Trong tiến trình văn học Việt Nam, Thơ mới (1932 - 1945) được
xem là “cuộc cách mạng thi ca chưa từng có trong lịch sử văn học dân tộc”. Cuộc
cách mạng trong Thơ mới là kết quả của sự thay đổi về hệ hình tư duy, thay đổi
về cảm nhận, về vị trí của chủ thể sáng tạo trong tương quan với thế giới,
trong đó có sự thay đổi của ngôn ngữ thơ. Đến nay đã có không ít công trình
nghiên cứu, tìm hiểu Thơ mới ở những góc độ khác nhau. Vấn đề ngôn ngữ Thơ mới
cũng là tâm điểm của nhiều công trình khoa học. Bài viết của chúng tôi hướng đến
những nét đặc trưng phong cách ngôn ngữ của Thơ mới, khẳng định đóng góp của
Thơ mới đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam thế kỷ XX .
1. Ngôn ngữ và nhiệm vụ lịch sử của Thơ mới
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học (Goocki). Khi đi vào
tác phẩm văn học, nó “là một sự phân tầng khác” của “ngôn ngữ tự nhiên”, “tương
xâm” nhưng không đồng nhất với “ngôn ngữ tự nhiên” (I.Lotman). Nếu “ngôn ngữ tự
nhiên” thường mang tính ổn định, thì ngược lại ngôn ngữ văn học đặc biệt là
ngôn ngữ thơ với tư cách là “mã” nghệ thuật lại luôn thay đổi. Mỗi thời đại, mỗi
trào lưu văn học, mỗi tác giả thường “sở đắc ngôn ngữ” của mình để mang đến một
“thực tại” và hình thức mới trong sáng tạo nghệ thuật. Cũng vì thế, ngôn ngữ
văn học biến đổi không ngừng. “Nó không biến đổi theo kiểu đột phá, mà diễn ra
trong cả một quá trình” [5, 927]. Hơn nữa ngôn ngữ văn học của một thời kỳ lớn
thường gắn với đặc trưng tư duy hình tượng của thời đại sản sinh ra nó, là bản
kí thác tâm trạng, ý thức thẩm mỹ, luân lí, chính trị thời đại.
Trong tiến trình văn học Việt Nam, Thơ mới (1932 – 1945) được
xem là cuộc cách mạng thi ca chưa từng có trong lịch sử văn học dân tộc, đáp ứng
nhu cầu của tầng lớp công chúng độc giả mới. Thành tựu của Thơ mới đã góp phần
quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, tạo nên sự cách tân đồng
bộ, toàn diện, sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống văn học. Về phương diện
ngôn ngữ nghệ thuật, Thơ mới được đánh giá là: “trào lưu thơ mở đầu sự thay đổi
ngôn ngữ trong giai đoạn 1932 – 1945, là một hiện tượng rất mới của ngôn ngữ
văn học Việt Nam thế kỷ XX” [5, 899].
2. Đặc trưng ngôn ngữ Thơ mới
2.1. Ngôn ngữ Thơ mới mang đậm dấu ấn của chủ thể
trữ tình
Về bản chất, thơ trữ tình là phương thức biểu hiện trực tiếp
các trạng thái cảm xúc và suy tư của nhà thơ trước các hiện tượng đời sống.
Trong đó, tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể
hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Vì vậy thơ trữ tình đã được
khẳng định là “vương quốc chủ quan” (Biêlinxki), là “sự biểu hiện và cảm thụ của
chủ thể” (Hêghen). Tuy nhiên không phải lúc nào đặc trưng này của thơ cũng được
bộc lộ rõ.
Trong tiến trình văn học dân tộc, thơ trữ tình đã có bề dày lịch
sử gắn với dòng chảy bốn ngàn năm của thơ trữ tình dân gian và hàng ngàn năm của
thơ trữ tình trung đại. Song thơ trữ tình dân gian là sản phẩm của tập thể, hiển
nhiên yếu tố chủ quan bị triệt tiêu. Chủ thể trữ tình thường xuất hiện qua cách
xưng hô phiếm chỉ như: anh - em (Anh buồn có chốn thở than – Em buồn như
ngọn nhang tàn thắp khuya), thiếp – chàng (Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây –
Như chim chèo bẻo xa cây măng vòi), mình – ta (Mình nói với ta mình vẫn còn son
– Ta đi qua ngõ thấy con mình bò …). Cách xưng hô đó khiến bất kỳ ai cũng
có thể trở thành chủ thể trữ tình khi người đó ngân lên lời ca với niềm đồng cảm.
Ở thơ trung đại, phạm vi chủ quan là chí hướng, hoài bão, nó
hướng con người nhìn vào một miền lý tưởng để ngợi ca và khẳng định. Ý thức chủ
quan luôn vươn tới sự hòa hợp giữa chủ thể và khách thể, những thủ pháp, kỹ thuật
ngôn từ cũng nhằm hướng tới sự đồng hóa trên. Chủ thể trữ tình ít khi xuất hiện
trực diện mà thường ở trạng thái vô nhân xưng dẫu tâm trạng được nói đến là của
một cá nhân. Mượn sự chảy trôi của thời gian Nguyễn Trãi đã nói nỗi buồn trống
trải một cách thấm thía, sâu sắc:
Việc cũ ngoái đầu còn đâu nữa
Đến dòng viễn cảnh dạ bâng khuâng
(Cửa bể Bạch Đằng )
Còn đây là nỗi niềm của Nguyễn Du khi ý thức sự nhỏ nhoi của
con người trước thời gian, trước vũ trụ:
Gió thu xế bóng lòng quá rộn
Nước chảy mây bay nghiệp bá mờ
(Trông vời
nước Sở )
Tuy nhiên khi biểu đạt tâm trạng dấu ấn cá thể đã bị mờ nhòa.
Đấy cũng là nét đặc trưng của thơ trữ tình trung đại. Sự thiếu vắng chủ từ biểu
thị chủ thể khiến lời thơ trở nên mơ hồ phiếm chỉ. Lời thơ như là “không
của ai cả” (Trần Đình Sử). Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ siêu cá thể theo qui luật đối,
niêm, vận… Bút pháp thơ trung đại mang tính chất gián tiếp đầy ngụ ý, kí thác.
Đến Thơ mới dòng ý thức chủ quan của chủ thể được bộc lộ một
cách trực tiếp. Trước hết nó thể hiện ở sự tự khẳng định của ý thức cá nhân. Có
thể nói lần đầu tiên trong lịch sử văn học, ý thức cá nhân được bộ một cách đầy
đủ. Trong rất nhiều biểu hiện của ý thức cá nhân, cái tôi chủ thể Thơ mới khát
khao bộc lộ “thành thực” cảm xúc, được nói lên “sự thật” của tâm hồn bằng tiếng
nói riêng của mình. Sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã tạo cho cái tôi trữ tình
trong Thơ mới một tư thế mới. Các nhà Thơ mới đã lấy cái tôi – một
cái tôi đầy cảm xúc làm điểm tựa để nhìn ngắm thế giới. Ngôn ngữ
Thơ mới đã được chủ thể hóa cao độ, cái tôi Thơ mới trở thành cái tôi chủ
ngữ. Các nhà thơ mới tuyên xưng một cách dõng dạc đầy khẳng định: Tôi
là con chim đến từ núi lạ; Tôi chỉ là một khách tình si; Tôi chỉ là người mơ ước
thôi; Ta là một, là riêng, là thứ nhất… Cấu trúc ngôn ngữ thơ là một yếu tố
thể hiện tính chủ thể hóa cao độ của Thơ mới, đúng như Nguyễn Đăng Điệp nhận
xét: “Mô hình danh từ + là + danh từ trở thành mô hình cú pháp
cơ bản khi các nhà Thơ mới tìm cách xác lập và khẳng định vị thế của cái tôi cá
thể trong thơ” [6, 211].
Sự khẳng định của ý thức cá nhân đã xác lập nội hàm mới của
hình tượng chủ thể trữ tình trong Thơ mới. Một trong những biểu hiện cụ thể của
nó là mô hình khái quát kiểu từ ngữ chỉ sự sở hữu qua công thức: của + chủ
thể và sự xuất hiện với tần số lớn những từ ngữ nhấn mạnh sự sở hữu trong
thơ. Thế Lữ ví mình như “khách tình si”, ham mê, đắm đuối trong “vẻ đẹp muôn
hình, muôn thể”. Người nghệ sĩ mượn cây bút “nàng Ly Tao”, mượn “cây đàn ngàn
phím” để rung lên nốt nhạc lòng. Từ những cảm xúc lãng mạn riêng tư, những nhu
cầu, những đòi hỏi, trong khát khao được thành thực là sự bộc bạch niềm yêu đến
mê say cái đẹp. Người nghệ sĩ là người có nhiệm vụ tôn thờ cái đẹp:
Tôi là một kẻ mơ màng
Yêu sống trong đời giản dị,bình thường,
Cùng với Nàng Thơ tháng năm ca hát,
Chúng tôi quen cảnh mịt mùng bát ngát
Của non cao, rừng cả; cảnh đìu hiu
Chốn đồng xa sương trắng chập chờn gieo
Từ sự mở đường của Thế Lữ, các nhà thơ mới sau này tiếp tục
trải lòng mình. Xuân Diệu cũng say sưa khẳng định:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc với muôn dây
Hay chia sẻ bởi tình yêu mến
(Cảm xúc – Xuân Diệu)
Ở đây hình thành mối quan hệ giữa nhà thơ và cái đẹp. Nhà thơ
là người sở hữu cái đẹp:
Nhà thi sĩ nâng niu bầu cảm xúc
Của trời mây đúc lại mấy lời hoa
(Trả lời – Thế Lữ)
Hồn trăng gió hãy nghe chàng kể lể
Hồn của người là hồn của người thơ
(Mai sau – Huy Cận)
Ý niệm sở hữu qua cách biểu hiện trên khoác lên mọi sự vật hiện
tượng màu sắc chủ quan của chủ thể trữ tình.
2.2. Ngôn ngữ Thơ mới tràn đầy cảm xúc, coi trọng nhạc tính
Bản chất của thơ trữ tình cho phép chủ thể bộc lộ một
cách trực tiếp cảm xúc, tâm trạng. Tuy nhiên dưới thời trung đại nét bản chất
này của thơ trữ tình chưa có điều kiện để bộc lộ. Với quan niệm “nói chí”, “tỏ
lòng”, thơ trữ tình trung đại hướng người đọc vào một miền lý tưởng, hoài bão,
điều họ muốn bộc lộ là cảnh ngộ, là vị thế của mình, qua đó tâm trạng được kí
thác. Trần Đình Sử cho rằng bài Đêm thu của Nguyễn Du “nổi bật kiểu
trữ tình này”:
Già về tóc bạc thương cho gã,
Nán mãi non xanh chửa chán người
Khổ nhất bên trời thân khách mỏi
Suốt năm nằm bệnh quế giang hoài
“Ở đây mấy chữ “gã”, “người”,“khách” đều là từ Nguyễn Du chỉ
bản thân mình. Nhà thơ khách thể hóa mình trong một trạng huống nào đó rồi bộc
lộ cảm xúc, tình cảm của mình đối với người đó, đó là cách trữ tình rất đặc
trưng của thơ trung đại”. Ông nhận xét: “Do đặc điểm này mà thơ cổ điển không
biết đến cách thổ lộ và trực tiếp trút xả nguồn cảm xúc dạt dào theo kiểu lãng
mạn”[10, 154].
Sự phát triển của Thơ mới chính là bước cải tạo hết sức quan
trọng của thơ trữ tình Việt Nam. Tiếp xúc với luồng sinh khí mới từ phương Tây,
tư duy, cảm xúc của các nhà thơ mới có những thay đổi. “Tư duy thơ hướng
vào phía trong để phân tích cảm giác, trình bày các trạng thái tình cảm” [5,
899]. Chủ trương đào sâu nội cảm, các nhà thơ mới đã hữu hình hóa những vi diệu
của đời sống tâm hồn. Thơ mới bộc lộ một cách trực tiếp tất cả mọi cung bậc và
sắc thái của tình cảm: vui, buồn, hờn, giận, thiết tha, say đắm, mộng mơ, cay đắng,
xót xa.... Đây cũng là xu hướng chính của Thơ mới ở giai đoạn đầu phát triển.
Ngôn ngữ Thơ mới mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn.
Cái tôi trữ tình trở về đúng nghĩa của nó – một cái tôi cảm
xúc. Có thể xem Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ, Cảm xúccủa
Xuân Diệu... như tuyên ngôn của các nhà thơ Thơ mới. “Muôn điệu” chính là
sự đa dạng trong trạng thái cảm xúc của các nhà thơ Thơ mới.
Sự đa dạng của cảm xúc hiện ra trong từng “mao mạch” của thế
giới ngôn từ. Trong chặng mở đầu, ngôn ngữ Thơ mới thường mang theo cái rạo rực,
mê say tạo nên những khúc ca vui, niềm hy vọng với chất lãng mạn say người...
Càng về sau, cảm xúc của các nhà thơ Thơ mới thăng hoa theo nhiều ngả khác
nhau, nó tựa như những con sóng tràn bờ và vỗ miên man một giai điệu buồn với
những màu sắc khác nhau để trở thành một tổng phổ nhiều cung bậc.
Có khi là những từ ngữ diễn tả nỗi buồn nhẹ mà man mác bâng
khuâng: Tiếng đưa hiu hắt bên lòng – Buồn ơi xa vắngmênh
mông là buồn (Thế Lữ); Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
– Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn (Xuân Diệu); Gió
theo lối gió mây đường mây – Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay (Hàn
Mặc Tử)... Có khi là những từ ngữ thể hiện nỗi buồn đến độ nhức nhối, đau
đớn: Tiếng gà gáy buồn như máu ứa – Chết không
gian khô héo cả hồn cao (Xuân Diệu); Trời ơi chán nản đương
vây phủ - Ý tưởng hồn tôi giữa cõi tang (Chế Lan Viên).
Năng lượng cảm xúc trong ngôn ngữ dồi dào khiến các nhà thơ mới
phá tung những khuôn hình chật hẹp và gò bó của câu thơ, nhịp thơ trung đại. Kiểu
câu thơ “ý tại ngôn ngoại” không còn phù hợp cho “cảm xúc tràn bờ” của các nhà
thơ mới. Câu thơ không còn gò theo khuôn hình cố định mà trở thành dòng tâm trạng,
nó tuôn chảy theo cảm xúc; nhịp thơ chảy tràn qua các dòng thơ:
Tôi muốn sống cuộc đời thi sĩ, để
Dốc chén mơ màng nhưng chỉ thấy chua cay
(Lựa tiếng đàn – Thế Lữ)
Ngôn ngữ thơ trung đại đạt đến độ tinh tế, vi diệu trong cảm
nhận thị giác và thính giác của chủ thể trữ tình. Ngôn ngữ Thơ mới đã làm giàu
có hơn nguồn cảm xúc đó. Các nhà thơ mới đã “Sống toàn tâm và thức nhọn các
giác quan” để cảm nhận cuộc sống và những rung động của tâm hồn. Đặc biệt,
các nhà Thơ mới rất coi trọng nhạc tính của ngôn ngữ thơ; dùng nhạc thơ để biểu
hiện tiếng “nhạc lòng”.
Xuân Diệu đã lấy câu thơ nổi tiếng của Baudelaire: “Les
parfums, les couleurs et les respondent” (Những mùi hương, những màu sắc,và những
âm thanh đáp ứng với nhau) [5,136] làm đề từ cho bài thơ Huyền diệu.
Sự bùng nổ cảm giác của Xuân Diệu qua bài Huyền diệu bộc
lộ trạng thái náo nức đến đắm say của một tâm hồn nồng nhiệt, thiết tha giao cảm
với đời. Năng lượng cảm xúc được dồn nén đến mức tối đa nhà thơ cảm nhận “khúc
nhạc” bằng cả thính giác, thị giác, khứu giác. Sự “tương ứng cảm giác” đưa chủ
thể trữ tình vào “thế giới của Du Dương” để “ Âm điệu thần tiên thấm tận hồn”.
Sau tất cả sự ngân rung của khúc nhạc huyền diệu là sự huyền diệu của trái tim,
tiếng nhạc đã ngừng im mà tiếng lòng vẫn vang ngân:
Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim
Còn cứ run hoài như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm
Huyền diệu rất tiêu biểu cho tiêu chuẩn mà thi phái tượng
trưng đòi hỏi: “âm nhạc trước hết mọi thứ” (Veclen), mỗi từ, mỗi chữ phải
là một nốt nhạc làm nên bản giao hưởng của tâm hồn.
Biểu hiện tính nhạc trong ngôn ngữ thơ của các nhà Thơ mới rất
phong phú, đa dạng. Nhạc thơ Bích Khê thường du dương, trầm buồn với cách tạo
âm và ngôn từ khá đặc biệt:
Lá vàng rơi
(Tôi khóc, anh ơi!)
Đàn rung tiếng
Người yêu đương ngồi…
Trăng vàng rơi,
(Tôi khóc, anh ơi!)
Đàn nghẹn tiếng
Người yêu dậy rồi…
Nếu Thi vị tạo nhạc bằng điệp khúc, điệp từ thì Tỳ
bà, Mộng cầm ca, Nghê thường, Tiếng đàn mưa tạo nhạc bằng sự hòa phối của
thanh điệu (sử dụng chủ yếu thanh bằng).
Trong Đàn ngọc, Hàn Mặc Tử lại tạo nhạc thơ bằng cách kết
hợp các từ láy có cung bậc thanh điệu khác nhau để diễn tả những thái cực của
“khúc nhạc lòng” dâng cao hoặc trầm lắng:
Nàng! Lạy Nàng! Hãy nghe tôi cầu khẩn:
Hãy khoan tay cầm lại trí tương tư
Đang chờn vờn trong nguồn sáng ngất ngư
Tiếp thu phương Tây, các nhà thơ mới chủ trương một quan điểm
mở giới hạn “vô biên và tuyệt đích” cho thơ và giải phóng mọi giác quan để cảm
nhận thế giới. Ngôn ngữ Thơ mới cũng phá tung ước lệ cổ điển để biểu
lộ những cung bậc tận cùng của cảm xúc. Sự cách tân ngôn ngữ Thơ mới đã
góp phần làm nên một cuộc cách mạng thơ ca (1932 -1945).
Sự điểm lược trên chưa phản ánh đầy đủ những đổi mới đáng
trân trọng (và cả những hạn chế) của ngôn ngữ Thơ mới. Chúng tôi hi vọng sẽ có
dịp trở lại để nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
Tư liệu tham khảo
1. Huy Cận – Hà Minh Đức, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (60 năm
phong trào thơ mới), Nxb Giáo dục 1993.
2. Hữu Đạt, Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục 1996.
3. Đặng Anh Đào, Việt Nam và phương Tây tiếp nhận và giao thoa trong văn học,
Nxb Giáo dục 2007.
4. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 - 1945), Nxb Giáo dục 1997.
5. Phan Cự Đệ (Chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỷ XX – Những vấn đề lịch
sử và lý luận (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục 2005.
6. Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học 2002.
7. Nguyễn Đăng Điệp (Tuyển chọn), Trần Đình Sử tuyển tập, Tập 2, Nxb Giáo dục
2005.
8. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt nam, Nxb Giáo dục 2005.
9. Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam (In lần thứ 14), Nxb
Văn học 1998.
10. Từ
điển tiếng Việt (In lần thứ 5), Nxb Đà Nẵng 1997.
La Nguyệt
Anh - Lê Hồng My
đặt vé eva airline
cách mua vé máy bay đi mỹ
korean airline
vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich