Đá vọng phu
Đêm thu nghe quạ kêu
Chiều xuân
Hiu quạnh
Trơ trọi
Tiếng ngân
Hư tâm
Tiếng vàng khô
Khóc con
Không tên 1
Không tên 2
Không tên 3
Đêm thu nghe quạ kêu
Chiều xuân
Hiu quạnh
Trơ trọi
Tiếng ngân
Hư tâm
Tiếng vàng khô
Khóc con
Không tên 1
Không tên 2
Không tên 3
Giữa lúc người ta đua nhau “thí nghiệm” với những thể thơ mới,
thì ông thản nhiên gieo vần theo luật Ðường. Giữa lúc người ta đua nhau “phô”
những tâm tình hay suy tưởng chưa từng thấy trong thơ Việt Nam, thì ông lại đều
đều “diễn” những thứ cảm xúc na ná như của Bà Huyện Thanh Quan!
Tại sao dân cùng một nước mà khác hẳn nhau thế nhỉ?
Vì quãng ấy là một buổi giao thời. Thời mới chưa vào được mọi nhà, lác đác có nhà thời cũ vẫn hiện diện coi như nguyên vẹn. Cùng một cái tỉnh Bình Ðịnh, mà hồi tiền chiến sinh ra vừa Xuân Diệu “không thể mới hơn” vừa Quách Tấn “không thể cũ hơn”!
Có thể xem Mùa cổ điển (1941) là một cái bóng mà Mùa Cổ Ðiển cực kỳ rực rỡ trong lịch sử thi ca Việt Nam đã soi lên thế kỷ 20.
“Bóng” này cũng “vang” chứ không đến nỗi phải thẹn với hình đâu. Tập thơ nổi tiếng nhất của Quách Tấn có những bài chứa hình tượng độc đáo, câu chữ điêu luyện, thiết tưởng tiền nhân mà đọc đến chắc cũng ngợi khen. Ngay thi phẩm đầu tay của nhà thơ - tập Một tấm lòng (1939) -, tuy chưa giá trị bằng sáng tác kế tiếp cũng đã được một “tiền nhân còn sống” là Tản Ðà công khai tán thưởng. Tiếc đến khi Mùa cổ điển ra đời thì người xưa tri kỷ của tác giả nó đã lìa bỏ nhân gian.
Thơ không phải không hay, nhưng do trong sinh hoạt văn học thời tiền chiến phái mới càng ngày càng lấn phái cũ, Mùa cổ điển bị đa số làm ngơ.
Từ 1945, trong âm thầm Quách Tấn vẫn tiếp tục làm khá nhiều thơ. Giữa những thi phẩm thuộc thời kỳ sau, thiết tưởng Giọt trăng (1973) và Giàn hoa lý (1976-1979) đáng chú ý hơn cả.
Ðọc lại thơ một đời của một người, như thấy trước mắt những chấn động lớn trong đời người ấy!
Quách Tấn trong Mùa cổ điển chủ yếu buồn những cái buồn điển hình của mọi thi nhân xưa, có lẽ cộng với một chút ưu tư thời thế. Quách Tấn trongGiọt trăng buồn nỗi riêng đậm đà vì có người con trai vừa tử trận. Quách Tấn trong Giàn hoa lý tiếp tục buồn riêng đậm đà vì chuyện vượt biên làm gia đình chia lìa và gây tổn thất sinh mạng!.
Tử biệt sinh ly nén thơ ông thật chặt. Vốn hồi tiền chiến nó đã gọn, chỉ tám câu bảy chữ, đến quãng 1973 nó giảm xuống còn bốn câu năm chữ. Từng “giọt”, từng “giọt” thơ rơi tự đáy lòng! Có điều này lạ, là vài năm sau, cảm xúc chân thành sâu sắc của Quách Tấn bỗng rơi thành thứ thơ tuy vẫn “giọt” nhưng là lục bát, thể thơ dân tộc mà trước đó hình như ông tương đối ít khi làm. Những bài lục bát bốn câu không tên xuất hiện cuối đời có làm phong phú thêm một sự nghiệp thơ...
Thơ Việt Nam thế kỷ 20 lắm “cõi” khác hẳn nhau, người ưa “du lịch tham quan” thơ tha hồ đổi không khí. Vào cõi Xuân Diệu, đọc những “lời yêu” mới mẻ, sôi nổi, tuôn trào, lòng khách có thể trở nên xôn xao quá. Nếu thế, sau đó xin hãy ghé thăm xứ Quách Tấn, nơi những vần cũ kỹ, điềm tĩnh, cô đọng chắc sẽ giúp lòng khách bớt bồng bột đi ít nhiều...
Đá vọng phu
Trong bài sau đây, hai câu 3, 4 được Chế Lan Viên nhiệt liệt tán thưởng. ThơMùa cổ điển chứa nhiều câu đáng trầm trồ tương tự:
“Gió dồn mặt sóng hơi thu quạnh
Buồm cuốn theo mây ánh nắng vàng” (Bên Sông)
“Ðây vài giọt nhẹ rơi mưa lá
Ðó một màu im trải nắng hồ” (Một Buổi Trưa Mùa Thu)
“Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc
Sông đùa lạnh tới bóng trăng run...” (Bên Sông 2)
“Vườn cũ tả tơi trời tháng chạp
Ðường khuya khấp khểnh nguyệt canh tư” (Lại Tản Cư) v.v.
Ngồi mà gọt giũa nên những câu như thế, kể cũng thú. Mà không phải bất cứ ai cũng gọt giũa nên những câu như thế.
Cái ý “Ðá Vọng Phu” đời Ðường bên Tàu thi sĩ Vương Kiến đã làm bài Vọng Phu Thạch. Thơ Quách Tấn đại ý cũ, trùng, nhưng hình tượng thể hiện thì đâu có cũ, trùng.
Chồng đi biệt tích tự bao giờ
Một góc trời riêng một dạ chờ
Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp
Tóc thề mây núi bạc phơ phơ
Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi
Nước vướng tình sâu chảy lững lờ
Dâu bể đã bao đời kiếp trải
Lòng son một tấm mãi trơ trơ.
Đêm thu nghe quạ kêu
Bài thơ này giá trị nằm cả ở nửa sau. Hai câu năm sáu rực rỡ sắc màu, hai câu bảy tám độc đáo âm thanh, ai bảo hễ lòng buồn thì cảnh ảm đạm, lặng lẽ.
“Quạ... quạ... quạ... quạ...”... Ðêm vắng nằm nghe cái thứ tiếng chim quái gở ấy dội xuống từ lưng mây, chắc “tình tứ” có dễ hoang mang!
Từ Ô Y Hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng...
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang...
Chiều xuân
Tuy có “hồi chuông vọng” với “tiếng địch dồn”, nhưng bài thơ sau đây chủ yếu là một bức tranh, như điển hình thơ Ðường.
“Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn”...
Tranh đẹp lắm, đáng xem là cổ điển trong “Mùa cổ điển”.
Chim mang về tổ bóng hoàng hôn
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn
Cành gió hương xao hoa tỉ muội
Ðồi sương sóng lượn cỏ vương tôn
Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá!
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.
Hiu quạnh
Ðọc “nguyên tác” tám câu bảy chữ, chợt nẩy ý thử “dịch” nó ra bốn câu sáu tám xem ra thế nào:
Xa người đã mấy mùa trăng
Ðìu hiu còn đọng rành rành ngấn đây
Chim trời nào biết niềm tây
Cánh tung liền cánh đua bay dập dìu.
Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi
Ðìu hiu còn đọng ngấn ly bôi!
Mộng về lối cũ tìm khôn gặp
Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi!
Lá rắc thêm sầu rơi gió một
Chim dành riêng thú liệng trời đôi
Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh
Cúc nỡ nhìn nhau mỉm miệng cười!
Trơ trọi
Ðọc Quách Tấn nhớ Yến Lan:
“Nhớ bạn nhiều hôm da diết nhớ
Lại đành không tiện viết thư thăm
Ngại trao tâm sự cho tờ giấy
Ðè nặng thêm tay kẻ nhận cầm”. (bài Vô Tình Và Hữu Tình)
Nhớ mà “ngại trao tâm sự cho tờ giấy”, mà e “... gởi vào thơ nghĩ tội thơ”, đôi tiền nhân người Bình Ðịnh này thật hiền lành quá lắm.
Tưởng nên bớt ngại bớt e, hễ cứ có thì trao gửi, để tay bạn được nặng và thơ được nặng một cái món tuy vậy rất giá trị.
Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ! Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ!
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ!
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ...
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại?
Con thước qua song lại ỡm ờ!
Tiếng ngân
Sóng chuông đã thôi làm rung màng tai, nhưng vẫn làm gợn mặt hồ. Ngân nga giờ hóa long lanh. Cảm nhận đẹp...
Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh
Hư tâm
Tiếng chim đấy, mây trắng đấy, ráng hồng đấy, có phải “không” thật đâu! Chẳng qua do vắng cái loài đi bằng hai chân kia, mà như không.
Sách thường đầy người. Ðóng sách lại, lót dưới đầu cho khỏi thấy sách, lát sau trong tâm bỗng cũng vắng người y như ngoài trời...
Chim chiều kêu trước dạu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng
Tiếng vàng khô
Ðây “sầu Cô Tô”, qua Tản Ðà:
“Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.”
Nên sầu, ấy hẳn bởi vì “ai” đang lẻ loi nơi đất khách.
Quách Tấn chắc đang ở ngay tại nhà mình, sao lại “ngấm” được thứ sầu lữ thứ? Sao không. Người ta có thể không cất nửa bước ra khỏi nhà mà vẫn thấy trơ trọi lắm chứ, nhà tuy đóng chặt xuống đất mà có thể như “lơ lửng bên sông” lắm chứ! Ồ, cái cảm tưởng của một tâm hồn nhậy cảm trong đêm thanh vắng nó có thể miên man đến chừng nào. Miên man đến nỗi “tiếng vàng khô” của “lá rơi thềm đá lạnh” mà tưởng cũng “ngân” được như tiếng chuông chùa!
Lá rơi thềm đá lạnh
Ngân nhẹ tiếng vàng khô
Không trời sương bến quạnh
Ðêm ngấm sầu Cô Tô
Khóc con “Chăm đọc” là con mắt chăm, chứ lòng người cha thương con tử trận thì đang chăm chăm nơi nào khác...
“Âm thầm giọt lệ tuôn” làm nhớ câu thơ Chế Lan Viên: “Nhỏ to mạch gối đôi dòng...”.
Cái đau buồn thương nhớ ở đôi người, sao mà nó kín đáo lạ.
Thương con không dám khóc
Sợ rắc thêm đau buồn
Ôm sách nằm chăm đọc
Âm thầm giọt lệ tuôn
Không tên 1
Người Bình Ðịnh gọi nến là “đèn cầy”. “Ðèn khuya” sau đây phải chăng một ngọn nến?
Nếu phải, hình ảnh tượng trưng vừa vặn quá. Ðêm khuya, một người ngồi với một nến. Nến lửa leo lét và lệ ròng ròng không thành tiếng, y như người!
Qui Nhơn là thành phố biển. Bên bờ biển, “đôi mái tóc sương” ngồi với sóng trùng dương. Sóng sụt sùi, y như một trong hai mái tóc.
“Buồn riêng nỗi mình”, chính thứ buồn rất dễ nên thơ.
Vừa mừng dân tộc đoàn viên
Gia đình ly tán buồn riêng nỗi mình
Lòng chưa tắt lửa ba sinh
Ðèn khuya khôn nén giọt tình xốn xang.
Dưới đèn đôi mái tóc sương
Ngồi nghe sóng vỗ trùng dương sụt sùi
Con đi trọn mấy trăng rồi
Mây bay nước chảy phương trời ngóng tin.(1)
Không tên 2
Kẻ ra đi vừa thương người ở lại vừa thương mình. Người ở lại cũng vừa thương kẻ ra đi vừa thương mình. Tình tình, cảnh cảnh, chao ơi.
Trăm nghìn thương mẹ nhớ cha
Cực thân lắm nỗi bỏ nhà ra đi
Tìm đường nuôi nấng thê nhi
Giàu sang đất khách ra gì mà mong.
Thương con làm khách viễn phương
Thương mình về viếng cố hương một mình
Không ai chung cảnh chung tình
Ðồng quê hiu hắt lửa huỳnh chong thu.(2)
Không tên 3
Nay không hiểu, sau không “thấu”, nhưng trước chắc hiểu chắc “thấu tình” Quách Tấn.
Kẻ nói được thì lạ với mình. Người quen mình lại không nói được. Than ôi!
Người nay còn chửa hiểu mình
Người sau đâu dễ thấu tình người nay
Bụi đường khi phủi đôi tay
Nghìn thu tâm sự dấu giày rêu phong.
Tại sao dân cùng một nước mà khác hẳn nhau thế nhỉ?
Vì quãng ấy là một buổi giao thời. Thời mới chưa vào được mọi nhà, lác đác có nhà thời cũ vẫn hiện diện coi như nguyên vẹn. Cùng một cái tỉnh Bình Ðịnh, mà hồi tiền chiến sinh ra vừa Xuân Diệu “không thể mới hơn” vừa Quách Tấn “không thể cũ hơn”!
Có thể xem Mùa cổ điển (1941) là một cái bóng mà Mùa Cổ Ðiển cực kỳ rực rỡ trong lịch sử thi ca Việt Nam đã soi lên thế kỷ 20.
“Bóng” này cũng “vang” chứ không đến nỗi phải thẹn với hình đâu. Tập thơ nổi tiếng nhất của Quách Tấn có những bài chứa hình tượng độc đáo, câu chữ điêu luyện, thiết tưởng tiền nhân mà đọc đến chắc cũng ngợi khen. Ngay thi phẩm đầu tay của nhà thơ - tập Một tấm lòng (1939) -, tuy chưa giá trị bằng sáng tác kế tiếp cũng đã được một “tiền nhân còn sống” là Tản Ðà công khai tán thưởng. Tiếc đến khi Mùa cổ điển ra đời thì người xưa tri kỷ của tác giả nó đã lìa bỏ nhân gian.
Thơ không phải không hay, nhưng do trong sinh hoạt văn học thời tiền chiến phái mới càng ngày càng lấn phái cũ, Mùa cổ điển bị đa số làm ngơ.
Từ 1945, trong âm thầm Quách Tấn vẫn tiếp tục làm khá nhiều thơ. Giữa những thi phẩm thuộc thời kỳ sau, thiết tưởng Giọt trăng (1973) và Giàn hoa lý (1976-1979) đáng chú ý hơn cả.
Ðọc lại thơ một đời của một người, như thấy trước mắt những chấn động lớn trong đời người ấy!
Quách Tấn trong Mùa cổ điển chủ yếu buồn những cái buồn điển hình của mọi thi nhân xưa, có lẽ cộng với một chút ưu tư thời thế. Quách Tấn trongGiọt trăng buồn nỗi riêng đậm đà vì có người con trai vừa tử trận. Quách Tấn trong Giàn hoa lý tiếp tục buồn riêng đậm đà vì chuyện vượt biên làm gia đình chia lìa và gây tổn thất sinh mạng!.
Tử biệt sinh ly nén thơ ông thật chặt. Vốn hồi tiền chiến nó đã gọn, chỉ tám câu bảy chữ, đến quãng 1973 nó giảm xuống còn bốn câu năm chữ. Từng “giọt”, từng “giọt” thơ rơi tự đáy lòng! Có điều này lạ, là vài năm sau, cảm xúc chân thành sâu sắc của Quách Tấn bỗng rơi thành thứ thơ tuy vẫn “giọt” nhưng là lục bát, thể thơ dân tộc mà trước đó hình như ông tương đối ít khi làm. Những bài lục bát bốn câu không tên xuất hiện cuối đời có làm phong phú thêm một sự nghiệp thơ...
Thơ Việt Nam thế kỷ 20 lắm “cõi” khác hẳn nhau, người ưa “du lịch tham quan” thơ tha hồ đổi không khí. Vào cõi Xuân Diệu, đọc những “lời yêu” mới mẻ, sôi nổi, tuôn trào, lòng khách có thể trở nên xôn xao quá. Nếu thế, sau đó xin hãy ghé thăm xứ Quách Tấn, nơi những vần cũ kỹ, điềm tĩnh, cô đọng chắc sẽ giúp lòng khách bớt bồng bột đi ít nhiều...
Đá vọng phu
Trong bài sau đây, hai câu 3, 4 được Chế Lan Viên nhiệt liệt tán thưởng. ThơMùa cổ điển chứa nhiều câu đáng trầm trồ tương tự:
“Gió dồn mặt sóng hơi thu quạnh
Buồm cuốn theo mây ánh nắng vàng” (Bên Sông)
“Ðây vài giọt nhẹ rơi mưa lá
Ðó một màu im trải nắng hồ” (Một Buổi Trưa Mùa Thu)
“Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc
Sông đùa lạnh tới bóng trăng run...” (Bên Sông 2)
“Vườn cũ tả tơi trời tháng chạp
Ðường khuya khấp khểnh nguyệt canh tư” (Lại Tản Cư) v.v.
Ngồi mà gọt giũa nên những câu như thế, kể cũng thú. Mà không phải bất cứ ai cũng gọt giũa nên những câu như thế.
Cái ý “Ðá Vọng Phu” đời Ðường bên Tàu thi sĩ Vương Kiến đã làm bài Vọng Phu Thạch. Thơ Quách Tấn đại ý cũ, trùng, nhưng hình tượng thể hiện thì đâu có cũ, trùng.
Chồng đi biệt tích tự bao giờ
Một góc trời riêng một dạ chờ
Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp
Tóc thề mây núi bạc phơ phơ
Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi
Nước vướng tình sâu chảy lững lờ
Dâu bể đã bao đời kiếp trải
Lòng son một tấm mãi trơ trơ.
Đêm thu nghe quạ kêu
Bài thơ này giá trị nằm cả ở nửa sau. Hai câu năm sáu rực rỡ sắc màu, hai câu bảy tám độc đáo âm thanh, ai bảo hễ lòng buồn thì cảnh ảm đạm, lặng lẽ.
“Quạ... quạ... quạ... quạ...”... Ðêm vắng nằm nghe cái thứ tiếng chim quái gở ấy dội xuống từ lưng mây, chắc “tình tứ” có dễ hoang mang!
Từ Ô Y Hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng...
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang...
Chiều xuân
Tuy có “hồi chuông vọng” với “tiếng địch dồn”, nhưng bài thơ sau đây chủ yếu là một bức tranh, như điển hình thơ Ðường.
“Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn”...
Tranh đẹp lắm, đáng xem là cổ điển trong “Mùa cổ điển”.
Chim mang về tổ bóng hoàng hôn
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn
Cành gió hương xao hoa tỉ muội
Ðồi sương sóng lượn cỏ vương tôn
Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá!
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.
Hiu quạnh
Ðọc “nguyên tác” tám câu bảy chữ, chợt nẩy ý thử “dịch” nó ra bốn câu sáu tám xem ra thế nào:
Xa người đã mấy mùa trăng
Ðìu hiu còn đọng rành rành ngấn đây
Chim trời nào biết niềm tây
Cánh tung liền cánh đua bay dập dìu.
Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi
Ðìu hiu còn đọng ngấn ly bôi!
Mộng về lối cũ tìm khôn gặp
Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi!
Lá rắc thêm sầu rơi gió một
Chim dành riêng thú liệng trời đôi
Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh
Cúc nỡ nhìn nhau mỉm miệng cười!
Trơ trọi
Ðọc Quách Tấn nhớ Yến Lan:
“Nhớ bạn nhiều hôm da diết nhớ
Lại đành không tiện viết thư thăm
Ngại trao tâm sự cho tờ giấy
Ðè nặng thêm tay kẻ nhận cầm”. (bài Vô Tình Và Hữu Tình)
Nhớ mà “ngại trao tâm sự cho tờ giấy”, mà e “... gởi vào thơ nghĩ tội thơ”, đôi tiền nhân người Bình Ðịnh này thật hiền lành quá lắm.
Tưởng nên bớt ngại bớt e, hễ cứ có thì trao gửi, để tay bạn được nặng và thơ được nặng một cái món tuy vậy rất giá trị.
Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ! Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ!
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ!
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ...
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại?
Con thước qua song lại ỡm ờ!
Tiếng ngân
Sóng chuông đã thôi làm rung màng tai, nhưng vẫn làm gợn mặt hồ. Ngân nga giờ hóa long lanh. Cảm nhận đẹp...
Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh
Hư tâm
Tiếng chim đấy, mây trắng đấy, ráng hồng đấy, có phải “không” thật đâu! Chẳng qua do vắng cái loài đi bằng hai chân kia, mà như không.
Sách thường đầy người. Ðóng sách lại, lót dưới đầu cho khỏi thấy sách, lát sau trong tâm bỗng cũng vắng người y như ngoài trời...
Chim chiều kêu trước dạu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng
Tiếng vàng khô
Ðây “sầu Cô Tô”, qua Tản Ðà:
“Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.”
Nên sầu, ấy hẳn bởi vì “ai” đang lẻ loi nơi đất khách.
Quách Tấn chắc đang ở ngay tại nhà mình, sao lại “ngấm” được thứ sầu lữ thứ? Sao không. Người ta có thể không cất nửa bước ra khỏi nhà mà vẫn thấy trơ trọi lắm chứ, nhà tuy đóng chặt xuống đất mà có thể như “lơ lửng bên sông” lắm chứ! Ồ, cái cảm tưởng của một tâm hồn nhậy cảm trong đêm thanh vắng nó có thể miên man đến chừng nào. Miên man đến nỗi “tiếng vàng khô” của “lá rơi thềm đá lạnh” mà tưởng cũng “ngân” được như tiếng chuông chùa!
Lá rơi thềm đá lạnh
Ngân nhẹ tiếng vàng khô
Không trời sương bến quạnh
Ðêm ngấm sầu Cô Tô
Khóc con “Chăm đọc” là con mắt chăm, chứ lòng người cha thương con tử trận thì đang chăm chăm nơi nào khác...
“Âm thầm giọt lệ tuôn” làm nhớ câu thơ Chế Lan Viên: “Nhỏ to mạch gối đôi dòng...”.
Cái đau buồn thương nhớ ở đôi người, sao mà nó kín đáo lạ.
Thương con không dám khóc
Sợ rắc thêm đau buồn
Ôm sách nằm chăm đọc
Âm thầm giọt lệ tuôn
Không tên 1
Người Bình Ðịnh gọi nến là “đèn cầy”. “Ðèn khuya” sau đây phải chăng một ngọn nến?
Nếu phải, hình ảnh tượng trưng vừa vặn quá. Ðêm khuya, một người ngồi với một nến. Nến lửa leo lét và lệ ròng ròng không thành tiếng, y như người!
Qui Nhơn là thành phố biển. Bên bờ biển, “đôi mái tóc sương” ngồi với sóng trùng dương. Sóng sụt sùi, y như một trong hai mái tóc.
“Buồn riêng nỗi mình”, chính thứ buồn rất dễ nên thơ.
Vừa mừng dân tộc đoàn viên
Gia đình ly tán buồn riêng nỗi mình
Lòng chưa tắt lửa ba sinh
Ðèn khuya khôn nén giọt tình xốn xang.
Dưới đèn đôi mái tóc sương
Ngồi nghe sóng vỗ trùng dương sụt sùi
Con đi trọn mấy trăng rồi
Mây bay nước chảy phương trời ngóng tin.(1)
Không tên 2
Kẻ ra đi vừa thương người ở lại vừa thương mình. Người ở lại cũng vừa thương kẻ ra đi vừa thương mình. Tình tình, cảnh cảnh, chao ơi.
Trăm nghìn thương mẹ nhớ cha
Cực thân lắm nỗi bỏ nhà ra đi
Tìm đường nuôi nấng thê nhi
Giàu sang đất khách ra gì mà mong.
Thương con làm khách viễn phương
Thương mình về viếng cố hương một mình
Không ai chung cảnh chung tình
Ðồng quê hiu hắt lửa huỳnh chong thu.(2)
Không tên 3
Nay không hiểu, sau không “thấu”, nhưng trước chắc hiểu chắc “thấu tình” Quách Tấn.
Kẻ nói được thì lạ với mình. Người quen mình lại không nói được. Than ôi!
Người nay còn chửa hiểu mình
Người sau đâu dễ thấu tình người nay
Bụi đường khi phủi đôi tay
Nghìn thu tâm sự dấu giày rêu phong.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét