Thứ Hai, 4 tháng 1, 2021

Ẩn dụ về con người trong ca dao Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa

Ẩn dụ về con người trong ca dao Việt Nam 
dưới góc nhìn văn hóa

1. Mở đầu
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người; ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác [5;10]. Từ định nghĩa trên, chúng ta không chỉ nhận ra được tầm quan trọng của ngôn ngữ trong đời sống của con người mà bên cạnh đó, chúng ta còn nhận ra được mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hóa - một “mối quan hệ biện chứng lẫn nhau” [5; 86]. Nghiên cứu ngôn ngữ nói chung dưới góc độ văn hóa đã trở nên phổ biến trong giới ngôn ngữ học hiện nay, hướng tiếp cận ngôn ngữ - văn hóa không chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu, khoa học mà nó còn đem lại nhiều giá trị về mặt nhận thức, thực tiễn.
Ca dao là một trong những thể loại tiêu biểu của văn học dân gian Việt Nam. Ca dao là những bài văn vần do nhân dân sang tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân [8; 20]. Những bài ca dao với những vần điệu trữ tình, đằm thắm không biết tự bao giờ đã đi vào đời sống văn hóa - tinh thần của người dân Việt Nam như một món ăn thanh tao nhưng đậm đà hương vị; nó không chỉ tái hiện trước mắt người đọc những danh lam thắng cảnh, những bức tranh làng quê bình dị của đất nước Việt Nam với bao cảnh vật nên thơ mà đó còn là những khúc hát tâm tình nhẹ nhàng mà sâu lắng, da diết của những người dân lao động hiền lành, chất phác. Ca dao được ví như một chuyến đò ân tình chuyên chở biết bao tình cảm của người dân Việt từ xưa đến nay; và nó cũng chuyên chở trên những vần thơ trữ tình ấy bao nét tinh hoa của văn hóa Việt Nam.
Vén mở tâm tình của người dân lao động qua những vần ca dao, chúng ta thấy được cái ý nhị, tinh tế trong tâm hồn, trong suy nghĩ, tình cảm của ông bà ta đã gửi gắm kín đáo qua những ẩn dụ, biểu tượng mang đậm đà bản sắc văn hóa Việt. Qua khảo sát như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những đặc trưng của văn hóa trong đời sống sinh hoạt của người Việt. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài “Ẩn dụ về con người trong ca dao Việt Nam dưới góc độ văn hóa”.
2. Khảo sát ẩn dụ về con người trong ca dao dưới góc nhìn văn hóa
Ẩn dụ là phương thức tu từ được sử dụng rất phổ biến trong ngôn ngữ nói chung, đặc biệt là trong ngôn ngữ nghệ thuật - các tác phẩm văn chương nói riêng. Với bản chất giàu tính hình tượng và hàm súc, ẩn dụ làm cho ngôn ngữ trong văn, thơ trở nên bóng bẩy, trau chuốt, chứa đựng nhiều tầng nghĩa tinh tế, đẹp và gợi cảm hơn. Trong công trình Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt, tác giả Hữu Đạt đã định nghĩa “Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra… thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc”. Ở đây, tác giả nhấn mạnh việc đặt ẩn dụ trong mối tương quan chặt chẽ giữa ngôn ngữ với bối cảnh văn hóa, truyền thống dân tộc.
Nếu như không am hiểu về văn hóa Việt Nam với những đặc trưng tiêu biểu của nền văn hóa nông nghiệp, văn minh lúa nước thì ắt hẳn sẽ không thể hiểu được:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Hôm nay lan huệ sánh bày
Đào đông ướm hỏi liễu tây một lời
Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi
Một mai cá nước chim trời gặp nhau.
Những mận, đào, lan, huệ, đào đông, liễu tây, cá nước, chim trời… là những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam, và ấy cũng chính là những hình ảnh ẩn dụ - những biểu tượng - mộc mạc giản dị mà rất đỗi gần gũi, thân thương cho những người lao động bình dân - những con người suốt ngày “chân lấm tay bùn” nhưng tâm hồn thanh tao và có một đời sống tình cảm phong phú, sâu nặng nghĩa tình.
(i) Biểu tượng “HOA
Trong công trình Người phụ nữ qua những hình ảnh so sánh trong ca dao Việt Nam của Lưu Thị Nụ (1992), tác giả đã đưa ra kết luận sau khi khảo sát 3506 lời ca dao là trong bốn hình ảnh thường được ví với người phụ nữ: “hoa”, “chim”, “cây”, “quả” thì “hoa” xuất hiện với tần số nhiều nhất.
Ví dụ:
Hoa thơm trồng dựa cành rào
Gió nam, gió chướng, gió nào cũng thơm
Hoa kia tươi tốt rườm rà
Tuy rằng tươi tốt, khi mà ong châm.
Có thể nhận định rằng “hoa” là một biểu tượng nổi bật trong ca dao Việt Nam. Chúng ta bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ tinh tế như hoa sen, hoa dâm bụt, hoa hồi, hoa bèo, hoa cúc.. trong ca dao.
Ví dụ:
Hôm nay lan huệ sánh bày
Đào đông ướm hỏi liễu tây một lời.
Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.
Trong đó, đáng chú ý là hoa nhài (hoa lài). Trong thế giới tự nhiên cũng như trong ca dao dân gian, hoa nhài không phải là loài hoa chiếm ngôi vị “nữ hoàng”, đó không phải là loài hoa hương sắc nhất, càng không phải loài hoa kiêu sa, đài các như hoa hồng thế nhưng trong cái ngôi bậc “khiêm nhường” ấy của mình, hoa nhài lại càng khẳng định cái “duyên ngầm” đáng yêu của mình. Trong ca dao, hoa nhài thường được ví với nụ cười duyên dáng, đáng yêu của người con gái (Miệng em cười như cánh hoa nhài; Miệng cười như cánh hoa nhài nở nang), “vẻ đẹp lâu bền, khó phai” bên trong tựa như tâm hồn của những cô thôn nữ chốn làng quê Việt: Hoa lý có tài, hoa lài có duyên; Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu; Anh đừng tham bông quế, bỏ phế cái bông lài/ Mai sau quế rụng, bông lài thơm xa; “Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu”.
Cũng có khi tác giả dân gia mượn “hoa” để châm biếm nhẹ nhàng:
Có đỏ mà chẳng có thơm
Như hoa dâm bụt, nên cơm cháo gì!
(ii) Biểu tượng “CON VẬT
Con cò: Trong ca dao Việt Nam, có rất nhiều bài nói đến hình ảnh con cò: con cò lặn lội bờ ao; con cò bay lả bay la; con cò trắng bạch như vôi; con cò bay bổng bay cao; con cò kỳ; con cò quăm…; cái cò lặn lội bờ sông. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân lao động lại hay nhắc đến con cò như vậy. Như Vũ Ngọc Phan từng nhận định trong Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam: Trong các loài kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ có con cò thường gần nhiều người nông dân hơn cả. Những lúc cày cuốc, cấy hái, người nông dân Việt Nam thường thấy trên đồng lúa bát ngát, con cò đứng trên bờ ruộng rỉa lông rỉa cánh, ngắm nghía người nông dân làm lụng.
Ví dụ:
Một đàn cò trắng bay tung
Đôi bên nam nữ, ta cùng hát lên!…
Trong khi lao động vất vả, thấy đàn cò trắng cùng nhau sum họp, người nông dân lại cất lên những câu ca dao trữ tình, thắm thiết:
Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như Cuội nhớ trăng.
Sự đoàn tụ của đàn cò là hình ảnh ẩn dụ cho niềm mong ước được gần gũi và tâm tình với nhau của những người lao động chất phác, hiền lành. Trong con mắt của người lao động thời xưa, con cò và những con chim đồng loại với nó như con bồ nông, con hạc, con vạc có tình bạn thắm thiết với nhau, chúng túm tụm sum họp với nhau đều có sự gần gũi với cảnh tình của người nông dân. Số phận “con cò lặn lội bờ sông” cũng tựa như số phận những con người lao động ngày đêm vất vả lao động để làm ra hạt thóc hạt gạo thế nhưng lại hẩm hiu, bèo bọt:
Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác, xuống ghềnh bấy nay.
Hình ảnh “con cò” chính là hình ảnh những người nông dân Việt Nam cần cù, chăm chỉ, chất phác, kiên cường, luôn bền bỉ nhẫn nại cả trong lao động sản xuất lẫn trong đấu tranh chống những thế lực đàn áp mình:
Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con
Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà.
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, ngoài nghề nông, người dân còn làm nghề buôn, nghề thủ công. Không kể người dân ở bất kì ngành nghề gì, bọn giai cấp thống trị tham lam, độc ác, chúng không vơ vét, bóc lột tận xương những người dân khốn khổ:
Cái cò cái vạc cái nông
Ba cái cùng béo, vặt lông cái nào!
Vặt lông cái vạc cho tao!
Hành, răm, nước mắm bỏ vào mà thuôn.
Chúng sẵn sàng bóc lột, tra tấn thậm chí là giết chóc nhẫn tâm có khi chỉ vì một lí do cỏn con:
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày dẫm lúa nhà ông, hỡi cò?
Không không tôi đức trên bờ
Mẹ con các diệc đổ ngờ cho tôi!
Cũng có khi, hình ảnh “con cò” được dùng cho những kẻ xấu như những kẻ hay ăn quà như “con cò ky”; những kẻ hay đánh vợ như “con cò quăm”:
Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
(…) Có đánh thì đánh sớm mai
 Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm!
Con bống (cái bống, cá bống): là hình ảnh tiêu biểu thường xuyên xuất hiện trong ca dao Việt Nam. Theo Vũ Ngọc Phan, đối với người Việt, nếu như con cò có thể là hình ảnh nói chung của người dân lao động, có thể là nam hoặc nữ; thì cái bống hay con bống là biểu tượng đặc trưng cho người thiếu nữ hay thiếu phụ.
Ví dụ:
Cái bống cõng chồng đi chơi
 Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng.
Chú lái ơi, cho tôi mượn cỗ gầu sòng,
Tôi tát nước cạn cho chồng tôi lên.
Các con vật khác: các con như con nhện, con tằm, con tép, con tôm, con tép, con cua, con cóc, con gà, con rùa, con tò vò, con cá, con chim, ong, bướm, loan phượng… dùng để ví với người dân lao động thời xưa.
Ví dụ:
Lươn ngắn lại chê trạch dài
Thờn bơn méo miệng, chê trai lệch mồm.
Hay:
Xa xôi dịch lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
Chuồn chuồn mắc phải tơ vương
Nào ai quấn quýt thì thương cho cùng.
(iii) Biểu tượng “CÂY
Cây trúc, cây mai: Hình ảnh trúc, mai là những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt và cũng xuất hiện rất nhiều lần trong ca dao. Được mượn để nói về con người.
Ví dụ:
Em vin cành  trúc, em tựa cành mai
Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng.
Trong ca dao, khi trúc đứng một mình, thường đó là biểu tượng cho người con gái xinh đẹp, thướt tha, duyên dáng:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh
Hình ảnh trúc mai quấn quýt bên nhau chính là ẩn dụ cho tình cảm đôi lứa thắm thiết, mặn nồng của người dân lao động:
Hôm qua sum họp trúc mai
Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm.
Mượn hình ảnh trúc mai, tác giả dân gian khéo léo lột tả nhiều cung bậc cảm xúc, tình cảm của những đôi lứa yêu nhau: Có khi đó là lời nhắn nhủ, niềm hy vọng (Đợi chờ trúc ở với mai/ Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng); Cũng có khi đó là tâm trạng vui mừng, hân hoan (Trầu này trúc, cúc, mai, đào,/ Trầu này thục nữ anh hào sánh đôi); Có khi nó thể hiện ước mơ sum họp của tình yêu (Bao giờ sum họp trúc mai/ Lòng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm); Là tâm tình gửi gắm (Tìm nơi trúc tốt mai xanh/ Tìm nơi bóng cả lắm ngành dựa nương); Cũng có khi mai trúc tượng trưng cho nỗi buồn của con người (Gió đưa cây trúc ngã quỳ/ Ba năm trực tiết, còn gì là xuân!); Cũng có khi đó là những lời trách móc, giận hờn nhau (Những là lên miếu xuống nghè/ Để tôi đánh trúc, đánh tre về trồng). Có thể thấy, hình ảnh trúc, mai trong ca dao Việt Nam thường được dùng để ví với đôi bạn trẻ, cho tình yêu lứa đôi. Mượn hình ảnh trúc, mai, người dân xưa đã khéo léo nói lên tâm trạng của chính mình một cách tinh tế, ý nhị.
Các loại cây khác: Các cây như quế, hương, mận, đào, cây đa, cây tùng, cây xoan đào, cây liễu, chanh, cam, lê lựu, gừng, bòng, cau trầu,… tượng trưng cho người dân lao động.
Ví dụ:
Hai bên bên liễu bên đào
Mặc tình ý bạn thương bên nào thì thương.
Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ cho cành có hoa. 
Vên vên cứng, dành dành cũng cứng
Mù u tròn, trái nhãn cũng tròn
(iii) Một số biểu tượng khác
Trong ca dao, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam được các tác giả dân gian sử dụng rất khéo và tinh tế để tượng trưng cho người dân lao động, để gửi gắm những tâm tư, tình cảm thầm kín của họ vào những câu ca dao mượt mà, đằm thắm, trữ tình. Đó là hình ảnh thuyền bến, bờ sông; hình ảnh của mây, núi, gió, trăng; hình ảnh rất mộc mạc của hạt gạo, nước cà, bát sứ, bát đàn, của gối chăn, gương lược; hình ảnh của giếng nước, mảnh chĩnh, cái chuông; hình ảnh cây đa, con đò; v.v…
Ví dụ:
Em thương ai nấp bụi nấp bờ
Sớm trông đò ngược, tối chờ đò xuôi
Thuyền anh đậu bến lâu rồi.
Vì chuôm cho cá bén đăng
Vì tình nên phải đi trăng về mờ.
Tiếc thay hột gạo tám xoan
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.
Tiếc thay cái giếng nước trong
Để cho bèo tấm, bèo ong lọt vào.
Khen ai khéo đúc chuông chì,
Dáng thì có dáng, đánh thì không kêu.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
3. Kết luận
Ca dao Việt Nam đã mượn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc của cuộc sống làng quê (cây cỏ, hoa lá, con vật, các vật dụng thường ngày) để nói về con người từ hình thức bên ngoài đến những nỗi niềm thầm kín bên trong. Điều này thể hiện rõ nét văn hóa tinh tế trong đời sống tinh thần của người dân Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội.
2. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (2003), Văn học Việt Nam văn học dân gian những công trình nghiên cứu (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội.
3. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) (2006), Phong cách học tiếng Việt (Tái bản lần thứ sáu), NXB. Giáo dục Hà Nội.
4. Mã Giang Lân (tuyển chọn và giới thiệu) (2009), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
6. Nhiều tác giả (2001), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (Tái bản lần thứ tư), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam (Tái bản lần thứ hai), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Vũ Ngọc Phan (2007), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười lăm có sửa chữa và bổ sung), Nxb Văn học, Hà Nội.
1. http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/1607/37/: Phan Mậu Cảnh
2. www.thivien.net
3. www.google.com
4. www.wikipedia.com: ca dao dân ca Việt Nam.
14/2/2020
Trần Thị Minh Thu
Nguồn: Bài viết đã in trong “Ngôn ngữ và 
Đời sống“, số 4 (234)-2015
Theo https://thanhdiavietnamhoc.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...