Những
kết hợp bất thường trong ca từ
nhạc Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp
Năm nay là kỷ niệm 10 năm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trở về với "cát bụi".
Bao năm qua, ở mọi miền trên đất nước Việt Nam, người ta vẫn xao xuyến khi nhắc
đến tên ông, say sưa hát những nhạc phẩm của ông và mê mải viết về ông từ nhiều
góc nhìn của văn học, văn hóa, ngôn ngữ, triết học, âm nhạc, đời sống, tôn
giáo… Hình như ở bất kỳ lĩnh vực nào, người ta cũng có thể dễ dàng lấy ông làm
đề tài nghiên cứu. Theo dòng chảy mãnh liệt đó, chúng tôi thử liều lĩnh "đọc"
những ca khúc của ông dưới góc độ ngữ pháp, trước hết, để thỏa mãn những khao
khát của chính mình, sau nữa hy vọng góp một tiếng nói làm sáng rõ hơn những
tuyệt phẩm mà ông - kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận - đã để lại
cho nhân thế.Người ta đương nhiên thừa nhận Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ, bởi ông đang sở hữu một kho tàng âm nhạc khổng lồ - hơn 500 ca khúc. Người ta còn gọi ông là một nhà thơ, bởi ca khúc của ông thấm đẫm chất thơ và đầy vần điệu. Người ta cũng phải công nhận ông là một triết gia bởi ca từ của ông mang đầy màu sắc triết lý về cõi đời, về nhân thế… Còn chúng tôi, chúng tôi cho rằng ông là một phù thủy về ngôn ngữ. Những độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của ông không ai bắt chước được, không ai làm giả được (Lê Hữu). Nó khiến người ta ngỡ ngàng, hạnh phúc; rồi trăn trở, âu lo; rồi thảnh thơi, siêu thoát… Chúng tôi sẽ nói rõ hơn về những khác lạ của ông trong việc sử dụng các kết hợp ngữ pháp (từ cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ cho đến đơn vị câu).
1. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc cụm danh từ trong ca từ Trịnh Công Sơn
Các cụm danh từ xuất hiện trong ca khúc của người nhạc sĩ tài hoa này không phải lúc nào cũng theo quy chuẩn thông thường. Những nét độc đáo và những tầng nghĩa mới được nảy sinh từ việc đảo trật tự các thành tố, dùng danh từ đơn vị mang tính chất “lạ” hóa, hoặc dùng các định ngữ bất thường.
1.1. Đảo trật tự các thành tố trong cụm từ
Cấu trúc một cụm danh từ thông thường theo quan điểm của Nguyễn Tài Cẩn, gồm 7 thành tố, được sắp xếp như sau:
Tất cả
-4
|
những
-3
|
cái
-2
|
con
-1
|
mèo
0
|
đen
+1
|
ấy
+2
|
Chỉ tổng lượng (đại từ)
|
Chỉ lượng (phụ từ, số từ)
|
Chỉ xuất
|
Chỉ loại
(danh từ đơn vị)
|
Trung tâm (Danh từ sự vật)
|
Từ miêu tả, hạn định
|
Chỉ định (đại từ)
|
Trật tự của
Trịnh Công
Sơn
|
Trật tự
thông thường
|
Xuất xứ
(Tên bài hát)
|
Sen hồng một nụ
|
Một nụ sen hồng
|
Đóa hoa vô thường
|
Quỳnh hương một đóa
|
Một đóa quỳnh hương
|
Chuyện đóa
quỳnh hương
|
Hồng má môi em
|
Má môi em hồng
|
Đoản khúc thu Hà Nội
|
Cọng buồn cỏ khô
|
Cọng cỏ khô buồn
|
Rừng xưa đã khép
|
Mùa xanh lá
|
Mùa lá xanh
|
Dấu chân địa đàng
|
Hoa vàng một đóa
|
Một đóa hoa vàng
|
Hoa vàng mấy độ
|
Hoa vàng mấy độ
|
Mấy độ hoa vàng
|
Hoa vàng mấy độ
|
Tóc xanh mấy mùa
|
Mấy mùa tóc xanh
|
Phôi pha
|
1.2. Dùng danh từ đơn vị mang tính chất “lạ hóa”
Trong
hệ thống các danh từ đơn vị mà Trịnh Công Sơn sử dụng, chúng tôi nhận thấy ông
rất hay dùng từ vùng và từ phiến:
- Tay
măng trôi trên vùng tóc dài (Còn tuổi nào cho em)
-
Vùng tương lai chợt xa xôi (Gọi tên bốn mùa)
-
Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng (Dấu chân địa đàng)
- Tôi
xin năm ngón tay em thiên thần trên vùng ăn năn qua cơn hờn dỗi (Lời
buồn thánh)
-
Phiến sầu là tháng ngày (Lời của dòng sông)
-
Từng phiến mây hồng/ từng phiến băng dài (Tuổi đá buồn)
- Ru
mãi ngàn năm từng phiến môi mềm (Ru em từng ngón xuân nồng)
Nếu
so với khoảng, lát, miếng,... thì vùng và phiến là
những không gian vừa xác định, vừa không định và có độ mở nhiều chiều, nhất là
chiều sâu, độ dày nên dễ gợi liên tưởng đến chiều, độ của cảm xúc, tâm hồn.
Trịnh Công Sơn thực sự đã "không gian hóa" tất cả những sự vật cụ thể
cũng như trừu tượng. Ta có cảm giác sự vật, thực thể nào đối với ông cũng có
thể khuôn lại được, sờ nắn được.
Người
ta nói nỗi sầu thì ông nói giọt sầu (Còn tuổi nào cho em), làm
ta liên tưởng tới Sầu đong càng lắc càng đầy của cụ Nguyễn Du;
rồi bãi sầu (Lời của dòng sông), nghe đầy nhức nhối; và cả trái sầu
(Như một vết thương), phiến sầu (Lời của dòng sông) nữa. Người ta nói bản
tình ca thì ông nói ngọn tình ca (Góp lá mùa xuân), nghe đã thấy dâng đầy sức
sống, cảm xúc. Người ta nói mái tóc thì ông nói dòng tóc (Ru em
từng ngón xuân nồng), làm ta cảm thấy ngay được độ miên man, mềm mại, vương vít
của nó. Người ta nói chuyến xe, chuyến đò thì ông nói chuyến
mưa (Diễm xưa); đúng là một tâm trạng đợi chờ khắc khoải, chờ mưa như nó
vốn đến và đi theo chuyến, tức là theo luật lệ nhất định. Rồi người ta
nói chân mây hay cuối ngày thì ông nói chân
ngày (Cỏ xót xa đưa), gợi bước đi thời gian trong những ngẫm ngợi xót xa.
Người ta nói ngón tay hay màn sương, búp xuân hồng thì ông
nói ngón sương mù (Gọi tên bốn mùa), ngón xuân nồng (Ru em từng ngón xuân
nồng), cho những không gian, âm thanh, cảm xúc hiện hình, trinh nguyên, nuột
nà, thánh thiện. Người ta nói sự hoang vu thì ông nói nhánh
hoang vu (Cỏ xót xa đưa), nhánh vốn là danh từ đơn vị thường đi với cỏ, nỗi cô
đơn được định hình đầy mong manh… Người ta nói đôi mắt thì ông
nói vườn mắt (Nắng thủy tinh), làm ta thấy như mình đang lạc vào một không
gian chan chứa nắng, trong veo, đong đầy cặp mắt người tình.
Những
khác lạ ấy làm nên một Trịnh Công Sơn hết sức tinh tế trong cảm nhận sự vật và
cũng đầy ưu tư, trăn trở với đời. Người thi sĩ trong âm nhạc này đã cảm nhận
cuộc sống sinh động bằng tất cả các giác quan, bằng trực giác và linh giác. Về
điểm này, Trịnh Công Sơn cũng giống như các thi sĩ có mẫn cảm nhạy bén, như
Xuân Diệu chẳng hạn.
Như
vậy, điểm độc đáo của Trịnh Công Sơn là ghép những danh từ sự vật cụ thể với
danh từ đơn vị trừu tượng; và ngược lại, ông lại ghép danh từ sự vật trừu tượng
với những danh từ đơn vị cụ thể. Chính điều này làm cho những sự vật hữu hình
trở nên bớt trần trụi, lung linh hơn, huyền ảo hơn; còn những sự vật vô hình,
trừu tượng thì lại được định hình, đến mức dường như chúng ta giơ tay ra là có
thể nắm bắt được. Tất cả làm cho thế giới sự vật trong ca từ của ông trở thành
một thế giới vừa thực vừa ảo.
1.3.
Dùng các định ngữ bất thường
Cách
dùng danh từ đơn vị của Trịnh đã độc đáo, cách ông đưa ra các định ngữ đi kèm
với các danh từ của mình còn độc đáo hơn. Dễ dàng tìm thấy trong ca khúc của
ông những định ngữ hoàn toàn bất ngờ với suy nghĩ của người Việt. Đặc biệt là
những định ngữ gắn với tình, thôi thì đủ trọng lượng, đủ chiều kích: tình
dài (Bay đi thầm lặng), tình đầy (Đời cho ta thế), tình vơi (Lặng lẽ nơi này),
tình sâu (Xin trả nợ người)… Ông rất quan tâm đến sự đầy vơi, hư hao, cho
nên mới có ngày tháng vơi (Phúc âm buồn), nắng đầy (Mỗi ngày tôi chọn một
niềm vui) cơn đau dài (Mưa hồng), những chen đua lâu dài (Một lần thoáng có)…
Hãy đọc thật chậm các kết hợp từ của Trịnh:
-
Những dấu chân ngoan, hố tuyệt vọng (Có những con đường)
-
Ngọn gió hư hao (Có một ngày như thế)
-
Chiều bạc mệnh, phút cao giờ sâu (Đóa hoa vô thường)
-
Cành thênh thang, cành bão bùng (Gọi tên bốn mùa)
-
Ngày yêu dấu, mây vô danh (Hãy cứ vui như mọi ngày)
-
Mây hoang đường (Hai mươi mùa nắng lạ)
-
Nắng vô thường/ Chút hương nhân từ (Mưa mùa hạ)
-
Hạnh phúc ngu ngơ (Ngày nay không còn bé)
-
Màu lá thanh xuân, ngày tháng hoang vu (Người về bỗng nhớ)
-
Màu sương thương nhớ (Nhớ mùa thu Hà Nội)
-
Đá ngây ngô (Rồi như đá ngây ngô)
Vậy
là với Trịnh Công Sơn, những sự vật vốn vô tri vô giác bỗng mang tình cảm, tâm
trạng con người. Cho nên ta mới gặp phố hoang mang, nhịp chân bơ vơ, cát
bụi mệt nhoài… Đến với Trịnh, ta còn nghe thấy lời tà dương, lời mộ
địa, lời bể sông (Một cõi đi về), như là vật gì trên đời này cũng có thể cất
lên tiếng nói; Từng lời bể sông là lời mộ địa chính là tiếng hấp hối
của một ngày. Danh từ thời gian tháng, ngày thì hay gắn với các tính
từ hoang vu, âm u… bởi cảm giác cô đơn lúc nào cũng bủa vây Trịnh. Con người
Trịnh luôn sống với thiên nhiên, hòa nhập với nhiên nhiên, coi đó như người
bạn, như người tình nên sỏi, đá, nắng, phố, cát bụi… cũng nhuốm đầy tâm
trạng. Những hình ảnh này xuất hiện dày đặc trong ca từ của người nhạc sĩ lãng
du cũng là bởi trong tiềm thức của ông luôn chịu sự ảnh hưởng của triết lý tôn
giáo: vũ trụ nguyên sơ, vạn vật hữu tình. Bàn tay xanh xao thì nhiều
người nói nhưng bàn tay đói (Cuối cùng cho một tình yêu) thì thật
lạ. Nắng vàng mong manh chúng ta cũng đã từng nghe nhưng nắng
vàng nghèo hay nắng vàng lạc trên lối đi (Em còn nhớ hay em đã
quên) thì chỉ có ở Trịnh mà thôi. Có cái gì man mác buồn trong cách nhìn
sự vật ở Trịnh. Đúng là ông chịu lực hút chủ đạo không phải từ sự sinh
trưởng - khoẻ khoắn - ấm áp - tươi vui, mà là từ những gì tàn lụi - héo úa
- mòn mỏi - u sầu - lạnh lẽo. Nhưng những thứ mà người trần coi là buồn đau thì
ông lại nhìn một cách lạc quan, cho nên mới có vết thương hồn nhiên (Tưởng
rằng đã quên), trái sầu rực rỡ (Như một vết thương), niềm đau ngọt ngào (Tình
xót xa vừa)… Với con mắt trần gian thì các kết hợp ấy thật ngược đời. Song với
Trịnh, cảm xúc, tinh thần này có được ở ông bởi ý niệm siêu thoát ảnh hưởng từ
tư tưởng tôn giáo. Nhìn xa hơn, những cặp đối lập luôn luôn xuất hiện trong tư
tưởng Trịnh, như ông vẫn xem cuộc đời nhị nguyên này vốn bao gồm những cặp phạm
trù đối lập nhau, khó dung nạp song cũng khó phân ly. Ông ôm tất cả và không
bao giờ tìm cách chia tách chúng. Cho nên ca từ của ông mới tràn ngập các kết
hợp sống - chết, nhật - nguyệt, đêm - ngày, buồn - vui, sum họp - chia
phôi, khổ đau - hạnh phúc, hay niềm đau - ngọt ngào…
2. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc cụm động từ
Trong
cấu trúc cụm động từ của Trịnh, những bổ ngữ xuất hiện cũng đầy khác lạ, đặc
biệt là các bổ ngữ đối tượng. Người ta tìm anh, tình em thì Trịnh
đi tìm tình (Bống không là bống). Người ta tặng hoa, tặng quà thì Trịnh
lại tặng một phố chờ (Đoản khúc thu Hà Nội). Người ta phơi
áo thì Trịnh phơi cuộc tình (Ru ta ngậm ngùi), thậm chí là phơi
tình cho nắng khô mau / treo tình trên chiếc đinh không (Tình xót xa vừa).
Người ta chọn rau, chọn quả thì Trịnh chọn một niềm vui, chọn
ngồi thật yên, chọn nắng đầy (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Người
ta nhặt lá, nhặt thóc thì Trịnh lại nhặt gió trời (Mỗi ngày tôi
chọn một niềm vui). Người ta đi trong mưa thì Trịnh đi trong
chuyện cũ ngày xưa/ đi trong hạnh phúc quê nhà (Hai mươi mùa nắng
lạ). Người ta chở hàng, chở khách thì Trịnh chở ngày hấp
hối (Vàng phai trước ngõ). Người ta ôm người yêu thì Trịnh ôm
mịt mùng (Tình xót xa vừa). Người ta nghiêng mình thì Trịnh
lại nghiêng sầu (Mưa hồng), rồi nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối
tình (Để gió cuốn đi)… Động từ đi có thể gắn với rất nhiều bổ ngữ chỉ
không gian, song có lẽ chẳng ai nói đi quanh từng giọt nước mắt (Ru đời đã
mất). Nghe đã thấy đời thật buồn! Bổ ngữ cách thức, bổ ngữ chỉ mục đích
cũng thật đặc biệt, cho nên mới có yêu em thật thà (Hoa vàng mấy độ), gọi
em cho nắng chết trên sông dài (Hạ trắng),…
Đọc
các cụm động từ của Trịnh Công Sơn, ta như lạc bước vào một công cuộc thể
nghiệm ngôn ngữ Việt đầy lý thú. Mỗi một kết hợp ngắn gọn là một nội dung ngữ
nghĩa hết sức dày dặn mà Trịnh muốn chuyển tải. Chẳng hạn kết hợp nghiêng
sầu hay nghiêng đời ở trên, vẫn là dự cảm về một cuộc đời đầy
bấp bênh, xuất phát từ tư tưởng nhà Phật: Cuộc đời này vốn là cõi tạm, con
người dừng chân ghé chơi. Hoặc kết hợp của động từ nghe với những thứ
không phải là thanh âm thông thường: nghe sầu lên trong nắng, nghe tên
mình vào quên lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng (Nhìn những mùa thu
đi), nghe tình đổi mùa (Những con mắt trần gian), thậm chí nghe cả im lặng thở
dài (Tôi đã lắng nghe) và tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi (Cát bụi)… Ít có
nghệ sĩ nào có thính lực kỳ lạ như Trịnh Công Sơn, ông nghe được âm thanh vô
thanh và rỗng nghĩa trong bước đi của thời gian, nghe được sự chết dần của đời
người, nghe được tiếng chuông gọi hồn đều đều nhẫn nại… Tất cả mọi thanh âm qua
thính giác của Trịnh đều gắn với sự cô đơn tận cùng của một con người lúc nào
cũng mang trong mình ý nghĩ sinh ra đã là một kẻ thua cuộc… Môtíp quen thuộc
của Trịnh là gắn những động từ chỉ hoạt động thông thường với những bổ ngữ trừu
tượng. Tất cả thống nhất trong cái nhìn sự vật luôn luôn động, luôn luôn biến
đổi của ông.
3. Những bất thường trong cấu trúc cụm tính từ
3.1. Kết
hợp so sánh
Vẫn
rất xứng đáng là "kẻ du ca về tình yêu", Trịnh Công Sơn có những so
sánh thật lạ với đối tượng tình: tình xa như trời, tình gần như khói mây,
tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng… rồi tình mềm trong tay (Tình
sầu). Ngoài ra còn hàng loạt các kết hợp so sánh bất ngờ với các tính từ
hết sức quen thuộc: xanh, trắng, buồn, mong manh, ngoan,…:
-
Có những bạn bè xanh như người bệnh (Bay đi thầm lặng)
-
Rồi một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi)
-
Buồn như giọt máu lặng lẽ nơi này (Lặng lẽ nơi này)
-
Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)
-
Mặt đường bình yên nằm ngoan như con suối (Thành phố mùa xuân)
-
Nắng có hồng bằng đôi môi em/ Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Như cánh vạc bay)...
Đứng
ở góc độ phong cách học, tất cả những kết hợp nói trên đều thuộc phép so sánh
tu từ. So sánh để làm rõ hơn đối tượng, song đồng thời cũng mang tới những đặc
trưng mới cho đối tượng. Điều đáng quan tâm ở đây là Trịnh Công Sơn có những so
sánh hết sức táo bạo, gây bất ngờ và tạo được những rung động mạnh cho xúc cảm
thẩm mỹ ở người nghe.
Trịnh
Công Sơn khá nhạy cảm với một số tính từ nhất định như: lênh đênh, tiều
tụy, hư hao, thênh thang, bão bùng… Đặc biệt, ông rất hay sử dụng tính
từ mong manh, (gió mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, tay
gối mong manh, tình mong manh, thân mong manh…). Với Trịnh Công Sơn, cuộc này
thật mà hư ảo. Theo Bửu Ý, dường như đây là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và
nhân sinh quan của nhạc sĩ.
3.2. Sắc
màu của Trịnh
Trước
hết là màu hồng. Màu hồng nhạt, hồng đậm,... thì bình thường
nhưng hồng vừa thì chưa ai nói. (Đấy là ta chưa bàn tới các kết
hợp giấc ngủ vừa (Dấu chân địa đàng); tình xót xa vừa (Tình xót xa vừa).
Màu hồng xuất hiện trong câu cũng thật đặc biệt: Em hồng một thuở xuân
xanh; Mê man trời hồng vượt đồi lên non (Ra đồng giữa ngọ)…
Màu
xanh lại càng lạ:
- Chợt
hồn xanh buốt cho mình xót xa (Diễm xưa);
-
Nhìn lại mình đời đã xanh rêu (Tình xa);
-
Thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai (Xin mặt trời ngủ yên)
- Xanh
yếu làn da, xanh mướt hồng nhan (Góp lá mùa xuân)
- Tiếng
hát xanh xao (Lời buồn thánh)
- Em
mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ (Hoa xuân ca)
-
Tuổi mười sáu xanh cho mọi người (Môi hồng đào)
Màu
tím thì có: Chiều tím loang vỉa hè (Nhìn những mùa thu đi). Màu vàng
là vàng phai (Vàng phai trước ngõ). Rồi xanh đi
với hồng đến khó hiểu song đầy ám ảnh: Hai mươi giấc mộng xanh
hồng quá (Hai mươi màu nắng lạ)…
Ngoài
ra, một số từ ngữ đóng vai trò là bổ ngữ trong cụm tính từ của Trịnh Công Sơn
cũng làm người nghe bất ngờ. Hình như ông chiêm nghiệm cuộc đời bằng quá nhiều
những nhạy cảm: Tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa); Lá khô vì đợi
chờ (Như cánh vạc bay)… Ông đã so sánh cái mướt dài, huyền diệu của tóc
với đêm thần thoại. Ngoài ẩn dụ lá… đợi chờ, bổ ngữ nguyên nhân
ở đây thật lạ với cách lý giải khô vì đợi chờ.
4. Sự chuyển hóa từ loại trong ca từ Trịnh Công Sơn
Sự
chuyển hóa từ loại diễn ra trong tiếng Việt không phải hiếm và quá đặc biệt,
nhưng khi nghe ca từ nhạc Trịnh, người ta vẫn cảm thấy ông đã phù
phép cho những từ ngữ của mình. Một số danh từ được dùng như tính từ,
chẳng hạn: Ôi tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa); hay Em đi
biền biệt muôn trùng quá (Còn ai với ai). Và cũng không ít những tính từ lại
được dùng như danh từ: Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù (Vàng phai trước
ngõ); Và tôi đứng bên âu lo này (Này em có nhớ); Ta cười với âm u (Những
con mắt trần gian); Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng (Tình xót xa vừa); Bàn tay xôn
xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)…
Thậm
chí tính từ chỉ màu sắc vốn không kết hợp với phụ từ mệnh lệnh đi
nhé nhưng kết hợp này vẫn xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn: Hồng đi
nhé xin hồng với nụ (Vàng phai trước ngõ). Đây là trường hợp tính từ được
dùng như động từ. Cảm giác rằng ông đã hòa nhập tận cùng với thiên nhiên, nên
có thể sai khiến, dụ dỗ cả một nụ hoa. Rồi có động từ được dùng như danh
từ: Nghe những tàn phai (tên một bài hát). Như đã nói, bằng một thính
lực kỳ lạ, ông đã nghe được bước đi của thời gian trong sự biến chuyển của tạo
vật.
5.
Những kết hợp bất thường trong cấu trúc câu
5.1.
Những cấu trúc dưới dạng định nghĩa
Xét
từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi cho rằng Trịnh Công Sơn là một nhà Từ điển
học tinh tế, bởi ông đã đưa ra những định nghĩa mới, thú vị cho những sự
vật quen thuộc:
-
Con sông là thuyền, mây xa là buồm (Bốn mùa thay lá)
-
Con sông là quán trọ và trăng tên lãng du (Biết đâu nguồn cội)
-
Tên em là vết thương khô (Khói trời mênh mông)
-
Tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe (Ngày nay không còn bé)
-
Đời mình là những chuyến xe/ Đời mình là những đám đông/ Đời mình là những quán
không/ Đời mình là con nước trôi (Nghe những tàn phai)
-
Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em/ Ngoài phố mùa đông, đôi môi em là
đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé!)
Từ
góc độ phong cách học, có thể xem đây là những so sánh tu từ. Trịnh Công Sơn đã
đem đối chiếu, quy hệ những đối tượng thuộc các phạm trù quá cách biệt nhau để
tạo nên những hiệu quả biểu đạt, tri nhận sự vật và xúc cảm thẩm mĩ hết sức sâu
sắc, gợi nhiều liên tưởng phong phú nơi người nghe. Cho nên nhìn mưa ngoài
trời, ông lại thấy đó là những giọt nước mắt của người tình, hình như nỗi sầu
đang dâng đầy trong ông. Đi trong đêm lạnh mùa đông, ông tưởng tượng môi
em là đốm lửa hồng, sửa ấm lòng người, xua tan băng giá. Với một
người khát sống như Trịnh Công Sơn, ngồi nơi này, nhớ nơi kia, lúc
nào cũng sợ không đủ thời giờ cho kiếp người, ngoảnh lại đã thấy đời xanh
rêu, nên ông luôn luôn thích sự xê dịch, cho nên mới có Đời mình là những
chuyến xe, đời mình là con nước trôi… Với quan niệm cuộc đời là một vấn nạn,
bấp bênh và tình yêu thì mù lòa, Trịnh Công Sơn hay nói tới danh từ vết
thương, và vì vậy mới có Tên em là vết thương khô,…
Không
sao có thể diễn tả hết được những ý nghĩa mà Trịnh Công Sơn muốn khoác cho các
sự vật, hiện tượng thông qua các định nghĩa của mình. Chỉ có thể nói rằng bởi
cách nhìn cuộc đời của ông quá độc đáo, quá tinh tế nên những người đã yêu nhạc
Trịnh thì bao giờ cũng yêu cả phần lời ca của ông.
5.2.
Những quan hệ bất thường về nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ
Quan
hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu tiếng Việt luôn là mối quan hệ ràng buộc,
hai chiều. Thông thường, vị ngữ phải nêu những đặc trưng vốn có ở chủ ngữ, phù
hợp với chủ ngữ. Song với Trịnh, vị ngữ luôn nêu những đặc trưng bất ngờ, tự
ông gán cho sự vật. Do vậy mới có những lời ca kỳ diệu như ở dưới đây:
-
Đêm chờ ánh sáng, mưa đòi cơn nắng./ Những giọt mưa, những nụ hoa hẹn hò gặp
nhau trước sân nhà. (Bốn mùa thay lá)
-
Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra. (Biết đâu nguồn cội)
-
Mùa xuân quá vội, mười năm tắm gội, giật mình ôi chiếc lá thu phai. (Chiếc lá
thu phai)
-
Về bên núi đợi ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay. (Chiếc lá thu phai)
-
Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, sỏi đá trông em từng giờ (Biển nhớ)
-
Bờ vai như giấy mới sợ nghiêng hết tình tôi (Thương một người)
-
Gió đêm nay hát lời tù tội quanh đời (Này em có nhớ)
-
Mùa xuân vừa đến xin mãi ăn năn mà thôi (Ru em từng ngón xuân nồng)
-
Đám rong rêu xếp hàng. (Một ngày như mọi ngày)
-
Xin mây xe thêm màu áo lụa. (Còn tuổi nào cho em)
-
Một ngày như mọi ngày từng chiều lên hấp hối (Một ngày như mọi ngày)
Phép
nhân hóa là một biện pháp tu từ thường thấy trong ca từ nhạc Trịnh. Rất nhiều
những sự vật vô tri, vô giác mang tâm trạng con người: cỏ lá biết buồn, biển
biết nhớ, gió biết hát, đêm biết đợi chờ, mưa biết đòi cơn nắng, rong rêu biết
xếp hàng… Bởi chính nhạc sĩ đã hóa thân vào những sự vật bình thường và tầm
thường nhất. Dường như ông muốn trốn chạy khỏi cõi đời mà lúc nào ông cũng thấy
chênh vênh, mất mát, bấp bênh. Song khi ông đã yêu thì mọi vật xung quanh ông
cũng biết yêu. Đôi khi, trong Trịnh, dòng chảy tâm tư quá nhanh, quá ồ ạt đã
khiến lời ca của ông bị dồn nén, các từ bị rút ngắn đến độ khó mà có thể hiểu
trọn vẹn từng câu. Đành phải hiểu cảm xúc chung của cả bài. Như trong
bài Có nghe đời nghiêng, cả bài hát giống như tâm sự của người ở lại khi
tất cả bỗng dưng trống vắng: Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh, đàn chim non
réo bên vườn hoang, người ra đi bến sông nằm lạnh, này nhân gian có nghe đời
nghiêng. Hoặc trong bài Chiếc lá thu phai có câu: Chiều hôm thức
dậy, ngồi ôm tóc dài, chập chờn lau trắng trong tay, Trịnh Công Sơn muốn
chuyển tải những thông điệp: Cuộc đời thật ngắn ngủi, thật buồn; ngoảnh đi
ngoảnh lại, ta đã già; hãy cố gắng để quên đi những ám ảnh về tuổi tác. Cũng
phải là một con người trải nghiệm trên đường đời nhiều lắm thì mới có thể
viết: Có con đường chở mưa nắng đi (Em còn nhớ hay em đã quên)… Ngôn từ
của Trịnh đã kết tinh đến độ đơn khiết, cô đọng nhất.
5.3.
Đảo trật tự cú pháp (đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ)
Hãy
đọc những ca từ sau đây và sắp xếp lại theo trật tự của chúng ta - những người
nhìn cuộc đời bằng con mắt trần gian:
- Vừa
tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ (Một cõi đi về)-> Mùa xuân vừa tàn, rồi mùa hạ
cũng tàn.
- Xôn
xao con đường, xôn xao lá (Đoản khúc thu Hà Nội) -> Con đường xôn xao,
lá cũng xôn xao.
- Hồng
má môi em hồng sóng xa (Đoản khúc thu Hà Nội) -> Má môi em hồng, sóng
xa hồng.
- Mệt
quá đôi chân này/ Mệt quá thân ta này (Ngẫu nhiên) -> Đôi chân này mệt
quá/ Thân ta này mệt quá.
- Đừng
phai nhé một tấm lòng son (Vườn xưa) -> Một tấm lòng son đừng phai nhé!
- Đã
về trên sông những cánh bèo xanh (Khói trời mênh mông) -> Những cánh
bèo xanh đã về trên sông.
- Hãy
yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người. (Để gió cuốn đi) -> Hãy yêu ngày
tới dù kiếp người quá mệt …
Cách
chúng ta đảo lại như vậy có thể làm ta dễ hiểu hơn, song hình như nó sẽ làm
hỏng nhạc Trịnh.
Còn
một kiểu sắp xếp nữa mà ta cũng thường gặp trong ca từ của Trịnh. Nó không phải
là bất thường, mà là đặc biệt. Đó là việc Trịnh sử dụng kiểu câu đảo bổ ngữ lên
trước làm đề ngữ. Cũng có khi thành phần phía trước được xem là trạng ngữ; tuy
nhiên, trạng ngữ này lại quan hệ rất chặt với động từ trong câu. Câu thường kết
thúc bằng một động từ, nghe khá đột ngột. Thí dụ:
-
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở/ Đời ta có ai vừa qua/ Rồi bên vết thương tôi
quỳ./ Từ những phố kia tôi về. (Đêm thấy ta là thác đổ)
-
Sáng cho em vòm lá me xanh./ Phố em qua gạch ngói quen tên (Em còn nhớ hay em
đã quên)
-
Im lặng của đêm tôi đã lắng nghe. (Tôi đang lắng nghe)
-
Về trong phố xưa tôi nằm (Lời thiên thu gọi)
-
Tuổi buồn em mang đi trong hư vô (Tuổi đá buồn)
Thường
thì ta sẽ nói: Đóa hoa nào mới nở trong vườn khuya/ Có ai vừa qua đời tôi/
Tôi quỳ bên vết thương./ Tôi về từ những phố kia./ Gạch ngói quen tên phố em
qua./ Tôi đã lắng nghe im lặng của đêm./ Em mang tuổi buồn đi trong hư vô… Kiểu
câu không kết thúc bằng thành phần bổ ngữ mà kết thúc bằng chính động từ trung
tâm, như đã nói, luôn khiến người nghe có cảm giác đột ngột. Song chính điều đó
lại làm nên sức hấp dẫn của nhạc Trịnh; để khi nghe nhạc Trịnh, người ta luôn
cảm thấy thiếu, muốn kiếm tìm, muốn nghe mãi…
Còn
có những kết hợp khó có thể sắp xếp lại theo thứ tự thông thường, cũng khó mà
gọi đó là cụm từ hay là câu nữa. Chẳng hạn như: Tuổi nào vừa thoáng buồn
áo gầy vai hay Cuồng phong cánh mỏi hoặc Cỏ xót xa đưa… Điều này càng làm
cho ta thấy nhạc sĩ nhìn sự vật, nhìn cuộc đời bằng con mắt khác với chúng ta.
Lời ca của Trịnh, nói theo Bửu Ý, đã được đặc cách hóa thành Kinh. Kinh là
những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh của Trịnh Công Sơn là do
chính ông phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm trở lại cho chính mình.
Mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại
nghĩa trang Gò Dưa (Thủ Đức-TPHCM)
Đọc
Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp, chúng tôi không dám nói nó có giúp ta
nhiều không trong việc hiểu nhạc Trịnh. Song chúng tôi ghi nhận ở người nhạc sĩ
tài hoa này một mẫn cảm ngôn ngữ tuyệt diệu. Bằng những kết hợp lạ lẫm, những
so sánh bất ngờ, những sắp xếp độc đáo, thông qua một tri giác bén nhạy, nhiều tầng,
đa chiều kích, và với một tâm hồn lãng mạn của một thi sĩ, Trịnh Công Sơn đã
làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ Việt. Trịnh Công Sơn đã sống và đã yêu hết
mình, dù cho ông yêu cuộc đời này bằng nỗi lòng của một tên tuyệt vọng.
Mỗi ca từ ông để lại cho đời đều thấm đẫm giá trị nhân bản. Hãy sống và yêu đi,
như ông đã từng viết: Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ! (Mưa hồng)…
TƯ
LIỆU KHẢO SÁT:
Trịnh
Công Sơn, Tuyển tập những bài ca không năm tháng, Nhà xuất bản Âm nhạc, 1998.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Dương Viết Á, 2005, Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, NXB Viện Âm nhạc, HN.
2.
Ban Mai, 2008, Trịnh Công Sơn - Vết chân dã tràng, NXB Lao động, Trung tâm văn
hóa và ngôn ngữ Đông Tây, HN.
3.
Trần Kim Phượng - Phan Ngọc Ánh, 2011, Danh từ chỉ thời gian - mùa trong ca từ
Trịnh Công Sơn; Ngôn ngữ và đời sống, số 4.
4.
Nguồn Internet: http://tuanvannguyen.blogspot.com.
Trần Kim Phượng
Nguồn: tạp chí Ngôn ngữ, số 10-2011









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét