Định mệnh có những sự sắp đặt kì lạ. Từ một người nghiên cứu
lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, những biến động của lịch sử đã sắp đặt Trần
Đình Hượu rẽ theo hướng trở thành một nhà nghiên cứu lịch sử văn học và còn éo
le hơn nữa khi mà công trình lịch sử văn học quan trọng nhất trong sự nghiệp
nghiên cứu của ông lại không nằm trọn trong những giới hạn của văn chương Trung
đại bằng chữ Hán và chữ Nôm, lĩnh vực gần gũi với xuất phát điểm tri thức ban đầu
của ông mà lại là cuốn giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 –
1930 – giai đoạn chuyển đổi loại hình của văn học Việt Nam, giai đoạn cầu nối từ
văn học Hán Nôm sang văn học Quốc ngữ. Đối với mỗi con người, những bão tố của
số phận có lẽ là một thứ đá thử vàng. Hoặc nó sẽ làm con người quỵ ngã, hoặc sẽ
đánh thức những phẩm chất cao quý bên trong và khiến cá nhân toả sáng. Sự nghiệp
nghiên cứu của Trần Đình Hượu có lẽ chính là một minh chứng cho quy luật nghiệt
ngã đó.
Cho đến nay, với độ lùi thời gian và nhờ những nỗ lực to lớn
của các thế hệ học trò của Trần Đình Hượu, di sản tinh thần của ông gần như đã
được khôi phục một cách tương đối đầy đủ. Điều đó cho phép chúng ta hình dung
được tầm vóc và vị trí vô cùng quan trọng của ông trong nhiều ngành nghiên cứu,
từ lịch sử văn học, lịch sử tư tưởng đến văn hoá học và xã hội học lịch sử. Chỉ
riêng đối với bộ môn nghiên cứu lịch sử văn học, vị trí và những đóng góp của
Trần Định Hượu trong việc nghiên cứu văn học Trung đại, từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn
Công Trứ đã được làm rõ ở nhiều phương diện. Tất nhiên, không phải không còn những
khoảng trống. Chẳng hạn như việc phạm vi khảo sát văn chương Trung đại của ông
bắt đầu ở Nguyễn Trãi và dừng ở Nguyễn Công Trứ. Văn học Phật giáo Lý Trần gần
như không hiện diện trong những mối quan tâm của ông. Và cũng gần như
không/chưa có một chuyên luận nào trực diện bàn về Nguyễn Du, tác giả được coi
như “phép thử” của gần như bất cứ nhà nghiên cứu nào dấn thân vào sự nghiệp
nghiên cứu văn học Trung đại Việt Nam. Tuy vậy, ở đây, tôi muốn nói về vị trí của
Trần Đình Hượu đối với lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam từ một góc nhìn
khác: góc nhìn của nghiên cứu văn học hiện đại, nền văn học được kiến tạo từ
giai đoạn thuộc địa, từ cuộc va chạm và đối thoại văn hoá giữa Việt Nam và
phương Tây.
1. Trần Đình Hượu không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn
học hiện đại đúng nghĩa, nếu ta hình dung văn học hiện đại Việt Nam chỉ thực sự
định hình từ 1932, thời điểm phong trào Thơ mới bắt đầu và chưa đầy một năm sau
đó, Tự lực văn đoàn, tổ chức văn chương hiện đại đúng nghĩa đầu tiên ở Việt Nam
được thành lập. Bài viết duy nhất của ông về văn học hiện đại là tiểu luận về Tự
lực văn đoàn: TLVĐ, nhìn từ góc độ tính liên tục lịch sử, qua bước ngoặt hiện đại
hoá trong lịch sử văn học phương Đông. Công trình văn học sử quan trọng nhất của
ông dừng lại ở thời điểm 1930 và tập trung vào giai đoạn mà văn học hiện đại vẫn
đang tồn tại ở trạng thái phôi thai. Nếu nhìn vào mục lục của Tuyển tập, chiếm
số lượng lớn các bài viết của Trần Đình Hượu để lại cũng là những nghiên cứu về
lịch sử tư tưởng phương Đông và văn học Trung đại Việt Nam. Dẫu vậy, tôi vẫn
cho rằng không phải vô lí khi những bài viết gần như cuối cùng của cuộc đời ông
lại được tập hợp trong tập sách có nhan đề Đến hiện đại từ truyền thống. Không
phải vì đó là một đề tài mà ông được giao, một nhiệm vụ khoa học, như ngày nay,
ta vẫn nói thế, của người cán bộ khoa học. Có lẽ, có một mối quan tâm, một quan
tâm mang tính lí thuyết thường trực trong cuộc đời ông nhưng hiện diện rất rõ
nét ở những năm cuối đời đó là tìm ra một phương cách mô tả toàn bộ tiến trình
văn học như một tiến trình thống nhất, trong tính liên tục của nó chứ không phải
như những thời đại đứt đoạn được miêu tả bằng những công cụ lí thuyết khác
nhau. Có lẽ, chỉ ở những bộ óc vĩ đại mới có những băn khoăn như thế. Giống như
phần cuối đời của A. Einstein, sau khi tìm ra thuyết tương đối phổ quát, ông đã
băn khoăn về một lí thuyết thống nhất lớn, một lí thuyết tối hậu, mô tả được
toàn bộ thế giới vật chất, từ quy mô của những hành tinh đến quy mô cuả những hạt
cơ bản.
Hơn ai hết Trần Đình Hượu là người thoát khỏi được những ảo
tưởng dân tộc chủ nghĩa. Tôi vẫn nhớ sau khi ông mất đã lâu khi có giáo sư phát
biểu về tầm vóc của nền dân tộc, có người vẫn còn có thể kích động dư luận xã hội
về việc cho rằng văn học Việt Nam không nhỏ nhưng cũng không phải là một nền
văn học lớn đồng nghĩa với việc “hạ thấp văn học dân tộc”. Và cho đến tận cách
đây không lâu, không ít trí tuệ lớn vẫn bị cuốn vào những tranh luận mà tôi e rằng
sẽ không thể có hồi kết về việc “nước Việt Nam lớn hay nhỏ”. Trong nghiên
cứu của Trần Đình Hượu, có thể thấy ông hoàn toàn thoát khỏi những ảo tưởng về
dân tộc hoặc những cái bẫy của cảm tính kiểu như vậy, bằng con đường của tính khách
quan khoa học. Ở ông, không có ảo tưởng về những sáng tạo thần kì của dân tộc,
về những sự khởi sinh từ hư không. Một cách dứt khoát, trong hình dung của ông,
ở hai thời điểm quan trọng của lịch sử dân tộc, thời điểm kết thúc thời kì Bắc
thuộc và thời điểm bắt đầu Pháp thuộc, văn học Việt Nam đã thành hình và
chuyển đổi loại hình, không phải như một tiến trình tự nhiên, liên tục từ văn học
dân gian đến văn học viết mà theo con đường du nhập, bản địa hoá mô hình ngoại
lai (văn học Trung Quốc và văn học Pháp). Cũng chính ông là người nhìn thấy thực
tế có thể khó được chấp nhận dưới nhãn quan dân tộc chủ nghĩa cực đoan: ảnh hưởng
của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam chẳng những không bị xoá bớt mà
còn được tăng cường trong thời kì độc lập. Chính cái nhìn mang tính khách quan
khoa học đó đã dẫn đến một ý thức rất rõ rệt về sự đứt gẫy văn hoá diễn ra
trong những giai đoạn chuyển đổi hệ hình của nền văn học, khi toàn bộ xã hội Việt
Nam hiện đại hoá, từ bỏ chữ Hán và văn hoá Hán Nôm.
Từ một phía khác, tôi cho rằng cần phải nhìn Trần Đình Hượu
như một nhà nghiên cứu văn học so sánh có tư tưởng đi trước thời đại. Ngay từ
những nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông đã thể hiện một ý
thức sâu sắc về quan hệ giao lưu và ảnh hưởng giữa các nền văn học, giữa nền
văn học kiến tạo vùng (như Trung Quốc) và các nền văn học chịu ảnh hưởng (như
Việt Nam). Nếu như cái mô hình tái hiện lại tiến trình hình thành những thời đại
lớn của văn học dân tộc được khởi đầu bằng sự tiếp nhận thì chính mô hình đó
cũng được tiếp tục bằng sự bản địa hoá và những sáng tạo mang tính “đặc định
dân tộc”. Không phải là vô lí khi trong bài viết về việc Xác định cái dân tộc,
cái cổ điển làm cơ sở để phân kì lịch sử văn học, Trần Đình Hượu đã nói về hai
thời kì của văn học cổ điển trong văn học truyền thống, thời kì mà đỉnh cao là
Nguyễn Trãi và thời kì mà đỉnh cao là truyện Nôm, ngâm khúc, hát nói. Chính điều
đó cho thấy ý thức sâu sắc trong tư duy của ông về vai trò của chủ thể tiếp nhận
trong các tiền trình tiếp nhận ảnh hưởng, về vai trò chọn lọc, bản địa hoá, về
cái ngưỡng của sự tiếp nhận do chính đặc điểm của chủ thể tiếp nhận quy định.
Chính tại điểm này sẽ cho thấy một mặt khác trong tư duy nghiên cứu văn học sử
của Trần Đình Hượu: ý thức về tính liên tục của tiến trình văn học dân tộc. Mọi
sự tiếp nhận cái ngoại lai đều sẽ phải trải qua sự sàng lọc của cái bản địa, phải
thoả hiệp theo cách này hay cách khác, ở những mức độ khác nhau với cái bản địa,
cái truyền thống, nói cách khác, bị cái truyền thống, cái bản địa tái cấu trúc.
Chính điều đó sẽ khiến cho toàn bộ tiến trình văn học liên kết trong một hệ thống
có tính thống nhất, “đến hiện đại từ truyền thống”, như cách nói của ông.
Đây chính là một trong những điểm mà theo chúng tôi là có
đóng góp quan trọng nhất của Trần Đình Hượu đối với nghiên cứu văn học hiện đại.
Cần phải thừa nhận một thực tế trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam là giới
nghiên cứu văn học hiện đại và văn học Trung đại thường có những khoảng cách về
tri thức, phương pháp luận, lí thuyết. Người nghiên cứu văn học hiện đại thường
tích luỹ tri thức theo hướng tiếp nhận kiến thức hiện đại từ phương Tây trong
đó người nghiên cứu văn học Trung đại thường có một bề dầy kiến thức văn hiến
truyền thống. Điều này có tính hữu lí riêng nhưng nó không khỏi để lại hệ quả
là việc nghiên cứu văn học hiện đại thường xuất phát từ những mô hình và công cụ
lí thuyết mang tính ngoại lai và áp đặt vào nghiên cứu văn học dân tộc, từ mô
hình về thể loại đến mô hình về phương pháp sáng tác. Điều này không phải không
có hạt nhân hữu lí bởi lẽ khi xã hội Việt Nam vận động trong quỹ đạo chung của
thế giới hiện đại thì việc có những tương đồng loại hình là một tất yếu. Dẫu vậy,
điều này cũng đặt ra một vấn đề đó là mối quan hệ giữa cái hiện đại và toàn bộ
truyền thống. Nếu không giải quyết được một cách khách quan điều này, văn học
hiện đại sẽ trở thành một vật thể ngoại lai được cấy trồng vào một môi trường bản
địa.
Có thể nói, hơn ai hết, Trần Đình Hượu là người có một ý thức
sâu sắc về tính liên tục trong sự phát triển của tiến trình văn học có dân tộc.
Giáo trình Văn học Việt Nam văn học giao thời là giáo trình đặt vấn đề một cách
triệt để nhất và mô tả hết kiệt nhất về những ngả đường của sự vận động từ văn
chương truyền thống đến văn học hiện đại trong giai đoạn giao thời. Ông là người
mô hình hoá một cách triệt để nhất về hai ngả đường của tiến trình hiện đại
hoá: đổi mới văn học truyền thống và du nhập, mô phỏng, bản địa hoá văn học
phương Tây. Không những thế, ông là người mô tả một cách đầy đủ nhất sự vận động
đặc thù của mỗi ngả đường: điểm dừng của những người cách tân văn học truyền thống
(như Phan Bội Châu, Tản Đà), điểm dừng mà từ đó, những người tân học sẽ tiếp tục
(qua việc nhấn mạnh một hiện tượng độc đáo: Thi nhân Việt Nam mở đầu bằng việc
“cung chiêu anh hồn Tản Đà”), những bộ phận văn chương truyền thống chuẩn bị
cho văn học hiện đại (văn học trào phúng); song song với tiến trình đó là sự
thoả hiệp của văn học hiện đại với truyền thống để có thể hoà nhập vào tiến
trình chung của văn học đương đại. Theo nghĩa đó, có thể nói Giáo trình văn học
Việt Nam giai đoạn giao thời đã lấp đầy khoảng trống giữa hai thời đại lớn của
văn học dân tộc, đã tạo nên một định hướng mà điều đáng tiếc là cho đến nay vẫn
chưa có một sự tiếp tục một cách rốt ráo. Cảm hứng về tính liên tục của tiến
trình văn học cũng thấm nhuần trong các công trình của Trần Đình Hượu từ những
bài viết Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt
Nam trung cận đại khi ông gợi ý về tính liên tục từ văn học trào phúng đến các
sáng tác hiện thực phê phán của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng
cũng như công trình về Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ về tính liên tục của lịch
sử…Có thể nói, đó là công trình quan trọng nhất trong việc định vị TLVĐ trong
tiến trình văn học dân tộc. Nó là lời bào chữa để tổ chức văn học này không bị
coi như một thứ “thất cước lạc loài”.
2. Bên cạnh ý thức về tính liên tục của tiến trình lịch sử
văn học dân tộc là nỗi băn khoăn về căn cước dân tộc, về bản sắc dân tộc và
tính đặc định dân tộc. Xét một cách công tâm, chủ đề về tính đặc định dân tộc,
về bản sắc dân tộc, về căn cước dân tộc hay “đặc sắc dân tộc” là một quan tâm
hiện diện trong nghiên cứu của không ít nhà nghiên cứu khác. Chính điều đó làm
nên cái tâm thế đối thoại hiện diện trong bài viết của Trần Đình Hượu về Vấn đề
tìm đặc sắc văn hoá dân tộc. Có điều, mối quan tâm này ở Trần Đình Hượu được đặt
trên những nền tảng lí thuyết hoàn toàn khác. Như trên đã nói, có thể định vị
Trần Đình Hượu như một người nghiên cứu văn học so sánh điển hình. Trong những
nghiên cứu văn học sử ở ông, luôn thường trực một cái nhìn mang tính đối
chiếu giữa văn học Việt Nam và những nền văn học có ảnh hưởng như văn học Trung
Quốc và văn học Pháp. Điều độc đáo là không chỉ am hiểu một cách sâu sắc văn học
Trung Quốc mà Trần Đình Hượu còn có một hiểu biết rất sâu sắc về văn học Pháp
những nhận xét của ông, dù chỉ thoáng qua, về chủ nghĩa hiện thực kiểu phương
Tây chính là phần nổi của tảng băng chìm uyên bác đó. Tuy nhiên, điều quan trọng
không phải là sự uyên bác. Như đã nói, ở Trần Đình Hượu, có một ý thức rất sâu
sắc về những nền văn học kiến tạo vùng và những nền văn học bị thu hút vào quỹ
đạo của những nền văn học kiến tạo vùng. Điều độc đáo ở Trần Đình Hượu là trong
khi nhiều nghiên cứu mang tính so sánh văn học đồng thời và thậm chí sau ông đều
chỉ tập trung vào những quan hệ ảnh hưởng với một cái nhìn vừa thực chứng vừa
có phần cơ giới luận (nghĩa là tìm kiếm những gì thuộc về nền văn học phát ra ảnh
hưởng hiện diện trong nền văn học chịu ảnh hưởng) thì ở Trần Đình Hượu cái ông
nhìn thấy lại là những điều mà lẽ ra theo một vận động thông thường sẽ phải hiện
diện nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong văn học dân tộc. Theo cách nói của GS.
Trần Ngọc Vương thì Trần Đình Hượu không chỉ nghiên cứu về cái có mà còn tìm kiếm
cả những cái lẽ ra phải có nhưng lại vắng bóng trong thực tế văn học dân
tộc. Đó chính là phát hiện về sự thiếu vắng bộ phận văn học đô thị ở thời Trung
đại hay sự thiếu vắng tham vọng khảo sát khoa học trong các sáng tác hiện thực
chủ nghĩa thời hiện đại ở Việt Nam. Dầu không trực tiếp nói ra nhưng qua nghiên
cứu của Trần Đình Hượu, có thể hình dung về một thứ chủ nghiã hiện thực mang
màu sắc đạo lí rất đặc trưng của Việt Nam và rất khác với văn học phương Tây.
Cuộc tìm kiếm những yếu tố đặc định dân tộc ở Trần Đình Hượu xuất phát từ chính
nhữn khoảng khoảng trống như thế. Đó là một nết độc đáo về mặt phương pháp luận.
3. Xét đến tận cùng, Trần Đình Hượu là một nhà nghiên cứu
mang cốt cách của một nhà Nho hành đạo. Ý thức về tính liên tục của lịch sử văn
học dân tộc, ý thức đến hiện đại từ truyền thống, ở một góc độ, chính là sự thể
hiện tâm huyết của người nghiên cứu đối với cái hiện đại và thậm chí, đương đại,
cái ngày hôm nay, cái thời hiện tại đang tiếp diễn. Đó là ý thức trách nhiệm của
người nghiên cứu đối với cái đương đại. Nghiên cứu, đến cùng, không phải là cuộc
chạy trốn hiện tại, khép kín trong quá khứ mà trái lại, việc tìm hiểu quá khứ
chính là một tiền đề để soi sáng cái hiện tại, tiền đề để thể hiện trách nhiệm
với cái hiện tại. Đó chính là cảm hứng bao trùm toàn bộ Đến hiện đại từ truyền
thống, khi ông bàn về di sản của Nho giáo với xã hội hiện đại, về ông quan và
ông quan liêu, về làng họ, gia đình truyền thống và con đương đi thích hợp với
thực tế phương Đông lên chủ nghĩa xã hội.
Một cách tất yếu, chính con người Nho giáo trong Trần Đình Hượu
sẽ dẫn ông đến với xã hội học văn học. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, các đọc lịch
sử văn học cũng như đọc các hiện tượng văn học ở Trần Đình Hượu là một cách đọc
xã hội học: nhìn quá trình sáng tạo văn chương trong mối tương tác với văn cảnh
xã hội - văn hoá – ý thức hệ, nhìn văn chương như một yếu tố nằm trong sự
phản ứng của người viết với các vấn đề của thực tại và điểm tối hậu của việc đọc
văn bản văn chương là đọc nội dung tư tưởng – cái nhìn, tư tưởng của nhà văn về
thực tại. Nếu áp dụng chính phương pháp của Trần Đình Hượu khi nghiên cứu văn học
so sánh vào việc phân tích các tác phẩm của ông, có thể nói, trong khi đa số những
nghiên cứu xã hội học văn học ở những người cùng thời với Trần Đình Hượu dừng lại
ở giai đoạn tiền Lukacs thì Trần Đình Hượu đã đạt đến giai đoạn Goldmann. Có một
sự tương đồng kì lạ về phương pháp luận giữa cách đọc xã hội học ở Trần Đình Hượu
và các đọc xã hội học của Goldman trong Chúa trời ẩn dấu. Những nghiên cứu xã hội
học văn học ở Trần Đình Hượu đã hoàn toàn thoát khỏi được khuynh hướng chính trị
hoá một cách máy móc nghiên cứu văn học. Ông cũng không bị giới hạn việc đọc xã
hội học ở một cấp độ bề mặt nghĩa là tìm hình chiếu của thực tại trong tác phẩm
văn học theo một tinh thần phản ánh luận đơn giản. Trần Đình Hượu nhìn thấy sự ảnh
hưởng ở cấp độ ý thức hệ của xã hội đối với nhà văn. Nói một cách đơn giản, mô
hình của Trần Đình Hượu là ông nhìn thấy sự quy định của các cấu trúc tư tưởng
– ý thức hệ của các tôn giáo – hệ tư tưởng lớn như Nho giáo, Phật giáo hay Đạo
Lão Trang đến cấu trúc tư tưởng của tác giả văn học và nhìn thấy sự thể hiện của
cấu trúc tư tưởng đó trong thực tiễn sáng tác. Ông nhìn thấy sự quy định của ý
thức hệ, của nguồn gốc văn hoá – học vấn, của những giá trị có tính địa phương,
của truyền thống gia đình và tiểu sử cá nhân đến sáng tác của nhà văn trong việc
hình thành nên một thế giới quan, một “cái nhìn thế giới” (theo cách nói của
Goldmann), một “lăng kính” (theo cách nói của Trần Đình Hượu) của nhà văn để từ
đó chi phối quá trình sáng tác tác phẩm. Đọc văn học đối với Trần Đình Hượu
chính là tìm ra được những cấu trúc ngầm ẩn đó để giải thích ý nghĩa tác phẩm
và tìm ra đươc những nội dung tư tưởng của tác phẩm. Đối với ông, văn chương
không bao giờ là một trò chơi thuần tuý hình thức mà là một hành vi văn hoá, một
sự dấn thân, một tư tưởng về thực tại. Trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà lí thuyết
càng ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của giới nghiên cứu và đi kèm với nó
là những trạng thái cực đoan sùng bái lí thuyết, khi mà việc chạy theo lí thuyết
một cách điên cuồng đôi khi dẫn đến việc biến phân tích văn học thành một trò
chơi thuần tuý hình thức, thành một lối đọc thủ pháp nghệ thuật thì bài học từ
lối đọc văn học của Trần Đình Hượu vẫn còn nguyên giá trị.
4. Nghiên cứu Trần Đình Hượu từ điểm nhìn hiện đại chắc chắn
sẽ là một công việc thú vị và lâu dài, đồng thời cũng hết sức bổ ích. Tuy vậy,
một cách sòng phẳng, cũng không thể không nói về những điểm dừng trong cách đọc
văn học ở ông. Có thể khẳng định, so với nhiều nghiên cứu cùng thời, cái nhìn của
Trần Đình Hượu về con người rõ ràng phức tạp và sâu sắc hơn. Dẫu vậy, trong
cách hình dung ấy, con người vẫn được nhìn hết sức sâu sắc và lệch hẳn về phía
con người xã hội, con người tư tưởng. Ông có thể nói về những khát vọng giải
phóng cá nhân trong truyện Nôm, trong ngâm khúc, nói về lăng kính phong tình ân
ái ở Tản Đà, nhưng có thể nói, với tư cách một người đọc văn chương, có lẽ ông
gần với Nguyễn Trãi ở phương diện nhà Nho hành đạo, với những nhà Nho Duy Tân,
với cái hùng tráng kịch liệt ở Phan Bội Châu hơn là cái phương diện con người
hưởng lạc, con người của những lạc thú trần gian. Phải chăng đó cũng chính là
lí do khiến ông không có một công trình, bài viết nào trực diện về Nguyễn Du và
Truyện Kiều. Cái nhìn có phần khắc kỉ đó không phải là không có những giới hạn
khi đối diện với con người ở thời hiện đại và đương đại.
Từ một góc nhìn khác, cái nhìn của Trần Đình Hượu đối với tác
phẩm nghệ thuật ngôn từ vẫn là một cái nhìn trong suốt. Trong cái nhìn ấy, ngôn
ngữ và các cấu trúc hình thức vẫn là một cái gì hoàn toàn trong suốt, là một
công cụ trung thành và đắc lực của tư tưởng. Nó là một hành trình “thẳng tắp” từ
tư tưởng nhà văn, xuyên qua các lớp ngôn ngữ và hình thức nghệ thuật để kiến tạo
nên nghĩa. Và có lẽ là đơn nghĩa. Dường như ở Trần Đình Hượu ít có sự quan tâm
về vai trò của các cấu trúc hình thức, thể loại, về tính tự trị của ngôn ngữ và
tính quy định ngược của ngôn ngữ đối với sáng tạo, điều ít nhiều đã hiện diện
trong những nghiên cứu về phong cách học và thể loại của Phan Ngọc. Tất nhiên ở
Phan Ngọc, đó là tính quy định có tính tự nhiên của công việc. Dẫu vậy, vẫn phải
thừa nhận, đó là một điểm dừng trong cách đọc văn chương của Trần Đình Hượu.
Những điểm dừng đó cho thấy việc tiếp nhận và tiếp tục di sản
nghiên cứu của Trần Đình Hượu đòi hỏi một phương cách có tính tự do. Đó phải là
một cuộc đối thoại tự do của tư duy với đầy đủ sự tri ân đối với những gợi ý
phương pháp luận cũng như ý thức về những điểm dừng. Và suy cho cùng, đó cũng
là một thứ định mệnh của khoa học. Mỗi con người vĩ đại sẽ đi qua như một người
gieo hạt trong buổi bình minh và cánh đồng với những mùa vụ sẽ là công việc của
những người đến sau.
eva air vietnam
Trả lờiXóamua vé máy bay đi mỹ hãng eva
hang may bay korean air tai tphcm
đặt vé máy bay đi mỹ online
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich