hạt giống chánh pháp nơi mình, củng cố ý chí tu học của mình. Thấy rõ tâm người để so với tâm mình; biết con đường người ta đi để thấy rõ con đường của mình đi. Mình đang đi trên con đường rất đẹp, rất sáng, và rất lành. 
Nếu chưa có một quá khứ đẹp ta có thể xây dựng cho mình một quá khứ đẹp. Khi xây dựng quá khứ đồng thời mình cũng đang xây dựng tương lai. Nếu mình biết chăm sóc hiện tại, sống một đời sống thiện lành thì chắc chắn mình sẽ có một tương lai tươi sáng, vững chãi. Vì tương lai được làm bằng chất liệu của hiện tại, điều này không ai có thể phủ nhận được. Và ngày hôm nay sống có hạnh phúc thì ngày hôm nay trở thành quá khứ đẹp của ngày mai. Do vậy, chăm sóc hiện tại tức là đang xây dựng cho mình một tương lai, đồng thời cũng là đang xây dựng cho người mình một qúa khứ. Mình có đủ phương pháp để làm việc đó: khi đi, đứng, nằm ngồi mà biết trở về với giây phút hiện tại tiếp xúc được với những màu nhiệm của cuộc sống, tạo được niềm tin, tình thương, xây dựng tình bằng hữu thì đó là đang chăm sóc hiện tại để làm chỗ nương tựa cho quá khứ và tương lai. Đó là ý nghĩa của câu hát: Ta vẫn có ngày mai, ta vẫn còn quá khứ. 
Khi đau khổ, nhiều người không có một quá khứ để tìm về. Nên họ tìm một nơi nương tựa ở tương lai, bám vào những hứa hẹn nào đó để có thể vượt qua những khó khăn trong hiện tại. Hiện tại với họ vốn là những chuỗi ngày đau khổ, khó khăn, nặng nhọc. Chúng ta có thể tin vào một Thiên đường nào đó, một Tịnh độ nào đó ở trong tương lai để chúng ta có khả năng chịu đựng được hiện tại. Ta ráng chịu đựng để ngày mai ta sẽ được rời bỏ cái cõi đau khổ, bạo động, uế trược này và ta sẽ bước vào cõi thanh tịnh an vui, gọi là Thiên đường hay là Cực lạc.
Theo Làng Mai, mơ ước này có thể là một ảo tưởng, vì ta biết rõ, ngày mai chỉ có thể được làm bằng chất liệu của hiện tại. Hiện tại như thế nào thì tương lai sẽ như thế đó. Vậy nên muốn có một tương lai tươi sáng thì mình phải chăm sóc hiện tại. Hiện tại có bình an, có vững chãi, có tình nghĩa, có nụ cười, có hạnh phúc, chắc chắn tương lai sẽ có vững chãi, sẽ có tình thương, và sẽ có niềm vui. Nhìn vào hiện tại, đánh giá hiện tại, ta có thể biết, mình có tương lai hay không. Do vậy, ta phải biết quản lý hiện tại thật thông minh, để có thể xây dựng cho mình một quá khứ, và cũng xây dựng cho mình một tương lai. Ngoài ra không còn có con đường nào khác. 
Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo, 
Say người thiên hạ lại say nhau 
Chiều chiều hai đứa sang thăm chị 
Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu 
Thi sĩ là nhà ảo thuật. Họ đã tạo ra một khung cảnh lý tưởng, một khung cảnh hạnh phúc mà mình chưa tự tìm được trong giây phút hiện tại. Rồi họ đem bán cho mình. Mình tiêu thụ nó, vì muốn quên đi trong chốc lát những đau khổ da diết của hiện tại. Những nghệ sĩ biết rất rõ điểm yếu này. Đây là điểm yếu của nhiều người, và có thể cũng là điểm yếu của chính họ. Họ ru ngủ mình, và ru ngủ chính họ bằng những tác phẩm nghệ thuật. 
Say người thiên hạ lại say nhau 
Đa số trong chúng ta chỉ có khả năng dệt mộng hoặc trở về bám vào quá khứ. Tưởng tượng ra một tương lai, trong đó mình có hạnh phúc chính là dệt mộng. Bám vào quá khứ để sống cũng là dệt mộng. 
Chao ôi! Là mộng hay là thực? 
Tác giả biết rõ, đó là mộng nhưng phải tiếp tục dệt, vì không dệt thì không sống nổi. Mình dệt mộng để giúp chính mình đỡ khổ, và cũng có thể giúp người khác quên đi một vài giây phút khổ đau thống thiết của họ. 
Chao ôi! Là mộng hay là thực? 
Là thực hay là mộng bấy lâu? 
Hai đứa sống bằng hoa với rượu 
Sống vào trời đất, sống vào nhau 
Trong giây phút hiện tại, mình có thể sống được với những mầu nhiệm của vũ trụ hay không? Mình có thể sống với nhau một cách an lành, người này dựa vào người khác hay không? Mình có thể tạo được tình huynh đệ hay không? Đó là vấn đề. Và tác giả đã kết thúc bài thơ một cách rất tội nghiệp. 
Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi 
Hoa thừa rượu ế, đấy tình tôi 
Sự thật hoa đã thừa và rượu đã ế. Hoa đã tàn, rượu đã chua. Đó là tình trạng của tôi. Tôi biết rõ tình trạng của chính mình. Tôi không muốn gặp lại người xưa, vì gặp, tôi sẽ thất vọng, mộng tôi sẽ tan, và tôi không còn chỗ nào để bám víu. 
Chiều nay tôi chắp tay tôi lạy 
Đừng gặp người xưa nữa, lạy trời 
Thực tế quá phũ phàng. Đó là tình trạng của chúng ta, của rất nhiều người trong chúng ta. Nhưng nhiều người lại nói rằng, các vị đi tu là các vị mơ mộng, các vị sống với ảo tưởng Tịnh độ hay Niết bàn, các vị bỏ lạc thú trong hiện tại để tìm cái lạc thú phi thời. 
Trong kinh Tuổi trẻ và Hạnh phúc, có vị khất sĩ trẻ tên là Samiddhi gặp cô Thiên nữ, cô nói như thế này: “Tại sao còn rất trẻ mà thầy lại bỏ đi tu? Cuộc đời có những vui thú, có những mục đích thiết thực sao thầy không chịu hưởng thụ, mà lại đi mơ tưởng những cái xa xôi như niết bàn, tịnh độ, với giải thoát?”
Trong đời sống hàng ngày, cũng có những cô Thiên nữ tới nói với mình như vậy, nhưng mình đã biết cách trả lời, mình trả lời giống như thầy Samiddhi vậy: Thiên nữ ơi, tôi đang sống rất thực tế đấy chứ. Tôi biết rõ, chạy theo năm đối tượng của dục vọng sẽ làm người ta tan nát cả thân thể lẫn tâm hồn. Do vậy, tôi đã khước từ nó. Tôi không trốn chạy, chính tôi đang thực tập để có thể có những giây phút đích thực của hiện tại, không mơ tưởng về những điều trong tương lai. 
Pháp hiện pháp lạc trú của đức Thế Tôn dạy: Biết sống sâu sắc trong giây phút hiện tại để tiếp xúc với tất cả mầu nhiệm của cuộc sống. Khi có người hỏi như cô thiên nữ nọ, thì mình trả lời: Chúng tôi không mơ tưởng niết bàn, chúng tôi không mơ tưởng tịnh độ trong tương lai. 
Sự thực tập pháp hiện pháp lạc trú giúp chúng tôi sống trong cõi cực lạc ngay trong giây phút hiện tại. Sự thực tập của chúng ta là thiết lập được Tịnh Độ trong giây phút hiện tại. Khi thực tập, chúng tôi xây dựng tình huynh đệ, xây dựng hạnh phúc, xây dựng tình thương và xây dựng sự hiểu biết. Chúng tôi có một con đường, nếu các bạn muốn thì chúng tôi chia sẻ sự thực tập của chúng tôi để các bạn cũng có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm của đời sống hiện tại, để các bạn xây dựng cho các bạn một quá khứ, và để các bạn xây dựng cho các bạn một tương lai. 
31.1.2003 Làng Mai - Pháp 
Hoa với rượu 
Thấy rét u tôi bọc lại mền 
Cô hàng cất rượu ủ thêm men 
Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ 
Say cả tứ mùa cho khách quen 
Em nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi 
Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi 
Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ 
Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi 
Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà 
Người ta bắt chước chị người ta! 
Ra vườn nhặt những hoa cam rụng 
Về bỏ đầy nồi cất nước hoa 
Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy 
Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau 
Hý hửng bảo nhau: “Thơm đấy chứ 
Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu” 
Một tối nhà Nhi có giỗ thầy 
Chị Nhi cho uống rượu cay cay 
Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa 
Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say 
Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài 
Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai 
Chị Nhi cứ chế làm sao ấy. 
Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười 
Chị Nhi thường bảo với u tôi: 
- “Hai đứa, thưa bà, đến đẹp đôi!” 
U tôi cười đáp ngay như thật: 
- “Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi!” 
Thuở ấy làm sao thật thái bình 
Trai hiền bạn với gái đồng trinh 
Đời say men rượu thơm hoa rụng 
Tràn những thơ ngây ngập cảm tình… 
Ấy thế mà rồi cách biệt nhau 
Nhà Nhi không biết dọn đi đâu 
Mình tôi giời bắt làm thi sĩ 
Mẹ mất khi chưa kịp bạc đầu 
Bỏ lại vườn cam, bỏ mái tranh 
Tôi đi dan díu với kinh thành 
Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới 
Chuốc mãi men cay rượu ái tình 
Rượu ái tình kia thành thuốc độc 
Vườn trần theo bướm phấn hương bay 
Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc 
Hoa hết thơm rồi, rượu hết cay 
Trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu 
Ba bốn năm rồi năm sáu năm 
Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại 
Men nồng gạo nếp nước hoa cam 
Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi 
Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi! 
Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ 
Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi 
Chắc ở nơi nào dưới mái tranh 
Chị em Nhi vẫn sống yên lành 
Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán 
Hồn vẫn trong và mộng vẫn xinh 
Ngày xưa còn bé Nhi còn đẹp 
Huống nữa giờ Nhi đã đến thì 
Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ 
Cho người thiên hạ phải say mê 
Xóm chị em Nhi ở mấy nhà? 
Bến đò đông vắng? Chợ gần xa? 
Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ? 
Vườn có trồng cam có nở hoa? 
Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng 
Thực ra có phải thế này không? 
Chị Nhi đã lấy chồng năm trước 
Nhi đến năm sau lại lấy chồng 
Ước gì trên bước đường lưu lạc 
Một buổi chiều nào gặp gió mưa 
Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ 
Giật mình tôi thấy tiếng Nhi thưa 
Ngồi trên lò rượu đêm hôm đó 
Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu 
Nhắc chuyện ngày xưa mà thẹn lại 
E dè hai đứa uống chung nhau 
Tôi kể: “U tôi đã mất rồi, 
Cửa nhà còn có một mình tôi...” 
Ngậm ngùi Nhi bảo: “Không anh ạ 
Anh chẳng lo gì thiếu lứa đôi…” 
“Chị em mới lấy chồng năm trước, 
Chồng chị trồng cam ở mé sông. 
Em ở mình đây nhà trống trải, 
Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông ...” 
Như truyện Tương Như và Trác Thị 
Đưa nhau trở lại đất Lâm Cùng 
Vườn xuân trăng sáng hoa cam rụng 
Tôi với em Nhi kết vợ chồng 
Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo 
Say người thiên hạ lại say nhau 
Chiều chiều hai đứa sang thăm chị 
Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu 
Chao ôi! Là mộng hay là thực? 
Là thực hay là mộng bấy lâu? 
Hai đứa sống bằng hoa với rượu 
Sống vào trời đất, sống vào nhau 
Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi 
Hoa thừa rượu ế, đấy tình tôi 
Chiều nay tôi chắp tay tôi lạy 
Đừng gặp người xưa nữa, lạy trời. 
Nguyễn Bính, 1941
Xuân tha hương 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Ôi, chị một em, em một chị 
Trời làm xa cách mấy con sông 
Em đi trăng gió đời sương gió 
Chị ở vuông tròn phận lãnh cung 
Chén rượu tha hương, trời: đắng lắm 
Trăm hờn nghìn giận một mùa đông 
Chiều nay ngồi ngắm hoàng hôn xuống 
Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng... 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở 
Chị vẫn môi son vẫn má hồng? 
Áo rét ai đen mà ngóng đợi 
Còn vài hôm nữa hết mùa đông! 
Cột nhà hàng xóm lên câu đối 
Em đọc tương tư giữa giấy hồng 
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá 
Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông 
Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết 
Một mình em vẫn cứ tay không 
Vườn nhà Tết đến hoa còn nở 
Chị gửi cho em một cánh hồng 
Tha hương chẳng gặp người tri kỷ 
Một cánh hoa tươi đủ ấm lòng 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng... 
Chao ơi, Tết đến em không được 
Trông thấy quê hương thật não nùng 
Ai bảo mắc duyên vào bút mực 
Sòng đời mang lấy số long đong 
Người ta đi kiếm giàu sang cả 
Mình chỉ mơ hoài chuyện viễn vông 
Em biết giàu sang đâu đến lượt 
Nợ đời nặng quá gỡ sao xong? 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Tết này, ô thế mà vui chán 
Nhưng một mình em uống rượu nồng 
Rượu cay nhớ chị hồi con gái 
Thương chị từ khi chị lấy chồng 
Cố nhân chẳng biết làm sao ấy 
Rặt những tin đồn chuyện bướm ong 
Thôi, em chẳng dám đa mang nữa 
Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng 
Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc 
Chấp nối nhau hoài cũng uổng công! 
(Một trăm con gái đời nay ấy 
Đừng nói ân tình với thủy chung!) 
Người ấy xuân già chê gối lẻ 
Nên càng nôn nả chuyện sang sông 
Đò ngang bến dọc tha hồ đấy 
Quý hóa gì đâu một chữ đồng! 
Vâng, em trẻ dại, em đâu dám 
Thôi, để người ta được kén chồng 
Thiếu nữ hoài xuân mơ cát sĩ 
Chịu làm sao được những đêm đông 
Khốn nạn, tưởng yêu thì khó chứ 
Không yêu thì thực dễ như không! 
Chị ơi, Tết đến em mua rượu 
Em uống cho say đến não lòng 
Uống say cười vỡ ba gian gác 
Ném cái chung tình xuống đáy sông 
Thiên hạ “chi nghinh Nam Bắc điểu” 
Tình đời “Diệp tống lãng lai phong” 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một chút lòng 
Sương muối gió may rầu rĩ lắm 
Còn vài hôm nữa hết mùa đông 
Xuân đến cho em thêm một tuổi 
Thế nào em cũng phải thành công 
Em không khóc nữa, không than nữa 
Đây một bài thơ hận cuối cùng 
Không than chắc hẳn hồn tươi lại 
Không khóc tha hồ đôi mắt trong 
Chị ơi, Em Cưới Mùa Xuân nhé? 
Đốt pháo cho thơm với rượu hồng 
Xa nhà xa chị tuy buồn thật 
Cũng cố vui ngang gái được chồng 
Em sẽ uống say hơn mọi bận 
Cho hồn về tận xứ Hà Đông 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Với lá thư này là tất cả 
Những lời tâm sự một đêm đông 
Thôn gà eo óc ngoài xa vắng 
Trời đất tàn canh tối mịt mùng 
Đêm nay em thức thi cùng nến 
Ai biết tình em với núi sông 
Mấy sông mấy núi mà xa được 
Lòng chị em ta vẫn một lòng 
Tết này chưa chắc em về được 
Em gửi về đây một tấm lòng 
Cầu mong cho chị vui như Tết 
Tóc chị bền xanh, má chị hồng 
Trong mùa nắng mới sầu không đến 
Giữa hội hoa tươi ấm lại lòng 
Chắc chị đời nào quên nhắc nhở: 
- Xa nhà, rượu uống có say không? 
Nguyễn Bính.
Tản Đà - Thề non nước 
Hôm nay, chúng ta sẽ thưởng thức một thi phẩm của thi sĩ Tản Đà - Bài thề non nước. Nội dung bài Thề non nước là lời thề giữa núi và nước, là mối tình, là sự cam kết giữa núi và nước. Đồng thời qua câu chuyện giữa núi và nước, tác giả cũng muốn đề cập đến lời thề giữa hai người thương nhau. Hai người đó có thể là hai cha con, hai mẹ con, hai anh em, hai vợ chồng hay hai thầy trò. Người này nguyền với người kia, hứa hẹn với người kia là không bỏ người kia cho dù biển có cạn đá có mòn. Nhưng vì biến cố nào đó, mà cách xa nhau. Do cách xa nên có sự trách móc, giận hờn. 
Chữ thề trong “Thề non nước” là lời nguyền. Non là núi và nước là sông, là biển. Một điểm rất thú vị ở bút hiệu của tác giả thi phẩm: Tản Đà là từ được ghép từ hai chữ đầu của hai địa danh rất nổi tiếng ở miền Bắc - Núi Tản Viên và sông Đà Giang. Đây cũng chính là quê hương của thi sĩ. Được sinh ra, được lớn lên, được hun đúc bởi khí thiêng của sông núi nơi đây - Núi Tản, sông Đà, đã hình thành trong ông khí phách của người chí sĩ.
Hai câu đầu của bài thơ là: 
Nước non nặng một lời thề, 
Nước đi, đi mãi, không về cùng non. 
Lời thề rất nặng, rất sâu. Mình đem cả trái tim của mình để thệ nguyện, để cam kết. Nhưng mà: 
Nước đi, đi mãi, không về cùng non. 
Tôi rời quê hương năm 1966, và hứa với bạn bè sẽ trở về sau ba tháng. Vậy mà phải ở nơi đây suốt bốn mươi năm. Đọc bài thơ này, tôi thấm lắm. Mặc dù chưa được phép về quê hương, nhưng tôi tìm cách về. Nếu không về quê hương bằng thân xác này, tôi sẽ về bằng con đường tinh thần. Tôi gửi đệ tử xuất gia cũng như đệ tử tại gia từ nhiều nước về. Sách của tôi, đĩa của tôi đã được nhiều người trong nước biết đến. Mặc dù sách, đĩa ấy chưa được phép phát hành công khai trong nước. Đó là một cách về quê hương của tôi. Mình cần nhìn mọi thứ bằng con mắt vô tướng, đừng để kẹt vào hình tướng bên ngoài. Tuy tôi chưa về quê hương bằng thân xác này, nhưng nếu nhìn cho kỹ, tôi đã về rồi. 
Nước non nặng một lời thề. 
Thế mà nước lại cứ đi hoài. 
Nước đi, đi mãi, không về cùng non. 
Trong chúng ta, nếu ai đã từng ở trong trạng huấn ấy, khi đọc bài này sẽ rất thấm. 
Nhớ lời "nguyện nước thề non", 
Nguyện nước thề non là một thành ngữ gốc Hán việt, thệ hải minh sơn. Mình và cô nàng (mình tạm cho núi là anh chàng và nước là cô nàng) đã thề thốt rất sâu nặng với nhau, vậy mà cô nàng đi, đi hoài không chịu về. 
Nước non nặng một lời thề, 
Nước đi đi mãi, không về cùng non. 
Nhớ lời "nguyện nước thề non", 
Nước đi chưa lại, non còn đứng không. 
Non còn đứng không tức là núi đứng chơ vơ một mình. Nước đi chưa lại tức là nước đi chưa về. Khứ và lai, khứ là đi, và lai là trở lại. Núi đứng một mình, và núi nói giọng trách móc. 
Nước đi chưa lại, non còn đứng không. 
Non cao những ngóng cùng trông, 
Mình chưa có hạnh phúc, vì mình luôn có tâm trạng chờ đợi, ngóng trông. Mình nghĩ rằng, khi nào người kia trở về, mình mới được hạnh phúc. Sự chờ đợi, ngóng trông cản trở mình tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang có trong giây phút hiện tại. Có thể nói, cuộc đời mình bị đánh cắp bởi những chuỗi dài đợi chờ. Thật uổng phí. Nói đến sự chờ đợi ngóng trông, người ta nghĩ ngay đến tích Vọng phu. Ngày xưa, có đôi vợ chống rất mực yêu thương nhau. Chồng ra trận, thiếu phụ bồng con, vò võ trông chồng mỗi ngày trên bãi biển. Cuối cùng, nàng và con đã hóa đá. 
Non cao những ngóng cùng trông, 
Những ngóng cùng trông tức là suốt ngày chỉ để tâm vào chuyện nhớ thương, đợi chờ, và trách móc. Cuộc sống của những người như vậy sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Trong chúng ta, người nào sống trong tâm trạng chờ đợi, khổ đau, than trách nên đọc bài này, và chiêm nghiệm cho kỹ. Bởi bài thơ này chứa đựng tuệ giác của đạo Bụt. 
Suối khô giòng lệ chờ mong tháng ngày. 
Tác giả dùng hình ảnh “suối khô giòng lệ” để chỉ sự héo hắt, sự cạn kiệt, vì chờ đợi quá nhiều, khổ đau quá nhiều. Mong chờ mỏi mòn đến nỗi không còn có thể khóc được nữa. Tác giả lại còn cường điệu thêm nữa. 
Xương mai một nắm hao gầy, 
Nhớ thương, chờ đợi đến nỗi trở thành mình hạc, xương mai. Người ta hay nói, buồn như liễu rũ. Bởi cành lá nó mềm, và rũ xuống như người đứng ủ rũ vậy. Buồn thì héo hon, thì gầy mòn đi, gầy như cây mai vậy. Người Việt Nam thường chơi mai vào dịp tết. Người ta chưng nó giữa nhà, hoặc nơi bàn thờ tổ tiên. Cái đẹp của cây mai là ở thế của nó và hoa của nó. Cành mai, thân mai gầy guộc mới đẹp. Người nào mảnh mai, gọi là mình hạc xương mai. Mình hạc, xương mai là hai hình ảnh đẹp. Nhưng hình ảnh xương mai một nắm hao gầy của núi trong bài thơ này cho thấy núi xơ xác quá, xơ xác vì quá nhớ thương. 
Xương mai một nắm hao gầy, 
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương. 
Thường vào buổi tối, những đỉnh núi cao có mây che phủ. Mình có thể nói, ban ngày, mây lang thang dạo chơi khắp bầu trời, tối về, mây lên đỉnh núi ngủ. Do vậy, khi nhìn mây phủ đỉnh núi, thi sĩ nói: Ôi, tóc bạc rồi, nhớ thương quá tóc bạc rồi. Khi nhớ thương nhiều, lo lắng nhiều, đầu mình bạc rất mau. Ngày có nhau, mình hạnh phúc, tóc mình xanh mướt. Bây giờ xa nhau, tóc mình trở nên bạc. Bạc tóc vì nhớ thương. Mình hạc, xương mai, tóc bạc là để nói tới sự nhớ thương của núi đối với nước. 
Trời Tây ngả bóng tà dương 
Triều dương là ánh sáng buổi ban mai, tà dương là ánh sáng buổi chiều. Khi mặt trời đã ngả bóng về phía Tây, ánh sáng vàng vọt phủ lên núi càng làm cho tình trạng của núi trông xác xơ hơn. 
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha. 
Kẻ đợi là núi. Núi có thể là đàn ông, núi có thể là đàn bà. Kẻ đợi có thể là cha, và kẻ ra đi có thể là con; kẻ đợi có thể là mẹ, và kẻ ra đi có thể là con; kẻ đợi có thể là thầy, và người bỏ đi có thể là đệ tử. Tự nhiên, con bỏ thầy ra đi, làm thầy phải thương, phải nhớ, và nếu thầy không thực tập, chắc thầy cũng xương mai một nắm hao gầy như bất cứ ai. 
Trời Tây ngả bóng tà dương, 
Khi trời về chiều, sự sầu muộn, tàn tạ của người ở lại, của người nhớ thương càng tăng. Vì chờ đợi nhiều quá, khổ đau nhiều quá, nét ngọc, nét vàng ngày xưa đã phai mờ, phôi phai. Nhớ thương quá, chờ đợi quá thì đâu còn niềm vui, đâu còn hạnh phúc nữa. Và trời càng về chiều, niềm đau ấy như càng được trông thấy rõ hơn. Thơ như vậy mới đúng là thơ. 
Trời Tây ngả bóng tà dương, 
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha. 
Càng phơi tức là phơi ra rõ hơn, bày ra rõ hơn nét buồn tủi. 
Non cao tuổi vẫn chưa già, 
Tác giả đã dùng nghệ thuật chơi chữ trong câu này. Chữ non có nghĩa là núi, nhưng cũng có nghĩa là trẻ. Mình cũng hay nói, núi thì non, trăng thì già. Tại sao nói vậy? Ca dao Việt Nam có câu: 
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già 
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non. 
Trăng bao nhiêu tuổi thì bị gọi là già? Núi bao nhiêu tuổi còn được gọi là trẻ? 
Non cao tuổi vẫn chưa già, 
Non thời nhớ nước, nước mà quên non. 
Non thời nhớ nước, mà nước nhởn nhơ, chẳng thèm đoái hoài gì đến non. “Có khi Thầy xuất hiện giữa đường con đi, nhưng mắt con vẫn nhìn Thầy như nhìn một người xa lạ.” 
Lời thề non hẹn biển ngày xưa đã bay theo gió mất rồi. 
Nước non nặng một lời thề, 
Non thời nhớ nước, nước mà quên non. 
Ngày xưa mình nói rằng: con quỳ xuống, con cầu mong Bụt và đại chúng cho con được xuất gia, cho con được ở luôn, suốt đời. Cúi đầu xuống con nhận cái y này, đời đời nguyện mang theo. Thế mà mới tu được mấy năm đã bỏ thầy, bỏ chúng mà ra đi. 
Non thời như nước, nước mà quên non. 
Sự than trách, sự sầu muộn được diễn tả qua mười hai câu thơ. Quá nhiều rồi, không thể nào thêm được nữa. Chữ mà được dùng rất thường, nhưng trong bài này nó có ý trách móc rất đậm đà, rất hay. 
Giữa hai người yêu nhau, giữa cha con, giữa mẹ con, giữa những người bạn, giữa thầy trò, giữa huynh đệ với nhau có thể mở ra một lời thề, như lời thề của non và nước: dù núi có cạn, sông có mòn, liên hệ của mình vẫn không bao giờ suy chuyển. Trong bài tựa kinh Lăng Nghiêm có câu: Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước ca la tâm vô động chuyển. Thuấn nhã đa tánh tức là: tính chất của hư không có thể tiêu vong được, nhưng tâm Bồ đề của con sẽ không bao giờ lay chuyển; con sẽ tu hành cho tới khi con thành đạt mới thôi, con sẽ không bỏ Bụt, không bỏ Pháp, không bỏ Tăng. Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng có nghĩa là: hư không kia có thể có được sự chấm dứt của biên giới, nhưng nguyện của con là không có biên giới. 
Dù cho sông cạn đá mòn, 
Còn non, còn nước vẫn còn thề xưa. 
Khi nào anh còn đó, em còn kia, lời thề năm xưa giữa đôi ta vẫn còn giá trị, còn hiệu lực. Nhưng tại sao em nỡ vứt bỏ lời nguyền, đạp lên lời nguyền mà ra đi, mà phụ bạc anh? 
Khi nghe những lời tâm sự đau khổ của núi, thi sĩ can thiệp. Tác giả đưa ngón tay lên, và nói: 
Non xanh đã biết hay chưa? 
Thi sĩ gọi tên núi, và nói: núi xanh ơi, hãy lắng nghe ta nói, đừng có ngồi đó mà than phiền nữa. 
Non xanh đã biết hay chưa? 
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn. 
Nếu quan sát kỹ, mình có thể thấy được người kia sẽ trở về hoặc đã trở về rồi. Do thất niệm, nên mình nghĩ người kia một đi không trở lại, rồi mình sầu, mình khổ, mình than khóc: nước đi rồi, nước đã bỏ mình, nước sẽ không bao giờ trở lại. Mình bị kẹt vào hình tướng, nên không thấy nước đã trở về dưới hình thức khác, có thể là đám mây hay cơn mưa. 
Nhiều người nói rằng, thầy Nhất Hạnh đi bốn mươi năm chưa về. Nhưng tôi đã về rồi, về trong những người đệ tử, về qua những cuốn sách, băng giảng. Nếu nói rằng, thầy Nhất Hạnh chưa về thì còn kẹt vào con mắt hữu tướng. Vậy nên, cần thực tập tam giải thoát môn: không, vô tướng và vô tác, cần áp dụng được nó vào cái nhìn đối với các vấn đề của cuộc sống. 
Sau chuyến về Việt Nam, một số bạn hữu ở Hoa kỳ hay Úc châu có nói rằng: Tuy hình hài Thầy không có ở Việt Nam, nhưng con thấy sự có mặt của Thầy ở Việt Nam rất rõ ràng, đi ra Trung cũng thấy Thầy, đi ra Bắc cũng thấy Thầy, đi vô Nam cũng thấy Thầy. Những người bạn ấy có con mắt vô tướng. Họ có thể thấy được những cái ngoài tướng. Trong kinh Kim Cương, có câu: phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, tức là nơi nào có hình tướng, nơi đó có sự lường gạt. Thi sĩ đã nhìn vấn đề của núi với con mắt vô tướng: Núi ơi, núi đừng than khóc! Nước đã trở về rồi, tại sao núi còn than khóc? 
Nếu có người thân qua đời, mình thường nghĩ, họ đã bỏ mình ra đi vĩnh viễn. Con ơi, sao con bỏ mẹ mà đi? Anh ơi, sao anh bỏ em mà đi, đành đoạn bỏ em mà đi một mình? Người ở lại thường trách móc người quá cố giống như cách núi trách móc nước vậy. Người ở lại đập ngực, bứt tóc, khóc lăn ra, vì họ còn kẹt vào hình tướng. Nếu biết nhìn kỹ, mình có thể thấy được những người thân đã quá cố của mình đang ở trong mỗi tế của mình. Mình có thể nói: ba ơi, con biết là ba đang có mặt trong con, và con đang mỉm cười với ba đây này. Nếu biết nhìn với con mắt vô tướng, mình không còn cảm thấy xa cách với những người đã khuất, mình không còn cảm thấy sầu khổ nữa. Do vậy, người nào mới vừa mất người thương, muốn bớt sầu khổ, phải theo lời khai thị này của tác giả, phải nhìn để thấy rằng không có gì đi, không có gì mất, vô khứ, vô lai, và cái mình tưởng đã mất, kỳ thực nó đang còn ở trong mình. 
Non xanh đã biết hay chưa? 
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn. 
Nước non hội ngộ còn luôn, 
Bảo cho non chớ có buồn làm chi 
Rất từ bi! Nước non hội ngộ còn luôn nghĩa là sự gặp mặt giữa nước và non xảy ra trong từng giây phút. Mình trách móc người kia phụ bạc mình, nhưng kỳ thực người kia đang ở trong mình. Nếu gọi thầy, con tức khắc thấy thầy ngay. Nếu mình gọi mẹ, mình thấy rõ ràng, mẹ đang có trong mình, đang mỉm cười với mình, và mẹ chưa bao giờ chết. Bản chất của đức Thế Tôn là vô khứ, vô lai, bất sinh bất diệt thì bản chất của mẹ mình cũng vậy. Thấy được điều này, mình sẽ thoát khỏi sầu khổ. Điều này cần được khai thị chúng ta mới thấy được hội ngộ còn luôn, Bảo cho non chớ có buồn làm chi. Buồn là kết quả của vô minh. Bởi mình nghĩ, giữa mình và người ra đi có sự xa cách, vĩnh viễn xa cách, nhưng kỳ thực không có gì tới, không có gì đi. 
Nước non hội ngộ còn luôn, 
Bảo cho non chớ có buồn làm chi. 
Câu này chứa đựng tuệ giác của đạo Bụt. 
Nước kia dù hãy còn đi, 
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui. 
Nơi sườn núi có ngàn dâu mọc xanh tốt. Nếu không có nước liệu dâu có mọc tốt tươi được không? Mình tìm nước ở đâu? Nhìn dâu xanh tốt mọc bên sườn núi, mình có thể thấy được nước đang còn ở đây, đang còn ở với mình. Nếu nước không có ở đây, ngàn dâu sao có thể mọc tốt tươi được. Nước vẫn còn đây, sao núi lại trách móc? Nước kia dù hãy còn đi, 
Trên phương diện hình thức, nước đang đi, đang còn đi mãi.
Nhưng trên phương diện nội dung, nước đã về rồi. Ngày hôm qua, thấy nước chảy đi, mình nghĩ, nước đã ra đi. Nhưng thực tế, nước có thể đã trở thành mây đang bay trên đầu chúng ta, nước có thể trở thành mưa đang rơi xuống xung quanh chúng ta, nước đang luân lưu trong ngàn cây nội cỏ tốt tươi. Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui. 
Chữ ngàn này có nghĩa là rừng, rừng dâu. Ngàn dâu xanh tốt là một đối tượng của sự quán chiếu. Nếu nhìn những tướng không phải tướng nước mà thấy được nước trong đó thì mới thực sự là thấy nước. Ví dụ, nhìn vào phô mai (cheese), mình thấy được sữa thì mới giỏi. Còn mình nói, sữa đâu còn nữa, chỉ có cheese thôi thì chưa giỏi. Cũng như nhìn vào nước đá, mình có thể thấy mây. Nếu không có mây, làm sao có mưa, không có mưa làm sao có nước để làm nước đá. Khi nhìn tuyết rơi, mình thấy tuyết đâu phải nước, đâu phải mây, nhưng kỳ thực tuyết cũng là mây. 
Con mắt của người tu là phải nhìn cái này mà thấy được cái khác thì mới hay. Đó là con mắt tương tức. Ví dụ nhìn anh mình, mình thấy ba, thấy mẹ, và thấy mình trong đó. Đó mới là cái nhìn của tuệ giác. Khi giận anh mình, nếu mình nói: anh đi đi, tôi không có dính líu gì với anh hết, chứng tỏ mình chưa có cái nhìn tương tức. Có một người thanh niên giận cha, anh ta nói: ông đó không phải ba của tôi, tôi không có muốn dính líu gì với ổng hết. Nói như vậy là vô minh, là không thấy được mình là ba mình, mình là sự tiếp nối ba của mình. Mình giận cha, giận mẹ cũng như việc nước đá giận mây vậy. Nước đá giận mây là tự giận chính mình. 
Tác giả có rất nhiều tuệ giác. Tác giả mời mình nhìn vào ngàn dâu xanh tốt, nhìn vào rừng dâu để thấy nước trong đó. Núi ơi, xin núi đừng có than phiền, đừng có sầu khổ nữa. Núi hãy vui lên, đừng có chờ đợi nữa, không có sự xa cách đâu. Ba mình, mẹ mình, người thương luôn luôn có mặt trong giây phút hiện tại.
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui 
Và đây là câu kết luận: 
Nghìn năm giao ước kết đôi, 
Non non nước nước không nguôi lời thề. 
Non non nước nước, chỗ nào có non là chỗ đó có nước, chỗ nào có nước là chỗ đó có non, không thể chia tách ra được. Không có gì có thể chia cách thầy trò, cha con, huynh đệ, anh em mình được, khi mình có tình thương đích thực, khi mình có mặt trong nhau. Lời thề đó rất nặng, sự cam kết đó rất sâu xa. Muốn giữ được sự cam kết đó, mình cần phải có tuệ giác. Có tuệ giác, có trí tuệ, mình không sầu khổ, than trách nữa. 
Bài thơ Thề non nước của thi sĩ Tản Đà có tổng cộng hai mươi hai câu, có mười bốn câu than trách, sầu khổ, và tám câu dùng để khai thị. Chỉ với tám câu khai thị, tác giả đã giúp chúng ta biết nhìn mọi vấn đề của cuộc sống bằng con mắt vô tướng, và khuyên chúng ta phải biết sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. 
12.7.2003 Làng Mai - Pháp quốc. 
Thề non nước 
Nước non nặng một lời thề, 
Nước đi, đi mãi, không về cùng non. 
Nhớ lời “nguyện nước thề non”, 
Nước đi chưa lại non còn đứng không. 
Non cao những ngóng cùng trông, 
Suối khô giòng lệ chờ mong tháng ngày. 
Xương mai một nắm hao gầy, 
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương. 
Trời tây ngả bóng tà dương, 
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha. 
Non cao tuổi vẫn chưa già, 
Non thời nhớ nước, nước mà quên non. 
Dù cho sông cạn đá mòn, 
Còn non, còn nước, vẫn còn thề xưa. 
Non xanh đã biết hay chưa? 
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn. 
Nước non hội ngộ còn luôn, 
Bảo cho non chớ có buồn làm chi. 
Nước kia dù hãy còn đi, 
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui. 
Nghìn năm giao ước kết đôi, 
Non non nước nước không nguôi lời thề. 
Tản Đà (1888 - 1939) 
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây; nay là huyện Ba Vì. 
Thân sinh ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, làm đến Án sát và từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có sách ghi là đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi tiếng tài sắc, giỏi văn thơ. Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội, học trường Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi hương ở Nam Định bị hỏng. Năm 1912, đi thi khoa Nhâm Tý vẫn hỏng, chán nản bỏ về Hòa Bình uống rượu, làm thơ và thưởng trăng. 
Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này ông viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đó tư tưởng có nhiều biến chuyển. 
Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện "Thề non nước". Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí. Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà thư điếm, sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục. 
Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ông tổ chức một chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo. 
Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên), sau xuống Hải Phòng, rồi lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ông chuyển sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn. 
Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông), tham gia dịch thuật, viết báo. Sau chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý số Hà lạc. Ông sống nghèo, không đủ trả tiền nhà phải cùng gia đình dọn về phố Cầu mới. 
Trong hai năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng trên báo Ngày nay, trong đó có bài Hoàng Hạc lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu. Ông qua đời vì bệnh vào ngày 17 tháng 6 năm 1939. 
Trên văn đàn của văn học Việt Nam trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước, ông để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại". 
Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường ra thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường hay nhất. 
Tác phẩm gồm nhiều thể loại. Văn: Giấc mộng con I (1917), Giấc mộng con II (1932), Giấc mộng lớn (1932), Thề non nước (1922), Tản Đà văn tập (1932). Thơ: Khối tình con I (1916), Khối tình con II (1916), Tản Đà xuân sắc (1918), Khối tình con III (1932). Kịch: Tây Thi (1922), Tống biệt (1922). Dịch thuật: Liêu Trai chí dị (1934). Nghiên cứu: Vương Thúy Kiều chú giải (1938), Một số bài báo... 
Lưu Trọng Lư - Lẽ nào anh chết 
Truyền thống của Làng Mai là mỗi đêm giao thừa sẽ được nghe đọc thơ và bình thơ. Chúng ta đã từng đọc thơ của Tản Đà, của Nguyễn Bính, của Thâm Tâm, của Thế Lữ và của nhiều thi sĩ khác rồi. Ngày hôm nay chúng ta đọc thơ Lưu Trọng Lư, một bài thơ được viết năm thi sĩ 70 tuổi mà rất ít người biết. Bài thơ này có những suy tư khá sâu sắc về sống chết. 
Chúng ta cũng sẽ đọc một bài thơ nữa mà thi sĩ viết trước khi qua đời chỉ mấy tiếng đồng hồ. Bài thơ đó được coi như tương đương với một bài kệ của một thiền sư sắp tịch. Có nhiều vị thiền sư khi sắp tịch, bảo đệ tử đưa giấy mực, viết một bài hay ba câu, bốn câu gì đó, viết xong, quăng bút rồi tịch. Lưu Trọng Lư cũng có một bài như vậy. Hôm nay chúng ta cũng sẽ có cơ hội đọc bài thơ đó. 
Vào một buổi trưa tháng 7 năm 1991, lúc Lưu Trọng Lư đang nằm trong bệnh viện Việt-Xô ở Hà Nội, các cô y tá chuyền serum và cho thi sĩ hít oxygen. Một cô y tá nói: “Bác ơi bác, khi nào bác khỏe, bác làm cho chúng cháu một bài thơ đi”. Trong nhà thương ai cũng biết Lưu Trọng Lư là một thi sĩ nổi tiếng. Khi ấy, đang truyền nước biển và thở bình oxy, Lưu Trọng Lư vung tay ra viết một bài thơ, trong lúc tay còn đầy dây với dợ. Bài thơ chỉ có bảy, tám câu thôi, nhưng rất thật, có thể nói là một bài thơ thật nhất trong cuộc đời thi sĩ. Lúc đó thi sĩ không còn sợ hãi, không còn phải đối phó với ai nữa. Không cần đối phó với kẻ thù, cũng không cần đối phó với hoàn cảnh, không cần đối phó với một tổ chức chính trị nào nữa hết. 
Lưu Trọng Lư là người Huế, mẹ của Lưu Trọng Lư có nụ cười đen nhánh tại vì thời đó người dân có “mốt” nhuộm răng đem. Quan niệm ngày xưa về cái đẹp rất khác bây giờ, ai mà răng trắng người ta nói trông giống hệt con ma, cho nên phải nhuộm răng cho đen. Mẹ và chị Cầm của tôi ngày xưa cũng vậy, cũng nhuộm răng đen. Nhưng về sau phong trào răng trắng xuất hiện, nên chị của tôi phải cạo cho răng trắng lại, cũng lại do cái mốt mới mà ra. 
Nhà văn Nguyễn Trọng Thuật là một cây viết của tập san Phật học Đuốc Tuệ ở Hà Nội, xuất bản vào những năm 1930. Nguyễn Trọng Thuật có viết một tiểu thuyết Quả Dưa Đỏ, một cuốn tiểu thuyết dã sử nói về An Tiêm, con của vua Hùng Vương, người đầu tiên phát hiện ra trái dưa đỏ, nghĩa là trái dưa hấu. An Tiêm bị đày ra ngoài đảo cho chết nhưng nhờ khám phá ra trái dưa đỏ thành ra có cơ hội sống và cuối cùng được trở về nước. An Tiêm có làm một bài thơ vịnh Quả Dưa Đỏ, quả dưa có ruột rất đỏ và hạt rất đen, bài thơ như thế này: 
Gặp em ngoài cõi biển Đông 
Yêu em vì một tấm lòng thắm tươi 
Răng đen mỉm miệng em cười 
Dẫu trời nóng nực cũng nguôi cơn nồng 
Yêu em anh bế anh bồng 
Nước non ghi nghĩa tao phùng từ đây 
Còn Lưu Trọng Lư thì có một bài nói về nụ cười đen nhánh của mẹ, là bài “Nắng Mới”. 
Nắng mới 
Mỗi lần nắng mới hắt bên song, 
Xao xác gà trưa gáy não nùng. 
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng, 
Chập chờn sống lại những ngày không. 
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời 
Lúc người còn sống tôi lên mười. 
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội, 
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi. 
Hình dáng me tôi chửa xóa mờ, 
Hãy còn mường tượng lúc vào ra. 
Nét cười đen nhánh sau tay áo, 
Trong ánh trưa hè trước dậu thưa. 
Thế hệ của tôi đã được ru bằng thơ của Lưu Trọng Lư, cái lãng mạn này thật nhẹ nhàng thôi. Thơ của Lưu Trọng Lư là thơ tình, thơ mộng và thơ sầu, bất cứ người nào sống trong thời đại đó đều được ru bởi những bài thơ của Lưu Trọng Lư, vì trong chúng ta ai cũng có những hạt giống của tình, của mộng, của sầu cả. 
Ở chùa không đọc và hát những bài thơ và những bài nhạc có tính cách trữ tình, sầu mộng. Nhưng hôm nay là Tết, nên mình cho phép các sư cô, các sư chú được nghe loại thơ, nhạc này. Tôi có chọn được hai bài điển hình của Lưu Trọng Lư nói về tính sầu, tính mộng. 
Sầu Rụng 
Vầng trăng từ độ lên ngôi 
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ 
Để tóc vướng vần thơ sầu rụng 
Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo 
Năm năm tiếng lụa se đều 
Những ngày lạnh rớt, gió vèo trong cây 
Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay 
Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông 
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng 
Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh. 
Tiếng Thu 
Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức? 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ? 
Em không nghe rừng thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô?.
Các vị đã từng nghe qua các bài thơ này rồi, hôm nay cho phép tưới tẩm hạt giống đó trở lại. Những người trẻ, nhất là các cô, các chú chưa bao giờ được nghe, cũng được phép thưởng thức những bài thơ này, đó là thứ thơ và nhạc lãng mạn ngày xưa tôi đã đi ngang qua. Sau đó tôi sẽ nói chuyện thêm về Lưu Trọng Lư thời còn trẻ, thời tham gia kháng chiến chống Pháp và cuối cùng là thời tham gia cuộc chiến có người Mỹ tham dự 
Trong đời sống hàng ngày nếu bận rộn quá, chúng ta sẽ không có cơ hội để nhìn sâu vào sự sống và nhất là sự sống của chính mình. Mình cứ để thời gian đi qua một cách oan uổng, mình lo những chuyện gọi là “thực tế” vì vậy mình không có cơ hội nhìn sâu để thấy được mình là ai? Mình từ đâu tới và mình sẽ đi về đâu? 
Lưu Trọng Lư hồi còn trẻ đã từng mơ mộng, đã từng yêu đương, đã từng sầu khổ. Khi lớn lên đã đi vào thực tế, ông tham gia kháng chiến, trải qua hai cuộc chiến tranh và đến tuổi bảy mươi thì ấn tượng của hai cuộc chiến đó vẫn còn ghi dấu nặng nề trong lòng. Nhưng Lưu Trọng Lư đã có cơ hội nhìn lại cuộc đời mình, đã suy tư và đã có quán chiếu về vấn đề sống chết. 
Chúng ta từng thấy có những vị xuất gia lên đến tuổi bảy mươi mà chưa chắc có được cái thấy bằng cái thấy của Lưu Trọng Lư. Nhiều vị xuất gia chỉ lo làm chùa, lo hoạt động, lo hoằng pháp và không có thì giờ để tu tập, quán chiếu. Cái thấy của Lưu Trọng Lư là cái thấy của người xông pha trong tên đạn, tham dự vào cuộc chiến và đi qua bao nhiêu khó khăn, tủi nhục. Lưu Trọng Lư có một người con trai tên là Nông chết ở miền Nam trong khi tham dự vào cuộc chiến chống Pháp. 
Anh không ngồi đếm bao thu còn lại 
Bao tuần lá đổ vàng rơi 
Khi cánh song anh khép kín cõi đời 
Anh vẫn không tin mình chết
Đến khi hình hài này tan rã rồi, anh vẫn không tin rằng anh sẽ chết. Như vậy có nghĩa là Lưu Trọng Lư đã thấy được tính bất sinh bất diệt của mình. Thi sĩ không tin rằng mình có thể chết được. Nhưng trong cuộc sống, thi sĩ đã có cơ hội để nhìn lại cuộc đời mình, nhìn kỹ sinh tử và có thể thấy được tính không sinh, không diệt ở chiều sâu. Tôi rất mừng khi thấy Lưu Trọng Lư còn có thể làm được bài này khi thi sĩ ở tuổi 70 và càng mừng hơn nữa khi đọc bài thơ cuối cùng, sáng tác trước khi thi sĩ chết mấy tiếng đồng hồ, chứng tỏ thi sĩ đã có sự giải thoát. 
Chúng ta thường nói năm cũ sẽ đi qua để nhường chỗ cho năm mới. Năm cũ sẽ chết để cho năm mới sinh ra nhưng kỳ thực năm cũ không chết, năm cũ được tiếp tục trong năm mới và nếu nhìn vào năm mới cho sâu sắc, ta thấy năm cũ vẫn còn nguyên vẹn trong năm mới. Những gì ta làm trong năm cũ còn y hệt trong năm mới. Như vậy năm cũ không đi đâu hết, năm cũ vẫn còn ở lại với ta. Ngay bốn câu đầu mình đã thấy con người này có bản lãnh. 
Anh không ngồi đếm bao thu còn lại 
Bao tuần lá đổ vàng rơi 
Khi cánh song anh khép kín cõi đời 
Anh vẫn không tin mình chết 
Khi chia tay không cất lời vĩnh biệt 
Buổi giao ban không đứt đoạn đường dây 
Trong gian nan ta gọi thép sáng ngời 
Giữa đối thoại ngày mai ta sẽ không vắng mặt 
Vào giây phút phải chia tay, tôi sẽ không nói vĩnh biệt, tôi chỉ nói: see you again (hẹn gặp lại). Vĩnh biệt có nghĩa là không bao giờ lại gặp lại nhau nữa nhưng đây không phải là vĩnh biệt. Mình sẽ gặp nhau nơi suối nguồn, mình sẽ gặp nhau khắp nơi trên mọi nẻo đường. Hãy cười cùng tôi, hãy nắm tay tôi, 
Hãy vẫy tay chào để rồi tức thời gặp lại. [1] 
Vì vậy, nếu khi chia tay không cất lời vĩnh biệt là bởi không có sự biệt ly. Tôi với anh, tôi với em sẽ mãi mãi ở bên nhau, trong em có tôi và trong tôi có em, không có sự chia ly, xa cách. 
Buổi giao ban không đứt đoạn đường dây 
Có một thời khắc gọi là giao thời giữa năm mới và năm cũ, nhưng không có sự đứt đoạn, tại vì năm cũ tiếp tục trong năm mới cho nên chữ vĩnh biệt không còn có nghĩa. Giờ phút mình gọi là chuyển tiếp, không phải là giờ phút biệt ly. 
Trong gian nan ta gọi thép sáng ngời 
Giữa đối thoại vào ngày mai ta sẽ không vắng mặt 
Khi lâm vào thế gian nan, một thế cờ cần phải tranh đấu, thì mình cần có một lưỡi gươm, lưỡi gươm của trí tuệ, lưỡi gươm của ý chí. Tôi sẽ có mặt và hình hài mà anh thấy đây tuy sẽ tan rã nhưng tôi sẽ vẫn có mặt trong ngày mai. Cuộc đối thoại vẫn còn tiếp tục giữa con người với con người. Và Lưu Trọng Lư hiện đang có mặt trong giờ phút này với chúng ta. 
Bão gió ba mươi đầu cành vẫn trong tiếng hót 
Ôi mẹ! Với mây xanh, sao biếc, nắng vàng 
Tơ rút ruột, kén thời gian tằm lót ổ 
Cho trời, cho đất một tình thương 
Ba mươi năm chiến tranh, ba mươi năm bão tố, giờ đây đầu cành vẫn vang lên tiếng con chim nhỏ đang líu lo, bông hoa vẫn chưa ngưng lời hát ca. 
Đứng yên ngoài hàng dậu 
Em mỉm nụ nhiệm mầu 
Lặng nhìn em kinh ngạc 
Vừa thoáng nghe em hát 
Lời ca em thiên thâu 
Ta sụp lạy cúi đầu [2] 
Bông hoa nhỏ bé mà ta thấy ngoài hàng dậu ấy đang tiếp tục hát bài thiên thu. Con chim nhỏ đậu đầu cành kia dầu có trải qua ba mươi năm bom đạn vẫn còn vang tiếng hót. 
Tơ rút ruột, có nghĩa là tôi vẫn còn làm thơ, làm thơ trong bão tố, làm thơ trong chiến tranh, làm thơ trong hy vọng, làm thơ trong tuyệt vọng. Giống như con tằm luôn luôn rút ruột ra để làm sợi tơ óng ánh kết thành tổ kén. Thơ của tôi với sợi tơ vàng óng ánh cùng với mây xanh, sao biếc, nắng vàng là để hiến tặng cho trời cho đất một tình thương. Nhiệm vụ của tôi là chế tác tình thương, hiến tặng tình thương cho cuộc đời. Đây đích thực là một thi sĩ, là một chiến sĩ mà cũng là một đạo sĩ. Nếu cần phải tranh đấu thì ta là người chiến sĩ, nếu cần ca hát thì ta là người nghệ sĩ và nếu cần tình thương thì ta là nhà đạo sĩ chế tạo tình thương. Nhà đạo sĩ là người hiến tặng tình thương, tình thương là cái mà con người đang cần. 
Đâu phải anh vào nơi bất diệt 
Vì trăm năm sau 
Cô bé nào bên cầu ao 
Chợt ngâm đùa mấy câu thơ anh, vơ vẩn 
Nói như vậy không có nghĩa là tôi sẽ đi vào một nơi gọi là Niết bàn, gọi là bất diệt, tách rời ra ngoài sự sống. Niết bàn, bất sinh bất diệt nằm ngay trong sự sống. Ta Bà là Tịnh Độ, Sinh Tử tức Niết bàn. 
Tôi không mơ ước một cõi Niết bàn, một cõi vô sinh bất diệt tách rời ra khỏi sự sống, tại vì tôi biết rằng sự sống có sinh có diệt, nó chứa đựng niết bàn trong nó và không có sự phân biệt giữa niết bàn bất diệt với sự sống có sinh diệt. Tìm niết bàn ngay trong sinh tử. 
Trăm năm sau, khi hình hài tôi tan rã, có những cô bé quê ở bên bờ ao sẽ ngâm nga một vài câu: 
Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức. [3] 
Đó là sự tiếp nối của tôi, cô bé đó là tôi. Thơ tôi và người đọc thơ tôi vẫn còn mãi mãi. Lưu Trọng Lư thấy được sự tiếp nối của mình ngay khi hình hài ông chưa tan rã. Chúng ta là người đã từng nghe pháp thoại nhiều lần về đề tài sinh tử, chúng ta là người đã được hướng dẫn ngồi thiền, nhưng chúng ta có được một cái thấy như Lưu Trọng Lư hay chưa? Hay tại quá bận rộn trong đời sống hàng ngày, chúng ta không có cơ hội để nhìn, để thấy?
Anh biết rồi mắt anh sẽ tan thành bụi phấn 
Nhưng em có hay hạt bụi mắt anh 
Là con thương của giọt nắng rơi tự trên cành 
Và của hạt sương tự đất đen tụ lại? 
Cái gì mà không trở thành cát bụi nhưng cát bụi này lại trở thành quí giá. Sau này hình hài anh tan rã, mắt anh trở thành bụi phấn nhưng những hạt bụi phấn ấy cũng là đứa con thương mến của giọt nắng rơi từ trên cành. Tất cả đều tương tức. Những bụi phấn rơi từ con mắt cũng là đứa con thương của những hạt sương từ đất đen tụ lại. Mắt là tứ đại: đất, nước, lửa và gió. Tai cũng là tứ đại, nhưng trong văn học đạo Bụt mắt đại diện cho sáu căn vì mắt luôn luôn đi trước (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Mắt của anh khi rơi xuống cũng sẽ trở thành bụi vàng và tai khi rơi xuống cũng sẽ thành bụi vàng. Bụi vàng đó cũng là đứa con thương của ánh sáng mặt trời từ trên rơi xuống, cũng là con thương của những hạt sương từ đất nâu kết tụ lại. Mắt của anh sẽ không bao giờ mất. 
Hôm nay chúng ta ngồi đây trong giây phút chờ đợi giao thừa và đọc thơ của Lưu Trọng Lư. Đọc với tính cách quán chiếu, đọc ngay trong lòng, trong cơ thể của mình. 
Còn say, còn mơ, còn luân hồi mãi mãi 
Bụi phấn vẫn bay đi cướp lửa những sao trời 
Để sưởi nồng mảnh mảnh trăng rơi 
Và chút chút nhen hồng trong mắt người bất hạnh 
Luân hồi nghĩa là sự tiếp nối, nghĩa là không có sự đứt đoạn, nghĩa là không có sự chấm dứt. Bụi phấn kia rơi từ mắt anh, đi luân hồi với tính cách của thơ, của mộng, của tình thương, tác hợp với ánh lửa sao trời để sưởi nồng mảnh mảnh trăng rơi và chút chút nhen hồng trong mắt người bất hạnh. Có những con người không may, có những em bé đói, những người già không ai chăm sóc, có những người đang bị giam cầm, có em bé mất cha, mất mẹ. Những người bất hạnh đó cần có tình thương, cho nên bụi vàng trong mắt anh sẽ tiếp tục làm trong công việc đó với thơ, với mộng, với tình thương. Nếu chút thương còn vương trên mẩu bánh 
Chút đau còn vướng áo chưa lành 
Bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh 
Bụi mắt anh, cả hồn anh khắp trời bủa lưới 
Mẩu bánh đây tức là bát cơm nguội, miếng bánh mì khô mà em bé đói đang mơ ước. Em bé cầm cái bát sứt mẻ trong tay chờ đợi giờ này sang giờ khác mà không có được một muỗng cơm, một miếng bánh nào. Em bé đứng trong trời lạnh căm căm không có một manh áo che thân. Chút đau đó, chút thương đó làm động trái tim mình và thơ trong lòng mình được xúc tác tạo ra trong lòng mình chút yêu thương, chút từ bi. 
Bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh 
Bụi mắt anh, cả hồn anh khắp trời bủa lưới 
Khi bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh này thì thơ của anh vẫn tiếp tục làm công việc xúc tác chất tình thương, chất hiểu biết trong con người. Bụi vàng rơi từ mắt anh khi thân xác này tan rã cùng với tâm hồn anh sẽ bủa lưới khắp trời, bủa lưới tình thương để chăm sóc và bảo hộ cho hành tinh này, để lo lắng cho những người bất hạnh. 
Sau khi hình hài tôi tan rã thì thơ tôi, tình thương tôi, những hạt bụi rơi xuống từ cơ thể tôi sẽ cộng tác với tất cả tâm hồn tôi để bủa thành tấm lưới để che chở, để ngăn ngừa không có cho tàn ác, bất công và bạo động hoành hành trên hành tinh này. 
Xin cảm tạ ngọn sóng lòng vừa tới 
Giữa dòng thơ trên tờ giấy trắng tinh 
Khi mình có một ít cảm thọ, một ít xúc động, ngọn sóng lòng đưa tới sẽ biểu hiện thành một câu thơ trên tờ giấy trắng. 
Và bâng quơ tiếng gió trên cành 
Xua chút lạnh bên bờ cây còn sót lại 
Có tiếng gió trên cành bâng quơ và tiếng gió đó sẽ giúp cho hình hài tôi tạo thành sức ấm để có thể xua bớt cái lạnh còn sót lại bên bờ cây. 
Có nhạc nào bằng khúc nhạc ấy 
Của lời trao tiếng gởi giữa con người 
Khi giữa những con người với nhau có sự đối thoại, có sự truyền thông, có nhạc, có thơ, có sự tìm hiểu nhau thì không có khúc nhạc nào hay bằng khúc nhạc của sự đối thoại, của sự truyền thông đó. Con người phải tiếp tục truyền thông với nhau, trao đổi, cười nói và chia sẻ với nhau. Đó là khúc nhạc hay nhất trong tất cả các bản nhạc. Trong nhạc khúc đó, thơ là phương tiện lớn, thơ thiết lập sự truyền thông, thơ lấy đi những hiểu lầm, thơ lấy đi những hận thù, thơ thiết lập sự thương nhau và hiểu nhau. 
Có nhạc nào bằng khúc nhạc ấy 
Của lời trao tiếng gởi giữa con người 
Cũng bấy nhiêu tiếng khóc tiếng cười 
Mà vàng ngọc trên thế gian không sánh nổi 
Chỉ cần tiếng khóc, tiếng cười, chỉ cần phương tiện truyền thông, mà không có vàng nào, ngọc nào trên thế gian có thể sánh nổi. Không gì quí bằng sự truyền thông giữa con người với con người mà ngày mai phải tiếp tục và tôi sẽ có mặt với các vị. 
Ta chẳng bao giờ tiếc nuối 
Những giọt nước mắt đổ ra 
Vì một ý đẹp, một cành hoa 
Hay vì một nỗi đau bên đường đụng phải 
Trong thơ ta đã cười, ta đã mơ nhưng ta cũng đã khóc và ta không tiếc rằng ta đã khóc tại vì tiếng khóc đó cũng là một phương tiện để truyền thông. 
Có một ý đẹp, ta có thể khóc, khóc vì nó quá đẹp. Đó là những giọt nước mắt của sự cảm động. Có phải mình chỉ khóc khi mình khổ đau? Mình cũng khóc khi thấy đất trời quá đẹp, khi thấy tình người quá đẹp, những giọt nước mắt đó có khả năng trị liệu, làm lành thương tích nơi mình và nơi người. 
Thấy một cành hoa đẹp quá mình cũng có thể khóc được. Thầy Giác Thanh, đệ nhất trụ trì của tu viện Lộc Uyển kể rằng có một hôm thầy đi vào trong núi, thầy thấy rất nhiều hoa nở vào mùa Xuân, thầy quỳ xuống, chắp tay lại và khóc.
Tại sao khóc? Tại sao phải quỳ xuống? Tại vì thầy thấy được những cái hết sức mầu nhiệm của đất trời. 
Vì một ý đẹp, một cành hoa 
Hay vì một nỗi đau bên đường đụng phải 
Anh hùng gặp chuyện bất bình không thể nào bỏ qua được. Khi trông thấy sự bất bình, những bất công, những thương đau, thì mình sẽ luôn luôn lấy thơ ra để đáp ứng. Thơ của mình là tình thương, thơ của mình là sự hiểu biết. 
Có những hoàng hôn kia tan xóa mờ chân sói 
Giữa nơi đây ta chong sáng ngọn đèn 
Bóng tối không cho chúng ta nhận diện được loài lang sói đang có mặt. Ta giữ ngọn đèn của ta cho thật sáng, đừng để bóng tối tràn ngập, đừng để cho những loài ma quái xâm chiếm cuộc đời ta. Giữ cho ngọn đèn của mình sáng chói để thấy, biết những gì đang xảy ra. Những con chó sói sắp ùa vào, tức là những mê mờ, thù hận bắt đầu biểu hiện trong tâm ta thì lúc ấy ta thắp lên một ngọn đèn chánh niệm đó là công việc rất là cần thiết. 
Giữ mãi hồn thương, sắc mơ còn đỏ mãi 
Dầu mơ kia chưa trọn nở trước thềm 
Bổn phận của chúng ta là luôn nuôi dưỡng hồn thương, nuôi dưỡng bồ đề tâm. Những mơ ước của mình phải được giữ gìn đừng để cho chúng chết. Mơ ước gì? Mơ ước một ngày kia, nhân loại biết thương nhau, biết nắm tay nhau và tha thứ cho nhau. Thà là tôi bị lừa gạt còn hơn tôi bị mất niềm tin nơi con người. Dầu tôi có ngây thơ, tôi có bị lừa gạt, tôi vẫn muốn chấp nhận điều đó hơn là tôi nghi ngờ con người. Thành công của Lưu Trọng Lư là ở chỗ vẫn còn niềm tin nơi con người. Chừng nào bạn hết niềm tin nơi con người thì chừng đó bạn sẽ chết. Mình phải tin rằng trong mỗi con người đều có Phật tính mà Phật tính đó không bao giờ có thể tiêu diệt được. Dầu con người có độc ác, có nham hiểm nhưng mình vẫn tin rằng con người ấy một ngày nào đó sẽ vươn lên. 
Tình thương và mộng ước, mộng ước này trong đạo Bụt gọi là đại nguyện. Nếu không có đại nguyện thì không có sức sống, còn nếu không có đại bi thì không có hạnh phúc. Đại bi và đại nguyện là hai cái mình phải nuôi dưỡng trong đời sống hàng ngày. 
Giữ mãi hồn thương, sắc mơ còn đỏ mãi. 
Đỏ mãi tức là còn cháy mãi như là một ngọn đèn. 
Dầu mơ kia chưa trọn nở trước thềm 
Có hạnh phúc nào như hạnh phúc niềm tin 
Dầu mơ ước của mình mới thực hiện được một phần, một phần rất nhỏ, nhưng mình vẫn giữ được niềm tin và tình thương đó. 
Chừng nào niềm tin không còn là mình sẽ chết. Ngày nào mình còn giữ được niềm tin, ngày đó mình vẫn còn năng lượng để sống: “Đã có đường đi rồi, con không còn sợ nữa”. Niềm tin là năng lượng giúp ta đi tới. 
Vẫn như thuở nào tóc để lơi chiếc lược 
Cho mắt anh lại được gặp mắt em 
Cho hai tia lửa nhỏ hồng thêm 
Ngày xưa khi còn trẻ, anh hai mươi tuổi, em mười chín tuổi, chúng ta còn rất ngây thơ, tuy rằng ngây thơ như vậy nhưng chúng ta có niềm tin nơi nhau và muốn làm sao để cho niềm tin đó còn mãi cho dù mình lớn lên, 30 tuổi, 50 tuổi, 70 tuổi hay 90 tuổi. 
Gà ban mai mỗi ngày còn đập cánh 
Thì ai tắt được lửa bình minh 
Gà là con vật thức dậy sớm nhất, những con gà trống buổi sáng nào cũng đập cánh kêu ò ó o o o… Thời kháng chiến, nhất là ở miền quê, làm gì có đồng hồ nên sáng tinh sương mà còn nghe gà gáy thì đó là một tin mừng: 
Gà ban mai vẫn còn đập cánh, 
Thì ai tắt được lửa bình minh? 
Không ai thể có ai tắt được lửa bình minh. 
Khi tim anh còn chan chứa ân tình 
Lẽ nào em tin rằng: Anh sẽ chết? 
Trái tim của anh còn đầy dẫy ân tình thì làm sao anh có thể chết được. Thành ra cái chết là cái mình có thể vượt thắng. Cái chết không có, chỉ có sự tiếp nối thôi, cho nên tới tuổi bảy mươi, tám mươi mình vẫn giữ được niềm tin và tình thương trọn vẹn. Làm sao nói là mình chết được? Lưu Trọng Lư bằng cách sống của mình đã tìm thấy được chân lý vô sinh bất diệt, thấy rằng không có cái chết và nhờ đó thi sĩ đánh bại cái chết. Đó là đỉnh cao của Lưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư từ “Em không nghe mùa Thu dưới trăng mờ thổn thức” cho tới Lưu Trọng Lư của tuệ giác, của sự vượt thoát sống chết. 
Và tiếp theo đây tôi xin đọc bài thơ cuối cùng của nhà thơ Lưu Trọng Lư. Khi cô y tá chưa kịp lấy cây kim ra, sợi dây truyền serum vẫn còn đó nhưng thi sĩ nhất định kêu cô y tá đưa cho ông ta cây bút để thi sĩ viết bài thơ cuối cùng. 
Trời đã về chiều. 
Chiều này không phải là chiều ở bên ngoài. Đó là chiều ở trong lòng, thi sĩ biết là thân hình mình sắp tan rã. 
Buồn tà, vơ vẩn tà. 
Tà tức là buổi chiều nghiêng nghiêng, có cái buồn, có cái vơ vẩn và ta đi tìm ai bây giờ? Cố nhiên cuộc sống là một cuộc đi tìm, một cuộc đi tìm không ngưng nghỉ. Chúng ta ai cũng là người đi tìm cả và cuộc tìm kiếm đó không bao giờ chấm dứt. Cho đến giờ phút chót, vẫn thấy rằng mình phải đi tìm nhưng mà tìm ai? 
Ta đi tìm ai bây giờ? 
Và ai tìm ta nổi? 
Rất là lạ, mình cũng đang đi tìm mà mình không biết có tìm được hay không? Có thể có người đang đi tìm mình và không biết người đó có thể tìm được mình hay không? Khi đọc đến đây thì mình thấy được giáo lý về Bất khả đắc. Bất khả đắc là không nắm bắt được. Có một lần khi thầy A Nậu La Độ đang đi khất thực thì bị một số thầy ngoại đạo chận lại rồi nói: huynh phải trả lời cho chúng tôi vài câu hỏi về giáo lý. Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt rồi thì Ngài còn hay là Ngài không còn? hay là Ngài vừa còn vừa không còn? hay là Ngài vừa không còn cũng không không còn? Huynh phải trả lời cho chúng tôi trong phạm vi bốn mệnh đề đó: 
Đó gọi là tứ cú. Huynh không thể nào thoát ra khỏi bốn phạm trù đó được. Huynh phải trả lời là Bụt sau khi chết thì là Bụt nằm vào trong cái box nào của bốn cái box đó, bốn khái niệm đó? Thầy A Nậu La Độ nói: Theo như tôi hiểu thì đức Thế Tôn không bao giờ nói đến sự có mặt của Ngài trong bốn phạm trù như vậy. 
Trong khi đi về, thầy A Nậu La Độ nghĩ rằng có thể là mình sẽ tiếp tục gặp những người du sĩ ngoại đạo như thế, và họ sẽ hỏi mình câu đó nhiều lần nữa và mình làm sao để trả lời được cho đúng ý của đức Thế Tôn. Cho nên thầy mới tới thăm Bụt và kể lại câu chuyện mình đã gặp những du sĩ ngoại đạo như thế nào và nhờ đức Thế Tôn cho mình một câu trả lời. 
Đức Thế Tôn nhìn thầy A Nậu La Độ cười và nói rằng: Thầy có thể tìm Như Lai trong sắc hay không? 
Thầy A Lậu Na Độ: Đâu được, đâu có thể nhận diện đức Như Lai qua sắc được, tại đức Như Lai vượt thắng, vượt qua sắc, không kẹt vào trong sắc. 
Đức Thế Tôn: Như vậy có thể nhận thức được Như Lai qua thọ, qua tưởng, qua hành, qua thức được không? 
Thầy A Nậu La Độ: Không được, cũng không thể nhận thức được Như Lai qua thọ, tưởng, hành thức. 
Rồi đức Thế Tôn nói: Như vậy có thể nhận diện Như Lai ngoài sắc được không? 
Thầy A Nậu La Độ: Không được, không thể nhận diện Như Lai ngoài sắc được. 
Bụt cười: Như Lai đang ngồi sờ sờ đây mà thầy tìm Như Lai còn không được, huống hồ là sau khi sắc thân Như Lai tan rã! 
Như Lai không phải là một đối tượng có thể nắm bắt được bằng cái trí năng của mình. 
Ta đi tìm ai? 
Ai tìm ta nổi? 
Có thể ta có người yêu và người đó đang muốn nắm ta, muốn bắt ta. 
Biết ta là ai nhưng ai tìm ta nổi? 
Tự thân của Lưu Trọng Lư bao giờ cũng mầu nhiệm như tự thân của đức Như Lai, tự thân một chiếc lá hay một đám mây. Chúng ta không thể nắm bắt được một chiếc lá hay một đám mây bằng trí năng của ta được. Cái đó gọi là vô khả đắc, vô đắc, bất khả đắc. Làm sao mà Lưu Trọng Lư đạt tới được cái thấy này? Lưu Trọng Lư học được cái này ở chỗ nào? Cố nhiên là Lưu Trọng Lư đã từng đi chùa, có thể là đã được nói chuyện với các thầy. Thi sĩ đã có cơ hội chiêm nghiệm, để mà nhìn sâu vào trong bản chất của sự sống. Bài thơ này là bài thơ thật nhất trong tất cả các bài thơ tại vì lúc đó thi sĩ đã gần chết rồi. 
Bài thơ này không phải làm ra để tặng cho các cô y tá. Các cô y tá lúc đó sức mấy mà hiểu được bài thơ này! Bài thơ này là để cho chúng ta, ngày hôm nay ngồi ở Lộc Uyển. 
Ta đi tìm ai bây giờ? 
Ai tìm ta nổi? 
Mà ai tìm ta nổi và người ta đi tìm ta cũng không nắm bắt được nhưng ước muốn đi tìm vẫn còn đó. Có một thao thức muốn đi tìm, nhưng tìm bằng cái gì? Tìm bằng trí năng của mình hay tìm bằng trái tim của mình? 
Ngày xưa đức Thế Tôn nói rằng: Với cái trí năng của mình và bốn mệnh đề: có, không, có và không, không có cũng không không ta không thể nắm bắt được cái gì hết. Ai tìm ra mình được và mình có thể tìm ra được ai? 
Ai tìm cho nổi? 
Có thể người yêu ta đang đi tìm ta nhưng người yêu ta cũng không tìm ra ta được. Mà cảnh sát công an có muốn tìm ta thì cũng không tìm ra ta được; sức mấy mà cảnh sát công an có thể tìm ra được ta. Họ có thể tìm ra được bóng dáng, có một khái niệm về ta rằng ta là người ngay hay kẻ gian, nhưng không ai có thể tìm ra chân tướng của ta, tìm ra chân như của ta. Với trí năng đó không ai có thể nào tìm ra ta được, tìm Bụt không được mà tìm Lưu Trọng Lư cũng không được, tìm một tờ lá hay một đám mây cũng không được. 
Ta đi tìm ai bây giờ? 
ai tìm ta nổi? 
trăm khóa không giữ lấy ta 
Trăm khóa tức là một trăm cái xiềng, một trăm cái xích. Một trăm cái khóa cũng không giữ được ta, dù đó là kẻ thù hoặc dù đó là người thương cũng không thể nào khóa được ta. Ta đã trở thành con người tự do rồi, không cái gì có thể xích ta lại được. Và nếu các ngươi đi tìm ta bằng khái niệm của các ngươi, bằng những nhãn hiệu, những cái mũ chụp lên ta thì không bao giờ tìm thấy được ta hết. Trăm khóa không giữ nổi ta, tại vì ta đạt tới tự do rồi. 
Ta như con chim giữa trời 
Vô ích, vô ích, vô ích
Trong bài thơ này có đến sáu chữ vô ích. Chữ vô ích đó mình có thể hiểu theo nhiều cách. Tất cả những cái mình chạy chọt tìm kiếm, những cái mình đang tranh đấu, lùng bắt, theo đuổi đều là vô ích cả. Đây là cơ hội để chúng ta nhìn lại. Chúng ta đã và đang chạy theo cái gì? Chúng ta đã và đang mơ ước cái gì? Chúng ta thấy cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời? Tất cả những cái đó thi sĩ Lưu Trọng Lư nói đều là vô ích hết. Đây là những tiếng hét, những tiếng hét rất lớn không kém gì tiếng hét của Thiền tổ Lâm Tế. Đó là lời tuyên án. 
Vô ích, vô ích, vô ích. 
Tất cả những cái mà các người theo đuổi, tất cả những gì mà ta theo đuổi trong thời trai trẻ, tất cả đều là vô ích. Chúng ta đã để cho những cái đó làm mất cuộc đời của ta. Chữ vô ích được lập lại sáu lần trong một bài thơ ngắn.
Vô ích, vô ích, vô ích 
Đó là tiếng của một con chim đã bay trên không và phán xuống cho chúng ta: tất cả những cái gì mà các ngươi đang làm đều là chuyện vô ích. Quý vị nên quán chiếu lại: những cái làm ta thất vọng, khổ đau, rên xiết, làm ta suýt chút nữa là tự tử, những cái đó có thật sự ích lợi cho cuộc đời ta hay không? Hay đó toàn là những chuyện không đáng, toàn những chuyện vô ích? 
Tôi rất mừng và tôi rất biết ơn các cô y tá, đã thỏ thẻ như thế nào mà mời được người thi sĩ già, gom hết toàn lực của mình để viết ra bài thơ này. Bài thơ tương đương với một bài kệ của thiền sư trước khi nhập diệt. 
Không ai giữ nổi ta hết 
Ta đi tìm người ta yêu 
Mục đích của sự sống là đi tìm người yêu của mình. Nếu quý vị để thì giờ đi làm chuyện khác là quý vị sai lầm. 
Đói lòng ăn nửa trái sim 
Uống lưng bát nước đi tìm người thương [4] 
Đó là việc đáng làm nhất. 
Ta đi tìm người ta yêu 
Cứu nhân của đời ta 
Cứu nhân (Savior, my savior) chính là người yêu của ta đã mở mắt cho ta, đã cho ta cái thấy, đã đưa ta thoát khỏi thân phận tù đày của con người, đã chỉ cho ta thấy được con đường để ta đi tìm người yêu của ta. 
Con đã đi tìm Thế Tôn 
từ hồi còn ấu thơ 
Con đang nghe tiếng gọi của Thế Tôn 
từ khi mới bắt đầu biết thở 
Con đã ruổi rong vạn nẻo đời hiểm trở 
Ta từng đau khắc khoải 
với trăm thương ngàn nhớ 
trên bước đường hành hương [5] 
Mình phải đi tìm người yêu của mình. 
Ta đi tìm người ta yêu 
Cứu nhân của đời ta 
Muôn lần... 
Chỉ có người, người ta yêu 
Chữ người ở đây được hiểu là chỉ có con người, chỉ có người ta yêu mới đáng để ta đi tìm thôi. 
Ai bắt ta nổi? 
Ta đã tự do, không có ai cấm cản chuyện ta đi tìm người yêu ta, dầu đó là một guồng máy, dầu đó là một sự dọa nạt, một sự hứa hẹn, dầu đó là gông cùm. Không khóa nào giữ được ta, không có một lực lượng nào ngăn cản ta trên con đường đi tìm người yêu, người tôi yêu. 
Ai bắt ta nổi? 
Vô ích, vô ích, vô ích 
Ta đi tìm người ta yêu 
Thông điệp rất là rõ và thông điệp đó đã được gởi đi cho tất cả những người đã yêu mến thi sĩ. 
21.1.2004 Lộc Uyển - Hoa Kỳ 1 
Chú thích:
[1]. thi kệ của Sư Ông Làng Mai 
[2].Thơ Quách Thoại 
[3]. Thơ Lưu Trọng Lư 
[4]. Ca dao 
[5]. Thơ của Sư Ông Làng Mai. 
Lẽ nào anh chết 
Anh không ngồi đếm bao thu còn lại 
Bao tuần lá đổ vàng rơi 
Khi cánh song anh khép kín cõi đời 
Anh vẫn không tin: mình chết 
Khi chia tay không cất lời vĩnh biệt 
Buổi giao ban không đứt đoạn đường dây 
Trong gian nan ta gọi thép sáng ngời 
Giữa đối thoại ngày mai ta không vắng mặt. 
Bão gió ba mươi năm đầu cành vẫn trong tiếng hót 
Ôi mẹ! Với mây xanh, sao biếc, nắng vàng 
Tơ rút ruột, kén thời gian tằm lót ổ 
Cho trời, cho đất một tình thương. 
Đâu phải anh vào nơi bất diệt 
Vì trăm năm sau 
Cô bé nào bên cầu ao 
Chợt ngâm đùa mấy câu thơ anh, vơ vẩn. 
Anh biết rồi mắt anh sẽ tan thành bụi phấn 
Nhưng em có hay: hạt bụi mắt anh 
Là con thương của giọt nắng rơi tự trên cành 
Và của hạt sương tự đất đen tụ lại? 
Còn say, còn mơ, còn đời luân hồi mãi mãi 
Bụi phấn vẫn bay đi cướp lửa những sao trời 
Để sưởi nồng mảnh mảnh trăng rơi 
Và chút chút nhen hồng trong mắt người bất hạnh. 
Nếu chút thương còn vương trên mẩu bánh 
Chút đau còn vướng áo chưa lành 
Bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh 
Bụi mắt anh, cả hồn anh khắp trời bủa lưới. 
Xin cảm tạ ngọn sóng lòng vừa tới 
Giữa dòng thơ trên tờ giấy trắng tinh 
Và bâng quơ tiếng gió trên cành 
Xua chút lạnh trên bờ cây còn sót lại 
Có nhạc nào bằng khúc nhạc ấy 
Của lời trao tiếng gởi giữa con người 
Cũng bấy nhiêu tiếng khóc tiếng cười 
Mà vàng ngọc thế gian không sánh nổi 
Ta chẳng bao giờ tiếc nuối 
Những giọt nước mắt đổ ra 
Vì một ý đẹp, một cành hoa 
Hay vì một nỗi đau bên đường đụng phải 
Có những hoàng hôn toan xóa mờ chân sói 
Giữa nơi đây ta chong sáng ngọn đèn 
Giữ mãi hồn thương, sắc mơ còn đỏ mãi 
Dẫu mơ kia chưa trọn nở trước thềm 
Có hạnh phúc nào như hạnh phúc niềm tin 
Vẫn như thủa nào tóc để lơi chiếc lược 
Cho mắt anh lại được gặp mắt em 
Cho hai tia lửa nhỏ hồng thêm. 
Khi gà, mai mỗi ngày còn đập cánh
Ai tắt được lửa bình minh? 
Khi tim anh còn chan chứa ân tìn
Lẽ nào em tin rằng: Anh chết? 
Hà Nội - Nha Trang - Phan Thiết Lưu Trọng Lư (1981) 
Bài thơ cuối cùng 
Trời đã chiều 
Buồn tà, vơ vẩn tà 
Ta đi tìm ai? 
Bây giờ 
Ai tìm ta nổi? 
Trăm khóa không giữ nổi ta 
Ta như con chim giữa trời 
Vô ích! Vô ích! Vô ích! 
Không ai giữ nổi ta hết 
Ta đi tìm người ta yêu 
Cứu nhân của đời ta 
Muôn lần... 
Chỉ có người, người ta yêu 
Ai bắt ta nổi? 
Vô ích! Vô ích! Vô ích 
Ta đi tìm người ta yêu. 
Lệnh truyền - Xuân Diệu và Thoát hình - Vũ Hoàng Chương 
Năm nay, tiết Tiểu hàn bắt đầu từ ngày 06 tháng giêng năm 2007. Tiểu hàn tức là cái lạnh nhỏ và tiết Đại hàn bắt đầu từ ngày 20 tháng giêng năm 2007. Ngày Lập xuân bắt đầu là ngày 17 tháng chạp (tức là ngày 4 tháng hai dương lịch), hôm nay đã là ngày 30 tháng chạp và chúng ta đang ở vào trong tiết Lập xuân. Lập xuân có nghĩa là bắt đầu của mùa xuân. Mùa đông còn đó nhưng đã bắt đầu rút lui, mùa xuân chưa tới, chưa biểu hiện một cách rõ ràng nhưng mùa xuân đã bắt đầu tiến tới. 
Khi chúng ta đọc bài thơ Lệnh Truyền của Xuân Diệu ở trong tác phẩm Xuân Diệu trường ca, ta thấy lệnh này ban bố vào tiết Lập xuân. Ban đầu có chúa Xuân ra lệnh cho mùa đông từ từ rút lui để mùa xuân bắt đầu lớn dậy. Trong Xuân Diệu Trường Ca có một bài thơ bằng văn xuôi tên là Lệnh Truyền và lệnh truyền cho ai? Lệnh truyền cho tứ đại là đất, nước, lửa và gió để bốn vị tướng tài đó bắt đầu hành động đem mùa xuân trở về. Xuân Diệu Trường Ca được sáng tác năm Xuân Diệu 28 tuổi. Chúng ta đang đón xuân nên chúng ta đọc bài Lệnh Truyền của Xuân Diệu. 
Trước khi các thầy, các sư cô đọc bài thơ bằng văn xuôi Lệnh Truyền của Xuân Diệu, tôi muốn nói tới một bài kệ của vua Trần Thái Tông. Vua Trần Thái Tông có sáng tác ra 43 công án thiền. Vua đã viết niêm và tụng cho những công án đó. Công án tức là những đề tài của sự thiền tập mà Trần Thái Tông đã thừa hưởng được từ Tông phái Lâm Tế. Người đem giáo lý phái Lâm Tế cho vua là quốc sư Đại Đăng. Trần Thái Tông đã biết tu học từ năm 20 tuổi, đã sáng tác những tác phẩm Phật học nổi tiếng, trong đó có sách Khóa Hư. Trong sách Khóa Hư chúng ta thấy 43 công án mà vua Trần Thái Tông đã sáng tác và đã sử dụng như những đề tài thiền quán. 
Cách đây ba mươi năm, tôi đã có cơ hội phiên dịch 43 công án này từ chữ Hán ra tiếng Việt, nhưng chưa bao giờ có dịp đem ra in hết. Có thể mai mốt mình đưa lên trang nhà của Làng Mai. Đây là công án thứ mười sáu có liên hệ tới Lệnh của mùa xuân. 
Tổ sư Lâm Tế của chúng ta có phương pháp gọi là hét. Mỗi khi thấy một vị du tăng lấp ló ngoài cửa muốn xin vào, thì chuyện đầu tiên ngài làm là hét. Tiếng hét của thiền sư Lâm Tế giống như tiếng gầm của sư tử lớn, giúp cho vị thiền giả chấm dứt được những suy tư, giúp cho vị thiền giả có cơ hội mở ra một mùa xuân của trí tuệ, của giác ngộ. 
Người ấy đang sống trong một mùa đông lạnh giá kéo dài của u mê, của cố chấp, của hận thù, của thành kiến và của tập khí. Người ấy nghĩ rằng mình có đường hướng, có phương pháp, mình đang đi trên con đường chánh đạo, nhưng tiếng hét của thiền sư Lâm Tế có nghĩa rằng anh đang đi trong một mùa đông giá lạnh kéo dài, anh phải để cho mùa đông chấm dứt, để mùa xuân của đạo lý, của giác ngộ, của chuyển hóa đi tới. Tiếng hét đó ra lệnh cho mùa đông rút lui và ra lệnh cho mùa xuân bắt đầu. Vua Trần Thái Tông đã diễn bày tiếng hét của thiền sư Lâm Tế là Tiếng Lệnh. Tiếng Lệnh ra lệnh cho mùa đông phải chấm dứt từ từ và ra lệnh cho mùa xuân phải bắt đầu chớm dậy. Đây là nguyên văn của bài kệ: 
Nhập môn tiện hát dục hà hành 
Dẫn đắc nhi tôn túy lúy tinh 
Bất thị xuân lôi thanh nhất chấn 
Tranh giao hàm giáp tận khai manh 
Thiền sư Lâm Tế khi bắt đầu ra giảng dạy đã sử dụng cây gậy và tiếng hét. Hễ khi có một vị du tăng đi vào cửa thì lập tức hét lớn. Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét 
Tỉnh giấc hôn trầm lũ cháu con 
Một tiếng sấm xuân vừa chấn động 
Khắp nơi cây cối nẩy mầm non 
Đó là cách vua Trần Thái Tông diễn tả tiếng hét của thiền sư Lâm Tế. Đó là tiếng sấm xuân, ra lệnh cho tất cả cây cối phải bắt đầu chuẩn bị để đâm chồi, nẩy lộc. Hôm nay mình đọc bài Lệnh Truyền trong Trường Ca Xuân Diệu là để thấy Lệnh đó được ban ra như thế nào và ban ra cho ai? 
Xin mời quý vị nghe Xuân Diệu Trường Ca, bài thơ Lệnh Truyền viết bằng văn xuôi do Xuân Diệu sáng tác, lúc thi sĩ mới 28 tuổi. 
Lệnh truyền 
(Xuân Diệu) 
Lệnh đã truyền ra, 
đất vâng trước nhất. 
Suốt một đêm trường 
đất không sao ngủ được. 
Cả mình sấm chuyển 
cái ngực của đất phồng lên không muốn ngủ. 
Mà ngủ làm chi 
Đất cựa mình vì xốn xang trong da thịt 
Lệnh đã truyền. 
ngày mai đây 
tháng sau đây 
biết có xong công trình hay chăng? 
Thật tấm lòng của đất dạt dào 
tính toán ngay từ phút đông vừa bớt lạnh 
Đất mẹ đã nghe muôn con đòi nở 
muốn vượt chồi lên trên đất, thở ánh sáng trời 
Hàng triệu mầm hé ra khép vào 
đầu hướng lên, chân mạch căng thẳng 
ngửa cả mình đất 
Vi trùng sáng tạo lên men dưới da 
từ đáy sâu đưa lên bao sức lực để đỡ nâng 
Đất mẹ sung sướng 
đất mẹ lo âu 
đất mẹ nằm sinh và làm việc 
mẹ bao la chạy chia nghìn ngả 
này núi này rừng này đồng này ruộng 
lại còn linh tinh muôn vạn núi đồi nữa
làm sao đủ sữa căng lên 
Lệnh đã truyền 
đất lãnh lấy công đầu. 
đất nghìn năm đất triệu năm 
đậm đà chắc chắn 
càng già càng dai 
Máu cũ biến mới 
sục sục quang tuyến 
mạch chạy đầm đìa 
máu đen kế máu đỏ, 
nhựa nâu đến ngã ba cùng với nhựa xanh. 
Những con đường xéo lẫn nhau 
chở chất chua chất ngọt chất mát chất nồng 
theo rễ muôn cây lên cho mặt trời hòa hợp 
Trên mặt đất vẫn chưa lộ gì cả 
nhưng dưới nhà hầm biết bao là vội vàng 
Thì giờ trễ rồi 
thời gian tính từng phút một 
ngón tay nghiêm nghị không bao giờ đếm nhầm 
cho nên đất mẹ làm việc không nghỉ 
Không lẽ năm nay lại trễ hơn mọi năm? 
Ánh sáng vâng lệnh thứ hai 
có cô em sức nóng đi kèm 
nàng tiên quyền cao phép cả chẳng ai dám đương 
khi hứng thú nồng nàn ánh sáng lấn áp cả không gian 
ôm chầm vũ trụ, đè bẹp bóng tối dưới triệu móng chân 
mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đượm 
ánh sáng bắn tin truyền hịch đưa lệnh khắp hang cùng núi hẻm 
bảo rằng sắp sửa tin vui 
Ánh sáng nhún nhảy tươi cười không chút lo lắng 
tài lực của nàng nhiệm mầu nhanh chóng 
nàng có thể giấu mình suốt tháng vờ như không hay gì cả 
nhưng mánh khóe tinh anh sao 
nàng làm việc ngấm ngầm 
chỉ một ngày một sáng mai nàng đến
là cả bầu không đã treo ngọc giăng tơ 
cả mặt đất đã trải vóc gấm thêu thùa trong gió lăng líu qua cây. 
Ánh sáng đứng một chỗ 
mà ở khắp nơi con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng 
trông nom từng nụ mầm non từng vọt sâu bọ 
nàng ôm những thân cây giá lạnh, 
sưởi những luống đất ẩm hiu 
Nàng lách vào những kẽ lá 
cho màu xanh non biến thành màu lục đậm 
cho nên những cội tùng già yếu 
nàng cũng gõ mãi ngoài vỏ 
đến nỗi một ngày kia bật ra mầm xanh 
và ánh sáng ngồi kéo muôn triệu chỉ vàng 
tiếp theo muôn triệu chỉ vàng cuộn tròn vào bánh xe hay mắc ngang khung cửi, 
giấu diếm khắp nơi để đến lúc cần dùng sợi ngày vàng sẽ lộ ra chi chít. 
Nước nhận lấy phần 
nước đi theo ánh sáng 
làm thành cặp uyên ương kỳ dị 
rẽ nhau một lần là đồng khô cỏ cháy 
Nước mát êm cho nắng tựa vào 
nước cũng chảy chia nghìn ngã 
chạy vào làm máu cho đất 
chạy ra làm lời cho suối 
độn thổ đằng vân. 
Ánh sáng loảng xoảng trong mình 
âm điệu róc rách giữa lòng 
nước lấy ôn nhu vỗ về nuôi nấng cho muôn vật phát sinh 
mà cái liếc mắt đưa dài nghìn lý 
Nàng chen vào búp hoa này lẫn vào nhánh cây kia 
trái uống nàng vào bụng, 
mây giữ nàng trong mình 
nụ hút nàng vào tim 
cây kiếm nàng làm nhựa 
ôi nước ngọt ngào mát mẻ thảnh thơi 
Không ai tranh 
nên về phần gió. 
phải xem dáng điệu nàng thu gọn 
mới biết nàng khéo dấu sức phá hoại của mình 
chỉ còn là một làn phớt qua 
áo nàng tha thiết phiêu phiêu hồn nàng phất trần 
Nàng lên tinh tú gió bay gió lượn 
gió phất phơ như hơi thở ân tình 
gió đưa duyên bướm 
gió làm mối lái cho hoa 
gió múa điệu lẳng lơ 
nói lời cợt ghẹo 
vạn vật nghe gió mà rợn tình. 
Gió phẩy móng tay búng muôn đầu lá 
gió rào rào rúng động ngàn cây 
âm nhạc theo nàng mà vào không gian 
nàng là những sợi dây sắt cầm lượn bay 
Không khí tự xoay vang tiếng tơ đồng 
miền xa lại gần gió mới tỏ tình 
hương đà theo hút 
gió có cần vội vã đâu 
chỉ thoáng lên xe đi thúc giục các chồi các nụ 
đến hôm ấy gió chỉ việc dịu dàng bay chơi 
là cuốn theo muôn lòng đắm say. 
Lệnh được vâng 
tất cả đều làm việc 
tất cả giao hòa giúp sức lẫn nhau. 
tất cả cũng đều một niềm yêu thương quảng đại 
tất cả cùng đồng một ý trau chuốt điểm trang. 
Ngày ấy Lệnh đốt tiếng pháo đầu 
muôn tiên đã núp sau màn 
chim chóc cũng lên đầy cổ họng 
mặt trời xé màn sương mỏng 
xé màn mơ mộng còn ủ ấp non sông 
nhạc vang reo hương nồng tỏa. 
Công chúa Xuân nương hiện hình 
sương đeo một triệu hoa tai cho nàng 
nàng cười một nghìn điệu hoa 
nàng mặc chín triệu lá non 
má nàng điểm đôi chút sương hồng 
tóc nàng gió xuân lỏa tỏa 
muôn lời của vũ trụ 
đồng tấm tắc khen nàng công chúa con chung. 
Xuân nương! Xuân nương! hội mừng nàng 
hội của nàng sẽ lâu chín mươi ngày 
góp thêm chín mươi đêm vui suốt sáng 
Nàng ra đời nàng lại về 
nàng không mỏi tái sinh 
trời ơi Xuân Nương cười 
trông thấy công chúa phụ hoàng đôi mắt sáng ngời 
đáp lại bằng nụ cười thái dương 
âm nhạc khởi lên chín mươi ngày đêm 
bắt đầu bằng một buổi sớm. 
Xuân Diệu sinh năm 1917 và Xuân Diệu Trường Ca được xuất bản năm 1945, năm thi sĩ 28 tuổi.
Vũ Hoàng Chương sinh trước Xuân Diệu một năm, vào năm 1916. Năm 24 tuổi thì xuất bản thơ Say, năm 38 tuổi làm bài ca Siêu Thoát và trước đó hai năm, tức năm 1952 làm được bài Thoát Hình, mà chúng ta sẽ được nghe bình thơ.
Bài Thoát Hình cũng nói về mùa xuân nhưng mà đi sâu hơn Xuân Diệu, bài Thoát Hình cho ta thấy được nghiệp sinh diệt và sự liên hệ giữa nhân và quả. 
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần 
Đã nghe dồn cả tới đài xuân 
Đã nghe rào rạt từng cơn gió 
Về mách tin hương với cõi trần 
Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến 
Này phút hồn hoa sắp hiện thân 
Nụ đã trên cành đau đớn cựa 
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần. 
Trong bài Thoát Hình, Vũ Hoàng Chương nói tới sự xuất hiện, sự biểu hiện, giờ phút sinh ra của một bông hoa. Phát hiện sự sinh nở của bông hoa kèm theo những khổ đau, những lo lắng, những cái chết, những gì đưa tới cho bông hoa ấy. Trong những câu đầu mình cũng thấy là lệnh đã đưa ra và nhựa trong cây bắt đầu dồn tới để đem lại mùa xuân, làm cho đóa hoa mùa xuân nở. 
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Nhựa trong cây bắt đầu rào rạt, bắt đầu chảy mạnh vì lệnh đã ban truyền. 
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần 
Đã nghe dồn cả tới đài xuân 
Có thì giờ, có hai lỗ tai, có chánh niệm, mình có thể nghe được sức sống lưu chuyển trong vũ trụ, trong lòng đất, trong thân cây để đưa tới một mùa xuân, tới sự thoát hình của một bông hoa, sự có mặt của một bông hoa. 
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần 
Đã nghe dồn cả tới đài xuân 
Đã nghe rào rạt từng cơn gió 
Về mách tin hương với cõi trần 
Ở đây mình cũng thấy lại hình ảnh của tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Đã nghe rào rạt từng cơn gió 
Về mách tin hương với cõi trần 
Có nghĩa là lệnh truyền ra, mình tiếp nhận được lệnh, mình truyền lại cho tất cả mọi người. Cũng như khi vị trụ trì nhận được lệnh phải có một khóa tu tháng sáu, vị trụ trì mới truyền lệnh lại cho tất cả đại chúng, để chuẩn bị cho khóa tu tháng sáu thành công, khóa tu tháng sáu là một đóa hoa. Muốn có khóa tu tháng sáu, nhựa phải lưu chuyển trong hình hài của tăng thân lâu ngày, mình mới có được khóa tu tháng sáu. Tin hương là một tin rất thơm, tin nói rằng sẽ có một bông hoa nở, bông hoa đó là mùa xuân. 
Bây giờ chúng ta đọc báo chỉ nghe những tin không thơm lắm, mỗi ngày bao nhiêu người chết, bao nhiêu trái bom nổ. Những tin đó không phải là tin thơm. Nhưng tin mùa xuân đang về là một tin thơm vì mùa xuân về nó đưa lại cho chúng ta biết bao nhiêu là nụ hoa kỳ diệu. 
Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến 
Này phút hồn hoa sắp hiện thân 
Nụ đã trên cành đau đớn cựa 
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần. 
Giây phút của sự sinh nở không phải là một giây phút tầm thường, nó bao gồm cả sự đau đớn. Khi sắp sinh mình, mẹ đau đớn lắm và khi trái đất sắp hạ sinh mùa xuân, trái đất cũng đau đớn lắm. Có một cái gì giống như cái chết xảy ra trong khi chuẩn bị cho cái sống thành hình. Vũ Hoàng Chương hồi đó chưa nghiên cứu Phật giáo sâu sắc, nhưng đã có một linh tính, một tuệ giác. Vũ Hoàng Chương thấy được cái sống dựa vào cái chết, nếu không có cái chết thì không có cái sống. 
Khi một hạt cây nứt ra để cho mầm cây trở thành ra một cây con thì đó là cái chết của hạt cây. Ở trong Thánh kinh có nói là nếu hạt không chết thì làm sao mầm sinh ra được? Và Vũ Hoàng Chương thấy được điều đó. Vì vậy khi sinh mình, mẹ cũng có chết ở trong lòng một ít; khi trái đất sinh ra mùa xuân, trái đất cũng chết trong mình một ít; khi thầy sinh ra mình, thầy cũng chết trong lòng một ít. Cái chết đó không phải là cái chết, mà là tất cả sức sống của người mẹ trao truyền cho thai nhi, cho đứa con. 
Đất mẹ truyền tất cả sức sống cho mùa xuân và khi thầy sinh ra mình, thầy cũng truyền sức sống của thầy vào trong mình. Đó cũng là một hình thái chết, nhưng cái chết này không phải là một cái chết đau buồn, mà là một cái chết rất đẹp. Chúng ta phải học chết như vậy để sự sống càng ngày càng đẹp hơn. 
Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến 
Cả rừng, cả vườn nhận được lệnh đều xao xuyến hết vì máu chảy trong huyết quản, nhựa chảy trong lòng cây. 
Vườn đây, rừng đấy cùng xao xuyến 
Là tại vì sao? 
Này phút hồn hoa sắp hiện thân 
Đã tới giây phút mà bông hoa của mùa xuân nở. 
Nụ đã trên cành đau đớn cựa 
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần. 
Có sự đau đớn của sự sinh nở. Cái chết nó đưa thành sự sống, cái sống không thể nào có được nếu không có sự chết. Cái chết này không phải là sự chết mà nó là sự tiếp nối của sự sống và sự sống này không phải là sự sống mà là sự tiếp nối của sự chết. Sống và chết là tương tức với nhau, không thể nào lấy ra khỏi nhau được. Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến 
Này phút hồn hoa sắp hiện thân 
Nụ đã trên cành đau đớn cựa 
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần. 
Muôn vạn tế bào đang hủy thể 
Hủy thể tức là đang chết và chết như vậy để làm cho sự sống có thể xảy ra được. Trong hình hài của mình cũng vậy, mỗi giây phút có hàng ngàn tế bào hủy thể và nếu những tế bào trong mình không hủy thể thì không thể nào sinh ra những tế bào mới. Khi nhìn vào lớp da ngoài của hình hài, mình biết rằng lớp da ngoài gồm có những tế bào khô, những tế bào chết và mỗi khi mình gãi có hàng ngàn tế bào chết rơi xuống và nếu những tế bào đó không chết thì làm sao có những tế bào mới sinh ra? Cái chết và cái sống tương tức. Nhìn thấy cái chết dưới ánh sáng của tương tức thì mình không còn đau buồn nữa. 
Muôn vạn tế bào đang hủy thể 
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần 
Ý lớn ở đây tức là nguyên lý của vũ trụ: có sinh thì có diệt, cái diệt làm bằng cái sinh, cái sinh làm bằng cái diệt. Ý lớn là ý trời, ý trời ở đây tức là ý của thiên nhiên, ý của sự sống và phá hủy là để thành tựu chứ không phải phá hủy, chỉ để phá hủy. Chính vì phải thành tựu cho nên phải có sự hủy thể. 
Phá cho thành đấy, sinh là diệt. 
Mình thấy rằng nhà thi sĩ ba mươi sáu tuổi đã thấy được tính tương tức của sinh và diệt. 
Mười một năm sau, Vũ Hoàng Chương làm bài Lửa Từ Bi, nhưng Lửa Từ Bi là một đóa hoa sinh trên cái xác của bài Thoát Hình. Bài Thoát Hình là một bước và Lửa Từ Bi là một bước khác nữa. Nếu không có bài Thoát Hình thì sẽ không có bài Lửa Từ Bi. Càng ngày Vũ Hoàng Chương càng trở nên một thi sĩ có tuệ giác Phật giáo. Muôn vạn tế bào đang hủy thể 
Không phải là một cái gì đau buồn, đây là chuẩn bị cho sự sinh nở, cho sự sống. 
Muôn vạn tế bào đang hủy thể. 
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần. 
Ý lớn nhịp xoay vần, đó là sự vận hành của vũ trụ 
Phá cho thành đấy sinh là diệt 
Đời quả lên từ mỗi xác nhân 
Cái nhân nó sung sức, nhưng khi sinh ra quả tự nó trở thành một cái xác, gọi là xác nhân. Khi hạt giống nứt mầm để cho ra một cây mới thì hạt giống đó chết. Chết nhưng không phải là chết, nó chỉ thoát hình. 
Muôn vạn tế bào đang hủy thể 
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần
Phá cho thành đấy sinh là diệt 
Đời quả lên từ mỗi xác nhân 
Cái xác này thật ra không phải là một cái xác, nó chẳng qua chỉ là một cái da mà mình lột ra, như con rắn lột da. Khi hạt cây biến thành mầm non, thật sự không là cái chết. Mình gọi là xác nhân, nhưng kỳ thực nó là mầm quả, cái xác nhân trở thành cái mầm quả.
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn 

Cho tròn một kiếp chẳng phân vân 
Mảnh da này là một mảnh da của thân cây, phải nứt ra một cái thì mới có thể nẩy ra một cái mầm được. Lệnh đã truyền thì thế nào nhựa cây cũng phải lưu chuyển cho mạnh và sự hoạt động đó, sức mạnh đó, năng lượng đó sẽ làm cho vỏ cây nứt ra. Và hễ có sự nứt ra là có sự đau đớn. 
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn 
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân 
Lòng cây mấy thuở ai người biết 
Từng khóc, từng reo đã mấy lần? 
Người nào đã từng làm cha mẹ, từng làm thầy, từng làm sư chị, sư anh mới thấy điều đó. Đây là lòng của người mẹ, lòng của đất mẹ đã khóc, đã cười, đã reo vì đứa con mà mình đang thai nghén, đứa con mà mình sắp cho ra đời. Bốn câu này nói về lòng cây, lòng cây đây tức là lòng mẹ, lòng đất đang chuẩn bị để đưa ra một mùa xuân. 
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn. 
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai người biết
Có ai biết cho không, có ai biết cho niềm đau, những tiếng khóc và tiếng reo trong lòng của bà mẹ, trong lòng của người cha, trong lòng của trái đất? 
Lòng cây mấy thuở ai người biết 
Từng khóc, từng reo đã mấy lần 
Càng ngày sự giục giã càng lớn và nhựa càng lưu chuyển mạnh. Nhựa ứ càng cao niềm giục giã 
Đất trời mong mỏi nức hương lân. 
Cả trời, cả đất đang chờ đợi giây phút mầu nhiệm, đó là bông hoa hé nở, tỏa hương thơm ngát của đất trời, tức là mùa xuân. 
Đất trời mong mỏi nức hương lân 
Nức tức là thơm ngát, hương lân tức là mùi thơm trong cả một vùng. Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm 
Nụ thoát hình trong phút nhập thần 
Giây phút sinh nở là giây phút rất trọng đại, cần phải có sự tập trung rất lớn. 
Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm 
Nụ thoát hình trong phút nhập thần 
Ôi đã then sương cài lỏng lẻo 
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân. 
Then ở đây tức là cái then cửa và bây giờ nó lỏng lẻo ra rồi và có thể mở cửa cho mùa xuân thoát hình, một cách rất dễ dàng. Có một sự trông chờ, có một sự chờ đợi. Tất cả đều đã chuẩn bị, bây giờ mình chỉ cần đưa ngón tay rút cái then cửa, mở cửa ra là mùa xuân tới. 
Có ai tha thiết ngoài mây nước 
Chờ lối đào nguyên tự mở dần 
Ngày xưa có Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi thơ thẩn ở Đào nguyên và tự nhiên cánh cửa Đào nguyên mở ra, có những nàng tiên xuất hiện và hai anh chàng được đi vào cõi Tiên. Bây giờ mình đang chờ như vậy, đất trời đã sẵn sàng và chúng ta đang tha thiết ở ngoài mây nước, để cửa động Đào Nguyên bắt đầu mở ra cho chúng ta đi vào mùa xuân. 
Hồi đó chiến tranh đã bắt đầu khốc liệt ở miền Bắc và cái chết đã xảy ra. Có bạo động, có hận thù, có chiến tranh, có hư hỏng, có tuyệt vọng, nhưng thi sĩ đã tìm cách giữ cho lòng mình an tĩnh. Trong một hoàn cảnh biến động, khổ đau phát hiện đầy dẫy, tham đắm, giận hờn, hận thù tràn lan, nếu mình không có tu tập, nếu mình không biết giữ lấy thân mình, mình cũng sẽ bị cuốn theo dòng xoáy đó. Cho nên, nhà thơ cũng thấy được như người tu, là phải làm thế nào để trong đêm ba mươi mình tiếp xúc được với tấm lòng trong trắng nguyên vẹn của mình. 
Hồi đó Vũ Hoàng Chương chưa biết danh từ Bồ đề tâm, chỉ cho trái tim trong sáng, cho Phật tánh của mình và thi sĩ đã dùng danh từ trang lòng. Trang lòng này là trang lòng còn nguyên vẹn, chưa bị hoen ố bởi hận thù, bởi tuyệt vọng, bởi sự tranh chấp. Nếu mình sống sót được là nhờ mình còn giữ được sự nguyên vẹn đó trong trái tim. Đêm ba mươi ngồi im lại để tìm cách tiếp xúc được với cái tâm trong trắng đó của mình, để đừng đánh mất mình trong tuyệt vọng, trong hận thù. 
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi 
Tin rằng mình vẫn có một trang lòng nguyên vẹn. Cũng như người tu chúng ta tin rằng chúng ta có Phật tánh, chúng ta có Bồ đề tâm, chúng ta luôn luôn có thể trở về nương tựa nơi Phật tánh đó, nơi Bồ đề tâm đó để chúng ta đừng bị cuốn đi theo những tuyệt vọng, những khổ đau của xã hội ngày hôm nay. 
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi 
Chưa từng hoen ố vết trầm luân 
Đó là niềm tin mà mình cần phải có, dù thế giới có tan tành thì nụ cười, bông hoa cũng không bao giờ tan biến. Mình phải tin vào Phật tánh nơi mình, vào thiên lương nơi mình, vào tâm bồ đề nơi mình. Đó là chỗ mình trú ẩn, là cái pháo đài để mình không đánh mất mình. Thi sĩ đã nói lên được điều đó, không bằng ngôn từ Phật giáo, mà bằng ngôn từ của riêng ông ta. 
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi 
Chưa từng hoen ố vết trầm luân 
Đây là một lời cầu nguyện để kết thúc bài thơ. 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Một bài thơ trinh nguyên như là một người cầu cơ, như là một người ngồi thiền, mở trái tim ra để cho Phật tánh bừng nở. Cũng như người cầu cơ để cho đức Thế Tôn, để cho Thượng đế, để cho tinh hoa của vũ trụ giáng xuống dưới hình thức một bài thơ mới, một bài thơ có khả năng làm mới lại cuộc đời mình. 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Cầu nguyện cho đời nở ái ân 
Hai câu chót là một lời cầu nguyện.
Cầu nguyện bằng cái gì? Bằng trái tim của chúng ta. Nếu trái tim của chúng ta đầy dẫy những tuyệt vọng, đau buồn và hận thù làm sao chúng ta cầu nguyện được? Chúng ta phải có một cái gì đó mới có thể tiếp xúc được với tinh hoa của vũ trụ, với Trời, với Phật. Vì vậy phải mở trang lòng nguyên vẹn ra, đây là tâm Bồ đề của mình, đây là Thiên lương của mình. 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Phải ngồi yên, ngồi rất yên, phải trải tấm lòng thanh tịnh của mình ra. Không thù hận, không tuyệt vọng thì may ra mới có một bài thơ trắng, một bài thơ trinh nguyên giáng xuống. Như người cầu cơ, phải rất thanh tịnh, phải rất chí thành thì niềm tin, sự giác ngộ, phương thuốc trị liệu mới có thể đi vào trong trái tim của mình. Cho nên trong thời gian chiến tranh, thi sĩ ngồi thật yên lặng, đem tâm trong sáng của mình ra để chờ đợi phút linh cầu cho cái đó giáng về. 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Cầu nguyện cho đời nở ái ân 
Trong cuộc đời chỉ có hận thù, bạo động và tuyệt vọng. Cuộc đời cần có sự thương yêu, cho nên lời cầu nguyện duy nhất của thi sĩ trong đêm ba mươi, không phải là làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái, đầu năm sinh con trai cuối năm sinh con gái, mà cầu nguyện cho tình thương giáng sinh trong trái tim của mình và trong trái tim của con người. Bài thơ này cũng là một bài thơ đạo. 
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi 
Chưa từng hoen ố vết trầm luân 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Cầu nguyện cho đời nở ái ân 
Ái đây tức là bác ái, là từ bi, là lòng thương của Bụt, của Chúa. Ân đây tức là ân nghĩa, ân tình của con người đối với nhau. Chữ ái ân đây thực sự có nghĩa là tình thương, là lòng từ bi. Có gì đẹp hơn khi mình cầu nguyện cho tình thương, cho lòng từ bi giáng sinh trong trái tim của mình. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng có đặt một bài nhạc với tựa đề Khi Tình Yêu Giáng Sinh. Làm thế nào để tình yêu giáng sinh? Phải có sự trầm tĩnh, phải có sự lắng đọng, phải đem trang lòng nguyên vẹn của mình ra, mình mới cầu cho tình yêu giáng sinh được. 
Ôi đã then sương cài lỏng lẻo 
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân 
Có ai tha thiết ngoài mây nước 
Chờ lối đào nguyên tự mở dần 
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi 
Chưa từng hoen ố vết trầm luân 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Cầu nguyện cho đời nở ái ân 
Xin chúc quý thầy, quý sư cô, quý Phật tử bên nhà một năm mới nhiều hạnh phúc và nhất là có nhiều thì giờ để ngồi chơi, để có thể thấy được mặt nhau, đừng có bận rộn quá. Xin đọc lại bài Thoát Hình của Vũ Hoàng Chương trước khi chấm dứt bài bình thơ này. 
Thoát hình 
(Vũ Hoàng Chương) 
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần 
Đã nghe dồn cả tới đài xuân 
Đã nghe rào rạt từng cơn gió 
Về mách tin hương với cõi trần 
Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến 
Này phút hồn hoa sắp hiện thân 
Nụ đã trên cành đau đớn cựa 
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần. 
Muôn vạn tế bào đang hủy thể 
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần 
Phá cho thành đấy sinh là diệt 
Đời quá lên từ mỗi xác nhân 
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn 
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân 
Lòng cây mấy thuở ai người biết 
Từng khóc từng reo đã mấy lần 
Nhựa ứ càng cao niềm giục giã 
Đất trời mong mỏi nức hương lân. 
Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm 
Nụ thoát hình trong phút nhập thần. 
Ôi đã then sương cài lỏng lẻo 
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân 
Có ai tha thiết ngoài mây nước 
Chờ lối đào nguyên tự mở dần 
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi 
Chưa từng hoen ố vết trầm luân 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Cầu nguyện cho đời nở ái ân. 
16.2.2007, Làng Mai - Pháp quốc. 
Xuân Diệu (1916 - 1985) 
Tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là Ngô Xuân Thọ và mẹ là Nguyễn Thị Hiệp. 
Xuân Diệu sau ra Hà Nội học, 1938 - 1940 ông và Huy Cận ở gác 40 Hàng Than. Ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1943. Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 1985. 
Xuân Diệu viết nhiều, có khoảng 450 bài thơ. Một số lớn chưa được xuất bản. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn quốc kỳ (1945), Một khối hồng (1964), Thanh ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983); truyện ngắn Phấn thông vàng (1939); và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học. 
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông mang ngọn gió rạo rực, thiết tha, nồng cháy, khao khát yêu thương đến cho thi ca. Thơ Xuân Diệu ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh và hương vị trong Thơ thơ, pha lẫn chút vị đắng cay trong Gửi hương cho gió. Nhiều câu nhiều bài chịu ảnh hưởng từ thi ca lãng mạn Pháp. 
Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976) 
Sinh ngày 5 tháng 5 năm 1916, sinh quán tại thành phố Nam Định, chính quán tại xã Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên. Đã được dạy Kinh thư bằng chữ Nho và Quốc Sử Diễn ca bằng chữ Nôm trước khi đến trường học Quốc ngữ và sinh ngữ Tây phương khác. 
Năm 1939, Vũ Hoàng Chương thôi học, ra làm phó kiểm soát Hỏa xa Đông dương. 
Hoạt động Văn chương từ năm 1940, in thơ viết kịch v.v… 
Năm 1940, Vũ Hoàng Chương cho ra thi phẩm đầu tay là tập Thơ Say do nhà in Cộng Lực ấn hành. 
Năm 1941, thôi làm sở Hỏa xa và tiếp tục học theo ban Đại học Khoa học. 
Năm 1942, lại nghỉ học, Vũ Hoàng Chương xuống Hải Phòng dạy học. Và trong thời gian này thành lập ban kịch Hà Nội cùng với Nguyễn Bính và Chu Ngọc. 
Vân Muội là vở kịch đầu tiên của Vũ Hoàng Chương được trình diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội đêm 12.12.1942. 
Đến năm 1943, cho in thi phẩm thứ hai, tên là Thơ Mây. 
Năm 1944, xuất bản kịch thơ Trương Chi, gồm 3 kịch thơ ngắn là Trương Chi, Vân Muội, Hồng Điệp. 
Năm 1945, giai đoạn chiến tranh chống Pháp, Vũ Hoàng Chương tản cư về dạy học ở Thái Bình. Mặc dù chiến trang đang hồi ác liệt nhưng nhà thơ vẫn sáng tác và cho ra đời tập Thơ Lửa cùng viết với nhà thơ đồng quê Đoàn Văn Cừ xuất bản năm 1947. 
Năm 1950, chiến tranh tạm lắng dịu, ông hồi cư về Nam Định dạy học và tiếp tục sáng tác thơ như vở kịch thơ Tâm sự kẻ sang Tần (1951), Thằng Cuội (1952). 
Tác phẩm đầu tiên của nhà thơ họ Vũ tại miền Nam là Rừng Phong được chào đời vào năm 1954, Hoa Đăng (1959). 
Năm 1961, ngoài việc sáng tác, ông còn cộng tác với nhiều tạp chí văn học ở thủ đô như Phổ thông, Bút hoa, Nguyệt san Đại từ bi, v.v… 
Tập Lửa Từ Bi do Thanh Tăng xuất bản năm 1963. Ánh Trăng Đạo Lý (1966) do Sàigòn Tuyên úy Phật giáo xuất bản. Bút Nở Hoa Đàm (thơ, Vạn Hạnh xuất bản năm 1967). 
Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thúy Vũ Đoản Từ. 
Thơ Xuân cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn (Tết Bính Thìn 1976). Sau đó nhà thơ bị bắt, giam ở ngục Chí Hòa, bị bệnh nặng đưa về nhà mấy hôm thì mất, đó là ngày 6.9.1976 nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn, lúc 23 giờ.
Nhất Hạnh
Theo https://thuvienhoasen.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nhắc để nhớ ký ức lịch sử còn đó

Nhắc để nhớ ký ức lịch sử còn đó Ngày 20/1/2024 - trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết quan điểm của Việt Nam về việc Trung Quố...