Một chút lịch sử về Qui Nhơn - Bình Định
Tháp Đôi - Qui Nhơn
Bình Định vốn đất cũ của Chiêm thành. Theo sách "Đồ Bàn
ký" của Hoàng giáp Nguyễn văn Hiển, triều Minh Mạng thì sau khi bị vua Lê
Đại Hành đánh lấy thành Địa Rí (982), vua Chiêm thành là Xá Lợi Đà Ngô Nhật
Hoán chạy vào đây đóng đô mới đặt tên là Đồ Bàn (địa danh trước đó là gì không
rõ). Nhật Hoán hiệu là Đồ Bàn (Chô Pan) nên lấy hiệu mà đặt tên cho thủ đô.
Từ dời đô vào Đồ Bàn, nhờ sông núi hiểm trở, thành trì vững
chắc, người Chiêm thành đã ngăn được bước tiến của quân xâm lăng và giữ nước được
gần 5 thế kỷ.
Năm Giáp Thân (1284), quân Chiêm thành đã đánh lui 10 vạn
hùng binh của nhà Nguyên do Toa Đô thống lĩnh và kéo từ Trung quốc theo đường
thủy vào cửa Thị nại.
Năm bính Thìn (1376), vua Trần Huệ Tông cử 12 vạn quân, vừa
thủy vừa bộ, vào đánh Đồ Bàn. Chế Bồng Nga làm cừ sắt ngoài thành, bày kế dụ địch
giết được vua nhà Trần và đánh tan rã cả quân thủy bộ.
Năm Quý Mùi (1403), Hồ Hán Thương sai tướng đem 20 vạn quân với
chiến cụ đầy đủ, vào nỗ lực vây đánh thành Đồ Bàn ngót hai tháng trời, nhưng rốt
cuộc bị người Chiêm phản công kịch liệt, phải rút quân về nước.
Đó là những thời oanh liệt của người Chiêm thành nói chung và
của đất Đồ Bàn nói riêng.
Nhưng đến năm Canh Thìn (1470), vua Chiêm thành là Trà Toàn đem quân ra đánh phá Hóa châu, vua Lê Thánh Tông phải cầm quân đi đánh dẹp, Trà Toàn đại bại rút quân về giữ Đồ Bàn. Vua Lê Thánh Tông thừa thắng đuổi đánh, quân Chiêm chống không nổị Trà Toàn bị bắt và đất Đồ Bàn bị quân ta chiếm cứ. Vua Lê Thánh Tông cho sát nhập vào Đạo Quảng nam phần đất của Chiêm thành mới đánh lấy được, và đặt tên phần đất mới này là Phủ Hoài nhơn với ba huyện trực thuộc là Bồng sơn, Phù ly và Tuy viễn. Phủ lỵ đóng tại thành Đồ Bàn.
Nhưng đến năm Canh Thìn (1470), vua Chiêm thành là Trà Toàn đem quân ra đánh phá Hóa châu, vua Lê Thánh Tông phải cầm quân đi đánh dẹp, Trà Toàn đại bại rút quân về giữ Đồ Bàn. Vua Lê Thánh Tông thừa thắng đuổi đánh, quân Chiêm chống không nổị Trà Toàn bị bắt và đất Đồ Bàn bị quân ta chiếm cứ. Vua Lê Thánh Tông cho sát nhập vào Đạo Quảng nam phần đất của Chiêm thành mới đánh lấy được, và đặt tên phần đất mới này là Phủ Hoài nhơn với ba huyện trực thuộc là Bồng sơn, Phù ly và Tuy viễn. Phủ lỵ đóng tại thành Đồ Bàn.
Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Tỵ (1605), chúa Tiên
Nguyễn Hoàng đổi tên Hoài nhơn ra Qui nhơn, đặt quan Tuần vũ cai trị ( vẫn thuộc
Đạo Quảng nam như dưới thời nhà Lê).
Thời chúa Nguyễn Phúc Tần, năm Tân Mão (1651), Phủ Qui nhơn đổi
ra Phủ Qui ninh. Sang đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, năm Tân Dậu (1741) lấy lại
tên Qui nhơn.
Năm Giáp Tý (1744), Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, hiệu Võ
vương, sửa đổi việc nội trị. Các Đạo đổi ra Dinh, các Phủ vẫn giữ tình trạng
cũ. Phủ Qui nhơn vẫn thuộc dinh Quảng nam, và phủ lỵ dời ra phía bắc thành Đồ
Bàn, tại thôn Châu thành (nay là xã Nhơn thành, quận An nhơn).
Võ vương mất (1765), Nguyễn Phúc Thuần kế vị lấy hiệu Định
vương. Định vương còn nhỏ, gian thần Trương Phúc Loan nắm quyền bính và lộng
hành, nước sanh loạn lạc, nhân dân đồ thán.
Để dẹp loạn cứu dân, năm Tân Mão (1771), ba vị anh hùng đất
Tây Sơn (huyện Tuy viễn) dấy nghĩa binh đánh nhà Nguyễn, nhân dân nức lòng hưởng
ứng, khí thế rất mạnh. Tuần vũ Qui nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên không chống nổi, bỏ
thành chạy ra Phú xuân. Nghĩa binh lấy Qui nhơn làm căn cứ, rồi đánh vào Nam,
đánh ra Bắc, dựng nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn.
Năm Bính Thân (1776), Nguyễn Nhạc xưng vương, hiệu Thái Đức,
lấy Qui nhơn làm kinh đô, sửa sang lại thành Đồ bàn làm Hoàng đế thành (tục gọi
Đế Kinh). Thành Đồ Bàn dân gian gọi là Thành cũ, nằm trên dãy gò sỏi bao trùm
hai thôn Nam Tân và Bắc Thuận, nay thuộc xã Nhơn hậu, quận An nhơn. Thành do
vua Chiêm thành Ngô Nhật Hoán xây vào thế kỷ thứ X. Tường bằng gạch và đá ong,
mặt hướng về Nam, có 4 cửa, chu vi hơn mười dặm, kiến trúc kiên cố. Bên trong
có dựng tháp làm Bảo chướng, bên ngoài có dãy đồi Kim sơn làm cánh che cửa Tây,
núi Long cốt làm tiền án và gò Thập Tháp yểm hậụ Khắp bốn mặt, ngoài xa xa, núi
trùng điệp, sông quanh co, biển bát ngát. Vua Thái đức cho mở thêm thành Đồ Bàn
về mặt Đông, chu vi mới là 15 dặm, mở thêm một cửa mới gọi là Tân môn, cửa phía
Nam cũ gọi là Nam môn. Phía tây đắp Đàn Nam giao để tế trời đất. Phía trong
thành còn xây thêm một lớp thành nữa gọi là Tử thành.
Trong Tử thành, chính giữa dựng Điện Bát giác là nơi vua ngự.
Phía sau dựng Điện Chánh tẩm, phía trước dựng lầu Bát giác. Bên tả, bên hữu dựng
hai Tự đường, một thờ cha mẹ ruột, một thờ cha mẹ vợ của nhà vuạ Trước lầu Bát
giác có cung Quyển Bồng, hai bên chái làm nơi thị sự. Ngay trước mặt cung Quyển
Bồng và liền với mặt Nam Tử thành, có cửa Tam quan gọi là Quyển Bồng môn, xây cổ
lầu, nên cũng gọi là Nam Môn lầụ Trong thành và ngoài thành bày trí la liệt những
tượng đá, nào voi, nào nghê, nào nhạc công, nào vũ nữ, là những di tích di vật
của người Chiêm thành. Thành lúc bấy giờ thật là nguy nga tráng lệ! Đất Qui
nhơn trở thành nơi phồn thịnh, nông nghiệp và thương nghiệp phát triển, nhân
dân an cư lạc nghiệp.
Sau khi Nguyễn Phúc Ánh nhờ ngoại nhân giúp sức lấy lại được
đất Gia định rồi thì Qui nhơn cũng như các nơi khác ở Bắc, Nam trở thành bãi
chiến trường.
Năm Nhâm Tý (1792), Nguyễn Phúc Ánh sai Nguyễn văn Thành,
Nguyễn văn Trương cùng hai tướng Pháp là Dayot và Vanier (tục gọi là Nguyễn văn
Phấn, Nguyễn văn Chấn) đem chiến thuyền từ cửa Cần giờ ra đánh Qui nhơn. Thuỷ
quân của Nguyễn Phúc Ánh đến Thị nại bị quân Tây sơn đánh luị Năm sau, Nguyễn
Phúc Ánh thân chinh, điều động thủy binh, bộ binh tiến quân một lượt. Vua Thái
Đức Nguyễn Nhạc chống không nổi, rút quân vào thành Qui nhơn (Đồ Bàn) cố thủ.
Quân Nguyễn bao vây, công kích. Vua Thái Đức sai tướng mở đường máu chạy ra Phú
xuân cầu cứụ Lúc bấy giờ vua Quang Trung đã mất, vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản
sai Phạm Công Hưng, Nguyễn văn Huấn, Lê Trung và Ngô văn Sở điều 17000 quân
binh cùng 80 chiến tượng đi đường bộ và 30 chiến thuyền đi đường biển vào cứu
Qui nhơn. Nguyễn Phúc Ánh thấy khí thế viện binh hùng hậu, liệu không chống nổi
bèn rút khỏi Qui nhơn.
Không đánh mà thắng, Phạm công Hưng cùng các tướng kéo quân
vào thành Qui nhơn, chiếm giữ thành trì và tịch biên tất cả kho tàng. Vua Thái Đức
thấy vậy, tức giận thổ huyết mà thác. Được tin, vua Cảnh Thịnh phong cho con
vua Thái Đức là Nguyễn Bảo làm Hiến công, ăn lộc một huyện, gọi là Tiểu Triều,
và để Lê Trung cùng Nguyễn văn Huấn ở lại giữ thành. Từ ấy, tức năm Đinh Sửu
(1793), Qui nhơn không còn là kinh đô nữạ Và cũng từ ấy, khí thế nhà Tây Sơn mỗi
ngày một suy yếu, nhân dân địa phương bị khốn khổ vì giặc giã và nạn tham quan
ô lạị Nội bộ Tây Sơn lại lục đục, phân hóa, giết hại lẫn nhaụ..!
Dò biết được tình thế, năm Đinh Tỵ (1797), Nguyễn Phúc Ánh cùng Hoàng tử Cảnh kéo binh thuyền ra đánh Qui nhơn. Tướng Tây sơn biết tin, phòng bị trước, Nguyễn Phúc Ánh liệu đánh không lợi nên rút quân về Gia định đợi thời cơ.
Dò biết được tình thế, năm Đinh Tỵ (1797), Nguyễn Phúc Ánh cùng Hoàng tử Cảnh kéo binh thuyền ra đánh Qui nhơn. Tướng Tây sơn biết tin, phòng bị trước, Nguyễn Phúc Ánh liệu đánh không lợi nên rút quân về Gia định đợi thời cơ.
Qua năm Kỷ Mùi (1799), khoảng cuối xuân đầu hạ, Nguyễn Phúc
Ánh lại cử binh ra đánh Qui nhơn. Bị đánh cả hai mặt thủy, bộ, quân Tây Sơn bị
thua phải rút quân vào thành cố thủ. Phú xuân hay tin cho binh vào cứu, song viện
binh bị quân nhà Nguyễn chận đánh ở Quảng ngãi, không đến Qui nhơn đuợc. Tướng
giữ thành Qui nhơn là Lê văn Thanh vì lương thảo cạn, liệu không chống giữ nổi,
phải mở cửa thành đầu hàng.
Nguyễn Phúc Ánh đem quân vào thành, phủ dụ nhân dân rồi đổi
tên Qui nhơn ra Bình định (tháng 5 năm Kỷ Mùi 1799), xong rút quân về Gia định
để Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở lại giữ thành Bình định.
Qua năm sau (năm Canh Thân 1800), tướng Tây Sơn là Trần Quang
Diệu và Võ văn Dũng cử bộ binh và thủy binh vào đánh Bình định. Khí thế rất mạnh,
quân Võ Tánh rút vào thành cố thủ. Trần quang Diệu sai đắp lũy chung quanh
thành và chia quân vây bốn mặt. Võ văn Dũng thì đôn đốc thủy quân phòng giữ cửa
Thị nại.
Nghe tin thành Bình định bị khốn, Nguyễn Phúc Ánh thống suất
đại binh ra cứu viện, nhưng thành bị bao vây cẩn mật không giải cứu nổị Võ Tánh
và Ngô Tùng Châu sai người lén đem mật thư ra cho Nguyễn Phúc Ánh, đại ý:
"Quân tinh nhuệ của Tây Sơn dồn cả vào Bình định. Xin đừng lo việc giải
vây vội, hãy kéo ra đánh lấy Phú xuân". Nguyễn Phúc Ánh nghe theo, và
tháng 5 năm Tân Dậu (1801) đánh lấy được Phú xuân.
Trần Quang Diệu và Võ văn Dũng nghe tin Phú xuân thất thủ, liền
sai tướng đem quân ra cứụ Quân ra tới Quảng nam thì bị chận đường phải trở luị
Trần Quang Diệu nổi giận đốc quân đánh thành luôn ngày luôn đêm.
Thành bị vây lâu ngày, lương thảo đều hết, liệu không còn có
thể giữ được nữa, Võ Tánh bèn viết thư sai người đưa ra cho Trần Quang Diệu,
yêu cầu đừng giết hại sĩ tốt khi vào thành. Đoạn sai chất củi khô, đổ thuốc
súng vào, tự đốt mà chết. Ngô Tùng Châu uống thuốc độc chết theọ Trần Quang Diệu
vào thành, tha cho toàn thể tướng sĩ nhà Nguyễn và sai liệm táng họ Võ, họ Ngô
theo lễ.
Năm Tân Dậu (1801), đợi mùa gió Nam thổi, Nguyễn Phúc Ánh khiến
chế tạo chiến cụ hỏa công rồi sai Lê văn Duyệt, Võ Di Nguy, Nguyễn văn Trương
đem đại binh ra đánh Thị nạị Mặc dù gắng sức tả xung hữu đột, hải thuyền của nhà
Nguyễn vẫn không thể vào nổị Tướng nhà Nguyễn là Nguyễn văn Trương cho gián điệp
trà trộn vào quân Tây Sơn lấy được mật khẩu rồi đang đêm cỡi thuyền nhỏ xâm nhập
đốt thủy trại của Tây Sơn. Võ văn Dũng đang chỉ huy ở trận tiền thấy lửa cháy ở
hậu cứ, thất kinh chia binh trở vào cứụ Võ di Nguy thừa cơ dùng thuyền nhẹ lướt
vào lòng địch. Súng của quân Tây Sơn trên đồi bắn xuống, Võ Di Nguy bị trúng đạn
chết. Lê văn Duyệt liều chết thúc binh tiến lên. Thuyền hai bên giáp chiến ác
liệt, súng nổ vang trờị Thừa ngọn gió nam thổi mạnh, Lê văn Duyệt nổi hỏa công.
Lửa theo gió tạt vào đoàn thuyền Tây Sơn. Quân nhà Nguyễn bị chết rất nhiều,
nhưng thuyền Tây sơn bị đốt gần hết, Vũ văn Dũng chống không nổi phải bỏ Thị nại
kéo tàn quân lên bờ, hợp cùng Trần Quang Diệu giữ những nơi hiểm yếu khác.
Trận này là trận thủy chiến lớn nhất và là trận sau cùng giữa
hai họ Nguyễn ở trên biển Thị nạị Từ đó quân của Nguyễn Phúc Ánh giữ vững cửa bể
này.
Năm Nhâm Tuất (1802), nghe tin vợ là nữ tướng Bùi thị Xuân thất
trận ở Trấn Ninh, Trần quang Diệu phải bỏ thành Bình định đem binh tướng theo
đường núi ra Nghệ an để hiệp cùng vua Tây Sơn chống giữ mặt Bắc. Nhưng quân nhà
Nguyễn thế lực hùng mạnh, quân Tây sơn liên tiếp bị thất trận. Trần Quang Diệu
ra đến Nghệ an chưa được bao lâu thì bị bắt cùng Bùi thị Xuân.
Sau khi thống nhất lãnh thổ, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi cửu
ngũ, lấy niên hiệu Gia Long (1802), chỉnh đốn mọi việc trong nước.
Để cai trị địa hạt Đồ Bàn cũ, nhà vua đặt Bình định Dinh,
quan công đường là Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục. Lỵ sở đóng tại thành đồ Bàn cũ. Năm
Gia Long thứ 7 (1808), đổi dinh làm Trấn, và năm Gia Long thứ 9 (1810), đổi chức
Lưu thủ làm Trấn thủ. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), đổi chức Cai bạ, Ký lục làm
Hiệp trấn và Tham hiệp.
Năm 1832, vua Minh Mạng theo lối nhà Thanh bên Tàu, đổi Trấn
làm Tỉnh. Bình định trấn đổi thành Bình định tỉnh từ đó.
Theo quan chế nhà Nguyễn, tỉnh lớn có quan Tổng đốc cầm đầu,
phụ tá Tổng đốc có quan Bố chánh sứ coi việc hành chánh, quan Aùn sát sứ coi việc
tư pháp, quan Lãnh binh coi việc an ninh, trật tự. Những tỉnh nhỏ chỉ có quan
Tuần vũ vá Aùn sát.
Ơũ Bình định lúc bấy giờ, triều đình đặt quan Tổng đốc coi
hai tỉnh Bình định và Phú yên, gọi là Bình Phú Tổng đốc. Năm Tự Đức thứ 17
(1863), tách riêng Đạo Phú yên ra khỏi tỉnh Bình định.
Về các Phủ, Huyện tại tỉnh Bình định qua các triều vua có nhiều
sự thay đổị Cuối cùng, dưới thời phong kiến thực dân, tỉnh Bình định chia làm 3
phủ, 4 huyện (huyện cũng như phủ đều trực thuộc tỉnh).
Ba phủ là: Hoài nhơn (đất Bồng sơn cũ), An nhơn (đất Tuy viễn
cũ) và Tuy phước. Bốn huyện là: Hoài ân, Phù mỹ (đổi ra phủ năm 1944), Phù cát
và Bình Khệ Cầm đầu phủ, huyện có Tri phủ, Tri huyện.
Từ sau năm 1945, các huyện, xã của tỉnh Bình định có nhiều sự
thay đổi, nhất là ở cấp làng, xã.
Như trên đã nói, từ đời nhà Lê đến đời nhà Tây Sơn, lỵ sở của
cấp chỉ huy tối cao của địa phương đều đóng tại thành Đồ Bàn cũ. Thời nhà Nguyễn
Gia Long cũng vậỵ Mãi đến năm Gia Long thứ 12 (1814), lỵ sở dời vào phía nam và
thành Đồ Bàn cũ bị triệt hạ để lấy vật liệu xây thành mớị Trong thành Đồ Bàn cũ
chỉ còn lầu Bát giác được sửa sang lại làm miếu Song Trung, nơi hương hỏa cho
Võ Tánh và Ngô Tùng Châụ (Trước đó, từ sau năm 1802, vua Gia Long lập lăng cho
Võ Tánh và Ngô Tùng Châu và dùng lầu Bát giác làm nơi thường bái). Các cung điện
cũ đều bị triệt hạ, thành Đồ Bàn chỉ còn trơ lại một dãy gò sỏi mênh mông, với
ngọn tháp Cánh Tiên và lầu Bát giác cùng di tích các bờ thành sụp lở...
Thành mới nằm trên hai thôn An ngãi và Liêm trực, thuộc xã
Nhơn hưng, quận An nhơn ngày nay, cách thành cũ chưa đầy 10 km. Tuy thành mới
nhưng vẫn giữ tên là thành Bình định. Địa cuộc của thành rất tốt. Vách thành
xây toàn đá ong lấy ở thành cũ. Chu vi trên 3km, cao 3m50 và dày gần 1m (trên đầu
thành). Còn dưới chân thành , phía trong đắp đất dày đến 10 thước, chạy lài lài
lên đến đầu thành, trổ 4 cửa, xây cổ lầu, thật hoành tráng. Bốn mặt thành có
hào sâu bao bọc. Để vô ra, trước cửa thành có xây cổng bằng đá, hình cầu vồng.
Trong thành dựng Hành cung là nơi nhà vua nghỉ ngơi những khi hành du, và các quan
cùng những người có phẩm hàm từ cửu phẩm trở lên đến bái mạng trong những ngày
khánh tiết. Những dinh thự của các quan tỉnh thì tòa ngang, dãy dọc tráng lệ
nguy ngạ Chung quanh các cung thự đều trồng xoài, bóng mát, trái ngọt. Quang cảnh
thành có vẻ trầm u.
Khi phong trào Cần vương chấm dứt (khoảng 1888), Pháp đặt nền
đô hộ trên đất nước Việt nam, lấy dải đất chạy dài ra cửa bể Thị nại làm nơi lỵ
sở của Công sứ, gọi là Qui nhơn. Đây là nơi Pháp đã đổ bộ và đã dùng làm căn cứ
quân sự trong thời gian chống cự với nghĩa binh do nhà anh hùng Mai Xuân Thưởng
lãnh đạọ Từ đó Qui nhơn là thành phố biển được xây dựng và phát triển khả quan.
Khoảng năm 1934-1935, cơ quan Tỉnh của Nam triều từ thành
Bình định dời đến thành phố Qui nhơn, giao thành Bình định cho phủ An nhơn đóng
lỵ sở. Sự việc xảy ra thời ông Nguyễn Hy (con Nguyễn Thân) làm Tổng đốc Bình định.
Nghĩ rằng, Toà Sứ và Tỉnh ở cạnh bên, thuận tiện cho công việc cai trị, nên Triều
đình Huế chấp thuận việc di dời.
Năm 1947, thi hành chính sách tiêu thổ kháng chiến, Việt minh
triệt hạ thành Bình định và dời cơ quan huyện đi nơi khác. Thành bị phá tận gốc,
nhà cửa trong ngoài đều bị triệt hủy, san bằng, chỉ còn sót lại lầu cửa Đông.
Sau khi chính quyền Quốc gia tiếp thu tỉnh Bình định (1955),
quận đường An nhơn đóng trên nền thành cũ, nhà cửa xây cất lạị Thành phố Qui
nhơn cũng là lỵ sở hành chánh của tỉnh Bình định. Từ 1955 đến 1971, Qui nhơn là
một xã trực thuộc toà Hành chánh tỉnh, và đến năm 1972 là Thị xã với địa bàn được
mở rộng.
Tựu trung, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm thành bị vua Lê Thánh
tông đánh chiếm thì lãnh thổ này được cải danh là Phủ Hoài nhơn ( năm Canh Thìn
1470) thuộc đạo Quảng nam.
Đến năm Ất Tỵ (1605), chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên là phủ Qui nhơn. Năm Tân Mão (1651), chúa Nguyễn Phúc Tần đổi ra phủ Qui ninh. Đến năm Tân Dậu (1741), đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, lấy lại tên Qui nhơn.
Đến năm Ất Tỵ (1605), chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên là phủ Qui nhơn. Năm Tân Mão (1651), chúa Nguyễn Phúc Tần đổi ra phủ Qui ninh. Đến năm Tân Dậu (1741), đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, lấy lại tên Qui nhơn.
Từ năm Bính Thân (1776) đến năm Đinh Sửu (1793), vua Thái Đức
Nguyễn Nhạc lấy thành Qui nhơn (Đồ Bàn cũ) làm Trung ương Hoàng đế thành.
Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh chiếm thành Qui nhơn, đổi
tên Qui nhơn ra Bình định. Sau khi lên ngôi vua, lấy hiệu Gia Long (1802), nhà
vua đặt Bình định dinh, đến năm 1808 đổi dinh làm trấn. Năm 1832, vua Minh Mạng
đổi Bình định trấn thành Bình định tỉnh.
Từ năm 1888, thành phố nằm trên cửa bể Thị nại được gọi là
Qui nhơn. Năm Giáp Tuất (1934), hay Aát Hợi (1935), các quan đầu tỉnh của Nam
triều dời lỵ sở về Qui nhơn, giao thành Bình định cho huyện An nhơn làm công đường.
Từ đó, cũng như sau này, dù bị phá hoại san bằng, thành Bình định vẫn còn là một
địa danh được nhắc nhở. Vùng huyện lỵ An nhơn được gọi là thị trấn Bình định.
Người địa phương nói gọn làBình định giống như Đập Đá, Gò Găng, người nghe hiểu
là nói đến thị trấn Bình định nằm trên quốc lộ 1, cách Qui nhơn chừng 20 km.
Thị trấn Bình định còn có tên gọi rất xưa là Gò Chàm. Chợ
Bình định (thị trấn) ngày nay vẫn thường được gọi là chợ Gò Chàm.
Chợ Gò Chàm một tháng sáu phiên Ai thương ai thì hãy nhớ xuống
lên cho đềụ..
Chữ Chàm đây có lẽ chỉ cho người Chàm, người Hời tức Chiêm thành
(ngày xưa người Chàm cũng họp chợ ở đây), hay chàm là loại cây dùng trong công
nghệ nhuộm (màu chàm, sắc chàm) như trong câu Kiều:
Trót vì tay đã nhúng chàm Dại rồi còn biết khôn làm sao đây!
Bình định có nhiều địa danh như: Gò Găng, Gò Gai, Gò Sặc, Gò
Dưa v.v... là gò có một loại cây mọc, nhưng tôi vẫn muốn nghĩ Gò Chàm là Gò Hời,
Gò Chiêm thành để đừng quên nơi đây có thành Bình định mà tiền thân là thành Đồ
Bàn với một lịch sử hết sức bi hùng.!
Thị nại, Qui nhơn, Bồng sơn, Đồ Bàn, Gò Chàm, Bình định... đọc
lên nghe như vang dậy trong lòng những nhớ nhung dằn vặt khôn nguôi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét