Màu sắc Đường thi trong bài thơ
Nhà thơ Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình. Ông sinh năm 1917 tại Hải
Dương, mất năm 1950. Thơ ông hay nói đến sự ra đi mà "Tống biệt hành" là tiêu biểu.
Đưa người, ta không đưa qua
sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng...
Một giã gia đình một dửng dưng...
- Li khách! Li khách! Con đường
nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!
Ta biết người buồn chiều hôm
trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm
nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say...
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say...
(1940)
Trên thivien.com có đăng 1 dị
bản của Tống Biệt Hành
Tống biệt hành
Đưa người ta không đưa qua
sông
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thẫm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thẫm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Môt giã gia đình, môt dửng dưng.
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về, bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Môt giã gia đình, môt dửng dưng.
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về, bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết người buồn đêm hôm
trước
Bây giờ muà hạ sen nở nốt
Môt chị, hai chị cùng như sen
Khuyên nốt em trai giòng lệ sót
Bây giờ muà hạ sen nở nốt
Môt chị, hai chị cùng như sen
Khuyên nốt em trai giòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm
nay
Trời chưa vào thu tươi lắm thay
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay..
Trời chưa vào thu tươi lắm thay
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay..
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật
Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
Chị! thà coi như là hạt bụi
Em! thà coi như hơi rượu cay
Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
Chị! thà coi như là hạt bụi
Em! thà coi như hơi rượu cay
Mây thu đầu núi, giá lên
trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng đời xô động tiếng hồn câm
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng đời xô động tiếng hồn câm
Màu sắc Đường thi trong bài thơ
Viết về đề tài rất quen thuộc và có nhiều bài thơ nổi tiếng nhưng vẫn tạo được
cho thi phẩm của mình một màu sắc độc đáo, hấp dẫn thì không thể không nói đến
nhà thơ Thâm Tâm với bài thơ Tống biệt hành. Đã có rất nhiều người khám phá vẻ
đẹp lung linh muôn sắc màu của tác phẩm này. Xin góp thêm cảm nhận về Tống biệt
hành nhìn từ góc độ cấu tứ mang màu sắc Đường thi trong việc thể hiện tâm trạng,
tinh thần của đấng nam nhi thời đại mới thông qua cuộc tiễn đưa.
Một trong những đặc điểm của cấu tứ thơ Đường là các nhà thơ không bao giờ nói
trực tiếp và nói hết ý mình mà chỉ dựng lên các mối quan hệ để độc giả luận ra
ý tác giả.
Thâm Tâm đã kế thừa cấu tứ thơ Đường làm cho bài thơ đậm đà phong vị Đường thi
nhưng lại ngời sáng tinh thần thời đại. Trước hết, tác giả tạo dựng mối quan hệ
KHÔNG – CÓ ở bốn câu thơ mở đầu bài thơ để thể hiện tình người trong cuộc chia
ly, tiễn biệt: không có sông nhưng có tiếng sóng ở trong lòng, không có bóng
chiều nhưng có hoàng hôn trong mắt. Những hình ảnh đối lập đó đã diễn tả nỗi buồn
tê tái của người đưa tiễn, ẩn chứa đằng sau đó là tâm trạng của người ra đi.
Thâm Tâm đã tạo ra sự hiện diện của những cái không có bằng hàng loạt từ phủ định
("không đưa qua sông", "bóng chiều không thắm, không vàng vọt")
nhưng liền sau đó lại đưa ra những câu hỏi tu từ.
Đưa người, ta không đưa qua
sông,
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Chính điều đó lại gợi cái có
trong liên tưởng người đọc về hình ảnh "dòng sông", "hoàng
hôn" đã trờ thành biểu tượng cho những cuộc chia ly. Trong thơ Đường, dường
như cuộc tiễn đưa nào cũng không thể thiếu những hình ảnh đó:
Sổ thanh phong địch ly đình
vãn
Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần.
(Trịnh Cốc – Hoài thượng biệt hữu nhân)
(Vài tiếng sáo theo gió vi vút, ở đình ly biệt buổi chiều hôm
Anh đi tới vùng sông Tiêu, sông Tương, tôi đi tới đất Tần)
Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần.
(Trịnh Cốc – Hoài thượng biệt hữu nhân)
(Vài tiếng sáo theo gió vi vút, ở đình ly biệt buổi chiều hôm
Anh đi tới vùng sông Tiêu, sông Tương, tôi đi tới đất Tần)
Thỉnh quân thi vấn đông lưu
thuỷ
Biệt ý dữ chi thuỷ đoản trường.
(Lý Bạch)
(Xin bạn thử dòng nước chảy về đông
Xem tình ý biệt ly và dòng nước bên nào ngắn bên nào dài)
Biệt ý dữ chi thuỷ đoản trường.
(Lý Bạch)
(Xin bạn thử dòng nước chảy về đông
Xem tình ý biệt ly và dòng nước bên nào ngắn bên nào dài)
Li tâm bất dị Tây giang thuỷ
(Hứa Hồn)
(Tình li biệt chẳng khác gì dòng nước sông)
(Hứa Hồn)
(Tình li biệt chẳng khác gì dòng nước sông)
Các nhà thơ cổ điển lúc viết
thơ "Tống biệt" hay dùng thủ pháp đồng nhất tình cảm và cảnh, còn
Thâm Tâm có cách thể hiện riêng: không tả cảnh nhưng lại gợi cảnh. Cái tài của
tác giả là tạo nên sự liên tưởng, sự cộng hưởng nối liền cuộc chia ly hiện tại
với cảnh cũ người xưa trong lòng độc giả. Chính vì vậy nhà thơ đã thành công
khi thể hiện tình cảm muôn thuở của con người: "Bi mạc bi hề sinh biệt
ly" (Không gì buồn bằng nỗi buồn chia ly) (Khuất Nguyên). Có lẽ
Thâm Tâm đã gặp gỡ Huy Cận trong cách thể hiện này. Khi tác giả Tràng giang viết
"Lòng quê dợn dợn vời con nước / Không khói hoàng hôn cũng nhớ
nhà" đâu có ý phủ nhận "khói" để khẳng định nỗi nhớ nhà của mình
da diết và thường trực hơn Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng
hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Thôi Hiệu – Hoàng Hạc lâu)
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Thôi Hiệu – Hoàng Hạc lâu)
Ngược lại Huy Cận đã diễn tả
nỗi nhớ quê hương da diết bằng cách cộng thêm nỗi buồn của người xưa.
Thâm Tâm phát hiện những nét
đối lập mà thống nhất để tạo dựng hàng loạt mối quan hệ: bề ngoài – bên trong;
con người giả - con người thực; dửng dưng, lạnh lùng - buồn bã, dằn vặt… để khắc
hoạ tâm trạng, ý chí, khát vọng của li khách thông qua cảm nhận của người đưa
tiễn.
Người ra đi (li khách) là con người khác thường, bề ngoài có vẻ dửng dưng với tất cả, vượt lên mọi trở lực riêng tư để thực hiện chí lớn.
Người ra đi (li khách) là con người khác thường, bề ngoài có vẻ dửng dưng với tất cả, vượt lên mọi trở lực riêng tư để thực hiện chí lớn.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Một giã gia đình, một dửng dưng…
- Li khách! Li khách! Con đường
nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Các từ ngữ "một",
"giã", "không bao giờ", "đừng" cực tả cái rắn rỏi
dứt khoát tưởng chừng không ai có thể ngăn cản quyết tâm của người ra đi. Người
ấy ra đi có vẻ như là không hề vướng bận với một chút tình riêng:
Mẹ thà coi như chiếc là
bay
Chi thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Chi thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Dáng vẻ cương quyết của li
khách, chúng ta đã từng bắt gặp ở tráng sĩ Kinh Kha, ở "Chàng tuổi trẻ vốn
dòng hào kiệt" trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Nhưng đến khổ thơ
thứ ba qua sự hồi tưởng của người tiễn thì con người thật bị che đậy ở trên đã
được bộc lộ.
"Ta biết" chứ
không phải "ta thấy" tức là người ở lại hiểu được nỗi niềm sâu thẳm
trong cõi lòng người ra đi. Nếu như "nước mắt như mưa" giúp ta nhận
biết về con người thật ẩn chứa sau dáng vẻ bề ngoài oai nghiêm, hùng dũng của
lính thú đời xưa thì ở bài thơ này ta nhận được con người thật li khách qua sự
đồng cảm của người ở lại. Đằng sau cốt cách rắn rỏi, dửng dưng của đấng nam nhi
ý thức được "Làm trai đứng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi
sông" là cả chiều sâu nội tâm. Đó là những nỗi buồn day dứt, dằn vặt, xót
xa của li khách trước tình cảm gia đình thiêng liêng. Ngay sau giọng thơ có vẻ
dứt khoát, rắn rỏi và sự lặp đi lặp lại ba chữ "thà coi như" ở ba câu
cuối bài thơ là sự xót xa, nghen ngào thầm lặng. Có một sự giằng xé nội tâm trong
con người này: một bên là tình cảm, một bên là ý chí, khát vọng. Thâm Tâm đã
xây dựng hình tượng nghệ thuật tương phản nhưng nhằm tô đậm sự thống nhất trong
hành động, ý chí của li khách. Tạo dựng nên các mối quan hệ, nhà thơ dần dần hé
mở cho người đọc nhận ra cái có ẩn chứa trong cái không, cái thực ẩn chứa trong
cái hư và cuối cùng là hình ảnh một con người mang dáng dấp trượng phu được nhiều
người ngưỡng mộ.
Thủ pháp gợi - một thủ pháp
quen thuộc trong Đường thi đã được nhà thơ vận dụng để thể hiện khát vọng thực
hiện chí lớn của li khách. Khi Thâm Tâm cực tả tình cảm tiếc thương, níu kéo của
người thân chính là để cực tả ý chí không gì lay chuyển nổi của người ra đi.
Tác giả còn tạo ra mối quan hệ tin – không tin để tô đậm thêm ý này. Người ở lại
in đây là cuộc đưa tiễn thật nên mới có "sóng ở trong lòng",
"hooàng hôn trong mắt" thế mà khi li khách đi rồi vẫn không tin là có
thật: "Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!" . Câu thơ diễn tả sự bàng
hoàng, ngỡ ngàng của người tiễn vì anh ta cứ tưởng là tình cảm của người thân
có thể níu kéo li khách ở lại được. Làm sao có thể đành lòng trước cảnh mẹ già,
cảnh chị gái "Khuyên nốt em trai dòng lệ sót" , cảnh em gái "Gói
tròn thương tiếc chiếc khăn tay" ?... Điều đó cũng chỉ nhằm khắc hoạ thêm
quyết tâm thực hiện một cuộc ra đi tự nguyện đầy lãng mạn với những khát vọng
cao cả của li khách.
Kế thừa nhưng không lặp lại,
Thâm Tâm đã tạo nên sức sống diệu kỳ cho Tống biệt hành. Đặc biệt, sự kế thừa,
sáng tạo trong cấu tứ thơ Đường giúp cho tác giả thể hiện sâu sắc một cái nhìn
đa chiều về "vẻ đẹp con người cao cả trong toàn bộ sự biểu hiện chân thật
của nhân tính, đầy tinh thần nhân đạo" (Trần Đình Sử)
Thạc sĩ Hồ Thuý Ngọc GV.
Khoa xã hội nhân văn - CĐSP Hà Tĩnh
Nguồn: Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét