Diên Khánh
Tôi sinh ra và lớn lên ở một
nơi mà tên gọi trong sách địa lý và trong giấy tờ chỉ gồm hai chữ: Diên Khánh;
nhưng trong thông dụng thì chỉ có một chữ thôi: Thành. Tất nhiên, khi nói chuyện
với người miền xa, như người Bắc, người Lục Tỉnh, tôi thường tự giới thiệu là
người Khánh Hòa, hay Nha Trang, để họ dễ nhận ra. Nhưng với người trong tỉnh,
hoặc những tỉnh lân cận, thì tiếng Thành vẫn rõ hơn.
Chị ở đâu? Tôi ở Thành. Xe
này có chạy lên Thành không? Có, chạy qua Thành, tận Suối Dầu lận.
Trong những trường hợp kể
trên, địa danh Diên Khánh sẽ không chính xác. Diên Khánh là một quận gồm nhiều
xã còn thành Diên Khánh hay vắn tắt là Thành là một địa điểm của quận Diên
Khánh, nằm bên phải quốc lộ 1, cách Nha Trang 11 cây số, trên đường đi về Nam.
Ngày xưa, Diên Khánh là phủ
lỵ của phủ Diên Khánh, nên các quan trấn nhậm đã có xây thành trì để phòng thủ.
Dưới triều Minh Mạng, năm 1832, hai phủ Diên Khánh và Bình Khang hợp nhất thành
tỉnh Khánh Hòa; Diên Khánh trở thành tỉnh lỵ và thành trì được củng cố từ đó.
Nhưng qui mô và hình tích thành Diên Khánh mà ta thấy ngày nay thì chỉ mới xây
cách nay vừa đúng 100 năm, hoàn tất vào khoảng cuối năm 1893. Cứ theo lời các cụ
già trong vùng thì thành vẫn được giữ nguyên hình dạng như khi mới xây xong, chỉ
mất đi những chòi canh, những pháo đài, và những dinh thự bên trong.
Hồi còn nhỏ, từ bên ngoài
vào trong nội thành để học trường tiểu học, tôi vẫn do cửa Đông ra vào. Mỗi lần
đi bộ qua dưới cái cổng vòng cung xây bằng gạch, tôi vẫn cố đi thật nhanh để khỏi
bị đè bẹp nếu có sập đúng vào lúc tôi đi qua. Cổng hẹp, hai chiếc xe du lịch phải
khéo lắm mới tránh nhau được ngay chỗ cổng. Cổng hẹp mà thành lại dày (có lẽ dưới
chân phải đến 15 thước), nên đứng bên này trông sang bên cũng có vẻ hun hút lắm.
Đến khi lớn hơn chút ít, có
dịp đi xe lửa chui qua những cái hầm thăm thẳm tối đen, tôi hết sợ và hết rảo
bước mỗi khi đi qua cửa Đông. Tôi còn nhớ một lần, hồi ấy có lẽ tôi đã hơn mười
tuổi, đi qua đó với anh tôi, tôi còn dừng lại dùng phấn viết hai chữ Cửa Đông
lên tường. Anh tôi hỏi: “Em hết sợ nó sập rồi sao?”. Tôi không đáp, nhưng vẫn
nhớ mãi chuyện ấy cho đến bây giờ. Hình như trong thâm tâm, tôi vẫn thích sợ
cái cổng thành ấy hơn là không sợ. Hình như khi cửa Đông không làm cho tôi sợ nữa,
nó đã mất lần sự thân thiết đối với tôi. Thật là nghịch lý, nhưng mà thật. Mỗi
lần đi qua đó, tôi không quay lại nhìn như trước kia nữa. Và mỗi lần như thế,
tôi cứ ngậm ngùi lo lắng rằng nhiều năm sau nữa, khi tôi lớn lên nhiều nữa,
thành người lớn, thành người già, tôi sẽ quên cái cửa Đông ấy đi, tôi sẽ quên hẳn
nó đi...
Cứ theo con đường ngang từ
quốc lộ 1 đi vào cửa Đông (ngày xưa là đường Trịnh Minh Thế, bây giờ gọi là Lý
Tự Trọng), rồi đi mãi qua phía bên kia thành, ta sẽ gặp cửa Tây. Có lẽ khi mới
xây, thành Diên Khánh cũng có đủ bốn cửa Đông Tây Nam Bắc, nhưng về sau, cũng
theo lời các cụ già, hai cửa Nam Bắc được bít lại để tiện việc phòng thủ. Trong
thời thuộc Pháp, tỉnh lỵ Khánh Hòa được dời xuống Nha Trang, việc bố phòng cho
Diên Khánh không còn nghiêm nhặt như trước nữa, con đường xuyên qua hai cửa
Đông Tây trở thành trục giao thông chính cho nội ngoại thành và cho cả vùng lân
cận phía Tây.
Năm tôi học lớp Tư (Dự bị)
trường tiểu học trong thành, hồi ấy tôi bảy tuổi, một hôm thầy giáo bịnh mà
không có người dạy thay, học trò ngồi không làm ồn quá, thầy hiệu trưởng phải
cho cả lớp nghỉ. Học trò ai về nhà nấy, mà rủ cũng không ai đi, tôi một mình lững
thững đi ra phía cửa Tây, đến chỗ cổng nhà thờ Hà Dừa, rồi quay đầu lại nhìn thật
kỹ phía bên ngoài thành. Về sau, có dịp đi qua lại hai cửa thành nhiều lần, tôi
nhận thấy hai cửa không khác gì nhau, nhưng hôm ấy, lần đầu nhìn thấy cửa Tây,
tôi thấy nó khác lắm, khác với cửa Đông nhiều lắm. Nó có vẻ tối hơn, xù xì hơn,
và chẳng quen thân gì với tôi hết cả!
Tối hôm ấy, khi nghe tôi kể
chuyện đi một mình ra cửa Tây và đến tận cổng nhà thờ Hà Dừa, anh tôi trợn mắt:
“Trời ơi, mày dám đi một mình à?”
Các bạn có biết rằng đường từ
cửa Đông tới cửa Tây chưa tới một cây số, và nhà thờ Hà Dừa rất gần cửa Tây
không? Nhưng vào thời ấy, một đứa trẻ bảy tám tuổi một mình đi như thế cũng đã
là mạo hiểm lắm rồi!
Trong đời tôi, thành cổ ở Việt
Nam, tôi chỉ mới thấy được có hai: Diên Khánh và thành Huế. Nhưng tôi biết chắc
ai gốc ở Huế, hoặc đã từng trông thấy thành trì của cố đô Huế, thì sẽ nhận ra
thành Diên Khánh nhỏ quá và không có gì đáng nói. Nhưng Thành là của tôi, cửa
Đông là của tôi, nên tôi cứ nhớ hoài.
Cách đây mấy năm, hồi ấy tôi
còn ở Việt Nam, liên quân Hoa Kỳ và đồng minh đang đánh nhau với Iraq, báo chí
truyền thanh truyền hình trong nước, và cả ngoại quốc nữa, đều gọi trận chiến ấy
là chiến tranh vùng Vịnh. Tôi hỏi nhà tôi tại sao trên thế giới có nhiều nơi
khác có vịnh, cũng lớn như vịnh Ba Tư, mà chỉ riêng vùng này được gọi là vùng Vịnh.
Nhà tôi không trả lời ngay, mà hỏi lại tôi: “Thế tại sao có nhiều nơi khác có
thành, mà chỉ riêng quê em được gọi là Thành?” Nhân đó nhà tôi giảng thêm về
thói quen của ngôn ngữ trong việc áp dụng ưu tiên: trong tiếng Anh, tiếng Pháp,
kilo có nghĩa là một ngàn, nhưng về trọng lượng, nói kilo không thôi, cũng đủ để
người ta hiểu là một ngàn gram; micro là rất nhỏ, nhưng khi nói micro không
thôi, thì ai cũng hiểu đó là máy vi âm.
Té ra quê tôi đã được ngôn
ngữ chọn ban cho ưu tiên của thói quen mà mãi đến khi chiến tranh vùng Vịnh xảy
ra, tôi mới có dịp suy ngẫm.
Thành Diên Khánh là một di
tích lịch sử, nhưng trung tâm thị tứ của thị trấn Diên Khánh nằm bên ngoài phạm
vi tòa cổ thành. Một ngôi chợ bán đủ thứ, và quanh chợ có khoảng ba mươi căn phố
cũng bán đủ thứ. Trước 1975, có mấy quán ăn nhỏ của người Việt, còn tiệm ăn lớn
có bảng hiệu và bàn ghế nhiều thì chỉ có một, và chủ là người Tàu. Hình như ở
đây, cái gì hơi lớn một tí, hơi phát đạt một tí, thì là của người Tàu. Tiệm này
bán thức ăn cả Tàu lẫn Việt khá ngon, nhưng điểm đặc biệt là cái tên của nó.
Tên chữ nghĩa văn vẻ của nó viết thật to trên tấm bảng treo trước cửa không ai
gọi tới, người ta chỉ gọi là tiệm A-Ùi. Ai cũng gọi như vậy. Khách phương xa
đôi lần lai vãng, tài xế xe lam chạy đường Nha Trang - Thành, tài xế xe đò chạy
đường Nha Trang - Suối Dầu, khách đi xe, người địa phương... đều gọi A-Ùi. Rồi
A-Ùi kiêm luôn cái mốc để tính tiền xe: từ A-Ùi đi Cầu Dứa, từ cửa Tây tới A-Ùi
v.v...
Hồi còn nhỏ, tôi thường tới
A-Ùi mua cà phê cho anh tôi mỗi khi anh nổi cơn làm biếng, hoặc chỉ có đủ tiền
mua một phin cà phê, ngượng không muốn tới tiệm. Một lần bước vào tiệm, tôi thấy
ông A-Ùi đang cùng mấy người bồi bếp trong tiệm xúm lại trói tay trói chân bà
A-Ùi, mà bà ta thì không có một mảnh quần áo nào cả. Bà ta tự nhiên nổi cơn
điên đập phá, rồi điên mãi như vậy trong nhiều năm, gia đình đã chạy thầy chạy
thuốc cho bà ta rất nhiều, nhưng không khỏi. Khoảng 1970, tôi từ xa trở về thăm
quê, đang đi qua chợ thì gặp bà. Bà ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, cung cách không có
vẻ gì là điên. Những người buôn bán trong chợ nói cho tôi biết khi bà phát điên
cũng như khi bà hết điên, lần nào cũng đột nhiên cả. Đến năm 1979, khi gia đình
người Tàu ấy sắp rời Việt Nam, tôi lại gặp bà A-Ùi. Bà hỏi tôi: “Sao cô chưa
đi?” Bây giờ thì tôi đi được rồi, nhưng không biết gia đình A-Ùi ở đâu để thăm
hỏi.
Đứng chỗ tiệm A-Ùi, tức ngã
ba quốc lộ 1 rẽ vào chợ Thành, ngó về hướng Nha Trang, chỉ trong vòng chưa tới
một cây số, chúng ta có ba cái mốc nữa, từ gần đến xa: Cầu sông Cạn, Cải Lộ Tuyến
và Cây Dầu Đôi.
Có lẽ không có con sông nào
mà tên đúng với thực tế bằng con sông Cạn. Trong mùa khô, ngang chỗ quốc lộ 1
chạy qua, lòng sông gần như không có nước. Dòng nước đứt hẳn, không còn một lạch
nhỏ nào chảy. Chỉ còn những vũng nước lớn nhỏ rải rác đó đây trên một nền đá và
cát thật rộng. Trẻ con có thể chơi đá banh ngay dưới gầm cầu. Hồi còn học trường
tiểu học trong thành, có lần tôi và đám bạn học nữ cùng lớp đã nhận lời thách
thức của bọn bạn học nam, chia phe đi qua cầu sông Cạn thử xem ai tới trước.
Đám con gái chúng tôi đi trên cầu, đi chứ không được chạy; bọn con trai vượt
lòng sông và có thể chạy. Rốt cuộc, bọn con gái chúng tôi thua mà chẳng hiểu tại
sao mình thua, nếu về sau bọn con trai không tự ý khai ra chuyện họ ăn gian. Cầu
xi-măng bằng phẳng dài chưa đến 200 thước, và chúng tôi cũng vừa đi vừa chạy chứ
có đi không đâu, thế mà sao họ lại tới trước trong khi lòng sông lởm chởm những
đá và đầm vũng nước, lại thêm hai cái dốc lên xuống rất khó trèo. Thật ra bọn
con trai dùng mẹo: họ đông quá, chúng tôi không nhớ mặt được, họ làm bộ chạy xuống
ở đầu bên này, nhưng đám ào ra trước chúng tôi ở đầu bên kia đã phục sẵn dưới gầm
cầu bên ấy, chỉ cần leo một cái dốc thôi.
Nhưng chuyện liên hệ đến cầu
sông Cạn mà tôi, và có lẽ cả lớp Nhất trường Diên Khánh năm ấy, không bao giờ
quên được là chuyện ông Trần Quý Cáp bị xử tử.
Cứ theo sách vở thì ông Trần
Quý Cáp bị xử tử lúc đang làm Giáo Thụ Diên Khánh, năm 1908. Thực dân Pháp và
triều đình khép ông vào tội phản nghịch (xách động chống thuế ở Trung Kỳ). Pháp
trường xử chém ông là một bãi cát ven bờ sông Cạn.
Gần nghỉ hè năm ấy, chúng
tôi vừa thi tiểu học xong, nên không còn bài vở gì để học, thầy M. dẫn cả lớp
đi du ngoạn. Khi đến cầu sông Cạn, thầy bảo chúng tôi đứng dồn cả lên lối đi
dành cho bộ hành về phía thượng lưu, rồi chỉ xuống bãi cát phía bên trái, nói:
- Đây là một địa điểm lịch sử.
Chúng tôi nhìn thầy chờ giải
thích. Thầy lấy thuốc ra châm hút vài hơi rồi mới nói tiếp:
- Ông Trần Quý Cáp đã bị xử
chém ở chỗ đó.
Có mấy tiếng nhao nhao hỏi:
Có mấy tiếng cười. Thầy M. cũng
cười:
- Sao trò lại nghĩ là ông Trần
Quý Cáp ở Nha Trang?
- Vì con thấy đường Trần Quý
Cáp dưới đó.
Thầy M. giảng:
- Ông Trần Quý Cáp là người
Quảng Nam, vì ông là danh nhân, nên được đặt tên đường khắp nơi. Nhưng ông bị xử
tử ở đây vì hồi ấy ông làm quan ở đây.
Thầy lại chỉ xuống bãi cát
bên chân cầu:
- Đấy, chỗ kia... Các trò có
thể hình dung được cảnh pháp trường không?
Không ai trả lời thầy, vì tất
cả đang bận hình dung. Chợt A., đứa bạn gái ngồi cạnh tôi suốt năm lớp Nhất,
nói:
- Thưa thầy, ông nội con có
kể lại là ông có đi coi vụ xử đó. Ông nội con nói là xử ở bãi Phú Lộc.
Hình như thầy M. hơi lúng
túng:
- Ở đây chứ... Hồi ấy thầy...
thầy chỉ mới một tuổi, thầy không có đi coi. Nhưng về sau thầy nghe nói lại là ở
bãi này. Hồi ấy chắc chưa có cây cầu này đâu.
Câu chuyện chấm dứt ở đó. Và
mãi về sau này, tìm đọc lại đoạn sử liên hệ, tôi chỉ được biết là ông Trần Quý
Cáp bị xử tử ở bờ sông Cạn, chứ không thấy xác định ở chỗ nào, ở bãi chân cầu
như thầy M. nói, hay ở bãi Phú Lộc cách đó mấy cây số.
Vượt khỏi cầu sông Cạn về hướng
Nha Trang chừng 150 thước, chúng ta sẽ gặp ở phía bên trái một ngã ba rất rộng.
Đầu trong của Cải lộ tuyến đấy! Cải lộ tuyến là con đường tắt, mới làm khoảng
cuối thập niên 60, mục đích là để tránh kẹt cho những xe chạy suốt trên quốc lộ
1 khi phải qua thành phố Nha Trang. Đoạn đường này ngắn, chưa đến mười cây số,
nhưng khi mới làm xong rất rộng và rất tốt, đầu phía nam gần chỗ cầu sông Cạn,
đầu phía bắc kết vào quốc lộ 1 phía ngoài đèo Rù Rì chừng vài chục thước.
Tôi không nhớ đích xác gia
đình tôi đi xe qua đoạn đường mới này lần đầu tiên là vào ngày tháng năm nào,
nhưng chắc chắn chỉ sau ngày khánh thành một vài tuần thôi. Tất cả những tấm bảng
chỉ dẫn hai bên đường đều rất tươi màu, có tấm còn ướt sơn, có tấm còn đang viết
dở... Chuyến ấy, chúng tôi đi từ Quy Nhơn về Thành. Xe vừa qua hết Cải lộ tuyến,
sắp lên cầu sông Cạn, tôi nghe thằng con đầu của chúng tôi nói với em gái kế
nó:
- Đầu kia họ viết Cải lộ tuyến,
đầu này họ viết Cải tuyến lộ.
Em gái nó quay đầu lại nhìn
và reo lên:
- À... à... Cải tuyến lộ,
nhưng đầu kia cũng Cải tuyến lộ vậy!
Những đứa em của chúng chỉ
ngồi nghe vì còn đang học mẫu giáo, không đủ trình độ tham dự một cuộc tranh luận
chữ nghĩa cao cấp như vậy. Nhà tôi đang bận lái xe nhưng cũng hỏi:
- Có thật hai bảng khác nhau
không em?
Tôi không trả lời được, vì
không nhìn thấy. Chuyến trở về, chúng tôi lại quên để ý. Ít lâu sau, có dịp đi
qua đoạn đường ấy, tôi chỉ thấy tấm bảng ghi Cải lộ tuyến ở chân bắc đèo Rù Rì;
chỗ gần cầu sông Cạn không có tấm bảng nào cả. Tôi hỏi nhà tôi, Cải lộ tuyến và
Cải tuyến lộ, cái nào đúng hơn, thì nhà tôi đáp lừng khừng, cái nào cũng được!
Vượt khỏi Cải lộ tuyến chừng
50 thước nữa, chúng ta sẽ thấy bên vệ đường phía mặt ba thân cây thật to, chụm
sát vào nhau, vươn thẳng lên trời. Hai thân thật lớn, kín sát mặt đất chắc phải
trên thước rưỡi, một thân nhỏ hơn một chút. Có lẽ đây là một cái nhánh mọc ngay
ở mặt đất. Hai cây chính rất cao, có thể trên 20 thước, cành không nhiều, lá
cũng không rậm, nên có thể nhìn thấy rõ ngọn dù rất cao.
Câu Dầu Đôi đấy! Đây là một
địa danh, có lẽ không được ghi vào sách địa lý nào cả, nhưng người Thành, người
Nha Trang, ai cũng biết. Đó là một cái mốc trên đoạn đường Nha Trang-Thành,
hành khách cần biết để tính tiền xe: Mả Vồng, Chợ Mới, Cầu Dứa, Phú Vinh, Bình
Cang, Võ Cạnh, Cây Dầu Đôi, A-Ùi.
Nhưng riêng đối với tôi, Cây
Dầu Đôi không phải chỉ là một cái mốc hay một địa danh. Đối với tôi, Cây Dầu
Đôi là một kỷ niệm vô cùng thân thiết. Tôi biết đến Cây Dầu Đôi khi còn rất nhỏ,
trước khi biết đến chợ Thành, cửa Đông, cửa Tây... Tôi sẽ nói cho các bạn biết
tại sao.
Từ sau ngày lập gia đình,
tôi đã có dịp sống ở nhiều nơi không phải là quê nhà, nơi năm bảy tháng, nơi một
vài năm, cũng có nơi lâu đến cả chục năm. Và ở bất cứ đâu, tôi cũng được nghe
những địa danh bằng tên cây: Cây Mai, Cây Gõ (ở Sài Gòn), Hàng Sanh (ở Gia Định),
Cây Duối (ở Mỹ Tho), nhưng không ở đâu tôi thấy còn những cây ấy hết cả.
Nhưng Cây Dầu Đôi của tôi vẫn
còn đó. Không ai biết chắc Cây Dầu Đôi mọc lên ở chỗ đó từ bao giờ, nhưng chắc
đã lâu lắm rồi, có thể từ cuối thế kỷ trước cũng nên. Tôi nghe cậu tôi nói ông
đã thấy cây dầu ấy từ hồi còn nhỏ, lúc ấy cây dầu chỉ mới cao chừng năm sáu thước.
Nếu còn sống đến nay, cậu tôi đã ngoài trăm tuổi.
Bây giờ tôi kể cho các bạn
nghe kỷ niệm của tôi. Tôi mồ côi cha từ năm lên ba. Sau ngày cha tôi qua đời,
gia đình tôi bắt đầu sa sút. Hằng ngày mẹ tôi phải dậy thật sớm để xuống Nha
Trang đứng bán hàng cho một sạp vải. Đến năm giờ chiều mẹ tôi mới về tới nhà.
Suốt hơn 10 năm trời, chiều nào cũng như chiều nào, tôi đều đi đón mẹ từ Nha
Trang về. Vài năm đầu, tôi đón mẹ ở cổng. Năm sáu tuổi, tôi đón mẹ ở A-Ùi. Bảy
tuổi trở lên, tôi đón mẹ ở Cây Dầu Đôi. Khi tôi tự ý dời chỗ đón xa đến tận Cây
Dầu Đôi, mẹ tôi cũng có rầy la chút ít, nhưng về sau, hễ thấy tôi đứng chờ ở
đó, mẹ tôi xuống xe cùng tôi đi bộ về nhà. Mấy anh chị tôi có nói thì mẹ tôi gạt
đi:
- Em nó có thương mẹ thì mới
ra đó đón. Với lại mẹ cũng muốn đi bộ một đoạn cho khỏe. Cả ngày quanh quẩn
trong sạp, tù túng quá...
Thế là từ đấy, suốt năm sáu
năm trời, trừ những chiều mưa hay những ngày mẹ tôi không đi bán vì bệnh hay bận
việc cúng giỗ, chiều nào tôi cũng ra đứng chỗ Cây Dầu Đôi chờ mẹ, để được cùng
mẹ đi về nhà. Trên đoạn đường non một cây số ấy, mẹ kể cho tôi nghe những chuyện
ở sạp vải, ở chợ Đầm, và tôi kể cho mẹ nghe những chuyện ở nhà, ở trường.
Một hôm mẹ tôi về muộn hơn
thường lệ đến cả tiếng đồng hồ. Chị cả tôi nóng ruột chạy ra, thấy tôi đang đứng
dựa gốc dầu mà khóc. Chị mủi lòng cũng khóc theo, nhưng cố nói đùa:
- Ê, lớn rồi đừng khóc nữa!
Lỡ có thằng bạn học nào đi qua nó thấy, mai nó đồn rùm cả trường nghe cho mà xấu
hổ.
Rồi chị đẩy tôi vào sát gốc
dầu, lấy tay gang để đo:
- Chị nhớ hồi em mới ra đây
đón mẹ, em chỉ cao ngang cái bướu này, bây giờ em đã cao hơn nó cả gang rồi, thấy
không?
Phải, chị tôi nói đúng. Tôi
cao lên, cây dầu cũng cao lên. Nhưng hình như cây dầu chỉ cao lên thêm ở phần
trên ngọn thôi. Cục bướu mà chị tôi dùng làm mức để đo tôi hồi ấy, mãi về sau
này cũng chỉ cách mặt đất độ một thước thôi.
Một buổi chiều, tôi rủ
nhà tôi đi dạo loanh quanh trong vùng, nhưng chủ ý là trở lại thăm Cây Dầu Đôi
lần cuối cùng. Dạo ấy, ngang chỗ Cây Dầu Đôi phía bên kia đường có một ngôi
quán bán chè. Chúng tôi vào đó ngồi, gọi chè ăn, để có thì giờ nhìn cây. Nhưng
mái quán thấp, mà cây thì quá cao, chúng tôi phải ra đứng trước cửa quán mới
trông thấy ngọn cây. Tôi kể lại chuyện đứng chờ mẹ cho nhà tôi nghe. Tôi nhớ
tôi đã kể nhiều lần rồi, nhưng vẫn kể lại. Trước khi quay về, nhà tôi kéo tôi
băng qua đường, bước lại sát gốc dầu, chỉ vào cục u trên thân cây, hỏi:
- Cái bướu này phải không?
Bây giờ em cao hơn nó không phải chỉ một gang, mà hai ba gang rồi đấy.
Nhà tôi cười, tôi cũng cười
theo, nhưng trong lòng không thấy vui.
Mẹ tôi qua đời đã lâu. Nhưng
cây dầu vẫn còn đó. Và có lẽ nó sẽ còn ở đó mãi mãi. Bây giờ dù có muốn, tôi
cũng không thể nhìn thấy nó. Có bao giờ tôi lại được nhìn thấy Cây Dầu Đôi của
tôi không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét