"Một ca khúc uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu,
với nội dung gợi nhớ uẩn thứ tư trong ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức...".
Ca khúc Xuân Hành - tranh của họa sĩ Duy Liêm,
Tinh Hoa xuất
bản tại Sàigòn năm 1959
Có phải là ngẫu nhiên không mà hai nhạc phẩm đầy tính chất
anh hùng ca của Lizst và Beethoven đều lấy âm giai Mi giáng Trưởng (Mi bémol
Majeur)?. Đó là Cầm tấu khúc số 1 của Lizst có tên là "Héro" và Cầm tấu
khúc số 5 của Beethoven có tên là "Emperor" viết cho đại đế Napoléon.
Trong nền tân nhạc Việt, các ca khúc về lịch sử hay những bài
hùng ca thường được viết trên âm giai Fa Trưởng. Nói về nhạc thuật, các âm giai
Trưởng như Do, Ré và Fa nghe thấy trong sáng và hợp với giọng Kim. Khi giọng
Kim là giọng chính (chant), bè phụ thường được viết thấp hơn để làm nổi giọng
chính. Những ca khúc như “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân, “Nước Non
Lam Sơn” hay “Bóng Cờ Lau” và “Tiếng Chim Gọi Đàn” của Hoàng Quý, “Hội Nghị
Diên Hồng” hay “Bạch Đằng Giang” của Lưu Hữu Phước, “Việt Nam, Việt Nam” của Võ
Đức Thu, “Việt Nam Anh Dũng” của Dương Thiệu Tước”, “Việt Nam Hùng Tiến” của Thẩm
Oánh…v.v. đều được viết trên cung Fa Trưởng.
Thật sự, thì âm giai trong sáng hay u tối, êm dịu hay gay gắt
chỉ có ảnh hưởng với nhạc khí, chứ không ảnh hưởng với giọng hát. Giọng hát nhẹ
êm hay mạnh mà cứng là do âm sắc (timbre) của người trình bày. Giọng Thổ thường
dầy hơn giọng Kim, ngược lại thì giọng Kim lanh lảnh và thánh thót hơn giọng Thổ.
Riêng các nhạc sĩ sáng tác và sử dụng dương cầm, mà Frederic Chopin là một điển
hình, thì chuộng loại âm giai mang nhiếu dấu giáng (bémol). Ông cho rằng đàn những
nốt giáng (phím đen trên dương cầm) thì tiếng đàn êm hơn, và về kỹ thuật thì
ngón tay trườn trên phím, càng sâu càng dễ di chuyển lả lướt hơn…
Trong khung cảnh chung như vậy, ca khúc “Xuân Hành” của Phạm
Duy lại được viết trên cung Mi giáng Trưởng, trong sáng mà êm dịu hơn âm giai
Fa Trưởng.
Những ai mới nghe ca khúc này thì tự hỏi rằng tác giả dùng chữ
"hành" trong ý nghĩa nào. Hành có thể là hành trình, hành khúc, hoặc
biết đâu còn là một thể thơ cổ, như bài Tỳ bà hànhmà ai cũng biết qua bản
dịch của Phan Huy Vịnh, hay bài Hiệp khách hành mà các độc giả của
Kim Dung có thể còn nhớ và nhất là Hành phương Nam của Nguyễn Bính?. Người nghe hay người thưởng ngoạn có quyền mở rộng sự cảm nhận để hiểu tác phẩm
từ sở thích hay nhận thức khác biệt của mình như vậy.
Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy là người cẩn trọng, như tên của ông.
Trong cuốn "Ngàn Lời Ca" được xuất bản tại hải ngoại
năm 1987, ông giải thích khung cảnh sáng tác của từng bài mà gọi đó là "sự
tích". Ông trình bày rằng mình đã soạn nhiều ca khúc về hành trình của con
người trong cuộc đời, trong đó có ba bài hành là "Lữ Hành", "Dạ
Hành" và "Xuân Hành". Chúng ta liền hiểu ra ý nghĩa của chữ hành
trong tác phẩm.
Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành trình thơ thới và bất tận
của loài người và được ông sáng tác tại Sàigòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì
"Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không
là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm
hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sàigòn nhưng mà là Sàigòn khói
lửa của chiến chinh tham tàn năm 1970.
Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình thường là bài "Xuân
Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành trình bình thường
và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là "người là ai, từ đâu tới và sẽ
đi về đâu"....Ngươi từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa
là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài….Nhất
là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.
Với khoảng cách thời gian, nghĩa là có thêm sự chín mùi của
cuộc sống, ta có thể nghe lại ba bài hành này mà thoát khỏi hoàn cảnh của
Sàigòn thời 53, 59 hay 70. Nghe lại với tâm cảnh của chính mình. Đấy cũng là lý
do mà Quỳnh Giao thích bài “Xuân Hành” hơn cả.
Về nhạc thuật thì đấy là một ca khúc có nhịp điệu uy nghi
hùng dũng, trong sáng mà êm dịu chứ không chát chúa như nhiều bài hùng ca hoặc
một khúc quân hành. Bài "Lữ Hành" rất hay nhưng ít người hát vì từ đầu
đến cuối là dùng nhịp chõi – syncope. Đôi khi có người còn trình bày theo
điệu "swing" khá giật nên không phản ảnh được nội dung sâu sắc thánh
thiện của lời ca. So với "Lữ Hành" thì bài "Xuân Hành" dễ
hát hơn, nhưng cũng cần trình bày hợp ca nên đòi hỏi kỹ thuật hòa âm mới diễn tả
hết giá trị của tác phẩm. Phải chăng vì vậy mà ngày xưa, chúng ta ít được nghe
ca khúc này ở ngoài các chương trình của đài phát thanh?.
Bây giờ mà nghe lại, khi tư duy đã lắng đọng, người ta còn thấy
ra một giá trị khác, là nội dung của lời từ.
Phạm Duy đã dẫn chúng ta vào tác phẩm với lời giới thiệu về
câu hỏi muôn đời là người từ đâu tới và đi về đâu. Nhưng trong ca khúc mà cũng
là một đời người từ thuở là mầm non chớm nở đến khi trở thành lá úa, ông còn diễn
tả nhiều điều khác nữa. Nổi bật trong đó là chữ nhân, hay tinh thần nhân ái là
chữ mà ông dùng. Chúng ta sinh ra là từ lòng người với tiếng khóc và nụ cười, với
thương yêu và hận thù lẫn đắm say. Nhưng chân lý muôn đời là trưa hôm qua có thể
còn là người, đêm hôm sau thì đã thác, có khi là vị thần hoặc một lũ ma lẻ
loi....
Chữ sinh và hủy chỉ là hai mặt của cuộc đời và ai ai cũng như
vậy. Nhưng, nội dung mang tính chất thánh ca của tác phẩm nằm trong thông điệp
chìm ẩn bên dưới: sự bất diệt trong vòng tử sinh đó là chữ nhân. Nếu sinh ra và
sống mãi với lòng nhân thì chẳng ai nên sợ cái chết. Cuộc hành trình của đời
người mang ý nghĩa thăng hoa của một mùa Xuân khi nó được hướng dẫn bởi lòng tử
tế.
Khi liên lạc với chú Phạm Duy - người viết vẫn gọi ông như vậy
với sự tôn kính - về bài Xuân Hành, Quỳnh Giao đã lẩm nhẩm hát lại và ngẫm
lại rồi nghĩ đến một thông điệp tôn giáo.
Đó là lẽ tử sinh của luân hồi, là ngũ uẩn gồm có sắc-thọ-tưởng-hành-thức.
Nhờ sự suy ngẫm đó mình tìm ra một chữ "hành" trong kinh sách nhà Phật.
Đấy là ý khác của "hành" trong bàiXuân Hành. Rất đơn giản thì hành động
tốt sẽ tạo ra thiện nghiệp để có ngày vượt khỏi lẽ tử sinh. Phải chăng, câu
"Đường nhân ái còn đi mãi mãi" của ca khúc nói về một cách sống bất tử?
Nếu quả như vậy thì thông điệp này còn sâu xa hơn lời ca trong bài "Đường
Chiều Lá Rụng" của Phạm Duy....
Cho một số báo Xuân thì đấy là lòng tri ân được gửi đến tác giả, cùng với lời chúc Xuân.
Sau khi hoàn tất bài này, Quỳnh Giao đã gửi cho Phạm Duy. Ông lập tức trả lời, ngày mùng hai Tháng Giêng 2013: "Cháu viết rất hay. Từ nay may ra người ta mới hiểu được Xuân hành".
Cho một số báo Xuân thì đấy là lòng tri ân được gửi đến tác giả, cùng với lời chúc Xuân.
Sau khi hoàn tất bài này, Quỳnh Giao đã gửi cho Phạm Duy. Ông lập tức trả lời, ngày mùng hai Tháng Giêng 2013: "Cháu viết rất hay. Từ nay may ra người ta mới hiểu được Xuân hành".
Quỳnh Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét