Cũng như một số nhà thơ khác, Chế Lan Viên đã
bàn luận khá nhiều về thơ qua văn xuôi chính luận và sau này được tập hợp lại
trong những cuốn tiểu luận phê bình như: “Suy nghĩ và bình luận”, “Phê bình văn
học”, “Bay theo đường dân tộc đang bay”, “Từ gác Khuê văn đến quán Trung Tân”,
“Nghĩ cạnh dòng thơ”, “Ngoại vi thơ”, “Nói chuyện thơ văn”, “Vào nghề” ... Ông
cũng bộc lộ quan niệm của mình về thơ qua các bài giới thiệu, các bài “tựa” và
“bạt” cho một số tác giả mà ông am hiểu và quý trọng như Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Yến Lan, Tế Hanh. Bằng vốn sống và vốn văn hoá uyên bác, bằng trí tuệ sắc
sảo và trực cảm nghệ thuật tinh tế, những trang tiểu luận - phê bình thơ của Chế Lan Viên đã
đem đến nhiều thú vị bất ngờ cho độc giả.
Phát biểu, bàn luận về thơ qua hàng loạt những bài văn
chính luận kể trên, dường nhưChế Lan Viên vẫn cảm thấy mình chưa
nói được nhiều về thơ. Sự suy nghĩ, trăn trở của ông còn được tiếp nối liên tục
qua một loạt các bài thơ viết về thơ. Đó chính là những quan niệm, những nung nấu,
kiếm tìm của Chế Lan Viên về thơ nhưng đã được hoá thân
thành các hình tượng lung linh lắm sắc màu. Ở những bài thơ ấy, những nguyên lý
trừu tượng khô khan đã được ông nâng lên thành cảm xúc, hình ảnh, âm điệu ...
nên dễ đi vào lòng người và để lại ấn tượng lâu bền. Từ mấy chục năm qua, Chế Lan Viên đã
được nhiều người thừa nhận là “nhà vô địch” về các tuyên ngôn thơ cả trong lý
luận và trong sáng tác. Và khi cần đến những dẫn chứng làm sán tỏ lý luận về
thơ, mọi người thường nghĩ ngay đến Chế Lan Viên. Nhìn tổng
quát, chúng ta có thể thấy những quan niệm về thơ của Chế Lan Viên phát
triển, biến đổi song hành cùng các chặng đường tư tưởng và sáng tác của ông. Nếu
xét theo chiều lịch đại, quan niệm về thơ của Chế Lan Viên vận
động qua ba thời kỳ: trước năm 1945, sau năm 1945 đến hết thập niên 70 và những
năm 80 được thể hiện tập trung qua ba tập Di cảo thơ.
1.Trước cách mạng, cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên là
chủ tướng của nhóm thơ Bình Định với cái tên khá rùng rợn Trường thơ loạn. Thay
mặt cho nhóm thơ này, ChếLan Viên đã có một tuyên ngôn về thơ nổi
tiếng trong lời tựa tập Điêu tàn: “Hàn Mặc Tử nói: làm thơ tức là điên. Tôi nói
thêm: làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người
Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại,
nó xối trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai”. Chính cái quan niệm độc đáo khác
người này đã hướng hồn thơ Chế Lan Viên đến một thế giới đầy
“Kinh dị, lẻ lo và bí mật” như Hoài Thanh đã nhận xét về Điêu tàn.
Tuy không có bài thơ nào
viết riêng về thơ, nhưng rải rác đây đó trong tập Điêu tàn, chúng ta có thể thấy
có một số câu đã thể hiện khá đậm quan niệm của Chế Lan Viên về
thơ.
Đối với ông, thi sĩ phải
là người thoát ly triệt để thực tại để tìm giải thoát ở cõi siêu hình bất tận:
Hãy cho tôi một tinh cầu
giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối
trời xa
Để nơi ấy tháng ngày tôi
lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với
buồn lo.
(Những
sợi tơ lòng)
Đối với ông, cảm xúc thẩm
mỹ lẫn đối tượng thẩm mỹ của thơ chính là nỗi đau khổ khôn cùng của thi nhân
trên cõi trần gian.
-Trời hỡi trời hôm nay ta
chán hết
Những sắc màu hình ảnh của
trần gian
(Tạo
lập)
-Vì u buồn là những đoá
hoa tươi
Và đau khổ là chiến công
rực rỡ
(Đừng
quên lãng)
Với một quan niệm về thơ
như vậy lại gặp điều kiện mảnh đất Bình Định với gợi mở là thành cổ Đồ Bàn cùng
những ngọn tháp Chàm chứng tích của một dĩ vãng đau thương, uất hận đã hướng
thơ Chế Lan Viên càng ngày lạc sâu vào cõi siêu hình, mờ ảo
để đến mức ông phải hoảng loạn thốt lên “Có ai không nắm giùm tay ta lại! Hãy bẻ
giùm cán bút của ta đi ! Lời thơ ta đầy những điệu sầu bi. Đầy hơi thịt, yêu ma
cùng sắp chết” (Tiết trinh). Và ông nghi ngờ chính sự tồn tại, hiện hữu của
mình “Ai bảo dùm: Ta có, có ta không?”.
Cũng chính quan niệm “làm
thơ là làm sự phi thường”, quyết không đi lại những con đường của các nhà Thơ Mới
thời ấy, đã khiến cho Điêu tàn trở thành hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch
sử thơ ca dân tộc. Ngay từ lúc ấy, chính Chế Lan Viên đã ý
thức được sự cô đơn trên nẻo đường riêng của thơ mình:
Đường về thu trước xa lắm
lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi.
2.Trong lúc Chế Lan Viên đang lạc vào cõi
hư vô, siêu hình và ngày càng bi quan; bế tắc vì chưa tìm được hướng đi cho đời,
cho thơ mình, thì cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Chính cách mạng đã làm “Thay đổi
đời tôi, thay đổi đời tôi” như sau này ông từng khẳng định. Từ một người mộng
mơ, suy tưởng về thế giới huyền ảo, ông trở thành một người hành động. Ông chân
thành tham gia vào hoạt động cách mạng cùng quần chúng nhân dân. Ông sung sướng
“được quên thơ đi” như quên một cái già không thiết thực với cuộc sống sôi động
trước mắt. Tuy tư tưởng chính trị và tình cảm của ông rất gần với cách mạng, với
nhân dân, nhưng tư tưởng nghệ thuật và tư duy nghệ thuật của ông vẫn còn một
khoảng cách khá xa. Do đó, phải mất hơn 10 năm trăn trở trong cuộc “nhận đường”, Chế Lan Viên mới
có được sự thay đổi căn bản về quan niệm nghệ thuật và tư duy thơ. Tập thơ Ánh
sáng và phù sa ra đời vào năm 1960 đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp
thơ của Chế Lan Viên. Ánh sáng của Đảng và phù sa của cuộc đời
đã giúp ông chiến thắng được nỗi đau riêng để vương tới niềm vui chung của dân
tộc. Và từ đây, những bài thơ hay nhất của ông lần lượt xuất hiện. Và cũng từ
đây, thơ ca cách mạng có được một loạt bài thơ viết về thơ mang dấu ấn phong
cách rất đậm nét của Chế Lan Viên.
Qua thơ viết về thơ của Chế Lan Viên,
chúng tá có thể thấy rõ quá trình chuyển hướng thơ của ông hoàn toàn không dễ
dàng, đơn giản.
Xưa phù du mà nay đã phù
sa
Xưa bay đi mà nay không
trôi mất
Cho đến được lúa vàng đất
mật
Phải trên lòng bao trận
gió mưa qua.
(Thư
gửi Tế Hanh)
Và cũng chính là nhờ “bao
trận gió mưa qua” ấy trong cuộc đấu tranh, phấn đấu để tự vượt lên mình đã giúp Chế Lan Viên “sáng
mắt sáng lòng” trên con đường thơ cách mạng, để ông càng thêm tin tưởng, tự hào
thực hiện sứ mạng vinh quang của một nhà thơ chiến sĩ.
Trước hết, Chế Lan Viên đặc
biệt quan tâm đến những vấn đề cơ bản nhất của thơ. Đó là mục đích của thơ, đối
tượng và mạch nguồn sức sống của thơ, là nhiệm vụ của nhà thơ trong sự nghiệp
cách mạng. Và để giải đáp được các vấn đề trên, Chế Lan Viên đã
trả lời dứt khoát được câu hỏi về bản thể từ lâu đã làm ông suy tư, trăn trở:
“Ta là ai? Như ngọn gió
siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn
nến tắt
“Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều
ngọn bấc,
Bàn tay người thắp lại
triệu chồi xanh.
Từ “Ta là ai?” đến “Ta vì
ai?” là cả hai chân trời khác nhau trong sáng tạo thơ ca, là cả hai hướng đối lập
nhau trong quan niệm nghệ thuật. Mục đích của thơ ông giờ đây đã khác xưa: thơ
phải vì cách mạng, vì nhân dân mà phục vụ, mà hướng tới. Mục đích đã thay đổi
thì đối tượng thơ cũng thay đổi. “Tôi viết cho ai? Cho tất cả mọi người... Cho
ai cũ thơ tôi làm ướt áo. Nay họ về sưởi ấm giữa thơ tôi” (Nghĩ về thơ).
Sống gắn bó với nhân dân,
với thực tiễn cuộc đời, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến
mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa thơ và đời, đời và thơ. Cũng là một nguyên lý
quen thuộc của quan niệm Mácxít về văn nghệ: cuộc đời là cội nguồn, là sức sống
của nghệ thuật, nhưng vào thơ Chế Lan Viên, chân lý ấy trở nên cụ
thể hơn, sinh động hơn, dễ đi vào lòng người hơn nhờ những cách diễn đạt lung
linh hình ảnh đa dạng của thơ ông:
-Chẳng có thơ đâu giữa
lòng đóng khép.
-Cuộc sống đánh vào thơ
trăm nghìn lớp sóng.
Chớ ngồi trong phòng ăn bọt
bể anh ơi!
-Sau câu thơ hồi hộp những
tâm tình
Những vui buồn đời ký
thác cho anh.
Từ tháp ngà của nghệ thuật,
của cái tôi cá nhân quẩn quanh bế tắc trước đây, Chế LanViên đã
từng xót xa và thấm hiểu thứ thơ “vô ích” “cách xa” “đối lập” với cuộc đời thực:
“Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”, từ đó ông càng thấm thía thơ hôm nay cần
có ích. Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi. Và để thơ hoàn thàNh sứ mệnh cao cả, nhà
thơ cần hoà mình vào cuộc sống của nhân dân, phải đi đến “Trăm miền đất nước”,
để lắng nghe và rung động với âm thanh ríu rít, tràn đầy sức sống của cuộc đời.
Đi ra, lấy cuộc đời dân
làm cuộc đời mình
Cơn nắng, cơn mưa làm điều
suy nghĩ
Một tiếng chim gù cũng đến
nơi rừng lạ để mà nghe.
(Nghĩ
về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...)
Một lần khác, quan niệm
“nhà thơ phải bám sát cuộc sống hiện thực” lại được ChếLan viên hình
tượng hoá thành hình ảnh con tằm ăn trăm vạn lá dâu xanh, con ong cần mẫn hút
nhụy của những vườn hoa trăm miền để tạo ra thứ tơ óng ả, tạo nên chất mật ngọt
cho đời.
-Nhà thơ như con ong biến
trăm hoa thành mật
Mỗi giọt mật thành đòi vạn
chuyến ong bay
Nay rừng nhãn non Đoài
mai rừng cam xứ Bắc
Ngọt mật đồng bằng mà hút
nhụy tận miền Tây.
(Ong
và mật)
-Dù ong phải bay ngàn
cánh bay mới giọt mật
Hay tằm giam mình tại chỗ
nhả ra tơ,
Trong sáng tạo chúng ở
hai đầu cực
Nào con nào đã được nhởn
nhơ.
(Thơ
bình phương - Đời lập phương)
Như vậy hiện thực cuộc sống
chính là cội nguồn, bầu sữa mẹ nuôi dưỡng mọi hồn thơ chân chính. Song, đến cuộc
sống như thế nào lại là điều Chế Lan Viên luôn nghĩ suy để
tìm câu trả lời đúng nhất. Đối với ông, thu thập vốn sống mới chỉ là bước khởi
đầu, bởi sáng tạo thơ không phải là sự sao chép một cách thụ động những gì
trông thấy, nghe thấy, mà l à một quá trình lao tâm khổ trí, là sự nghiền ngẫm
về hiện thực, là ấp ủ nung nấu sáng tạo lại vốn sống, vốn thực tiễn để tạo nên
chất thơ tinh lọc, đẹp đẽ bởi trí tuệ, tài năng và tâm hồn của nhà thơ. Đó là
thứ “muối thơ” kết tinh từ đại dương bao la của hiện thực.
Cái kết tinh của mỗi vần
thơ và muối bể
Muối lắng ở ô nề và thơ đọng
ở bề sâu.
(Nghĩ
về thơ)
Hiện thực cuộc đời phải
biến thành câu chữ, hình ảnh, âm điệu trên mỗi trang thơ và từ đấy sức mạnh, sức
nặng của sự sáng tạo nghệ thuật mà nhà thơ tác động trở lại với cuộc đời, và tô
điểm thêm cho bao sắc đẹp của sự sống.
Mỗi câu thơ là một lần lặn
vào trang giấy.
Lặng vào đời rồi lại ngoi
lên.
(Nghĩ
về đời, nghĩ về thơ, nghĩ ...)
Chế Lan Viên là
người trở đi trở lại nhiều lần bàn luận và khẳng định con mắt nhìn đời của nghệ
sĩ. Đó không phải là cách nhìn một chiều, xuôi chiều đơn giản về hiện thực, mà
là cái nhìn đầy sức phát hiện ở “cái bề sâu, ở cái bề sau và ở cái bề xa”.
Thơ không chỉ đưa ru mà
còn thức tỉnh Không chỉ “ơi hời” mà con đập bàn quát tháo lo toan,....
Trong xu hướng thơ của ta
trong những năm 60,70 đang còn quá thiên về việc làm say mê người đọc hơn là
tác động vào trí tuệ của họ thì hướng thơ có tác dụng thức tỉnh con người trên
đây của Chế Lan Viên là một khuynh hướng thơ có nhiều ý
nghĩa đổi mới. Muốn làm được điều này, Chế Lan Viên quan niệm
nhà thơ phải “chịu suy nghĩ”, phải đào sâu, lật đi lật lại các vấn đề để phát
hiện ra cái mới trong mạch ngầm của hiện thực, để có cách nói mới, tác động sâu
sắc vào trí tuệ người đọc. Do đó chúng ta hiểu vì sao ngay từ cách đặt tiêu đề
các tập thơ và cách đặt tiêu đề các tập thơ và các bài thơ như: Ánh sáng và phù
sa, Hoa ngày thường chim báo bão, Hoa trên đá, Người đi tìm hình của nước, Đối
thoại mới về câu chuyện cổ v.v... và hàng loạt bài thơ có tiêu đề “nghĩ” (Nghĩ
suy 68, Nghĩ về thơ, nghĩ...) đã là sự biểu hiện cho những nghĩ suy, trăn trở
thường trực trong tư duy thơ của Chế Lan Viên. Ta hiểu vì sao phẩm
chất trí tuệ trong thơ ông lại trở thành một hạt nhân toả sáng lấp lánh bao sắc
màu trên mỗi trang thơ, trở thành một nét phong cách tiêu biểu nhất của thơ
ông.
Không chỉ quan tâm và bộc
lộ quan niệm của mình về các vấn đề cốt lõi của nội dung thơ, Chế Lan Viên còn
hết sức chú ý đến các vấn đề của hình thức thơ. Ông đã công khai tuyên ngôn rất
hàm súc, rất ấn tượng về sức mạnh và vai trò của hình thức trong thơ:
Hình thức cũng là vũ khí
Sắc đẹp câu thơ cũng phải
đấu tranh cho chân lý
(Nghĩ
về thơ)
Bây giờ đọc lại những câu
thơ này có lẽ mọi người chẳng thấy điều gì mới mẻ. Nhưng nếu ta đặc nó vào thời
điểm những năm 60, khi ý thức nghệ thuật của toàn xã hội (từ sáng tác, nghiên cứu
đến phê bình, tiếp nhận nghệ thuật) trong một hoàn cảnh chiến tranh ác liệt đã
đặc biệt đề cao mặt nội dung tư tưởng của tác phẩm, đề cao chức năng giáo dục của
văn nghệ thì dĩ nhiên rất nhiều người sợ bị quy cái mũ “duy mỹ”, “vị nghệ thuật”,
nếu đề cao vấn đề cái đẹp, đề cao hình thức của nghệ thuật. Do vậy, quan niệm
trên đây của ChếLan Viên trở nên khá táo bạo. Trong tiểu luận,
phê bình, ông cũng khẳng định: “Đi tìm cái thiện, cái chân nhưng phải biểu hiện
ra bằng hình thức đẹp” (Nghĩ cạnh dòng thơ – tr.136). Ở một bài thơ khác, Chế Lan Viên lại
nhắc quan niệm trên bằng hình ảnh khác:
Đời một thi sĩ là thơ,
như đời một nông dân là lúa
Nhan sắc của viên ngọc
ư? Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi!
(Sổ
tay thơ)
Xét cho cùng, cái cốt tử
làm cho tên tuổi nhà thơ, cái cốt tử khiến cho thơ sống mãi không chỉ là ở tư
tưởng, ở nội dung hay câu chữ. Tất cả là sẽ vô nghĩa nếu nó nằm trong bài thơ dở.
Thơ hay, đó là mục đích tối hậu, là cái duyên chinh phục của thơ. Chế LanViên đã
nhận thức rất rõ điều ấy:
Câu thơ hay như người con
gái đẹp
Ở đâu, đi đâu cũng lấy được
chồng.
Và muốn trở thành cô gái
đẹp ấy, nhà thơ phải luôn tìm tòi, đổi mới, sáng tạo về hình thức (“Cuộc đời cần
đẻ ra nhiều hình thức/ Dù là ngọc thì cũng nhiều viên ngọc/ Chứ phải
đâu cứ xanh xanh vĩnh viễn một màu”). Nhiều khi nhà thơ phải biết vượt qua văn
phạm cứng nhắc, vượt qua những “xác chữ” để vương tới vẻ đẹp “phi lý” của thơ:
Đừng làm những câu thơ
khuôn mình theo văn phạm
Như những cây quá thẳng
chim không về.
(Sổ
tay thơ)
Cũng có khi nhà thơ phải
là người “làm xiếc với ngôn từ” để sáng tạo ra những hình ảnh, những ý tứ mới lạ
trong thơ:
Căng cái dây hình ảnh ngữ
ngôn ngang qua
Vực tâm hồn sâu thẳm
Không bao giờ anh ở độ
chùng dây.
(Nghĩ
về thơ)
Hình thức thể loại đối với Chế Lan Viên là
phải hợp lý, cái gì đáng viết dài, cái gì đáng ngắn gọn là nội dung quy định.
Ông khuyên người và cũng tự nhắc mình:
Đừng bóp cây đa thành củ
thuỷ tiên
Cô đúc bản trường ca
thành bài tứ tuyệt
(Sổ
tay thơ)
Chế Lan Viên cũng
là người sớm nhận ra một điều rất quan trọng của thơ: cần phải có giọng điệu
thơ thích hợp với thời đại mới:
Xưa tôi hát mà bây giờ
tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết
được đời
Bao giờ thuộc hết tiếng của
đời, ta xin hát lại
Khúc hát hay đâu có lắm lời
(Sổ
tay thơ)
Nói đúng ra, xưa, ông có
giọng thơ ảo não, đau thương, rên rỉ. Ông khóc than cho một dân tộc đã bị tiêu
vong, ông gào thét một nỗi chán chường, uất hận trước thực tại. Nay, thơ ông cần
phải là tiếng nói khoẻ khoắn về cuộc đời, là tiếng thét căm thù quân xâm lược,
là khúc ca hùng tráng ngợi ca Tổ quốc, là tiếng thủ thỉ tâm tình với người thân
và bè bạn... Và như vậy, tựu trung lại khi bàn luận, phát biểu quan niệm của
mình về hình thức thơ,Chế Lan Viên sớm nhận ra từ kinh nghiệm từng
trải của mình cái lý của hình thức. Đó không chỉ giản đơn là các biện pháp nghệ
thuật, mà sâu xa hơn, đó là bản chất của sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
để tạo nên một bài thơ hay. Đó cũng chính là một đóng góp của Chế Lan Viên vào
lý thuyết thi pháp học hiện đại.
3.Khi viết bài thơ đề tựa cho tập thơ “Hoa trên đá”, xuất bản
năm 1984, Chế Lan Viên thổ lộ:
Đời ngoài tuổi năm mươi
Mong gì hương sắc lạ
Mọc chùm hoa trên đá
Mùa xuân đâu chịu lùi.
Không phải. Bạn đọc nào
cũng nhận ra rằng mùa xuân trong thơ ông vẫn bừng nở những hương sắc mới lạ, lại
quyến rũ bao người, ngay cả khi ông ngoài sáu mươi, thậm chí cận kề cái chết. Với
ba tập Di cảo thơ, mà phần lớn những bài thơ này được viết ở cuối đời, ông vẫn
tiếp tục làm ngạc nhiên độc giả. Hàng loạt những bài thơ trong di cảo vẫn tiếp
nối những suy nghĩ không ngừng, không nghỉ của Chế Lan Viên trong
quan niệm về thơ ở một hoàn cảnh xã hội mới.
Nếu nhìn khái quát cả ba
tập di cảo, chúng ta có thể nhận ra khá rõ điều này: quan niệm về thơ ông có
nhiều thay đổi, thậm chí đối lập với các thời kỳ trước.
Chẳng hạn, nếu ở giai đoạn
thơ chống Mỹ, Chế Lan Viên sung sướng tự hào biết bao khi
nhà thơ có sứ mạng vinh quang của một nhà thơ – chiến sĩ: “Vóc nhà thơ đứng
ngang tầm chiến luỹ / Bên những chiến sĩ ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”, thì
nay trở lại đời thường, vị trí của nhà thơ trở nên thật khiêm tốn:
“Tôi chỉ là một nhà thơ
cưỡi trâu
Đánh giặc cờ lau...
Đã lâu ta không còn nghe
hồn lau gọi nữa
Chỉ nghe danh vọng ầm ào
Vinh quang xí xố ....”
(Cờ
lau Đinh Bộ Lĩnh)
Và trong một hoàn cảnh xã
hội đầy biến động phức tạp, các thang giá trị thay đổi đến bất ngờ, có lúc ông
đã phẫn uất thốt lên:
“Giờ là thế giới của xe
cúp, tivi, phim màu ngũ sắc
Của quyền lực tuổi tên đốp
chát
Vị trí nhà thơ như rác đổ
thùng”
(Thời
Thượng)
Nếu trước đây, ông đề
cao, khẳng định và ước mong thơ mình thành “Tiếng sáo thổi lòng thời đại/ Thành
giao liên dẫn dắt đưa đường”, thì nay ở những năm tháng cuối đời, ông thật sự
xót xa, cay đắng nhận ra
“Tôi chưa có câu thơ nào
Giúp người ấy nuôi đàn
con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn
có thể cười”
“Ôi văn chương có lỗi với
bao người”,
“Nghìn lẻ câu viết ra
Người ta quên cả một
nghìn”
“Chữ nghĩa thơ anh, nước ốc
nhạt phèo”....
Chế Lan Viên cũng
viết nhiều bài thơ có tính chất tổng kết về đời thơ mình. Nhưng khác với một số
bài thơ “nhìn lại” thời “Ánh sáng và phù sa” trước đây (nhìn lại là để tự kiểm
điểm, nhằm dứt khoát dứt bỏ một giai đoạn thơ lạc hướng trước cách mạng, để
thêm tin tưởng vào hiện tại), những bài thơ sau này như đem toàn bộ thơ ông lên
bàn cân để chính ông ngồi trầm tư cân đong thành những còn - mất, được – thua,
để nhận ra những khiếm khuyết của thơ mình mà một thời khó có thể nói ra. Tổng
kết lại thơ mình không phải để phủ nhận, quay lưng, chối bỏ quá khứ mà là sự phản
tỉnh, tự vấn đầy ý thức trách nhiệm với thơ của mình hôm nay. Nhờ cái bất ổn,
cái xôn xao, xáo động của tư tưởng và tâm hồn ấy mà Chế Lan Viên đã
gợi mở biết bao điều thú vị, bất ngờ qua các trang di cảo:
Câu thơ phải luôn luôn bất
ổn và xôn xao
Không thể nằm yên mà ngủ
được nào.
Góc nhìn, tầm nhìn của
thơ ông giờ đây không còn ở tư thế cao vòi vọi – tư thế của cái ta cộng đồng đứng
ở đỉnh cao của thời đại để phát ngôn cho toàn dân tộc mà chính từ đời thường, từ
chính cuộc sống cá nhân với bao đa đoan, phức tạp của kiếp người. Trước đây, dù
ông luôn tâm niệm nhà thơ “phải đào, phải xới, phải chắt, phải lọc” các chất liệu
của đời sống, phải nhìn vào ba chiều của hiện thực để đưa vào trang thơ “hai mặt
phẳng”, thì vẫn chỉ để đi đến một mục đích: tìm ra chất thơ cao đẹp của cuộc đời.
Giờ đây, cuộc sống vào các trang thơ từ nhiều phía, nhiều góc độ: mặt phải và mặt
trái, bề nổi và chiều sâu, niềm vui và nỗi đau, thế giới hữu hình và vô hình...
Do đó, nhiều mặt còn khuất lấp của hiện thực và tâm trạng như được phơi trần
trên các trang thơ di cảo. Đó cũng chính là hành trình đi tìm lại chính mình của Chế Lan Viên
“Con rồng ôm hạt châu
Rồi nhả ra
Rồi tìm lại
Ta là ta mà luôn bối rối?
Tìm lại ta ...”
(Bất
hoàn toàn).
Để tiếp tục sáng tạo ở
tâm thế mới của đời thướng, Chế Lan Viên đã chủ động thay đổi
giọng điệu trang nghiêm xen vào giọng điệu cười cợt, giọng xót xa phẫn uất, xen
lẫn giọng tự trào hóm hỉnh, giọng độc thoại đan vào giọng đối thoại, giọng trữ
tình thấm đẫm cảm xúc bên cạnh giọng tự sự khách quan lạnh lùng, v.v...Nhưng nổi
bật hơn cả vẫn là cái giọng trầm buồn của một thi nhân đang trầm tư, chiêm nghiệm,
triết luận về thế sự và con người.
Ba tập di cảo thơ của Chế Lan Viên ngổn
ngang bao ý tưởng, quan niệm về thơ còn đang ở dạng phác thảo: từ những vấn đề
cốt thiết của bản chất thơ đến bao chuyện thuộc về kỹ thuật của công việc làm
thơ. Ông đã ra đi nhưng còn bao dự định chưa thành, bao câu hỏi còn vương vấn
chưa đủ lời giải đáp. Và những câu trả lời của Chế Lan Viên không
phải không còn những điều bất cập. Song có một điều mà không ai có thể phủ nhận
được – Đó là ý thức trách nhiệm rất cao của ông về thơ trong suốt cả cuộc đời.
Nguyễn Quốc Khánh
vé máy bay eva
vé máy bay đi boston mỹ
hàng không hàn quốc
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich
Tôi thích chia sẻ của bạn
Trả lờiXóamáy tính hà nội
màn hình máy tính
mua máy tính cũ
màn hình máy tính cũ