Bàn về kỹ thuật viết nhạc
Sách báo Việt Nam, khi bàn về ca khúc, thường chỉ chú trọng
vào lời ca mà ít để ý đến khía cạnh nhạc. Thậm chí nhiều người còn cho rằng
không nên nói tới "kỹ thuật viết nhạc" vì quan niệm thông thường của
người VN rằng nhạc là một cái gì thần bí huyền diệu từ trong tim vọt ra và hoàn
toàn không cần tới bộ óc! Bài này xin đề cập tới nét nhạc trong vài ca khúc Phạm
Duy:
Chiều Về Trên Sông
Một giai điệu rất trang trọng, vừa mang vẻ cổ điển Tây Phương
(và do đó được Duy Cường soạn cho giàn hoà tấu và Hoàng Ngọc Tuấn soạn cho
dương cầm), vừa có âm hưởng dân ca miền Nam, gợi được vẻ hùng vĩ bao la của
dòng sông Cửu Long.
Phạm Duy viết rằng "Bài hát được soạn trên một âm giai
mineure 6, coi như đó là sự thử thách của tôi trong việc dùng những âm giai
khác với những âm giai tôi đã dùng từ trước tới nay". Âm giai
"mineure 6" này thường được gọi là điệu thức Dorian và gần gũi với hệ
ngũ cung "Oán" C Eb F G A của Việt Nam (chữ "Oán" để trong
ngoặc là vì ở thời điểm này chưa có sự thống nhất về từ ngữ), nó giống như điệu
thứ nhưng có một nốt 6 thăng rất đặc sắc có thể gây những cảm giác luyến tiếc
hay hương vị dân ca.
PD có vẻ rất thích thú với âm điệu mới dùng thử. Hai câu đầu
dùng hoàn toàn những nốt của ngũ cung Oán, dựa vào hai nốt gốc cách nhau một
quãng 5 (C và G), theo cung cách metabole của dân ca mà ông đã quen thuộc:
và trong bài, ông đi qua đi lại giữa nốt 6 thứ của thể thứ và
nốt 6 trưởng của thể Dorien, như trong hai câu:
Được thể, ông dổi qua đổi lại từ bực 3 từ 3 thứ qua trưởng rồi
lại về 3 thứ:
Hãy cất tiếng ca cho ĐỜI thôi buồn... (3 trưởng)
Hãy cất tiếng ca cho LÒNG thôi khô héo... (3 trưởng)
Chiều buông trên GIÒNG sông cuốn mau...(3 thứ)
Hãy cất tiếng ca cho LÒNG thôi khô héo... (3 trưởng)
Chiều buông trên GIÒNG sông cuốn mau...(3 thứ)
Những thay đổi rất tinh tế này khiến nhiều ca sĩ cũng như
thính giả hay lầm lẫn nếu không để ý kỹ.
Hoàng Ngọc Tuấn, trong bản soạn cho piano cũng như trong nhạc đệm cho guitar trong
CD Lệ Mai Hát Nhạc Phạm Duy, khéo léo dùng những chuỗi arpeggio gồm những
nốt cách nhau bậc hai như nước chảy hay sóng gợn để gợi hình ảnh giòng sông cuồn
cuộn chảy, và cũng gợi lên âm thanh của đàn tranh dân tộc.
Thuyền viễn xứ
theo thơ Huyền Chi
theo thơ Huyền Chi
(trích từ "Nghệ Thuật phổ Thơ của Phạm Duy", Phạm Quang Tuấn)
Phạm Duy viết: "Trước khi gần một triệu người sẽ di cư
vào miền Nam và ai cũng sẽ đều nhớ tới cảnh vật, sự việc và con người của thôn
quê miền Bắc, tôi làm quen với một cô em bán vải ở Chợ Bến Thành tên là Huyền
Chi. Cô ''Bắc Kỳ nho nhỏ'' này có một bài thơ nhớ quê hương cũ nhan đề THUYỀN
VIỄN XỨ và đưa cho tôi phổ nhạc..." (Một Đời Nhìn Lại). Bài thơ nguyên tác
là lục bát:
Lên khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bóng tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần giạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi tiếng hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước tiếng đời hoang mang...
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường lại đi
Thùy dương rũ bóng tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần giạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi tiếng hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước tiếng đời hoang mang...
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường lại đi
nhưng Phạm Duy đã sửa đổi để tránh nhịp lục bát quá chẵn và đều
đặn:
Chiều nay sương khói lên khơi
Thùy dương rũ sóng tơi bời
Làn mây hồng xa ráng trời
Bến Ðà Giang, thuyền qua xứ người...
Thùy dương rũ sóng tơi bời
Làn mây hồng xa ráng trời
Bến Ðà Giang, thuyền qua xứ người...
Ðể biểu diễn một tình cảm hoài hương êm nhẹ, Phạm Duy dùng một
tiết tấu nhẹ nhàng và một giai điệu rất êm. Ông cho vào những accidentals như
Mi (chú ý: đoạn này người viết dùng ký hiệu tonic sol-fa, tức là Do là chủ
âm) ở chữ thứ 3 ("sương") (thay vì Mi giảm của thể minor), Sol
giảm ở chữ thứ 5 ("lên"), gây ra những bán cung ẩn (implied) hoặc hiện
để làm tăng vẻ bàng bạc êm dịu đó. Cấu trúc của giòng nhạc là một cấu trúc rất
cổ điển, rất duyên dáng, bốn câu đầu uyển chuyển đi lên từ từ rồi rút xuống. Đường
giai điệu (melodic contour) này được nhắc lại và nhấn mạnh thêm ở bốn câu sau,
nghĩa là đi lên cao hơn, mạnh hơn trước khi lại rút xuống, như sóng thuỷ triều
hay sóng trong lòng người nhớ quê hương:
Thuyền ơi viễn xứ xa xôi
Một lần qua giạt bến lau thưa
Hò ơi giọng hát thiên thu
Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về
Một lần qua giạt bến lau thưa
Hò ơi giọng hát thiên thu
Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về
Sang đoạn sau, cái contour này lại mạnh hơn nữa khi giòng nhạc
lên cao vút và đổi qua major:
Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi
Ðời nhịp sầu lỡ bước, bước hoang mang rồi
Quay lại hướng làng
Ðà Giang lệ ướt nồng
Ðời nhịp sầu lỡ bước, bước hoang mang rồi
Quay lại hướng làng
Ðà Giang lệ ướt nồng
và cuối cùng dừng lại ở âm Do cao:
Mẹ già ngồi im bóng
Mái tóc sương mong con bạc lòng
Mái tóc sương mong con bạc lòng
trước khi trầm lắng xuống và trở về giai điệu đầu tiên:
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người
Mịt mù sương khói lên hương
Lũ thùy dương rũ bóng ven sông
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường...
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người
Mịt mù sương khói lên hương
Lũ thùy dương rũ bóng ven sông
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường...
Tình Hoài Hương
Phạm Duy viết:
Phải mất ngót nghét gần hai năm (51-52) để tính chuyện vào
thành và để tổ chức đời sống gia đình tại Saigon cho nên tôi không sáng tác gì
cả, ngoài việc phổ câu ca dao thành bài dân ca là NỤ TẦM XUÂN, và phổ bài thơ
TIẾNG SÁO THIÊN THAI của Thế Lữ thành một bản tango, hai bài này được soạn ra để
đáp ứng nhu cầu hát đôi (duo) của chị em Thái Thanh Thái Hằng.
Tôi cũng còn bận bịu trong việc tổ chức cho ban Thăng Long đi hát tại các Ðài Phát Thanh, thu thanh tại các hãng dĩa, phụ diễn tại các rạp chiếu bóng và trình diễn tại những buổi Ðại Nhạc Hội đầu tiên của miền Nam.
Tôi cũng còn bận bịu trong việc tổ chức cho ban Thăng Long đi hát tại các Ðài Phát Thanh, thu thanh tại các hãng dĩa, phụ diễn tại các rạp chiếu bóng và trình diễn tại những buổi Ðại Nhạc Hội đầu tiên của miền Nam.
Lúc đó chưa phải là lúc gần một triệu người rời bỏ miền Bắc
vào Nam sau Hội Nghị Genève, nhưng tôi đang là một nghệ sĩ vừa phải xa miền quê
''Bắc Kỳ'' và đang nhớ cảnh quê cũ cho nên khi bắt đầu sáng tác lại, tôi soạn
bài TÌNH HOÀI HƯƠNG. Tôi sẽ không phải là người độc nhất soạn những bài hát nhớ
quê hương khi vẫn đang sống ở quê hương. Cuộc di cư vào Nam trong năm 1954 của
một triệu người khiến cho lũ nhạc sĩ chúng tôi lúc đó soạn nhiều bài hát về quê
hương miền Bắc, ví dụ GIẤC MƠ HỒI HƯƠNG (Vũ Thành), HƯỚNG VỀ HÀ NỘI (Hoàng
Dương) v.v... Trong Tân Nhạc đã khởi sự loạt bài về sau được gọi là tình ca quê
hương. Bài TÌNH HOÀI HƯƠNG (và nhất là bài TÌNH CA) có thể được coi là bài khởi
xướng cho xu hướng này...
Về mặt nhạc lý, bài này khéo léo ở chỗ dùng một câu nhạc
Quê hương tôi,
Có con sông đào xinh xắn...
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê
Có con sông đào xinh xắn...
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê
rồi chuyển giọng thứ qua giọng trưởng và chuyển tons
(modulate) nhiều lần trước khi trở lai chủ âm nguyên thủy. Kể rõ ra thì là từ
Re thứ sang Fa trưởng, chuyển qua La trưởng, rồi về Re thứ là ton mở đầu). Kết
cấu này rất "cổ điển" và chặt chẽ, tuy PD áp dụng vào một giai điệu
mang nhiều tính cách dân ca VN. Điều này chứng tỏ Phạm Duy nắm rất vững căn bản
nhạc lý viết ca khúc chứ không phải chỉ là nhà viết nhạc "ngoại đạo"
như nhiều người (và đôi khi chính ông) vẫn thường nói!
Xen vào điệu chính đầy êm dịu đó là những đoạn nhạc nhiều
thay đổi cá tính: một tiếng sáo mở đầu rất phóng khoáng, một đoạn giữa nhịp
nhàng ("Ai về, về có nhớ ..."), một đoạn kết đầy sôi nổi ("Tình
hoài hương!...")
Mộng Du
Bản nhạc này dùng nhiều những quãng 4, 5, 2 (Fa, Sol, Re) và
ít những quãng 3, 6, 7 (Mi, La, Si) và nhiều quãng nhảy rất xa. Ngay câu đầu
vào
Đêm đêm người mở lòng ra
Cách viết này khiến điệu nhạc có một vẻ ma quái, siêu thực,
những âm hưởng "rỗng" (theo nghĩa hoà âm), như từ trong đêm ẩn hiện
(*), giai điệu nhảy nhót lên xuống, nhiều khi chướng chướng:
Ôm ta trong cánh tay ngà
rất thích hợp với những ý "mộng du", "ta đi bằng
một sợi tơ...", "nâng ta trong lưới mơ hồ". Thỉnh thoảng giai điệu
(và lời ca) như vút lên không gian xa thẳm:
làm tăng ấn tượng siêu thực.
(*) Trong nhạc lý, các quãng 4, 5, 2 đếm từ nốt chủ âm cho một
cảm tưởng "khô", "đen trắng", các quãng 3, 6, 7 cho một cảm
giác dịu, màu sắc. Vì điệu nhạc này thoạt nghe có vẻ "khô" và chướng
nên hầu hết thính giả khó cảm nhận ngay được.
Pháp Thân (Ðạo Ca 1)
Thơ Phạm Thiên Thư
Thơ Phạm Thiên Thư
(Trích từ "Nghệ
Thuật phổ Thơ của Phạm Duy", Phạm Quang Tuấn)
Bài Pháp Thân dùng âm điệu, nhất là hợp âm, để diễn tả những
ý tưởng trừu tượng. Phạm Thiên Thư, cũng như Phạm Duy, nổi tiếng nhất trong quần
chúng là nhờ những bài tình ca như "Ngày Xưa Hoàng Thị", nhưng về giá
trị nghệ thuật thì phải kể đến những bài Ðạo Ca của hai tác giả này.
Ðoạn sau này dựa theo hai nhà nhạc học Etienne Gauthier và
Hoàng Ngọc Tuấn.
Ðạo ca là thơ của Phạm Thiên Thư, một thầy tu kiêm thi sĩ (hoặc
thi sĩ đội lốt thầy tu), do Phạm Duy phổ nhạc. Chữ "Ðạo" không có
nghĩa là tôn giáo, mà có nghĩa là con đường. Tuy nhiên Ðạo không phải chỉ có
nghĩa là con đường của Lão. Ý nghĩa chữ Ðạo đã rõ ràng trong toàn thể mười bài
Ðạo Ca và thâu tóm trong bài một: Mình với ta tuy hai mà một, thì tại sao còn
phân biệt Lão với Phật hay với gì khác?
Ðạo Ca không phải là một bài học triết lý. Ðã rất nhiều tác
phẩm văn học nói về những ý tưởng trong Ðạo Ca một cách sâu sắc hơn. Cái đặc biệt
của Ðạo Ca là sự cộng tác mật thiết giữa hai tác giả, đưa đến một sự đồng nhất
chưa từng có giữa thơ và nhạc. Về nhạc lý, điểm đặc sắc nhất của Ðạo Ca là
trong vài bài nhạc sĩ đã xây dựng toàn bản nhạc căn cứ từ hòa âm (harmony) chứ
không phải là từ sự ngân nga câu thơ như lối làm nhạc của hầu hết các nhạc sĩ
VN, ngày xưa cũng như bây giờ.
Xưa em là kiếp chim
chết mục trên đưng nhỏ
Anh làm cội băng mai,
để tang em, chờ mấy thuở
chết mục trên đưng nhỏ
Anh làm cội băng mai,
để tang em, chờ mấy thuở
Phạm Thiên Thư/Phạm Duy đặt tên tựa cho Ðạo Ca là "Trong
thành vách sương mù" - một người đi tìm chân lý, để thoát ra khỏi đám
sương mù tối ám. Chân lý có thể ở rất gần ta nhưng ta không thấy. Bài ca khởi đầu
ở G trưởng, nhưng ngay cuối câu đầu đã xuất hiện nốt E giảm nghe là lạ - giọng
C thứ chăng? Trở lại G trưởng, nhưng rồi lại hiện ra một cung B giảm không thuộc
giọng trưởng. Câu nhạc nghe khúc khuỷu, lần mò, nhiều lần như muốn đổi mà lại
trở về chỗ cũ, chân lý như sát gần nhưng rồi lại xa vời:
Xưa em làm kiếp lá,
rụng xuống lòng suối thu
Anh làm mưa tháng bẩy,
đôi hàng lệ ướt tương tư...
Xưa em làm kiếp hoa,
chết rũ trong nội cỏ
Anh làm giọt sương sa,
sầu thương em, lệ anh nhỏ...
Xưa em làm kiếp gió
hay có làm kiếp mây
Anh làm chim chích choè,
Trên đầu gậy anh hát ca...
rụng xuống lòng suối thu
Anh làm mưa tháng bẩy,
đôi hàng lệ ướt tương tư...
Xưa em làm kiếp hoa,
chết rũ trong nội cỏ
Anh làm giọt sương sa,
sầu thương em, lệ anh nhỏ...
Xưa em làm kiếp gió
hay có làm kiếp mây
Anh làm chim chích choè,
Trên đầu gậy anh hát ca...
Nhưng rồi, bỗng như một tia mặt trời lóe sáng, "thành
vách sương mù" rẽ ra và chân lý huy hoàng hiện ra trong một giọng E giảm
trưởng thật bất ngờ mà cũng thật hợp lý, thật xa lạ mà cũng thật gần gũi (vì từ
hợp âm G trưởng tới hợp âm E giảm trưởng chỉ đổi có hai bán cung).
Chân lý ở ngay cạnh ta mà ta không biết!
Một Cành Mai (Đạo Ca 5)
thơ Phạm Thiên Thư
thơ Phạm Thiên Thư
Bài này tương tự Pháp Thân ở chỗ sức diễn tả của điệu nhạc dựng
trên cấu trúc hợp âm. Tuy nhiên, cấu trúc hợp âm của MCM rất giản dị và dễ đi
thẳng vào lòng người (kể cả những người không biết gì về hòa âm!): nó là một
chuỗi hợp âm đi từ hợp âm chủ (bậc I) lên dần: bậc II, bậc III, bậc IV, bậc V,
bậc VI, bậc VII (tức là đủ các bậc trong thang âm thất cung), nhưng rồi, thay
vì hoàn tất vòng tròn bằng bậc VIII (tức là trở lại bậc I), Phạm Duy nhảy lên bậc
III. Nhảy như vậy vừa bất ngờ mà vừa rất êm tai, vì trong nhạc lý, đó là một
"perfect cadence", một kết thúc hòan hảo để chuyển từ giọng Fa sang
giọng La.
Khéo léo hơn nữa, Phạm Duy tạo ra hai điệu hòan toàn khác
nhau nhưng cùng nằm lên trên sườn hòa âm đó. Giai điệu 1:
vưà uốn lượn vừ đi xuống, trừ nốt cuối. Giai điệu 2:
thì giản dị lên dần theo hòa âm.
Đường Chiều Lá Rụng
(1958)
(1958)
ĐCLR ít khi được hát và được nghe, vì nó đòi hỏi nhiều ở người
nghệ sĩ lẫn thính giả.
Phạm Duy viết rằng
"bài ÐƯỜNG CHIỀU LÁ RỤNG rất khó hát so với các ca khúc
khác của tôi, nét nhạc và chuyển điệu của nó khá mới lạ, cho tới nay, chỉ có
Thái Thanh, Kim Tước và Quỳnh Giao hát nó mà thôi..." (Phạm Duy - Một Đời
Nhìn Lại)
ĐCLR xử dụng nhiều điệu thức khác nhau trong đó có "hệ
ngũ cung Oán" của VN (La, Do, Re, Mi, Fa thăng), tương tự với điệu thức
Dorien của Âu châu (La - Si - Do - Re - Mi - Fa sharp - Sol). Điệu thức này thường
có một vẻ vương vấn nuối tiếc rất đặc sắc.
Tuy nhiên, PD không giữ nguyên điệu thức Dorien mà chuyển qua
chuyển lại điệu thức thứ một cách đột ngột để gây những màu sắc lung linh thay
đổi:
Lá vàng êm, lá vàng êm,
như mũi kim mềm sẽ khâu liền kín khung cửa tình duyên...
(âm giai thứ).
như mũi kim mềm sẽ khâu liền kín khung cửa tình duyên...
(âm giai thứ).
Ngoài những điệu thức thay đổi, một điều nữa làm bài này khó
hát là vì PD dùng nhiều quãng 5 giảm (tritone), nhiều khi thành từng chuỗi, rất
khó hát nếu ca sĩ không tập luyện:
Hoàng hôn MỞ LỐI,
Rừng khô THỞ KHÓI,
Trời như BIỂN CHÓI...
CHIỀU ÔM vòng tay,
MỘT BÓ thuyền say,
THUYỀN LƠ lửng mãi
Rừng khô THỞ KHÓI,
Trời như BIỂN CHÓI...
CHIỀU ÔM vòng tay,
MỘT BÓ thuyền say,
THUYỀN LƠ lửng mãi
Cách viết này không có trong ca khúc Việt Nam nào khác ở thời
đó (các thầy dạy nhạc và sách dạy viết ca khúc thời đó đều khuyên ta nên tránh
quãng 5 giảm) nhưng những âm điệu đó khiến cho bài này trở thành rất lạ tai, đặc
sắc.
Ngoài ra còn có những bước nhảy vọt lên những nốt rất cao khiến
ca sĩ phải vận dụng kỹ thuật xướng âm để khắc phục:
Để NHỮNG lệ buồn CÁNH khô...
Chờ ĐẾN một trận GIÓ mưa...
Về mặt trình diễn, ĐCLR cần một lối trình diễn tự do phóng
khoáng, nhiều ngẫu hứng của người hát lẫn người đàn, điều này càng khiến bài
này rất khó hát khó thâu, đòi hỏi khả năng ứng biến giỏi ở người đệm đàn.
Nhưng, phần thưởng của người nghệ sĩ khắc phục được những khó
khăn kỹ thuật của ĐCLR là những cơ hội diễn tả một điệu nhạc rất say sưa, có kịch
tính, nhiều tình cảm sâu sắc nhưng không ướt át.
Về ca từ, PD dùng những từ ngữ và hình ảnh rất nhiều thi tính
...những lệ buồn cánh khô
rơi rớt từ một cõi mơ,
nghe đất gọi về tiếng ru hững hờ...
rơi rớt từ một cõi mơ,
nghe đất gọi về tiếng ru hững hờ...
nhiều chỗ phảng phất như lời ca của Trịnh Công Sơn về sau
này.
Nói tóm lại, khi viết ĐCLR, tác giả đã gạt bỏ hết mọi ý định
chiều lòng quần chúng và đã đặt nghệ thuật lên trên hết, để làm một món quà tặng
đặc biệt cho thiểu số sành điệu.
Phạm
Quang Tuấn
vé máy bay eva giá rẻ
vé máy bay đi mỹ hãng eva
hãng hàng không korean air
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich