Chữ
và Nghĩa
Chữ viết thuộc hệ thống tín hiệu thứ hai của con người và chỉ
có con người mới có, nhằm biểu đạt tư tưởng và tình cảm. Một từ có thể là một
chữ (từ đơn) hoặc nhiều chữ (từ ghép, từ phức).
Xưa nay chúng ta sử dụng từ theo thói quen, mặc dù nó rất phổ
biến và được xã hội chấp nhận như một lẽ đương nhiên. Nhưng có một số trường hợp,
nếu xét về nguồn gốc của từ (từ nguyên) thì sẽ thấy không đúng, ví dụ: Từ chung
cư (nguyên nghĩa chữ Hán là chúng cư – chúng: đông, nhiều). Thỉnh thoảng
báo chí hay đưa tin: Tên trộm X đã thực hiện một phi vụ ở Y lấy đi số tiền... Từ
phi vụ (phi, chữ Hán nghĩa là bay) có nguồn gốc từ thời chiến tranh phá hoại của
Mỹ ở miền Bắc những năm 60 của thế kỷ trước, để chỉ những đợt máy bay bay
vào oanh tạc. Tên trộm có bay đi ăn trộm đâu mà gọi là phi vụ.
Những năm gần đây người ta hay dùng từ tựa đề thay vì dùng đầu
đề hay nhan đề. Tựa nghĩa là bài viết ở trang đầu quyển sách nhằm giới thiệu một
số điều hoặc giải thích những gì thuộc về quyển sách. Vì thế lời tựa hoàn toàn
không phải là đầu đề, nhan đề của quyển sách hay bài hát. Ta còn thấy trên báo
chí, truyền hình và các biển quảng cáo đề Khuyến mại. Thực ra khuyến mãi mới
đúng vì mại chữ Hán nghĩa là bán, mãi là mua. Người bán hàng bằng các chiêu thức
như giảm giá, tặng thêm sản phẩm để khuyến khích người mua nhằm tăng doanh số
bán hàng, vì thế phải gọi là khuyến mãi mới chính xác.
Trong giao tiếp hàng ngày cũng như trên sách, báo người
ta hay dùng từ chất lượng. Xin thưa chất và lượng là hai khái niệm hoàn toàn
khác nhau. Theo Hán - Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn, chất nghĩa là bản
chất, bản tính, bản thể. Lượng có hai nghĩa:
1. Đồ dùng để đong như cái đấu, cái hộc.
2. Chữ dùng để đếm cỗ xe (như nhất lượng là một cỗ xe)
Vậy chất nghĩa là phẩm chất, chỉ sự tốt, xấu ở các mức độ
khác nhau. Còn lượng là số đếm, chỉ sự nhiều, ít, nó luôn đứng trước danh từ để
làm nhiệm vụ tính từ, chất tiếng Anh là Quality, Tiếng Pháp: qualité, matière.
Lượng, tiếng Anh quantity, tiếng Pháp: quantité. Ta hãy xét 2 cụm từ sau đây:
1. Tiếng Anh: Transition from quantity to Quality (biến đổi từ
lượng thành chất)
2. Tiếng Pháp: Préferer la qualité à la quantité (coi chất
hơn lượng)
Qua đó ta thấy không thể ghép hai chữ chất và lượng thành một
từ mang ý nghĩa đồng nhất. Nếu ta nói chất lượng rồi ta lại nói số lượng, vậy
chữ lượng ở đây đóng vai trò gì? Do đó, tôi xin thử nêu ý kiến là ta nên viết
phẩm chất thay vì chất lượng.
Việc hiểu đúng nghĩa của từ là rất quan trọng. Nó giúp cho
người viết diễn đạt một cách mạch lạc, sáng sủa và không làm cho người đọc hiểu
sai ý của mình. Ví dụ: Một tờ báo đã viết một câu thế này: Tai nạn giao thông ở
Nam Định, 7 người thương vong, 6 người chết. Có lẽ tác giả muốn viết 7 người bị
thương, nhưng bị thương và thương vong là hai từ hoàn toàn khác nghĩa. Nghĩa chữ
Hán vong là mất, chết. Do đó thương vong nghĩa là bị thương rồi chết.
Ai cũng biết trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, cộng với ảnh hưởng
nặng nề của văn hoá Trung Quốc khiến cho tiếng Việt ta có chứa đến sáu mươi phần
trăm là từ gốc Hán. Riêng lĩnh vực khoa học, triết học, kinh tế, học thuật có
thể nói tới một trăm phần trăm từ gốc Hán. Chữ Hán đã ngấm vào tiếng Việt
và biến (Việt hoá) thành tiếng Việt đến nỗi có những từ ta tưởng là thuần Việt
như tham lam (tham = ham của cải – thuộc bộ bối, lam = ham ăn uống – thuộc bộ nữ).
Có những từ do bởi ghép giữa một từ gốc Hán và một từ gốc Việt như giả dối (giả:
gốc Hán: không thật – thuộc bộ nhân đứng). Về sau, dưới sự thống trị của người
Pháp thì văn chương Pháp, văn hoá Pháp, tiếng Pháp cũng thâm nhập vào tiếng Việt
đến nỗi dân có học ở thành thị xưng hô với nhau bằng toi, moi thay vì nói anh,
tôi dùng ở ngôi thứ nhất và thứ 2 số ít. Một số từ tiếng Pháp được Việt hoá
như: vải bạt (bacche), sen đầm (gendarme), taxi (tacxi), bồi (boy) ...
Những năm gần đây, do sự hội nhập quốc tế đẩy mạnh nên nhiều
từ tiếng Anh đã trở thành từ mới của tiếng Việt, bởi nó không được hoặc không cần
dịch sang tiếng Việt, nhất là trong công nghệ thông tin như: Hotline, website, facebook
... Điều này làm phong phú thêm tiếng Việt. Tuy nhiên,
việc sính dùng tiếng Anh, lạm dụng tiếng Anh thái quá, đang là một thảm hoạ. Có
những trường hợp tiếng Việt hoàn toàn đủ khả năng diễn tả nhưng người ta không
chịu dịch, mà để nguyên tiếng Anh khiến cho một bộ phận không nhỏ khán giả, độc
giả khó chịu như: got tallent (tìm kiếm tài năng ...), festival, carnaval (lễ hội)
...
Chữ viết là cái vỏ, là hình thức, còn nghĩa là tư tưởng, là nội
dung, chữ và nghĩa luôn gắn kết với nhau để diễn đạt ý tưởng, tình cảm. Nhưng
ngay cả khi ta sử dụng từ ngữ đúng, mà chấm phẩy không đúng chỗ cũng làm ý
nghĩa câu văn sai lạc đi. Xin nêu một ví dụ: Ngày xưa có ông lão nhà giàu
tuổi đã cao, mà con trai còn nhỏ. Ông có một chàng rể. Để khuyến
khích chàng rể hăng hái làm việc, phụng sự cho mình, ông lão nhà giàu liền gọi
chàng rể đến và trao cho chàng rể một bản di chúc ghi rằng: Gia tư điêền sản
giao tử tế ngoại nhân bất đắc cộng tranh (Gia tài ruộng đất giao cho chàng rể
người ngoài không được tranh giành).
Nhưng oái oăm ở chỗ ông lão nhà giàu đã đánh dấu phẩy (,) ở chữ tử (con trai) cho nên câu văn lại có ý nghĩa: Gia tài ruộng đất giao cho con trai (tử), con rể (tế) là người ngoài không được tranh giành. Sau này cậu con trai lớn lên, nhờ có dấu phẩy (,) đó thắng kiện lấy lại được toàn bộ gia tài từ anh rể.
Nhưng oái oăm ở chỗ ông lão nhà giàu đã đánh dấu phẩy (,) ở chữ tử (con trai) cho nên câu văn lại có ý nghĩa: Gia tài ruộng đất giao cho con trai (tử), con rể (tế) là người ngoài không được tranh giành. Sau này cậu con trai lớn lên, nhờ có dấu phẩy (,) đó thắng kiện lấy lại được toàn bộ gia tài từ anh rể.
Trong lĩnh vực văn chương, thi, phú, ta thường có thói quen
viết dài, sợ người đọc không hiểu, sai lầm này thường gặp ở người mới cầm bút.
Nhà đại văn hào Nga Lev tolstoy (1828 - 1910) từng nói: Khi tôi viết xong, tôi
cố gắng xoá bớt càng nhiều càng tốt. Thật vậy, việc xoá đi những chữ
thừa làm cho câu văn bớt lê thê, rườm rà.
Hẳn nhiều người biết Vương Bột, nhà thơ đời Đường nổi tiếng với
bài phú Đằng vương các tự. Nhắc đến ông người ta nhớ đến 2 câu thơ nổi tiếng:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc.
(Ráng chiều còn rớt lại và cánh cò đơn độc cùng bay
Nước mùa thu cùng với trời xanh một màu).
Thơ hay như vậy mà vẫn có người chê dốt. Điều này làm Vương Bột
day dứt mãi cho đến khi chết. Hồn ma Vương Bột đêm đêm ra chặn đường người ta hỏi:
Dốt ở chỗ nào? Mãi sau mới có người trả lời là 2 câu thơ ấy thừa mất 2 chữ: Dữ
(và) cộng (cùng). Nếu bỏ đi 2 liên từ dữ và cộng thì câu thơ sẽ gọn hơn, súc
tích hơn.
Người viết tuy viết đúng nhưng nếu không hiểu được xuất xứ của
câu văn mà mình trích dẫn sẽ làm cho câu văn thiếu sức thuyết phục. Có một nhà
thơ viết: Vạn thế sư biểu (bậc thầy muôn đời) - Chu Văn An. Vẫn biết Chu Văn An
(1292 - 1370) hiệu Tiều An, tự Linh Triệt đời vua Trần Minh Tông. Ông là
bậc thầy khả kính. Học trò của ông như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đều đỗ đại khoa
và làm quan to trong triều đình. Chính ông đã dâng Thất trảm sớ lên vua
xin chém đầu 7 gian thần.
Tuy nhiên cụm từ Vạn thế sư biểu là của người Trung Quốc, lẽ đương nhiên là nói về người Trung Quốc, chính là Đức Khổng Tử (551-479 trước công nguyên). Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự Trọng Ni. Học trò của ông có tới 3000, trong đó có Tử Cống, Tử Lộ, Nhan Uyên... nổi tiếng và thành đạt. Ông là thuỷ tổ của đạo Nho. Học thuyết và những lời giảng dạy của ông vẫn được coi trọng và lưu truyền suốt 2500 năm.
Tuy nhiên cụm từ Vạn thế sư biểu là của người Trung Quốc, lẽ đương nhiên là nói về người Trung Quốc, chính là Đức Khổng Tử (551-479 trước công nguyên). Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự Trọng Ni. Học trò của ông có tới 3000, trong đó có Tử Cống, Tử Lộ, Nhan Uyên... nổi tiếng và thành đạt. Ông là thuỷ tổ của đạo Nho. Học thuyết và những lời giảng dạy của ông vẫn được coi trọng và lưu truyền suốt 2500 năm.
Chữ và nghĩa là vấn đề lúc nào cũng đặt ra với người cầm bút.
Viết đúng, viết đủ, không thừa, không thiếu là điều rất khó. Nó đòi hỏi người
viết trau dồi, học hỏi không ngừng. Người viết mà đạt đến trình độ vi ngôn đại
nghĩa (lời ít, ý nhiều) hoặc ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời) là bậc thượng thừa.
Người xưa nói “văn dĩ tải đạo” (văn để chở đạo). Bởi thế, muốn viết văn hay thì
cái tâm phải trong sáng, ngay thẳng. Chữ dùng đắt như văn hào Rydyard Kipling
người Anh (1865-1936) đoạt giải Nobel Văn học năm 1907, đến nỗi mỗi chữ ông viết
ra được trả 1 Siling vàng. Đó là niềm mơ ước của biết bao người cầm bút.
Hoàng Chí Quang
hãng máy bay eva air
vé máy bay đi mỹ tháng nào rẻ nhất
hang hang khong korean air tai tphcm
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch