Đưa người ta không đưa qua
sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
Một giã gia đình, một dửng dưng...
Ly khách! Ly khách! Con đường
nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết người buồn chiều hôm
trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót (*).
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót (*).
Ta biết người buồn sáng hôm
nay:
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Mây thu đầu núi, gió lên
trăng (**)
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Ly khách ven trời nghe muốn khóc,
Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm (***).
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Ly khách ven trời nghe muốn khóc,
Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm (***).
"Tống biệt hành"
là bài thơ nổi tiếng và được ưa thích nhất của Thâm Tâm. Có người không ngần ngại
liệt nó vào một trong mười bài thơ tiền chiến hay nhất (1). Chục năm nay,
"Tống Biệt Hành" cũng được xếp trong tuyển chọn năm mươi bài thơ trữ
tình tiêu biểu của mười thế kỷ thơ ca Việt Nam (2).
Đề tài bài thơ là một trong
hằng hà sa số những cuộc ly biệt được đưa vào "Thơ Mới" thời 1930 -
1945. Nhưng có lẽ trong văn học Việt Nam, trước và sau Thâm Tâm, không ai viết
về chia ly đầy tính bi hùng, trữ tình và mãnh liệt đến như thế.
Đưa người, ta không đưa qua
sông.
Từ bao đời nay, con sông, bến
nước vẫn là địa điểm của những cuộc tiễn biệt. Chẳng những vì xưa kia, phương
tiện giao thông chủ yếu của người dân quê là chiếc thuyền. Con sông còn như một
ranh giới, một vành đai bao phủ và che chở mỗi vùng làng mạc. Mỗi người, khi
qua sông, cũng là lúc rời bỏ quê hương cùng gia đình và người thân của họ. Chẳng
phải là ngẫu nhiên khi dòng sông, con tàu đi vào tiềm thức mỗi người như một biểu
tượng của giã biệt, xa cách. Trong thơ ca cũng vậy:
Anh Khóa ơi,
Em tiễn anh xuống tận bến tàu...
("Anh Khóa", Trần Tuấn Khải)
Em tiễn anh xuống tận bến tàu...
("Anh Khóa", Trần Tuấn Khải)
Biệt ly,
Sóng trên dòng sông,
Ôi còi tàu như xé đôi lòng,
Và mây trôi, nước trôi, ngày tháng trôi,
Càng lướt trôi.
("Biệt ly", Dzoãn Mẫn)
Sóng trên dòng sông,
Ôi còi tàu như xé đôi lòng,
Và mây trôi, nước trôi, ngày tháng trôi,
Càng lướt trôi.
("Biệt ly", Dzoãn Mẫn)
Nhưng lần này, tác giả không
đưa bạn mình qua sông. Vào những năm cuối của thập kỷ ba mươi, khi Nguyễn Bính
viết "Những bóng người trên sân ga", nhiều cuộc đi xa đã khởi đầu
trên một bến xe, một sân ga nào đó.
Tuy thế hình ảnh con đò, bến
nước trong văn chương và cuộc đời đã hằn sâu trong tác giả tự bao giờ, khiến
anh phải thốt lên:
Sao có tiếng sóng ở trong
lòng?
Hỏi đấy, nhưng chỉ để bộc lộ
nỗi lòng buồn bã pha chút vị ngây ngất của anh. Tiếng sóng ấy chưa đến độ như
"tiếng đời xô động, tiếng hờn câm" ở đoạn kết, nhưng đã tựa như tiếng
đàn khuấy động những cung bậc bi phẫn giữa người đi và kẻ ở.
Đã hay rằng "người"
buồn đấy, còn "cảnh" ra sao? Buổi chiều ấy, dù "không thắm,
không vàng vọt", nhưng "đầy hoàng hôn trong mắt trong", và có thể
rất đẹp đấy. Nhưng nó vẫn đượm vẻ gì man mác vô định. Có điều, vào lúc ấy, nào
ai còn để ý đến cảnh vật bên ngoài. Họ mải "giã gia đình" và "dửng
dưng". Đối với tác giả, chỉ còn người đi là tồn tại, anh chỉ "đưa người
ấy", ngoài ra mọi thứ khác nào có nghĩa gì.
Cuối cùng thì giờ phút chia
tay cũng phải đến. Người đi hùng dũng lắm, hăng hái và hăm hở lắm:
Ly khách! Ly khách! Con đường
nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Anh thề thốt thật ghê! Người
đọc không biết anh đi đâu, anh làm gì. Chắc sự nghiệp của anh lớn lắm. Có gì
làm ta nhớ lại chàng Kinh Kha vào Tần qua sông Dịch lạnh tê tái, khảng khái làm
hớp rượu, rồi bước thẳng không quay đầu lại:
Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy
hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.
(Gió hiu hiu chừ, sông Dịch lạnh ghê,
Tráng sĩ một đi chừ, không bao giờ về.)
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.
(Gió hiu hiu chừ, sông Dịch lạnh ghê,
Tráng sĩ một đi chừ, không bao giờ về.)
Ta thấy anh đi khí thế thật
đấy, nhưng sao cô đơn quá! Đi thì cứ đi, nhưng nào có rõ tương lai:
Ba năm, mẹ già cũng đừng
mong.
Anh lên gân vậy thôi, chứ thực
ra, anh thương mẹ lắm. Và khi đi, nào phải anh không day dứt. Anh còn chị, còn
em. Những người chị "như sen" và người em "ngây thơ đôi mắt biếc",
đâu muốn anh đi. Hẳn nhà anh nheo nhóc và cực nhọc lắm, anh đi rồi, ai lo?
Tất nhiên, chí trai bốc đồng,
anh tỏ ra quyết tâm lắm. Nhưng dễ thấy đó chỉ là vẻ bề ngoài. Kỳ thực, lòng anh
thật mềm yếu. Anh đã buồn, chắc là từ lâu, chứ đâu phải chỉ từ "chiều hôm
trước" với "sáng hôm nay".
Và cảnh sắc bầu trời mùa hạ
sang thu ấy thật đẹp. Anh nhất quyết phải từ giã gia đình, bạn bè trong khung cảnh
ấy sao? Đích của anh nào có chắc chắn gì? Đâu phải anh không có những day dứt,
ràng buộc bịn rịn?
Nhưng rồi anh vẫn dứt áo ra
đi. Đi lúc nào mà người tiễn chẳng hay:
Người đi! Ừ nhỉ? Người đi thực!
Như một cơn mơ, lúc bừng tỉnh
chẳng còn gì. Anh đã đi, đi thực. Làm người ở lại đắm trong nỗi thẫn thờ. Cuộc
đời sao như tỉnh, như mơ! Đành phải chịu!
Tất cả dẫn đến một cao trào.
Nhịp thơ trở nên gấp gáp, rắn rỏi, mãnh liệt, nhưng đượm vẻ chua chát và bi phẫn:
Mẹ thà coi như chiếc lá
bay,
Chị thà coi như là hạtbụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Chị thà coi như là hạtbụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Anh muốn quên lãng đi mọi thứ.
Quên đi cho hết nỗi sầu. Như người lữ khách trong "Chiều" của Hồ Dzếnh.
Nhưng thử hỏi: có quên được không?
Mây thu đầu núi, gió lên
trăng,
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Thời gian qua đi. Bóng hoàng
hôn không còn nữa. Cơn lạnh và bóng tối trùm lên mỗi bước anh đi. Lúc ấy, người
lữ khách còn lại một mình. Âm thầm. Lặng lẽ. Cái đích vẫn xa vời. Và nhuệ khí
xưa đâu còn nữa. Anh muốn bật khóc, muốn gào lên tức tưởi:
Ly khách ven trời nghe muốn
khóc,
Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm...
Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm...
Ông Hoài Thanh trong
"Vài suy nghĩ về thơ" (3) đã thú nhận khi viết "Thi nhân Việt
Nam", ông rất khoái "Tống Biệt Hành". Chẳng những vì "điệu
thơ gấp gáp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại, uyển chuyển
như phần nhiều thơ bây giờ" (4), mà chủ yếu bài thơ mang phong vị
"bâng khuâng khó hiểu của thời đại". (5)
Không rõ "Tống Biệt
Hành" có gì "khó hiểu"? Nhưng rõ ràng khi đọc, tôi thấy thật
"bâng khuâng". Vẻ trầm hùng, cổ kính của bài thơ cùng những hình ảnh
"mong manh, ghê rợn, như những nhát dao xiết vào tâm hồn, tưởng là rất nhẹ
hóa ra lại rất nặng" (6) gây nên một ấn tượng thật mạnh và sâu đến người đọc.
Ít năm trước đây, nhà thơ
Lương Trúc (7), một người bạn của Thâm Tâm, có tiết lộ rằng "Tống Biệt
Hành" là bài thơ Thâm Tâm viết tặng ông khi ông đi hoạt động. Tạm cho là
như vậy. Ở vào hoàn cảnh bấy giờ (1941), hành động cách mạng của những thanh
niên độ tuổi hai mươi như họ, có thể coi là một sự dấn thân đầy mạo hiểm. Nó
mang hình ảnh các tráng sĩ thời xưa, vào cuộc chiến "lạnh lùng theo trống
dồn" ("Chiến sĩ vô danh", Phạm Duy), với lòng hăng hái thiêng
liêng "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" ("Tây Tiến",
Quang Dũng). Và cũng chẳng khác gì mấy hình ảnh thật đẹp và oai hùng của lứa
văn nghệ sĩ đầu tham gia kháng chiến, nửa thập kỷ về sau:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà
Nội,
Những phố dài xao xác hơi may,
Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
("Đất nước", Nguyễn Đình Thi)
Những phố dài xao xác hơi may,
Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
("Đất nước", Nguyễn Đình Thi)
... Nhớ đêm ra đi đất trời bốc
lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh hẹn mãi tới khi già
Phơi nắng gió và hoa ngàn cỏ dại
Theo tiếng gọi của những người Hà Nội
Trở về
Trở về chiếm lại quê hương!
("Ngày về", Chính Hữu)
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh hẹn mãi tới khi già
Phơi nắng gió và hoa ngàn cỏ dại
Theo tiếng gọi của những người Hà Nội
Trở về
Trở về chiếm lại quê hương!
("Ngày về", Chính Hữu)
Cuộc đời Thâm Tâm thật ngắn
ngủi. Ông viết chưa nhiều (8). Cái chết cướp ông đi ở tuổi 33. Ông đã lao vào
cuộc chiến đấu của dân tộc một cách nhiệt thành. Từng là biên tập viên tạp chí
"Tiên phong" (1945-1946) rồi thư ký tòa soạn báo "Vệ quốc
quân", ở Chiến dịch Biên giới (1950), Thâm Tâm bị sốt rét nặng trong lúc
không có thuốc men. Vô phương cứu chữa, ông bị bỏ lại trong một căn nhà sàn tại
bản Nà Po cùng một người liên lạc. Anh này là người duy nhất có mặt khi ông qua
đời và xin được bà con dân bản một mảnh vải trắng để làm khăn tang (8).
Cái chết của Thâm Tâm thật
bi thảm. Nhưng nó cũng thật đẹp và bi hùng ở khía cạnh một tráng sĩ nơi sa trường.
Đẹp và bi hùng như "Tống Biệt Hành" của ông vậy!.
Chú thích:
(*) Có bản chép là "dòng lệ xót".
(**) Có bản chép là "giá lên trăng".
(***) Khổ cuối bài thơ thường không được biết đến. Theo "Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-95" (Hà Nội, 1989), trong một bản in "Tiểu thuyết thứ Bảy" (1940) có đoạn này.
Giới thiệu tham khảo:
1. Vũ Quần Phương: Thâm Tâm và "Tống Biệt Hành" ("Quân đội Nhân dân", 1990).
2. "Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-95" (Hà Nội, 1989).
3, 4, 5. "Tuyển tập Hoài Thanh", tập 2 (Hà Nội, 1983).
6. Vũ Cao: "Tản mạn dọc đường văn học" ("Văn nghệ Quân đội" tháng 6-1988).
7. Tên thật Phạm Quang Hòa, sinh năm 1915. Xin xem thêm bài của Hoàng Tiến: "T.T.Kh. là ai?" ("Nhân dân Chủ nhật" ngày 16-7-1989).
8. Sinh thời, thơ Thâm Tâm chưa được in thành tập. Mãi đến năm 1988, tập "Thơ Thâm Tâm" sưu tầm một số thi phẩm tiêu biểu của ông mới được ấn hành.
9. Theo Từ Bích Hoàng: "Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học", tập 1 (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội 1985).
(*) Có bản chép là "dòng lệ xót".
(**) Có bản chép là "giá lên trăng".
(***) Khổ cuối bài thơ thường không được biết đến. Theo "Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-95" (Hà Nội, 1989), trong một bản in "Tiểu thuyết thứ Bảy" (1940) có đoạn này.
Giới thiệu tham khảo:
1. Vũ Quần Phương: Thâm Tâm và "Tống Biệt Hành" ("Quân đội Nhân dân", 1990).
2. "Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-95" (Hà Nội, 1989).
3, 4, 5. "Tuyển tập Hoài Thanh", tập 2 (Hà Nội, 1983).
6. Vũ Cao: "Tản mạn dọc đường văn học" ("Văn nghệ Quân đội" tháng 6-1988).
7. Tên thật Phạm Quang Hòa, sinh năm 1915. Xin xem thêm bài của Hoàng Tiến: "T.T.Kh. là ai?" ("Nhân dân Chủ nhật" ngày 16-7-1989).
8. Sinh thời, thơ Thâm Tâm chưa được in thành tập. Mãi đến năm 1988, tập "Thơ Thâm Tâm" sưu tầm một số thi phẩm tiêu biểu của ông mới được ấn hành.
9. Theo Từ Bích Hoàng: "Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học", tập 1 (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội 1985).
H. Linh
Nguồn: Nhịp cầu thế giới - Hungary
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét