Bốn lần leo núi Tản
Núi sông có tiếng gọi tuy âm thầm nhưng vang vọng rất sâu vào
tàng thức cộng thể. Đấy là ngôn ngữ tối cổ đọng lại, phả vào dòng lịch sử, khuấy
động tiềm thức dân tộc, có khi tạo nên những cơn xoáy huyền sử rất khó vượt
thoát.
Tôi đi vào cơn xoáy huyền sử lần đầu với Vũ Hoàng Chương ở tuổi
mười lăm, mười sáu...Giữa cơn mưa lộp độp rơi trên mái tôn một ngày tháng năm
Sài Gòn, nhân nói về thi hào Tản Đà, ông thầy họ Vũ cao hứng bàn về bài thơ chả
chim và ca tụng món chim xanh nước chả ở vùng quê hương núi Tản sông Đà. Ông dẫn
chúng tôi tiếp đến cuộc leo lên "núi thắt cổ bồng" một ngày
tiền chiến.
Hồi ấy muốn leo lên núi Tản rất khó, tuy chỉ cách Hà Nội có mấy
chục cây số nhưng phải "xuống sông Đà Giang đi đò từ bờ này sang bờ
kia mới lên đươc núi Tản. Khúc sông Đà khoảng này khá rộng và màu nước đen rất
độc, ai uống phải có thể chết phải vì lá cây rừng độc từ mạn ngược rơi xuống tụ
lại ở khúc này. Mặt nước mênh mông mà chỉ có một con đò, muốn đi đò phải đánh
trống để anh lái đò nhà ở bờ kia nơi chân núi Tản nghe tiếng trống mới chèo đò
sang đưa khách. Chờ đợi như vậy mất cả buổi! Từ Đền Hạ lên Đền Trung rồi leo
lên Đền Thượng phải mất một ngày, đường dốc rất khó đi nhất là lên Đền Thượng ở
đỉnh núi phải nhờ mấy ông người Mường cõng lên vì họ quen leo núi.
Lên tới đỉnh núi thấy một ngôi đền nhỏ rất cổ từ đời nhà Lý,
cột gỗ đã mục, còn lờ mờ đọc ra ba chữ "Bạch Xỉ Tự". Gần đấy có ba
phiến đá, một phiến lớn, hai phiến nhỏ, trên mặt phiến đá lớn còn nét phai mờ
như một bàn cờ tiên!
Năm vua Tự Đức ngự giá Bắc tuần, ngài tới thăm đền và ngủ lại
một đêm. Đêm ấy ngài nằm mơ thấy một vị thần mặc áo đỏ đội mũ cánh chuồn tay bế
một đứa bé dâng lên vua. Đoàn tùy tùng hộ giá giải rằng vị thần mặc áo đỏ là thần
núi Tản, đứa bé bồng trên tay là nhân sâm, vì ở nước ta chỉ có núi Tản là trồng
được nhân sâm loại quý. Thời tiền chiến cuốn sổ ở đền còn giữ được ngự bút của
nhà vua..."
Bẵng đi mười năm, từ tuổi học trò đi vào tuổi thanh niên thời
mạt pháp, hình ảnh thánh Tản và "núi thắt cổ bồng" cũng bị
cát bụi và bom đạn che khuất đi. Cho đến khi gặp đại bốc sư Ba La thì câu chuyện
thi vị kỳ bí từ tàng thức lại chồm dậy như một con sư tử vươn bờm gầm lên trong
huyền sử.
Lần này, 1968, tôi leo lên "núi thắt cổ bồng" với
một vị túc nho đã gần 100 tuổi. Cụ Ba La xem Tử Vi Bốc Dịch ở đường Nguyễn Phi
Khanh, Đakao, Sài Gòn. Cụ là hình ảnh tiên phong đạo cốt còn sót lại ở thời đại
máy nổ bụi xe. Tóc bạc phơ búi củ hành, vầng trán cao rộng và mười ngón tay đã
khô và dẹp xuống.
Cụ ngồi trên sập gỗ, khách vào cụ đứng lên mặc áo dài trắng tiếp
khách, nghiêm cẩn giữ lễ đứng đắn của cổ nhân. Mắt cụ đã lòa nhưng tinh thần và
trí nhớ còn tốt. Cụ nói đùa: "Anh nhìn tướng tôi xem có phải là tướng
thầy bói không!" Dường như cụ xuất thân cử nhân Nho học, hoạt động
trong Đông Kinh Nghĩa Thục, bị Tây bắt tù, có thời lưu lạc sang Tàu học được
khoa Tử Vi Bói Dịch ở đấy...Tên Ba La là tên hiệu lấy từ làng Ba La, tỉnh Hà
Đông, ngoại thành Hà Nội.
Sau khi xem Tử Vi và quẻ dịch, cụ nói rất vắn tắt, chỉ đoàn
toàn diện và định mức độ của lá số: như số này làm tới cấp gì, số kia là số tứ
trụ v.v..Cụ cười và kể "ai ngờ Vi Văn Định gốc thiểu số mà làm tới tứ trụ," hồi
ở Hà Đông, ông Võ thường lui tới..."ông Hồ chỉ thành công khi đổi sang họ
Hồ vì ứng với Hồ tinh...các ông xuất ở miền chỉ có núi cao mà không có sông
dài, đất lại hẹp, âm dương bất quân bình nên chỉ bộc phát bộc tàn, không
lâu..."
Nghe cụ kể chuyện rải ổi xanh lên đường cho lính Tây ngã thời
Tây mới xâm lăng vì quan quân ta thấy Tây mặc quần thẳng nếp nên tưởng người
Tây không có đầu gối dễ bị trượt té, tôi bất chợ hỏi: "Thưa cụ có phải
vua Tự Đức sửa cả Truyện Kiều và Sấm Trạng Trình không?”
Và từ lúc này, nhân ngày đầu năm Mậu Thân vắng khách, một già
một trẻ đi vào huyền sử "Bảo Sơn thiên tử xuất"...Bảo Sơn chính
là núi Tản "núi thắt cổ bồng mà có thánh sinh". Vua Tự Đức
hay chữ đọc sử sách tất biết tổ sơn của đất nước là núi Tản (Ba Vì). Trong Địa
Dư Chí của Nguyễn Trải cũng chép như vậy...
"Trên mặt bình nguyên bỗng đột ngột ba ngọn núi cao vọt
tới mây xanh, chính là nơi long mạch đại địa tụ lại, làm cái án che đất Thăng
Long vô chiến địa...Nguyên phận dã thiên văn của nước Việt chỉ vào tới Thanh
Hóa, từ Nghệ trở đi là đất ngoại biên có nhiều ma khí. Đời Đường cử Cao Biền
sang Việt Nam (năm 865) để đánh giặc Nam Chiếu và phá yểm các huyệt quý, khi lập
đàn để dụ thánh Tản, thì thấy mấy thánh cưỡi mây xanh nhổ bọt xuống đàn...Cao
Biền về tâu là thánh Tản thiêng quá không trừ được."
"Hồi trẻ tôi (cụ Ba La) có leo lên đỉnh núi, đỉnh lúc
nào cũng có mây xanh bao bọc, như thời này máy bay cũng không thấy, đỉnh cao
như vậy mà lại có ao nước ở trên, đời Lý cho xây một ngôi đền "Bạch Xỉ"
dựa vào vách núi".
Trong Sấm Trạng Trình có câu
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả phù hữu trì cây cỏ làm binh Thầy Nhân Thập là thánh Tản, năm chữ thập và một chữ nhân là
chữ Tản, thánh tản là một trong tứ bất tử của Việt Tộc, cũng như Phù Đổng, Liễu
Hạnh,
Chữ Đồng Tử...các ngài chẳng chết bao giờ, lúc nào cũng ẩn hiện để phù hộ nhân gian. Tôi thì già rồi không được thấy thánh xuất, nhưng thời các ông sẽ được gặp Thánh...Sấm viết "lại nói sự Đà Giang sinh thánh" thì vua Tự Đức sửa lại là "lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh" vì Hoàng Giang là con sông gần nơi phát tích nhà Nguyễn...đời sau không biết cứ thế chép sai đi...".
Chữ Đồng Tử...các ngài chẳng chết bao giờ, lúc nào cũng ẩn hiện để phù hộ nhân gian. Tôi thì già rồi không được thấy thánh xuất, nhưng thời các ông sẽ được gặp Thánh...Sấm viết "lại nói sự Đà Giang sinh thánh" thì vua Tự Đức sửa lại là "lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh" vì Hoàng Giang là con sông gần nơi phát tích nhà Nguyễn...đời sau không biết cứ thế chép sai đi...".
"Ngôi đền núi Tản do sư Vạn Hạnh đời Lý xem phong thủy
mà cho dựng. Sư là một nhà tiên tri biết trước việc cả ngàn năm sau. "Lý
đi rồi Lý lại về", khoảng ngàn năm sau nhà Lý lại có hậu duệ hóa thân của
Tản Viên sơn thần xuất thế. Vạn Hạnh dựng đền Bạch Xỉ, năm trăm năm sau Trạng
Trình ghi vào sấm, theo khoa thiên văn của Tuyết Sơn Hy MÃ còn truyền lại trong
nhà chùa chứ chẳng có sách Thái Ất Thái Giáp gì cả."
Tôi gạn hỏi "thưa cụ thế câu dục thức thánh nhân
danh...là gì, cháu chiết tự mãi cũng không ra..", cụ ghé vào tai nói nhỏ
"thánh nhân gốc họ Lý tên là...ông phải giữ kín, thời nay tiểu nhân ma
vương hoành hành, thánh có thể xuất ở đây mà cũng có thể xuất ở Tàu, địa vực cũ
của Việt tộc.."
Thấy cụ đã mệt và cuộc leo núi cũng đã tới ngọn về huyền sử,
tôi cáo từ ra về, giữa tiếng súng lác đác và ánh nắng rung rinh trên cành cây một
ngày Tết tàn năm Thân.
Cổ nhân dùng chữ "Trẻ tạo" thật thâm thúy, Tạo Hóa
nhiều khi tinh nghịch như trẻ con, thế nhân muốn cục kẹo lại cho cục đá, cần mỹ
nhân lại gặp dạ xoa, muốn đi thăm một ngọn núi ngay trên quê hương mình cũng phải
chờ đợi gần nửa thế kỷ! mà vẫn chưa xong!
Năm 1993, khi máy bay đáp xuống Nội Bài, Sơn Tây, nhìn ra cửa
kính thấy ngay ba ngọn núi nằm giữa ruộng đất bằng phẳng, tôi vẫn chưa chắc hẳn
đấy là "núi thắt cổ bồng", ngọn núi thiêng mà Nhất Linh đã mô tả
là "nguy nga đồ sộ", cao tới gần 1300 mét hay 4000 feet. Từ đất Thăng
Long đi xe hơi tới núi Tản cũng chỉ mất khoảng nom hai tiếng dù đường xấu. Tới
Ao Vua là nơi thánh Tản theo truyền thuyết thường tắm ở đây với Ngọc Hoa công
chúa con vua Hùng vương thứ 18. Thác nước không lớn lắm nhưng bọt nước trắng từ
triền núi đá rơi xuống làm thành một ao nước torng, đám thanh niên học sinh vài
chục người chơi đùa đuổi nhau trên những phiến đá lớn. Nơi đây trở thành một
trung tâm nghỉ mát có nhà nghỉ và quán ăn. Ngồi ăn trưa, một chú bé mời chào
món chim xanh, đã từ chối ba lần, song nhớ tới món chả chim của Tản Đà mà Vũ
Hoàng Chương đã ca tụng 35 năm trức, tôi gọi ăn thử, quả thật thịt rất thơm như
tích lũy được chất trong lành của đồng lúa cỏ cây, mặt dù chỉ quay chứ không nướng
chả.
Thần Tản Viên là Sơn Tinh, là có thật hay là huyền thoại? Dân
gian truyền nhau rằng khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, Nguyễn Tuấn làm nghề
hái củi ở núi Tản, được cây gậy đầu sinh đầu tử và được cuốn sách ướng của Long
Vương trao tặng, ông trở thành vị tướng cột trụ của vua Hùng thứ 18. Vua đã già
mà không có con trai, nên khi Nguyễn Tuấn trở thành phò mã lấy công chúa Ngọc
Hoa xinh đẹp thì ông Sơn Tinh Tinh trở thành người kế vị vua Hùng. Có thể ông họ
Nguyễn đầu tiên torng sự Việt này đã nối ngôi họ Hùng của Lạc Việt trong thời
gian ngắn nên dân gian mới gọi ông là vua.
"Ao Vua" là dấu chứng còn lại của sử tích cách đây
2300 năm là lúc quân Tần Thủy Hoàng xâm lăng nước Việt. Khi thấy Âu Việt ở mạn
bắc châu thổ sông Hồng được Thục Phán lãnh đạo kháng Tần rất thành ông. Thục
Phán có thể là Thủy Tinh, đánh chiếm đất Văn Lang của Lạc Việt và ông Tản Viên
tức là Sơn Tinh chống trả lại rất mãnh liệt. Sự tương tranh giữa Lạc Việt và Âu
Việt xảy ra giữa lúc cần đoàn kết để kháng Tần, vì thế với phong cách cao cả của
một vị thần tiên, Sơn Tinh đã biến mất sau khi đạt được thỏa hiệp với Thục Phán
tức Thủy Tinh trên đỉnh Đột Ngột Cao Sơn: Thục Phán lên làm vua nước Âu Lạc,
chém đá ăn thề bảo vệ tôn miếu họ Hồng Bàng, cột đá thề nay hãy còn một nửa đặt
trên đền Hùng, một nửa ở thành Cổ Loa, kinh đô mới của Thục Phán.
Sơn Tinh Nguyễn Tuấn, vị vua cuối cùng của Lạc Việt đi đâu, sống
hay chết, không còn sử liệu nào minh chứng. Nhưng trong dân gian thì ông bất tử,
quanh vùng núi Tản sông Đà rất nhiều đền đặt ngai thờ vị nguyên soái của Hùng
Vương thứ 18. Ở mãi vùng Hương Tích cũng có đền thờ một vị tướng khác đã bảo vệ
vua Hùng trong những năm cuối trào. Vì thế khi đi thăm đền thờ thánh Tản có thể
vào lầm những "đềnthờ ngai" rải rác chung quanh Ba Vì.
Hỏi thăm đường lên đền thánh rất ít người biết vì cũng như
bên Trung Cộng, mấy chục người dân chỉ được biết tới Bác này Cụ kia chứ không
còn nhớ tới tổ tông thần thánh nghìn xưa nữa. Bên Tàu thời nay đi vào Trường An
họa hiếm mới có người biết chuyện Kinh Kha và sông Dịch, xuống Quảng Châu nói
Kinh Lục Tổ chẳng còn ai biết nghe...
Đi loanh quanh mãi tới được Đền hạ nay đã đổ nát gần hết, chỉ
còn lỏng chỏng vài ba cây cột, hai con voi sứ lây lất trên nền. Từ đây ra sông
Đà không bao xa, có lẽ là địa điểm gần bến đò xưa người hành hương như vua Tự Đức,
như Vũ Hoàng Chương...đi ngang dòng Bảo Giang đã nghỉ chân trước khi leo lên Đền
Trung và Đền Thượng.
Dưới chân núi là một cánh đồng ruộng, phẳng, phải chăng là
minh đường, thạch bàn mà Trạng Trình nhắc tới? Nhìn những lá cờ đuôi nheo xanh
đỏ phất phới trong gió và đằng xa, dòng sông Đà long lanh mây bạc...độ cảm hoài
man mác như một cánh chim hồng giữa biên giới cổ kim, mộng và thực, bay rất coa
mà không biết dừng ở đâu!
Hỏi thăm đường lên Đền Trung, mỗi người chỉ mỗi lối, không biết
đâu mà tim giữa rừng núi cây lá um tùm với những bụi tre già và đôi ba người Mường
Mán từ đời Hùng đã bám rễ ở đây, đời cha ông họ có lẽ đã cõng người Kinh lên
hành hương đền Thánh cao chót vót kia.
Đi quanh quẩn một hồi theo con đường đất đỏ, tới lưng chừng
núi thì xe bị ngừng lại vì đường lên đỉnh núi đang được khai mở chưa xong!
Chuyến leo núi Tản sau mấy chục năm ao ước rút cuộc vẫn không
thành. Tôi ngừng lại ở chân núi, đi bộ nhìn quanh cảnh bao quát, mắt còn lưu
luyến theo từng còm mây lơ lửng trên ba ngọn núi. Huyền sử giống như những chiếc
rễ làm con người bám sâu vào lòng dân tộc, mỗi lần chạm tới, tiềm thức rung lên
như địa chấn!
Phải đúng bốn năm sau 1997, mới trở lại leo núi tổ lần thứ
tư, lần này vừa tới thành Đại La hôm trước, hôm sau tôi vội vã lên đường đi Sơn
Tây, như sợ chuyện gì bất trắc làm hỏng cuộc hành trình!
Mất hơn một giờ ngồi xe thì tới được chân núi, đi lên một
quãng cao, khí trời mát hẳn, ở đây có trạm nghỉ, và một hồ bơi lớn, nghe nói
mùa hè học sinh đến đây cắm trại rất đông. Thời tiền chiến, người Pháp thường
chọn khu Ba Vì và Tam Đảo để xây nhà nghỉ mát. Rừng cây hang núi quanh núi Tản
sông Đà cũng là nơi lẩn trốn an toàn tránh bom đạn trong thời chiến...Từ trạm
nghỉ, theo đường đất hẹp vừa đủ một xe đi, phải mất hơn nửa tiếng mới lên đến gần
đỉnh núi. Đường dốc cao hoàn toàn vắng vẻ, cây cối hai bên um tùm, những cành
tre già cong xuống đập xoàn xoạt vào kính xe làm mờ đi tia nắng yếu ớt cuối
ngày.
Mỗi một màn kịch của cuộc sống, dù nhỏ bé ngắn ngủi đến đâu
cũng được tạo dựng bằng những nhân tố kỳ lạ: người hành hương đi nửa vòng địa cầu
từ Cali về đất mẹ, người lái xe ngoài ba mươi tuổi sinh trưởng hoàn toàn trong
chế độ Cộng Sản nhưng rất mộ đạo Phật, chiếc xe mui đen của Nga Sô cũ kỹ đã từng
chở các chức sắc cấp ủy viên...Như vậy màn kịch có đủ thành phần ba bên...đang
leo lên một huyền sử dân tộc.. Giả dụ có một người bạn thân cùng đi để tán thêm
về ngoại sử hoặc về lẽ biến dịch tương tức tương tác thì màn kịch có thể sinh động
thêm. Nhưng ở cái thời mạt pháp loạn lạc, và hậu loạn lạc, hồng nhan tri kỷ
cũng khó kiếm, tri kỷ chỉ còn là cái bóng của chính mình!
Khi chọn mỏm núi này để an trú, thánh Tản có lẽ cũng là một vị
cô đơn. Nơi đây chỉ có cây rừng chim muông, những chòm mây lơ lững, dưới xa,
theo hết tầm mắt là con sông Đà uốn khúc về mãi tới vùng Hòa Bình...
Đi quanh sườn núi có lúc con đường hẹp lại một bên là vách
núi, một bên là vực thẳm, giống như đường đèo Đơn Dương Đà Lạt. Thời xưa muốn
leo lên Đền Thượng phải mất cả ngày, quả thật Vũ Hoàng Chương đã không nói
ngoa.
Tới gần đỉnh núi là một bãi khá rộng, có trạm nghỉ và đủ chỗ
cho vài xe đậu. Theo mũi tên chỉ dẫn, bắt đầu đi vào lùm cây dày đặc như một mảnh
rừng, men theo những thân cây cao và những bụi tre già lá reo lao xao trong gió
ngàn. Khoảng mười lăm phút bắt đầu thấy bực đá thô sơ dốc thẳng đứng, là lối
leo lên Đền Thượng trên đỉnh non Tản. Huyền Sử mãi mê từ thuở niên thiếu đang nằm
dưới gót chân. Mỗi một bước, một gần với thánh địa "Bảo Sơn"...nhưng
bực đá mấp mô rất khó leo, bước dài và cao, tay phải vịn vào vực đá. Tôi tự nhủ
thật may mắn nếu để thêm vài năm nữa sợ mắt mờ chân mỏi, dễ gì leo được những bực
đá dốc 90 độ này! Sau cùng, mất hơn nửa tiếng mệt nhọc, rời rã và khát nước, bực
đá cuối...một bước cuối, leo được lên đỉnh tổ sơn, tôi thở ra sung sướng như
người Nhật leo lên đỉnh Phú Sĩ.
Nhô đầu lên khỏi bực đá cuối, tôi thấy một khoảng hẹp bên
vách đá. Đền Thượng và mái lều của hai người thù từ dựa vào vách núi cách nhau
bằng một hồ nước nhỏ hứng nước róc rách chảy từ kẻ vách núi xuống. Đối diện hồ
nước là một mô đá to bằng mặt bàn trên có cắm nhang thờ.
Cấu tạo địa chất của mô đá và vách đá cao giống nhau, khác biệt
hoàn toàn với đất đá khác: những cục sỏi, đá cuội(?) tròn lổn nhổn với đá núi,
có sắc óng như khảm xà cừ, nạm trắng, đen, xanh đậm...Cấu tạo này trên vách đá
nằm thành một phiến dài hình chữ nhật ở giữa, rõ rệt phân biệt với đá núi lớp
trên và lớp dưới.
Theo các nhà khảo cổ thì cách đây 4000 năm đã có một trận đại
hồng thủy ở đồng bằng miền Bắc, dấu ngấn nước lụt còn tìm được ở chân núi miền
Trung Du. Phải chăng trong cơn đại hồng thủy này đất đá bị lộn tung, những phiến
đá từng nằm dưới biển được sóng dội lên cao, hoặc giả có thuyết cho rằng núi Tản
thuở xưa là núi lửa, sức nóng tạo nên loại nham thạch khác thường chăng?
Tuy vậy, nguồn gốc loài người vốn kỳ bí nên huyền thoại là
câu trả lời tương xứng nhất. Những tản đá kỳ lạ trên đỉnh non Tản là dấu tích của
Long Vương từ Thủy Phủ dội lên cao, hoặc của Thủy Tinh để lại sau trận dâng nước...hoặc
cũng giống như tín đồ Hồi Giáo đi hành hương ở Mecca kính cẩn đi vòng quanh Đền
thiêng bên trong có một tảng đá đen "từ Trời rơi xuống". Tảng
đá đen ấy có thể là vẫn thạch, còn ở núi Tản trên khoảng thắc cổ bồng, có hai
phiến đá trông như từ Thủy Phủ đáy biển dội lên! Vì nguồn gốc "nước"
ta luôn luôn dính liền với Nước như Động Đình Hồ, Rồng, Thần Kim Quy...nên hai
phiến đá từ đáy biển trồi lên đỉnh non cao cũng thích hợp với cổ tích huyền sử!
Nhìn thấy Đền Thượng đã xây cất lại không còn dấu tích của
ngôi "Bạch Xỉ Tự" như Vũ Hoàng Chương và cụ Ba La kể chuyện năm xưa,
tôi hỏi người thủ từ ngôi đền mới này có giữ được cổ vật gì thời xưa không?
Theo lời anh ta nói chỉ còn ba pho tượng là của thời xưa, ngoài ra không còn
gì...hỏi tiếp tới bàn cờ đá ở đâu, anh ta chỉ lên phía trên vách đá.
Thì ra nơi đây vẫn chưa là tột đỉnh! phải ra phía sau vách
đá, leo mấy chục bực đá nữa mới lên chót vót non Tản.
Tột đỉnh này có thể nhìn tới khu đập điện lực Hòa Bình và
dòng sông Đà uống khúc chạy vòng về đông nam. Trên đây có thờ Mẫu và mấy phiến
đá nhỏ không giống bàn cờ tiên như lời Vũ Hoàng Chương, hoặc giả thi nhân đi
mây về gió có thể lẫn với bàn cờ đá ở đền Hùng chăng? Đứng trên đỉnh này một
lúc, được hít thở không khí trong lành của Tổ Sơn, nhìn bao quát mênh mông non
nước gấm hoa, chiều đã xuống êm đềm với gió nhẹ trời trong không mây phủ, tôi
thầm nghĩ người xưa lên tận đỉnh này để ngồi chơi cờ quả là công phu kỳ thú!
Trở xuống Đền Thượng ngồi uống trà tán chuyện với ba người bạn
trẻ, hai thủ từ và một hướng đạo - nghe người thủ từ kể mấy chuyện hiển linh xảy
ra trên đền, tôi nẩy ý định vào đền cầu nguyện và xin thẻ.
Ngồi ngay ngắn trên chiếu theo thế bán kiến già, niệm hương
và mắt khép lại, tôi định thần chờ mức giao hưởng giữa tâm người và linh
thánh...Tôi chợt thấy rùng mình như có luồng điện chạy trong người, nghe rõ tiếng
phần phật lắc các như gió thổi vào mành trúc phía sau lưng. Tôi quay đầu nhìn
ra sau, chẳng có mành trúc nào cả và phía ngoài cũng không có bụi tre trúc trước
đền...Tôi tiếp tục khép mặt niệm hương, xin Thánh có một điều... và tôi lại thấy
rùng mình, lại nghe vật vả tiếng gió đập tung mành trúc...tôi quay lại lần nữa
để kiểm sáot...hay là óc tưởng tượng mạnh quá? Hoặc trên đỉnh cao này có luồng
vũ trụ tuyến (cosmic ray) đi qua luồng thần kinh...hay thực có cảm ứng hiển
linh của Thánh trước lòng thành của kẻ suốt bốn mươi năm hằng mong chiêm ngưỡng
linh địa? Vừa leo xuống núi vừa bàng hoàng vì chứng nghiệm cảm ứng mới xảy ra.
Có thật tôi đang sống ở thực tế hay ở huyền sử? Có phải tiếng gió đập sau lưng
là bàn tay vô hình của Thánh hay chỉ là tiếng đi của lá rừng dưới núi dội lên
khi tâm nhập định thì tai nghe được rất xa? Tôi cười thầm, mình đâu đã đoạt tới
mức "thiên nhĩ" mà nghe được tiếng lá mồn một như vậy! Mà không phải
tiếng gió trong bụi tre rào rào lắc cắc, mà mành mành thì trên đền không có, chỉ
có khung cửa lớn vừa bệ bàn thơ, bề ngang độ hơn chiếc chiếu.
Xuống tới bực cuối thì trời đã nhá nhem tối...Cây lá trong rừng
đậm lại, im lặng bốn bề. thời xưa và bây giờ, dân chúng còn sùng tín đức Mẫu
Ngàn cũng là tâm lý tự nhiên vì núi rừng toát ra một khí thiêng thần bí như
không phải là địa vực của con người!
Về tới Thăng Long vô chiên địa, nhà phố đã lên đèn. Ngày mai
còn đi thăm nốt đền Bạch Mã thờ Thần Sông Tô Lịch là linh thần của đất đế đô
này. Không chắc gì đã có dịp trở lại Tản Viên lần nữa, nhưng khi mở máy ảnh thấy
rỗng vì quên lắp phim, tôi lại vọng tưởng hay đây là thánh ý tạo cơ duyên, khiến
mình phải leo núi Tản thêm một lần nữa, lần thứ năm, vào lúc "Bảo Sơn
thiên tử xuất"?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét