Con ngựa già trên đồng cỏ thi ca
Nhà thơ Ngô Thế Oanh đưa tôi đi tìm nơi ở của
gia đình Phùng Cung. Xế trưa tháng sáu nắng hè như chan lửa. Ngọc Hà chi chít
những ngõ hẻo chật hẹp. Giống như bao phố làng Hà Nội. Tận cùng một trong những
ngõ ấy, yên lặng khiêm nhường bao bọc lấy ngôi nhà nhỏ một tầng. Nơi Phùng Cung
đã mũ áo đi về với tổ tiên. Chúng tôi xin phép thắp ba nén nhang bái lễ người
quá cố. Một đời lận đận và giác ngộ bởi văn chương.
Khi Phùng Cung cho in truyện ngắn Con ngựa
già của chúa Trịnh trên báo Nhân Văn 1956, Tô Hoài gật gù giọng kể cả: “thằng
này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên cháo đấy, con ạ.” Nguyễn
Đình Thi thì bảo: “T. C tức nhất Con ngựa già chúa Trịnh của Phùng Cung”. Trong
vụ Nhân Văn giai Phẩm, có 3 người bị đưa ra tòa xử tù. Đến năm 1961, Nhân Văn
Giai Phẩm đã tàn cuộc thì Phùng Cung bị bắt. Sau tác phẩm đầu tay con ngựa già
1956, ông tiếp tục sáng tác một số truyện ngắn có mặt trong tập Dạ Ký 1959
nhưng chưa được xuất bản. Tác giả Con ngựa già của chúa Trịnh nằm trong trại cải
tạo 12 năm. Đến 1973 được tha. Những tưởng nghiệp chướng văn chương đến thế là
cùng và con đường văn học của ông sẽ dừng lại ở đây. Nhưng con người ta ở đời
này đã mang cái nghiệp vào thân, khi đã đứng trong hàng ngũ văn nhân thì sức sống,
niềm tin yêu mãnh liệt bao nhiêu thì cũng âm ỷ thanh bạch bấy nhiêu với thi ca,
thôi thúc họ cầm lấy sự nghiên bút không sao dứt được. Bài Quê xa, Phùng Cung
viết ở biệt giam Lào Cai 72 tâm sự:
Tuổi hoa
niên
Buộc ký gửi
kho tù
… Khoác tuổi chiều
Bước qua chiều
ngoái lại.
Ông nhập hộ tịch vào làng văn bằng cưỡi con
ngựa già của chúa Trịnh qua cửa Văn xuôi, khi ông mới 28 tuổi. Lúc vào trại cải
tạo Phùng Cung đã lặng lẽ rẽ sang đồng cỏ thi ca cho đến khi ông lâm sự hai 50
trên giường bệnh. Đúng 22 năm sau khi ở trại về. Năm 1995. Phùng Cung cho in tập
thơ Xem Đêm.
Hai năm sau, con ngựa trắng Kim Bông lấp lánh như có nạm kim cương đưa hồn ông về giời. Như để chuộc lại lỗi lầm 41 năm về trước. Vì nó mà ông mang họa. Tháng 9.2011, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn cho in tập Xem Đêm. In cả Con ngựa già của chúa Trịnh vào đó. Bìa sách màu xanh nhạt. Ở giữa có ảnh Phùng Cung đội mũ len, mặc áo len cổ lọ. Kính trắng. Tay cầm điếu thuốc lá đang hút giở. Khuôn mặt và màu sắc bức ảnh gợi nhớ một người sùng đạo phật và tin ở kiếp luân hồi…
Hai năm sau, con ngựa trắng Kim Bông lấp lánh như có nạm kim cương đưa hồn ông về giời. Như để chuộc lại lỗi lầm 41 năm về trước. Vì nó mà ông mang họa. Tháng 9.2011, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn cho in tập Xem Đêm. In cả Con ngựa già của chúa Trịnh vào đó. Bìa sách màu xanh nhạt. Ở giữa có ảnh Phùng Cung đội mũ len, mặc áo len cổ lọ. Kính trắng. Tay cầm điếu thuốc lá đang hút giở. Khuôn mặt và màu sắc bức ảnh gợi nhớ một người sùng đạo phật và tin ở kiếp luân hồi…
Cuộc đời này dâu bể bao nhiêu thì cũng tri âm
ngần ấy. Trong giới văn chương nước Việt, có nhiều câu chuyện cảm động về tình
bạn. Từ khi ra trại, tấm lòng Phùng Cung thật bao dung độ lượng. Ông thanh thản
với lòng mình, với đời, với cả người có lúc đã làm ông lâm nạn. Với gia cảnh
Hoàng Cầm, Xem Đêm “say lên bình diện phù du, nửa cõi tri âm khô trên phím lụa”.
Với Phùng Cung, bức ảnh nhà thơ Hoàng Cầm đến bệnh viện Saint Paul ngày 6 tháng
4 năm 1997, trước độ 1 tháng Phùng Cung mất. Hai người bạn. Một tóc bạc
trắng. Một gầy gò. Gục đầu bên nhau tâm sự lần cuối và lời ghi điếu sau đấy
của nhà thơ xứ Kinh Bắc: “Anh đi nhiều lắm là nửa giờ. Đi chơi quanh cái thế
gian đau khổ này để chia đau xẻ buồn với mọi người… Cung ơi! Cứ đi đi rồi về
ngay nhé”. Như một tiếng nấc nghẹn lại. Thấm thoát sang thế kỷ 21 gần được 15
năm rồi. Con ngựa già chúa Trịnh của chúng ta đã đi và đi mãi không bao giờ trở
lại. Chỉ còn tập Xem Đêm để ngỏ bên bậu cửa sáng sủa của thời gian.
Nghị quyết số 49 ngày 20-6-1961, thông tư số
121 ngày 9-8-1961 quy định về việc tập trung giáo dục, cải tạo phần tử phản
cách mạng ngoan cố có hành động phương hại đến an ninh chung và phần tử lưu
manh chuyên nghiệp. Cả hai loại xét không cần đưa ra tòa án xử. Việc lập hồ sơ
cải tạo theo thủ tục hành chính. Thời hạn cải tạo là 3 năm. Nếu thực sự cải tạo,
thì được về sớm hơn. Không chịu cải tạo, thời gian có thể bị kéo dài. Văn bản
không quy định dài bao nhiêu năm. Người được cải tạo không bị coi là phạm nhân
có án phạt tù, nhưng không được hưởng quyền công dân. Mỗi tháng mỗi người được
cấp 13 đồng để ăn uống. Mỗi năm được cấp hai bộ quần áo vải. Được phát chăn,
màn, chiếu và thuốc men. Mỗi ngày lao động sản xuất 8 giờ. Văn bản pháp luật nhắc
nhở: “cần phải đề phòng xu hướng lệch lạc muốn dùng biện pháp tập trung giáo dục
cải tạo để đẩy tất cả những phần tử phức tạp ra khỏi địa phương mình cho rảnh
tay, gây nên tình hình căng thẳng không cần thiết”. Điều cảnh báo ấy đã xảy ra.
Phùng Cung tham gia cách mạng 1945. Ông đứng
tên trong khởi nghĩa giành chính quyền rồi làm chủ tịch một xã vùng huyện Yên Lạc
tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1949 Phùng Cung lên chiến khu Việt Bắc, công tác ở văn
phòng cơ quan Văn nghệ kháng chiến. Năm 1954 về Hà Nội tiếp tục công tác tại cơ
quan văn nghệ. Trước sau, ông không phải là phần tử phản cách mạng ngoan cố hay
lưu manh chuyên nghiệp. Khi Phùng Cung in tập Xem Đêm 1995, pháp luật áp dụng với
ông cách đó đã 34 năm đã bắt đầu thay đổi. Năm 1997 pháp luật ấy thay đổi hoàn
toàn thì cũng là lúc ông trút hơi thở cuối cùng. Ông không được thấy sự đổi đời
ấy nữa. Đã là pháp luật chung thì đâu phải chỉ áp dụng cho con ngựa già của
chúa Trịnh. Còn hệ lụy đến nhiều người khác nữa. Biết làm sao được. Một thời đã
qua rồi. Điều đáng quý, đáng trân trọng là nhân cách Phùng Cung, là tình yêu
thiết tha Tổ Quốc và nhân dân mình của người thi sỹ.
Đất nước ơi
Tôi mến người
Như khi nhìn
em bé ngủ
Tôi thương
người
Như thương mẹ
ốm…
Bài Quê hương, viết ở biệt giam Yên Bái 65. Dứt
ruột mà viết ra lúc năm cùng tháng tận. Lòng thành vụng trộm hành hương mà hình
dung hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn màu nắng da bò. Sông quê vắng hẳn tiếng gọi
đò qua lại. Con ngựa già trên đồng cỏ thi ca không khụy ngã, không oán trách.
Âm thầm trải lòng mình với thế thái nhân tình…Trong Nhân Văn giai phẩm, có nhiều người làm thơ. Nhưng được đông đảo người đọc đồng cảm hơn cả, ít có tuyên ngôn rầm rộ hơn cả mà để lại dấu ấn cho đời, cho thi ca thế kỷ 20 chỉ có vài người. Mặc dù tầm vóc của họ có khác nhau. Hoàng Cầm. Văn Cao. Phùng Cung…
Âm thầm trải lòng mình với thế thái nhân tình…Trong Nhân Văn giai phẩm, có nhiều người làm thơ. Nhưng được đông đảo người đọc đồng cảm hơn cả, ít có tuyên ngôn rầm rộ hơn cả mà để lại dấu ấn cho đời, cho thi ca thế kỷ 20 chỉ có vài người. Mặc dù tầm vóc của họ có khác nhau. Hoàng Cầm. Văn Cao. Phùng Cung…
Không phải 120 ngày. Không phải 12 tháng.
Không phải một, hai năm. Mà 12 năm. 4320 ngày. Một ngày bằng thiên thu ở ngoài
là bao nhiêu ngày. Dài không đếm được… Hai trăm bài của đời thơ Phùng Cung nén
lại biết bao tâm trạng con người. Hai trăm bài đa phần rất ngắn. Như con ngựa
già đi từng bước một, từng bước một qua đồng cỏ thi ca bao la, không một lời
than thở. Chỉ có hai, ba lần dùng đến từ oan trong một cảm hứng thi ca thanh
khiết. Đó là đêm dây oan khi gió quan lục cầm chân hồn nhỏ để “đêm dây oan”
quên nẻo đi về. Đành lòng với số phận như buông một tiếng thở dài nho nhỏ mà
thôi. Nhiều khi trằn trọc giữa đêm khuya, mưa bay hồn tơi tả khi bầu trời lá rụng
trăng úa trăng tàn bỗng vang lên khát vọng “khúc giải oan”. Bài thơ hay nhất
nói về chữ oan của Phùng Cung man mác hương thanh bạch khi chiều thu treo nắng
cuối mùa.
Hương Thu dịu nửa không gian
Giọt Thu đẫm mảnh hàm oan cửa chùa
Chiều Thu treo nắng cuối mùa
Gió trăng khỏa nhịp tơ vò ao Thu.
Sắc màu nhàn nhạt Thu chỉ như lời nhắn gửi nỗi
hàm oan với thiên nhiên thanh tịnh làm giảm đi sự nặng trĩu của đớn đau
trần thế. Chỉ có khoảng 4, 5 bài nói đến tù nhân mà tình như khắc khoải tấm
lòng người thi sỹ. Đêm trằn trọc không ngủ được vì tiếng mưa rơi. Nghe đâu đây
hoa dứa gai thơm lại mùi biên ải. Giấc ngủ xé đôi. Một nửa giấc tù ngồi. Một nửa
giấc trăng. Thi sỹ nói về vầng trăng đến thăm tù ngục đã nhiều. Trăng ngục của
Phùng Cung vẫn là vầng trăng muôn thủa ấy. Trăng của Phùng Cung không chỉ đánh
thức người mà như tình thương bao la của mẹ quê hương làm lành lặn vai áo bởi
thứ lụa thần - lụa trăng mà da diết nhớ đến ngày xưa, người xưa.
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi
Xa mãi đến bao giờ…
Bài Biển cả, một trong số bài thơ hiếm hoi
tác giả ghi thời gian và nơi sáng tác: Biệt giam Bất Bạt 1961 giọng nghe thách
thức nhưng thực chỉ là một khẩn cầu hòa hợp giữa biển cả khoác triều phục đại
dương đầy uy lực với giọt nước nhỏ nhoi tình nguyện tách đôi. Phùng Cung không
miêu tả thiên nhiên, mặc dù thơ ông người đời cho là một khúc nông ca xa vắng.
Ông thiên về tâm trạng, tâm trạng của thiên nhiên. Xem Đêm, đương nhiên là có
nhiều bài thơ đêm rồi. 15 bài đêm. Đêm vó ngựa. Nghe đêm. Đêm trăng thừa.
Đêm vắng. Đêm cuối thu. Sông đêm. Đêm nguyên tiêu. Xem đêm. Đò đêm. Về chợ tối.
Ao đêm. Đêm xuân. Dạ Yến. Đêm dây oan. Còn với tám bài trăng nữa. Tưởng xem đêm
sẽ có nhiều bóng tối. Nhưng lại là đêm sáng, đêm trăng. Đêm thao thức đời người.
Hay nhất, tình tứ nhất là bài Đêm Xuân.
Đêm xuân nặng giọt mưa hoa
Đài xuân nghiêng nhịp Lệ sa-Nghi đình
Kho thiêng nhen sợi lửa huỳnh
Chén riêng sẻ nửa chén quỳnh sau xưa.
Hơn thế nữa. Xem đêm mà thấy rất nhiều ánh nắng.
Đó phải chăng là quan điểm thẩm mĩ và lý tưởng nhân văn của ông. Ánh nắng lan tỏa
trong thơ. 16 bài nắng. Một tập hợp những tâm trạng về nắng. Nắng ngả
tương. Nắng gió. Nắng phơi rơm. Nắng đồng trinh. Nắng hàn vi. Nắng thừa. Nắng
hoa ngâu. Nắng cánh cam. Nắng rươi. Nắng ghé. Nắng dứ. Nắng bổ cau. Nắng tía. Nắng
hoang. Nắng ngọc. Nắng cũ… Nghe trong nắng cũ, cuộc sống thanh bần nơi
làng quê. Tiếng chim Liếu điếu kháo mưa. Thanh thảo cơm đèn. Tép diu rang khế.
Bỗng nhớ về khuôn mặt đăm chiêu thuyền thúng khăn bùn của đồng chiêm nơi
khóe mắt người xưa sáng ngời nắng cũ. Nắng phơi rơm như màu tâm trạng người xa
quê. Xa lâu đến mức cây cỏ quê hương cũng quên đi ít nhiều để sông quê bâng
khuâng ca khúc nổi chìm màu nắng của mùa màng trên dòng sông ấy. Đến con cua nhỏ
xíu trên đồng cũng mang trên mình màu nắng vẽ của thương nhớ đồng quê.
Lưng nắng- vẽ
Hoa văn tiền sử
Chài chãi đồng chiêm
Mấy kiếp rồi.
Cảnh nắng hàn vi xa lắc nơi cửa liếp người đi
từ dạo đói, một buổi chiều trở về ghé lại sân hoang, chỉ nghe tiếng hời vắng lặng
nơi hoa rau sam nở được bôi lên mình loang lổ nắng hàn vi. Nắng hoa cau là tâm
trạng em xéo bóng lần đầu nắm rau nón củi mà điếng lòng nắng của thương nhau.
Là khi đau ốm, cơn sốt vắt vai, mảnh chăn chiên run rẩy hong chút nắng thừa. Là
mơ màng tưởng người thiếu nữ đi đâu. Chợt nghe tiếng cười khúc khích ở hàng
hiên sau nhà, nơi có hàng râm bụt gió lay nắng tía…
Bước qua cửa Xem Đêm, tôi không thấy bóng tối.
Chỉ thấy ánh nắng và ánh trăng cùng tấm lòng trắc ẩn cuả người thi sỹ. Xem Đêm
mà thấy ban ngày. Chỉ có một lần đêm - vó - ngựa. Nhật thực triền miên
ngày tối hơn đêm.
Hai trăm bài của Phùng Cung tuyệt đại bộ phận
là thơ ngắn. Phần nhiều chỉ 5, 7 câu là cùng. Thơ ngắn mà hay cả trong tình ý
và câu chữ là cực khó. Phùng Cung chọn chữ làm thơ thật đặc sắc. Ông thuộc trường
phái “thôi-sao”. Xem Đêm có nhiều ý lạ. Lạ cái bóng bảy ngôn từ và sâu xa của ý
nghĩa. Ông không theo lối bóng chữ. Chữ tách rời nghĩa. Phải chăng vẻ đẹp riêng
có của Phùng Cung trong làng thơ nước Việt- vẻ đẹp của chữ hay.
Một tiếng gọi đò căng chỉ giữa đêm khuya.
Tiếng gọi đò
Căng chỉ ngang sông.
Một tiếng chim tu hú gọi hè khi mùa còn chưa
đến hẳn đang rì rầm ở lũy tre ven làng khi trời chợt chuyển sắc, chuyển hương.
Chưa kịp đổ hồi vươn cánh
Bầu trời vội vàng vung lưới hoa cau.
Vội mớm cho con
Hạt -cổ-tích-vỡ lòng.
Chữ lạ. Chữ hay nhiều lắm trong Xem Đêm. Tiếng
tù và bết gió. Nắng thắm quết trầu dốc bến. Gió dắt điệu du hời lẫm chẫm. Góc
vườn líu chíu nắng non. Gió bung biêng cành vườn tắt vụt tiếng chim. Ao khuya
nước thở thì thầm. Đãy sắn khô lẽo đẽo thơm giáp hạt. Mõ dẫn kinh ruổi nhịp
luân hồi. Con cúi rơm giữ lửa, một xóc chữ nhân nằm chờ mưa gió…
Mỗi khi đọc một nhà thơ, tôi thường chú ý tới
triết lý sống của họ. Tâm sự và nỗi lòng của người ấy nhắn gửi cho đời qua vẻ đẹp
của ngôn từ, của hình tượng và nhịp điệu, của cảm xúc thi ca. Xem Phùng Cung,
tôi lại nhớ đến một buổi chiều tuyết rơi trắng xóa ở Kopenhagen, nơi tòa thị
chính có tượng Anđersen. Giật mình nhìn xuống tuyết, tôi không thấy bóng mình
đâu nữa. Nhớ lại người tự bán cái bóng của mình và trở thành nô lệ của chính
cái bóng đó trong truyện Anđersen. Nhưng tuyết rơi không có ánh mặt trời thì có
bóng làm sao được. Xem Đêm của Phùng Cung tôi thấy ông không đánh mất cái bóng
của mình. Đó là tâm hồn thi sỹ. Bởi vì đêm của Phùng Cung có rất nhiều ánh nắng
và ánh trăng. Thi sỹ Phùng Cung cả cuộc đời mình đã minh chứng cho tấm lòng
thanh bạch của ông với Tổ Quốc, quê hương mình. Vượt qua định mệnh của số phận
để làm tròn thiên chức của một thi sỹ. Ông để lại cho đời một nhân cách sống
thông qua những vần thơ.
Tôi không quen biết Phùng Cung. Chỉ sau khi
ông mất, Xem Đêm mới đến được tay… phàm. Vào rồi ra khỏi Xem Đêm, ra khỏi nỗi
niềm của Phùng Cung, mang về bao tâm sự của cuộc bể dâu trần thế. Bỗng nhiên thấy
thấp thoáng một nỗi buồn tri âm như cái gì xa lắm không bao giờ trở lại mà
trang trọng thân thương, mà nghe đâu đây vó ngựa của người xưa cũ một lần đến với
cuộc đời trong thiên chức thi nhân đã đi xa mãi. Nếu có luân hồi chắc Phùng
Cung lại chọn kiếp làm thơ.
Gấm bào hoen giọt lệ điều
Bâng khuâng xa mã, nửa chiều quân vương.
Năm 2012. Hội nhà văn Hà Nội vinh danh Phùng
Cung “Thành tựu Thơ trọn đời” cho tập Xem Đêm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét