Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

Ca dao là quê hiện thành thơ

Ca dao là quê hiện thành thơ 
Hôm qua tát nước...
Vừa trắng vừa tròn
Trong đục bên nào
Mười thương, mười thương
Ai ơi chơi lấy...
Trèo lên cây bưởi...
Anh đi, anh đi
Lúc đêm khuya
Chiếu xanh trải xuống...
Có có không không
Rồi sẽ, biết đâu...
Ca dao là những bài thơ ngắn khuyết danh phổ biến trong dân gian.
Căn cứ vào nội dung, dễ dàng đoán tác giả ca dao hầu hết là người bình dân ở nông thôn.
Nội dung ca dao chủ yếu là cảnh quê, chuyện quê, nhất là người quê. Đại khái, cũng như sách báo, gồm hai loại: loại nội dung thứ nhất có tính cách thông tin, loại nội dung thứ hai chứa cảm nghĩ riêng tư. Dĩ nhiên chỉ loại thứ hai mới có thể có giá trị văn chương.
Về hình thức, đến 95% ca dao là thơ lục bát (1), một số ít là song thất lục bát... Tuyệt nhiên không có thơ luật Đường.(2)
Xét cả nội dung lẫn hình thức, có thể thấy CA DAO LÀ QUÊ HIỆN THÀNH THƠ.
Vì là “lời quê” nên ca dao bao giờ cũng mộc mạc. Vì quê Việt Nam là quê đặc biệt kỳ cựu, cái mộc mạc của ta có thể tinh tế, ý nhị vô cùng. Lại do đời sống thôn quê Việt Nam tuy lành mạnh nhưng vẫn giàu tình huống, nên cảm xúc trong ca dao rất đỗi phong phú: khi hân hoan, bồng bột, thiết tha, nồng nàn, đằm thắm, ngọt ngào, khi buồn bã, trầm lắng, hững hờ, lạnh lùng, lạt lẽo, chua chát, khi nghĩ sao nói vậy, thực tình, chân chất, khi quanh co bóng gió, ỡm ờ, đong đưa, lại khi đứng đắn, sắt son, khi lẳng lơ, ong bướm v.v.
Hoài Thanh từng viết: “Văn chương là vật quý, có đâu được nhiều thế!”.(3) Nhận xét ấy đem nói về bất cứ tập hợp sáng tác phẩm nào thì cũng đúng. Trong vô số ca dao, chỉ một thiểu số rất nhỏ là có ít nhiều giá trị văn chương. So với thơ có ký tên người làm phổ biến trong giới trí thức, ca dao không bao giờ bị những bệnh sáo rỗng, lập dị, lai căng, nhưng lại thường quá giản dị.

Năm 2013 quê như trong ca dao coi như thôi rồi. May mắn, khá nhiều “lời quê” đã được kịp thời chép xuống. Sau đây là ít lời ngẫu nhiên nhặt ra từ một số “cảo thơm”, với nhan đề tạm đặt. Khi nào có điều kiện, lại xin nhặt nữa.
Hôm qua tát nước...
Khi anh “bỏ quên (...) trên cành hoa sen” cho em “được”, khi em cố ý “cởi (...) cho nhau” rồi “về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”, cái áo ai bảo chỉ để mặc!
Người nông dân Việt Nam tình tứ nhất thế giới!
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy vào khâu cho cùng.
Khâu rồi, anh sẽ trả công,
Ít nữa lấy chồng, anh lại giúp cho:
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tăm;
Giúp em đôi chiếu em nằm,
Ðôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo;
Giúp em quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau!
Vừa trắng vừa tròn
Nghe “vừa trắng vừa tròn”, nghĩ ngay đến “thân em” (thơ Hồ Xuân Hương)! Nhờ không phải “thân” mà “cổ tay em” không bị ai “nặn”, chỉ bị “gối” thôi, gối nhiều đến nỗi “đã mòn một bên”...
Cổ tay như thể “miếng trầu”, vì cùng “là đầu câu chuyện”...
Cổ tay có khi thường được nhắc đến hơn cổ thật đấy nhỉ!
Bài 1:
Cổ tay em trắng lại tròn,
Để cho ai gối, đã mòn một bên.
Gối chăn, gối chiếu không êm,
Gối lụa không mềm bằng gối tay em!
Bài 2:
Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu, như thể hoa sen!
Bài 3:
Cổ tay em vừa trắng vừa tròn,
Răng đen rưng rức, chồng con kém người.
Khốn nạn thay! nhạn ở với ruồi,
Tiên ở với cú, người cười với ma!
Trong đục bên nào
Hình như chỉ “anh quyết với mình” chứ em thì chưa quyết, thậm chí có lẽ đang dao động xa anh nên anh mới buồn bã “chẳng thành thời thôi”, mới xa xôi đục lở trong bồi...
Nàng ơi, anh quyết với mình,
Công anh dan díu chẳng thành thời thôi.
Sông kia bên lở, bên bồi,
Bên lở thì đục, bên bồi thì trong.
Sông kia nước chảy đôi dòng,
Biết rằng bên đục, bên trong bên nào.
Mười thương, mười thương
Có phải bài Mười Thương thứ nhất tả “em” Đàng Ngoài?
Dù sao, nó cũng được hát lên theo cùng một điệu dân ca Đàng Trong.
Bài 1:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương má phấn lại càng thêm xinh
Chín thương em ngủ một mình
Mười thương con mắt có tình với ai.
Bài 2:
Một thương tóc xõa ngang vai
Hai thương đi đứng vẻ người đoan trang
Ba thương ăn nói có duyên
Bốn thương mơ mộng mắt huyền thêm xinh
Năm thương dáng điệu thanh thanh
Sáu thương nón Huế nửa vành nên thơ
Bảy thương những phút mong chờ
Tám thương thơ thẩn bên bờ Hương Giang
Chín thương bến Ngự sang ngang
Mười thương tà áo nhẹ nhàng gió bay.
Ai ơi chơi lấy... 

Đây cái bài ca dao gợi hứng cho Nguyễn Công Trứ hát nói Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Đi...
Ai ơi chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân, kẻo hết xuân đi,
Cái già sòng sọc nó thì theo sau.
Trèo lên cây bưởi... 
Theo Nguyễn Xuân Kính, “ở đồng bằng Bắc bộ (...) chưa tìm thấy hoa tầm xuân màu xanh (...) nếu (...) có (...) cũng không (...) phổ biến (...) hoa tầm xuân (thường) màu đào hay trắng nhạt”.(4)
Ở Thanh Hóa có tầm xuân xanh.(5) Nhưng đó là một thứ hoa khác hẳn hoa tầm xuân ngoài Bắc. Tầm xuân Thanh ở Bắc cũng có, nhưng lại mang tên là hoa đậu biếc.
Có hai thứ hoa tầm xuân. Làm sao biết được cái “nụ tầm xuân” trong bài ca dao nổi tiếng nó là tầm xuân Thanh hay tầm xuân Bắc?
Không rõ căn cứ vào đâu mà Nguyễn Xuân Kính bảo bài ca dao ấy “có nhiều khả năng ra đời (...) ở đồng bằng Bắc bộ”. Dựa vào giả thiết đó, ông bàn về nội dung thơ: “... ở đây màu hoa “xanh biếc” hàm nghĩa là nó không có trong thực tế, là ngang trái, là trớ trêu giống như cảnh ngộ chàng trai”.
Sực nhớ: “Trên trời có đám mây xanh, ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng...”. Mây, mây và mây thì có dính líu gì đến việc “anh lấy được nàng” với “mua gạch Bát Tràng” đâu. Ca dao vẫn có lối mở đầu bằng vài câu bâng quơ. Những câu thơ “dạo” ấy, tưởng không cần phải cố buộc chúng thật chặt vào với nội dung bài thơ.
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay!
- Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ;
Chim vào lồng, biết thuở nào ra!
Anh đi, anh đi
Anh đi, ở nhà ban ngày em gánh, ban đêm em ôm.
Gánh, ngay cả vác, mẹ già con thơ, thế mà vẫn nhẹ hơn chỉ nằm ôm cái bóng của mình!
Bài 1:
Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.
Lầm than bao quản muối dưa,
Anh đi, anh liệu chen đua với đời.
Bài 2:
Anh đi đàng ấy xa xa,
Ðể em ôm bóng trăng tà năm canh.
Nước non một gánh chung tình,
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng.
Lúc đêm khuya
Bài hát xẩm sau khi bớt sửa cho thành lục bát chỉnh thể:
Đêm khuya, trăng lạnh, sương mờ,
Canh tàn, rượu tỉnh, bấy giờ thương thân!
Tiếc thay trong giá, trắng ngần,
Nỡ gieo vào chốn bụi trần mà chơi.
Hang sâu lẩn khuất hương trời,
Non xanh nước biếc ai người biết cho.
Chim khôn đã mắc phải dò,
Còn vui chi nữa, giang hồ, em ơi!
Thoắt đây quá nửa xuân rồi,
Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương.
Hồng nhan, càng nghĩ càng thương,
Tài tình chi lắm vấn vương nợ đời.
Trông non sông thẹn với Trời,
Khi vui, vui gượng, khi cười, cười suông.
Ruột tằm, trăm mối tơ vương,
Bên trời góc biển, can trường gửi ai...
Còn đây Kiều:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là, (1235)
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì. (1240)
Ðòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Ðòi khen nét vẽ câu thơ, (1245)
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm mối dùi mài một thân.
Bài hát xẩm “dân gian” hơn, mà cũng thực là thấm thía. Tác giả nó có phải một nhà nho?
Lúc đêm khuya, trăng lạnh, sương mờ,

Canh tàn, rượu tỉnh, lúc bấy giờ em mới nghĩ thương thân!
Em tiếc thay em trong giá, trắng ngần,
Nỡ gieo thân mình vào chốn bụi trần mà chơi.
Chốn hang sâu lẩn khuất hương trời,
Non xanh nước biếc dễ mấy ai người biết cho.
Con chim khôn đã mắc phải dò,
Thì còn vui chi nữa, cái kiếp giang hồ, hỡi các chị em ơi!
Tính đốt ngón tay đã quá nửa xuân rồi,
Đầu xanh mấy lúc cũng da mồi tóc sương.
Kiếp hồng nhan, càng nghĩ đến càng thương,
Tài tình chi cho lắm để vấn vương cái nợ ở đời.
Trông non sông mà lại thẹn với Trời,
Khi vui, em vui gượng, khi cười, em cười suông.
Ruột con tằm, trăm mối vẫn tơ vương,
Bên trời góc biển, em biết gửi can trường vào đâu...
Chiếu xanh trải xuống... 
Sóng gợn gợn, gió hiu hiu,
Lệ tuôn chậm chậm, sông chiều buồn hung.
Em ơi! xích lại đây cùng,
Múi lưng điều ướt thôi dùng sẽ khô.
Chiếu xanh trải xuống mà ngồi,
Em ơi! xích lại cùng tôi kẻo buồn.
Chiều chiều bước xuống ghe buôn,
Sóng bao nhiêu gợn, dạ em buồn bấy nhiêu.
Cánh buồm, gió thổi hiu hiu,
Nước mắt ra chầm chậm, múi lưng điều không khô.
Thảm với sầu, không biết chừng mô.
Có có không không
Theo Trần Quốc Vượng, bài ca dao này gốc ở bài kệ Có Không mà Từ Đạo Hạnh làm để diễn giải “tứ cú” của kinh Kim Cương (1)
Bài kệ do sư nổi tiếng làm, còn bài ca dao hẳn do một ẩn sĩ làm. Sư kệ rồi sĩ ca, chứ chắc chẳng người nông dân nào lại đi “mơ màng”, thơ thẩn chuyện “có có không không”...
Bản 1:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Tuồng như đáy nguyệt lòng sông
Nào ai mà biết có không là gì.
Bản 2:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi có có không không mơ màng.
Rồi sẽ, biết đâu... 
Lo xa, e ngại, rỉ rén thành lời thật dễ thương.
Làm sao đây? Chẳng lẽ vì lo mà giữ mãi xa? Đành phải cho gần, nhưng không cho no mắt, no mũi!
Bay hoài hương ngát thôi thơm,
Ngọc phơi lồ lộ chóng nhờn mắt ai.
Tình yêu, muốn giữ lâu dài,
“Đậy hương che ngọc”, nhớ bài đầu tiên!
Ngọc nhìn lâu sẽ tìm thấy vết,
Hoa để gần, sẽ hết mùi hương...
Xa nhau, mong ước, mơ màng,
Gần nhau, rồi sẽ phụ phàng, biết đâu...
(1) Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao, nxb. Khoa Học Xã Hội, VN, 1992, tr. 56.
(2) Hoài Thanh, Chuyện thơ, nxb. Tác Phẩm Mới, VN, 1978, tr. 59.
(3) Xem Góc nhìn văn hiến Việt Nam, nhiều tác giả, nxb. Thông Tấn, VN, 2006, tr. 33.
(4) NXK, sđd., tr. 224-226.
(5) Xem bài Xanh Biếc Giậu Tầm Xuân, trang gocnhin.net số 175.
(6) Trần Quốc Vượng, Trong cõi, nxb. Trăm Hoa, 1993, tr. 168.
 Thu Tứ
Theo http://www.gocnhin.net/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...