Nhạc tiền chiến - Lời thuật
của nhạc sĩ Lê Thương
LỜI NÓI ĐẦU
Mấy năm nay nhiều thính giả
tìm nghe lại những bài tiền chiến, những bài tân nhạc từ khởi đầu phong trào
cho đến thời bắt đầu tranh thủ độc lập.
Thính giả đứng tuổi
thường thích nhạc tiền chiến vì những kỷ niệm tuổi trẻ của mình, nhất là kỷ niệm
tình ái, vẫn phảng phất tiếng ca điệu nhạc “thời đó” mà mình đã ưa thích. Nghe
lại những bài hát xưa là một thích thú như lật được lại trang tình sử của cái
thời không bao giờ trở lại.
Thính giả trẻ tuổi có thể
thích nghe nhạc tiền chiến vì nhiều lẽ trong đó có khoái cảm của người khám
phá; họ như tìm được loại nhạc lạc loài điềm tĩnh hơn đời kích động này và có
thể gân cốt họ nhẹ phần miên man khích thích?
Đúng hay không vẫn tùy nhân
tâm. Nhưng muốn hiểu sơ qua thời phát hiện của nền Tân nhạc gọi là tiền chiến,
có lẽ là lúc ta nên tĩnh tâm nhìn lại một dĩ vãng rất gần với chúng ta mà nhiều
cõi lòng đã tưởng chẳng có gì hay là “mất hút” để xét lại cái công trình chung
của giới Tân nhạc chúng ta, già như trẻ, đang phải xây dựng, tô điểm cho tòa
nhà âm nhạc, không những cho lợi tư riêng mình mà cho cả người lân cận và đàn
em.
Mà trong công việc xây dựng
này, những người thời tiền chiến đã khổ công ra sao. Họ đã dò dẫm đường đi gặp
bao trởi ngại “đợi chờ mai hậu” để ngày nay được “mai hậu” gọi về cho nghe đôi
niềm tâm sự: thời… tiền chiến.
Nói đến thời mới cách đây 30
năm, trong lúc đất nước còn qua phân, nhân tâm còn rời rạc và tác giả như tác
phẩm còn tản mác, kể cũng khó mà tìm ra những tài liệu đích xác, nhất là về năm
tháng xuất hiện.
Song một số tài liệu sống là
các nhân chứng có mặt tại miền Nam, trong số bài báo rãi rác, và những hiểu biết
về bản thân có giúp độc giả biết khái quát về thời tiền chiến qua những chủ điểm
tạm xếp như sau:
1 - Mấy năm đầu Tân Nhạc
(1938 - 1940)
2 - Thời thanh niên lịch sử (nhóm Đồng Vọng và Tổng Hội Sinh Viên (1941 – 1944)
3 - Thời đầu tranh thủ độc lập (1945 - 1946)
2 - Thời thanh niên lịch sử (nhóm Đồng Vọng và Tổng Hội Sinh Viên (1941 – 1944)
3 - Thời đầu tranh thủ độc lập (1945 - 1946)
I. Ảnh hưởng của những bài
hát ta điệu tây
Chưa tiện bàn đến những
nguyên nhân tạo nên tinh thần đổi mới trong xã hội Việt - Nam trước Thế giới đại
chiến thứ nhất và hậu quả đầu tiên trong lãng vực ca nghệ là sự phát động kịch
trường cải lương, và những bước thăng trầm của giới này, chúng tôi nói ngay đến
ảnh hưởng của những “bài hát ta điệu tây” do các nghệ sĩ tiền phong Tư Chơi (Huỳnh
Hữu Trung) và Năm Châu (Nguyễn Thành Châu) đề xướng trên các gánh Trần Đắt và
Phước Cương, từ khoảng 1933-1934. (Phong trào này sẽ bàn riêng)
Năm đó là năm 1937, năm bành
trướng nhất của những bài hát nói trên. Tại đài phát thanh Radio Saigon như tại
Hà Nội, Huế, đâu đâu cũng thấy ca hát theo giọng Tino Rossi, từ các rạp hát tiệm
khiêu vũ, quán rượu, đến thư phòng, gác trọ. Nhiều hãng dĩa như Béka, đã bắt đầu
ném ra thị trường những bài hát ấy do các cô Ái Liên và Kim Thoa ca.
Việc truyền bá những bài Tây
hoặc những bài Ta hoặc điệu Tây đã gây ảnh hưởng nên chú trọng:
Một là những bài này dần dần
đã đổi thị hiếu của công chúng làm cho họ càng ưa chuộng mới lạ mà muốn quên
lãng những cái gì không thay đổi trong nhạc cổ truyền.
Hai là với cái hào hứng mới
nhập cảng trong tinh thần thanh niên, người ta thấy một sự tiêu thụ to tát, những
tác phẩm và sự thay đổi luôn hồi trong sở thích, làm cho những bài đàn truyền-bá
chẳng bao lâu đã lâm vào “cõi già” mà cần phải được thay thế.
Tóm tắt, nghệ sĩ Việt Nam bị
đặt trước một vấn đề phải giải quyết. Trước bổn phận phải ngăn cản sự phách những
giá trị nghệ thuật của dân tộc do những cung điệu ngoại lai đang gây nên, và phải
thỏa mãn những nhu cầu ồ ạt đang bột phát tứ tung, họ phải vạch một đường mới
cho nhạc nghệ là sáng tác.
Giữa lúc này vài nhạc sĩ Việt-Nam
đã bắt đầu truyền bá những bài hát mới đầu tiên như Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước,
Trần Quang Ngọc tại Hà Nội, Lê Thương tại Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên tại
Saigon trong miền Thị Nghè, và trên đài Radio Saigon, Nguyễn Xuân Khoát và Phạm
Đăng Hinh với nhóm học sinh theo học đàn, v.v…
II. Tân-Nhạc xuất hiện –
1938
Năm xuất hiện chánh thức của
phong trào Âm Nhạc Mới là tháng 3 năm 1938, khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên từ
Saigon ra hô hào tại đất Bắc.
Ông Tuyên được thống đốc Nam
Kỳ thời đó là Rivoal trợ cấp để đi diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại Bắc Hà.
Tới Hà Nội vào tháng 3, ông
có nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một
cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buối đó do giọng nói địa
phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc
đó như đã cho việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn tại
đó.
Tại hội Tri Tri Hải Phòng,
ông đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 mặt, nhưng ông đã có người thông
cảm. Chính vào buổi nói chuyện này, cử tọa đã yêu cầu chúng tôi lên trình bày
cho diễn giả nghe một bản nhạc mới của miền Bắc. Câu chuyện trở nên lý thú, khi
ông Tuyên đã gặp một người đồng hành và một tri âm.
Sau đó nhân kỳ hội của trường
Nữ Học Hoài Đức, ông Tuyên còn trình bày nhạc mới tại rạp chớp bóng Palace một
lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài “Bông Cúc
Vàng”.
Đến đây báo Ngày Nay, một cơ
quan ngôn luận rất được đọc thời bấy giờ, mới nhóm khởi việc hô hào và đăng tải
những “tác phẩm đầu” của nền nhạc mới.
Những bài như “Bông Cúc
Vàng”, “Kiếp Hoa” của Nguyễn Văn Tuyên, “Bình Minh” của Nguyễn Xuân Khoát (thơ
Thế Lữ), “Bản Đàn Xuân” của Lê Thương, “Khúc Yêu Đương” của Thẩm Oánh, “Đám Mây
Hàng” của Phạm Đăng Hinh, “Đường Trường” của Trần Quang Ngọc, v.v… mới lần lượt
được in trên mặt báo vào tháng 9 năm đó.
Một cái dây bứt động cả rừng,
người ta mới thấy những người yêu nhạc đăng và xuất bản những bài hát mới để
dùng vào khiêu vũ hay để hòa nhạc vui vẻ.
Từ đầu 1939, một số bài nhạc
của vài nhóm đã thấy treo bán tại các hiệu sách.
III. Những nhóm tân nhạc và
bài ca xuất bản
Trong việc nhóm khởi phong
trào Tân Nhạc, một điều hiển nhiên là rải rác khắp nơi, có những nhóm người lo
sáng tác. Việc làm âm thầm của từng nhóm không có dịp phô bày công khai, nhưng
phải nói là từ khi đĩa hát và phim nói (1934) và cả những bài nhạc Âu Mỹ được
bán trên thị trường thì việc sáng tác được thúc đẩy mạnh mẽ hơn.
Chỉ cần có người khởi xướng
một việc gì hữu lý là các người khác bộc lộ ý định nuôi dưỡng từ lâu bằng cách
noi theo và đôi khi vượt cao hơn cả người đi trước.
Đó là cơ hội xuất phát của
các nhóm Tân Nhạc và việc xuất bản bài ca. Thời gian đích xác và việc làm trước
sau của các nhóm khó lòng quả quyết, song ta có thể qui vào năm 1930-40 là thời
kỳ phát hiện công khai của đa số các nhóm.
– Nhóm Myosotis: nhóm này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Vũ Khánh, Trần Dư, Phạm Văn Nhường v.v… hoạt động từ vài năm trước trong vài “sa-lông” và đôi khi tại rạp chiếu bóng vào dịp làm nghĩa.
– Nhóm Myosotis: nhóm này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Vũ Khánh, Trần Dư, Phạm Văn Nhường v.v… hoạt động từ vài năm trước trong vài “sa-lông” và đôi khi tại rạp chiếu bóng vào dịp làm nghĩa.
Việc thực hiện đáng kể của
nhóm vào khoảng cuối 38 là việc xuất bản. Những bài như “Đôi oanh vàng”, “Hoa
tàn”, “Phút Vui Xưa” đã bắt đầu truyền bá từ cuối năm 1937 đồng thời với những
bài: “Joie d’aimer”, “Souvenance”, “Ton doux sourire” (nhạc không lời cho hạ-uy-cầm)
của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Nhóm này với ban đàn Myosotis là lợi khí, đã ra đời
từ ít lâu và thường hòa nhạc tại các tư gia để trau dồi nghệ thuật.
Nhóm Myosostis có hai chủ
trương: Thẩm Oánh chủ trương “Theo đạo Trung dung” và tạm gọi những bản đàn hồi
đó là những bản đàn cải cách Âm Nhạc của những bản đàn cải cách phải theo ý nhạc
nhạc Việt Nam và phải có cảm tưởng thuần túy Á Đông (T-O - Việt nhạc số 5 ngày
16-10-1948). Còn Dương Thiệu Tước thì chủ trương soạn theo âm điệu Tây Phương,
ông nghĩ rằng “Nếu đã có nhà văn Việt Nam cũng rất có thể viết được những bản nhạc
có âm điệu Tây phương (T-O - 1 bid).
Theo phương hướng này hai
nhà soạn nhạc ấy đã cho xuất bản trước nhất mấy bài kể trên.
Đại để những bài kể trên bài
về sau: Hồ xưa, Xuân về, Tiếng khóc trong phòng the của Thẩm Oánh.
Tâm hồn anh tìm em, Một ngày
mà thôi của Dương Thiệu Tước, chịu ảnh hưởng khiêu vũ Tây phương nhiều.
– Nhóm TRICÉA: gồm mấy
nhạc sĩ Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn cũng đem ấn loát mấy bản nhạc vào 1939 như
Khúc Ca Ban Chiều, Trên Thuyền Hoa của Văn Chung. Biệt Ly, Sao Hoa Chóng Tàn,
Tiếng Hát Đêm Thu của Dzoãn Mẫn và Bẽ Bàng, Vườn Xuân của Lê Yên.
Nhóm này thì như nhạc sĩ Thẩm
Oánh đã nói: (Việt Nhạc số 5) “chủ trương đi sát quần chúng” hơn. Luồng nhạc của
Văn Chung chịu nhạc hưởng Trung Hoa nên đã có vẻ Á Đông từ buổi đầu. Tuy vậy Lê
Yên và Dzoãn Mẫn vẫn thiên về bay bướm nhịp tiết nên gợi nhiều âm hưởng nước
ngoài. Triệu tập được 7 người, xuất bản hoặc truyền bá được mấy bản như Đóa Hồng
Nhung, Hồ Xuân và Thiếu Nữ của Văn Chung. Một Hình Bóng, Một Buổi Chiều Mơ của
Dzoãn Mẫn. Một Ngày Vui của Lê Yên, nhóm ấy đã vội tan rã.
– Nhóm PHẠM ĐĂNG HINH ra
đời sau Tricéa. Nhóm này do nhạc sĩ Phạm Đăng Hinh đứng đầu gồm các nhạc sinh
theo học ông về vĩ cầm và đại vĩ cầm. Chuyên đàn những bản nhạc do ông soạn,
nhóm này ra mắt có một lần tại rạp Majestic Hà Nội (V.N. số 5). Rồi tiếc thay
ban đàn điêu luyện ấy 15, 16 cây đàn vĩ cầm hòa hiệp mô tả thanh âm có nhiều
quy pháp cũng sóm ngừng hoạt động. Nhạc sĩ Phạm Đăng Hinh, người đã từng du học
Hồng Kông vội lưu lạc để lại mấy tên bài đơn lẻ: Đám Mây Hàng sau đổi là Cám Dỗ
trong phim Việt Nam Trận Phong Ba quay tại Hương Cảng năm 1940.
Tại Hải Phòng, kẻ viết bài hồi
đó còn đang dạy tại trường trung học Lê Lợi và có diễm phúc là đếm được thường
xuyên tại lớp sự khi có mặt hí hởn của một nhóm “híp – pi tiền chiến” ưa ca hát
thấu trời và thích du ngoại, là các “bạn trẻ”: Canh Thân, Hoàng Quí, Phạm Ngữ,
Hoàng Phú, Văn Trang (hiện giờ là thương gia Saigon), Nàng Cúc Phương, Nàng Thư
Nhàn, v.v… Ngoài những cuốc xe đạp đi Uông Bí, Núi Voi,…, nhóm nhạc sĩ trẻ ấy
sáng tác Tân Nhạc.
Họ đã giúp chúng tôi xuất hiện
lần đầu trên sân khấu Nhà Hát Lớn Hải Phòng với bài Tân nhạc vào lúc thi sĩ Thế
Lữ ra hoạt động cho Hội Ánh Sáng tại đất Cảng, hè năm 1939.
Những bài Tiếng Đàn Đêm
Khuya, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử, Thu Trên Đảo Kinh Châu… được giới thiệu
với khản giả. Cuối năm này, nhóm kịch Thế Lữ còn đem nhạc mới Lê Thương về Hà Nội,
Vĩnh Yên cùng vở kịch Ông Ký Cóp của Vi Huyền Đắc gặt hái nhiều kết quả khả
quan.
Nhóm nhạc sĩ trẻ nói trên,
phần đông là tráng sinh hướng đạo nên có đà soạn nhạc đàn ca. Tinh thần Đồng Vọng
liền dội lên trong loạt xuất bản tươi mát là nhạc thanh niên, thiếu sinh và cả
mỹ thuật.
Phạm Ngữ cho xuất bản bài Nhớ
Quê Hương (1939-1940) và Hoàng Quí chuẩn bị tiến cử một loạt ca khúc trẻ mà hởi
đầu là ca khúc Chùa Hương lâng lâng hồn chiêu mộ.
Tại Nam Định, một tỉnh văn
nghệ hữu hạng, nhạc sĩ Đặng Thế Phong sau đó cũng đề cử mấy bản nhạc mới của
anh như Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến (nhân dịp vở kịch Cái Vạ của nhóm Vũ Trọng
Can lưu diễn tại Nam Định và sau đó tại rạp Olympia Hà Nội)
IV. 1939 - Cuộc diện đổi
thay
Phong trào Nhạc mới phát khởi
được hơn một năm thì xảy cuộc Âu-chiến. Như một tiếng sấm động trời, tiếng súng
của chiến tranh đã đánh vỡ tan không khí truy hoan của nhân loại.
Tin chiến trường tàn phá rầm
rộ báo hiệu một cuộc tơi bời tràn tới. Đó đây trong cảnh động binh rải rác, người
ta lặng lẽ chuẩn bị sống giờ thảm khốc sắp diễn và tinh thần trở về thực tế.
Pháp đã quy hàng và lo đường
trỗi dậy.
Phong trào Phục-Hưng do thống
chế Petain bên đề xướng đã lan sang đất Việt. Phong trào này nẩy nở trong đau khổ
của chiến bại, dự bị cuộc tái sinh cho dân tộc Pháp.
Người ta liền nghĩ đến thanh
niên, những “rường cột của nước nhà” trong việc xây dựng lại.
Nhiều nghị định đã quyết đổi
mới cuộc sinh hoạt: đả đảo mơ mộng, đào tạo cho thanh thiếu niên một tinh thần
mạnh mẽ với một thân thể cường tráng để dựng lại giang sơn nghiêng ngửa.
Báo chí sách vở bị kiểm duyệt.
Các vũ trường bị đóng cửa. Những cuộc chợ phiên (kermesses) không còn là nơi
đùa cợt của trai gái nữa, hoặc bị bớt đi nhiều.
Tin rằng những chiến công
oanh liệt của các vị anh hùng được đem ra cho dân chúng sùng bái có thể kích
thích đám thanh niên Việt vùng lên trên đường phụng sự “mẫu quốc”, người ta
chuyển hướng văn nghệ về lịch sử.
Nhưng hai dân tộc Việt Pháp
tại hai chân trời, từng nếm mùi cay đắng của chiến bại đã mượn dịp biểu lộ trên
dòng tư tưởng và nghệ thuật hai chí hướng khác nhau. Dân Việt sẽ tìm cơ hội
vùng lên nhưng để xây dựng một Quốc gia độc lập.
Đó là mục tiêu xa gần của
phong trào Thanh Niên lịch sử trong Tân Nhạc.
V. Thời “Thanh Niên Lịch Sử”
trong Tân Nhạc
Để thúc đẩy những hoạt động
thanh niên, người Pháp tổ chức phong trào cắm trại (campeurs). Những bài hát
suy tôn thống chế như “Mrechal, nous voilà” cia Dambrine, bài hát kích thích
thanh niên như Relèvement, Debout, belle jeunesse của Parmentier muốn hô hào
thanh niên Việt quay nhìn vị thủ tướng già đã ôm cành “hòa bình vi quý”, nhưng
đoàn thiếu niên Việt lại thích nghe những điệu “Việt Nam bất diệt” của Hoàng
Gia Lịnh, “Trên sông Bạch Đằng” của Hoàng Quý hay “Tiếng gọi sinh viên” của Lưu
Hữu Phước hơn vì đó mới là tiếng gọi thân tình của giòng giống.
Trong các phong trào mà
chánh quyền thời đó chủ trương hay khuyến khích hoặc cho phép phong trào thể
thao huyến luyện thân thể cường tráng, phong trào hướng đạo đào luyện tinh thần
thượng võ, hội Truyền Bá Quốc Ngữ cho ông Phan Thanh cầm đầu, hội Ánh Sáng do
nhóm Tự lực văn đoàn chủ xướng, vấn đề ca nhạc vẫn là nồng cốt trong các dịp
tuyên truyền, hội họp hoặc gây quỹ bằng buổi hát.
Âm nhạc hùng tráng, vui tươi
đắc dụng hơn hết trong các hoạt động thường xuyên và cơ sở sẵn sàng nhất là các
đoàn thể Hướng đạo.
Thế là phong trào tân nhạc lại
được thêm đất dụng võ thuận tiện để tiến triển về mọi mặt.
– Bài nhạc Hướng đạo
Tại các nơi, họp trại ca nhạc
vẫn được coi như chủ chốt.
Từ đầu, những bản ca quốc tế
về hướng đạo được phổ lời Việt như tập Đời Vui Sướng của ông Phạm văn Xung, trưởng
đoàn Lê Lợi Hà Nội và tập Tiếng Chim Ca của Lưu Ngọc Văn và Đào Văn Thiết đã được
xuất bản từ năm 1938 trở đi.
Lác đác trong những tập trên
cũng kèm theo vài cung điệu xứ sở được phổ lời Việt (như điệu Ngũ-điểm mai, Mãi
tạp hóa… là những tiểu điệu Trung Hoa do ông Trần Phềnh nhập cảng vào sân khấu
hát chèo cải lương thời đó).
Tất cả đều ngụ ý phụng sự
chánh nghĩa dân tộc bằng các phương tiện sẵn có, nhưng phải đợi nhóm Đồng Vọng
của Hoàng Quí ra đời ngay sau đó thì các bài hướng đạo, thanh thiếu nhi mới có
tính cánh Việt Nam và dựng được cái sinh khí mạnh mẽ của trai đất Việt thời
tranh đấu.
Từ năm 1940, súng đã nổ tại
Lạng Sơn và thời cuộc Đông Nam Á đã bắt đầu khẩn trương. Nhật quân đang hăm họa
trực tiếp Đông Dương.
Những tin tức chiến tranh tại
trời Âu chiếm hết chú ý của độc giả. Lác đác trên mặt báo, hàng sách, nhạc tình
cảm vẫn xuận hiện: Con thuyền không bến của Đ. T. Phong trên tạp chí Bạn Gái,
Xuân Yêu Đương (Xuân Ngày Nay 40), Bản đàn xuân (Xuân Ngày Nay 1941) của Lê
Thương, Giọt mưa thu của Đ. T. Phong, Hồn xuân của Nguyễn Xuân Khoát (báo Ngày
Nay), Trở lại cùng anh của Dzoãn Mẫn, Bóng ai qua thềm của Văn Chung v.v…
Nhưng đó chỉ là những cánh
hoa rải rác mọc xa những luồng gió đang thổi mạnh luồng nước đang dâng lên luồng
gió “đồng vọng” đem tươi mát tráng sinh, luồng nước dâng sóng nhạc của sinh
viên.
– Đầu năm 1941 – Trẩy Hội Đền
Hùng
Một trong những dịp náo nhiệt
khơi mào cho phong khí hùng ca báo hiệu một chuyển hướng trong tinh thần sáng
tác Tân nhạc là kỳ trẩy hội Đền Hùng vào mùa xuân Tân Tỵ (1941 vào 10-3 âm lịch)
do tờ Việt Báo tổ chức.
Người ta còn nhớ hai đòan xe
lửa chở hàng ngàn thanh niên nam nữ vào buổi sáng xuân êm ả, đi từ Hà Nội lên
Phú Thọ để thăm mộ Hùng Vương.
Có lẽ từ ngày nội thuộc cho
tới ngày đó, dân Việt mới có dịp nô nức tỏ lòng ngưỡng mộ vị Tổ ngàn xưa. Đặt
chân lên phần mộ của tổ tiên, bao lòng đã nhiệt thành hướng về cội rễ, nhiễm lấy
quốc hồn nguyên bản.
Bài Thanh Niên Ơi của Thẩm
Oánh ngày hôm ấy đã đóng một vai tuồng chiêu lệnh và được hàng ngàn lồng ngực
ca lên trong cảnh đồi hùng vỹ.
Ngày trẩy hội đền Hùng cũng
có đầy hướng đạo sinh nam nữ tham dự.
Những con người hướng đạo
như Hòang Qúi và đoàn trưởng, đòan sinh lại được thúc đẩy.
Từ cuối năm 1943 đến tháng
2-1945, Hoàng Quí đã tập hợp sáu, bẩy chục bài ca nhẹ nhõm, tươi sáng, dùng để
ca múa khi đốt lửa trại.
Hồn nhạc Đồng Vọng hướng về
tuổi thiếu sinh, hướng đạo nên luôn nhẹ nhõm trong sáng. Trước sự đòi hỏi của
“đời sống ngòai trời”, những đề tài của nhóm Đồng Vọng quả là thích hợp không
những cho thời đó mà mà cả cho thời bây giờ và mai sau nên thiếu nhi khắp nước
còn học và còn nhớ bài: Gọi Bạn Lên Đường (H.Quí), Vui Lên Đường (Văn Cao), Tiếng
Chim Gọi Đàn (H.Quí), Trước Cảnh Cao Rộng (P.Ngữ), Dưới Bóng Thông Xanh, Chiều
Xuân (H.Quí), Vui Xuân (L.H.Phước).
Xen vào những cung hát yêu đời,
cũng có mấy tâm khúc hòai lịch sử ngày nay vẫn lan tràn khắp nước: Ngày Xưa
(Hòang Phú), Bạn Đường (L.H.Phước), Hồn Nam Tướng (Lê Xưân Ái), Lời Vọng Ngày
Xưa (H.Quí), Đi Hội Đền Hùng (L.H.Phước), Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn
(H.Quí), Anh Em Bước Lên (L.H.Phứơc).
Ngoài L.H.Phước và Văn Cao sẽ
đem lại một nhạc nghiệp thênh thang sắp tới, Hòang Quí phải mang một kiếp sống
không dài để mệnh chung vào khỏang năm 1946. Nguyễn văn Nghiêm, Phan Ngữ ít thấy
họat động, Lê Xuân Ái vẫn còn sáng tác ít nhiều về sau với những bài Huyền Trân
Công Chúa, Thiên Lý Mã, Con Thuyền Trên Sông và nhất là bài Chinh Phụ Hoài
Khúc đã mội thời gây sôi nổi trên làn sóng điện đài Pháp Á (1948) và được sân
khấu cải lương ưu chuộng.
Hoàng Phú sau đổi tên là Tô
Vũ, tác giả những nhạc khúc tâm tình nổi tiếng như: Tạ Từ, Em Đến Thăm Anh Một
Chiều Mưa…lúc nào cũng ưu mỹ, trầm tư khác với anh là Hòang Quí. Thế hệ Hoàng
Quí còn đáng ghi ở nhiều nét mà ngày nay hầu như thiếu sót: Đó là sự quên mình
cho đoàn thể, cho kẻ khác. Giữa lúc phải chăm lo học hành, Hoàng Quí phải chăm
lo cho đàn sói con, cho đàn em trong nhà, cho bạn tráng sinh đồng đội và âm nhạc.
Với bận tâm hết mực ấy, điều
đáng ca ngợi là anh lại càng sáng tác những khúc yêu đời. Xây dựng cho người
nhiều hơn, cho lòng mình thật ít, tuy nhiên, nhạc ngữ của Hoàng Quí cũng đầy
sáng họa: Đêm Trong Rừng, Hương Quê (1946), Sa Trường Tiến Hành Khúc, nhất là
bài Cô Láng Giềng, một luồng nhạc cảm u uất, và bài Đêm Trăng Trên Vịnh Hạ Long
và bài Tú Uyên làm khi hấp hối là những sáng tác anh còn để lại.
Với đà thanh niên lịch sử thời
đó, ngòai nhóm Đồng Vọng tất nhiên, không nên bỏ quên nhiều tác giả rải rác
cùng nuôi một quan niệm soạn nhạc nhằm vào trẻ thơ, thiếu nhi. Nhiều bài hát
thiếu sinh khác đã được truyền bá, trong đó có Khúc Nhạc Xuân của Nguyễn Quí
Thuận, thêm bài Trường Cũ, Tuội Xuân, bài Chiều Quê của Anh Hải (Quê nhà tôi,
chiều khi nắng êm đềm…), Dặm Về của Lê Ngọc Hùynh (hiện giờ đang làm giáo sư tại
Saigon và cũng là tác giả những bài Tiếng Thu với danh hiệu Nam Huân, Trên Đường
Hưng Quốc, Yêu Đóa Hồng Nhung), Thằng Cuội, Hoa Thủy Tiên của L.T., Trên Đường
Xa của Lê Như Khôi, Chèo Thuyền của Lê Hữu Mục (em của Lê Ngọc Huỳnh và hiện là
giảng sư Đại Học), Giang Tay Bước của Thẩm Oánh, Quãng Đường Mai (1940) của
Nguyễn Hữu Ba v..v…nhiều bài của Trần Quang Ngọc, một đòan trưởng hướng đạo mà
tác phẩm đã đăng trong Ngày Nay từ 1958 v..v..
Luồng gió Đồng Vọng càng
thênh thang vô ngã bao nhiêu thì luồng nước dâng sóng nhạc của Tổng Hội Sinh
Viên với Lưu Hữu Phước càng súc tích bấy nhiêu.
LƯU HỮU PHƯỚC và TỔNG HỘI
SINH VIÊN
Kể về sinh họat văn nghệ từ
1943 đến 1945 thì Tổng Hội Sinh Viên đã chế ngự phong trào tân nhạc và gây những
ảnh hưởng sâu đâ5m chưa từng có.
Nhóm khởi trong đám sinh
viên Đại Học ở Hà Nội, trong đó sinh viên miền Nam tỏ ra nhiều khả năng văn nghệ.
Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đạc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong cuộc đấu
tranh, chính trị chống thế lực ngọai bang thời đó là Pháp-Nhật.
Từ định tổ chức Quán Trọ
Thanh Niên (Auberges de la jeunesse) không thành, đến họat động diễn thuyết về
lịch sử, lập trại thanh niên, hội đã gây tinh thần yêu nước mãnh liệt trong dân
chúng, nhất là đám học sinh.
Với một lập trường quốc gia
cấp tiến và những đoàn viên trẻ tuổi hăng say, hội đã đem Lưu Hữu Phước lên một
cao độ sáng tác quy mô, bền bĩ, soạn lời ca và nghiên cứu đề tài cho thành một
quán quân vô địch trong một thời sôi độnglịch sử, những năm từ 1943 đến năm
1945.
Nhạc nghiệp Lưu Hưu Phước đi
đôi với THSV và Phong trào Tân Nhạc đã ghi được những bước tiến mạnh dạn, về
sinh khí trong nhiều lọai sáng tác:
Những trang sử oai hùng được
lật lại trong những bài Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Hội Nghị Diên Hồng, Nam
Tiến, Hát Giang Trường Hận…Thanh niên được kích động mạnh mẽ trong những bài Tiếng
Gọi Thanh Niên (trước tiên là Tiếng Gọi Sinh Viên) đã được dùng làm bản Quốc
Thiều cho chánh thể Quốc Gia Miền nam, Trung Đoàn Lam Sơn, Suối Lồ Ồ, Nhớ Đạo
Anh Hùng, Lên Đàn, Gọi Đoàn…Thiếu sinh được thúc dục trong những bài Gieo Ánh
Sáng, Thiếu Sinh Hành Khúc, Mừng Xuân, Đoàn Hùng, Bạn Đường…Thiếu nữ cũng đựoc
ca tụng trong bài Việt nữ gọi Đòan Thiếu Nữ Việt Nam…
Nhiều cản trạng sầu niệm của
tâm hồn qua thời binh lửa cũng được giãi bày như Kinh Cầu Nguyện, Hồn Tử Sỹ,
sau những bài mô tả đoàn quân ma, Đói Lạnh, hoặc trước những giờ ngưỡng vọng được
ca khúc Khải Hoàn.
Qua lãnh vực thơ kịch, Lưu
Hưu Phước đã phổ nhạc vào kịch thơ Tục Lụy của Khái Hưng, Thế Lữ và sáng tác tiểu
ca kịch Con Thỏ Ngọc.
Nhiều khi anh cũng đem nhạc
cảm chân thành, nhìn về điệu cổ truyền Việt Nam. Từ bản Ru Con, Thượng Lộ Tiểu
Khúc đến Hương Giang Dạ Khúc, một tác phẩm Mỹ Thuật được xuất bản với nặc danh
“Nhạc Sỹ Không Tên”. Phải chăng Lưu Hưu Phước cũng thành công cả trên phương diện
“phong nhạc”?
Thời kỳ phong phú nhất về
sáng tác của Lưu Hưu Phước là những năm từ 1942 đến 1945. Sau đó thời cuộc đã
đưa anh đến những đoạn đường luân lạc mà thiếu sinh vẫn là nguồn cảm hứng và an
ủi của anh trong việc sáng tác.
Đối với một “Lưu Hưu Phước
tiền chiến” với những bài Thanh niên lịch sử nhiều thính giả và nhất là cựu
sinh viên thời đó vẫn còn nuôi nhiều thiện cảm vì những kỷ niệm dạt dào tình
thương dân tộc mà THSV đã gây nên bằng Tân Nhạc.
SINH HỌAT TÂN NHẠC TẠI MIỀN
NAM (1941-1945)
Đầu hè năm 1942, Nhật chiếm
Hải Phòng và thời cuộc Đông Dương ngày càng gây cấn. Văn nghệ cũng theo đà
chung mà đượm những âu lo.
Tại đất Bắc, nhất là Hà Nội,
kinh đô trí thức thời đó, Tân nhạc đang sinh hoạt mạnh. Nhưng tại Sàigòn, đất
sinh sống của ca kịch Cải Lương với bản Vọng Cổ đã dứt khỏi nhịp 16 mà sang nhịp
32, như tại miền Trung, và riêng Huế, Đà Nẵng, Tân nhạc chỉ tiệm tiến, mặc dù
phong trào khỏe và ban nhạc Bình Minh của Thanh Tịnh đã bắt đầu xuất hiện từ
năm 1941.
Khi chúng tôi phiêu lưu đến
đất Đồng Nai (và “mọc rễ” nơi đây đến giờ) và thử một cuộc vận động cho Tân nhạc
thì có gặp hai người đã từng nân đở Tân nhạc là ông Nguyễn Văn Cổn, văn thi sỹ
và cố nhạc sỹ Jean Tịnh, một cây vỹ cầm điêu luyện trong giới ca hát Cải lương.
Cả hai đang làm việc tại Radio-Saigon, một cơ quan tư nhân đầu tiên phát thanh
các “bài ta điệu tây” rồi đến bài Tân nhạc.
Hãng Radio-Saigon còn xuất bản
một tạp chí cùng tên có đăng vài bài “âm nhạc cải cách” như Bông Cúc, nhạc Jean
Tịnh, lời thơ Nguyễn văn Cổn (Radio-Saigon số 3 1-1-1943) rồi Thu Trên Đảo Kinh
Châu (L.T.).
Đi tìm hãng dĩa Béka và gặp
ông Tôn, nhà Keller, thì buổi gặp gỡ, sau khi nghe mấy bài Tân nhạc, ông khen
hay và kết luận bằng câu “đồ đó chưa xài”. Tại hãng Asia Phim Ảnh (ông Định)
như Asia dĩa hát (thầy Mạnh quá cố) cũng không thấy kết quả nào, chúng tôi sang
gõ cửa hội Bắc Việt tương tế (hồi đó là Bắc Kỳ Ái Hữu).
Một buổi diễn thuyết được hội
tổ chức tại nhà hội (hiện giờ là đường Hiền Vương) trong đề tài Câu Chuyện Âm
Nhạc Mới với sự góp mặt của ban nhạc Phi Luật Tân của Julio và sự trình diễn hạ
Uy Cầm của hai nhạc sỹ Scawell và Nguyễn Thông (1-12-1941) nhưng chỉ đem một tiếng
vang nhỏ.
Quả thật lúc đó, Tân nhạc
chưa gây được mảy may ảnh hưởng trong quần chúng miền Nam đang say mê Cải lương
vào thời đại thịnh và trong rất nhiều gia đình quý phái, nhạc Âu Tây là món tiêu
khiển thường nhật nhưng âm nhạc mới là cái gì, họ chưa thèm lưu nếu không là
khinh miệt.
Năm 1943, một năm trổi dậy của
nhạc mới, tình thế bổng đổi hẳn.
Hội Nam Kỳ Đức Trí thể dục
(SAMIPIC) mà hoạt động thường xuyên của tiểu ban mỹ thuật là âm nhạc, ca kịch mời
bà Thái Thị Lang (được gọi hồi đó là bà Nguyễn Văn Tỵ) diễn tấu những nhạc khúc
của bà về dương cầm như bài Lý Ngựa Ô, Bình Bán. Cố nhạc sĩ Võ Đức Thu trình
bày dương cầm, một nhạc phẩm mới nhan đề Việt Nam tân âm điệu.
Tại vũ trường đã thấy truyền
bá (và cả xuất bản) bài Tình Hận, nhạc Phạm Công Nhiêu và Antoine Đạm với lời
Pháp hoa Việt (Ông Antoine Đạm đã từng tổ chức Minh tinh ca vũ đoàn lưu diễn khắp
xứ)
Thời sôi động nhất năm 1943
là tuần lễ hoạt động của Tổng hội sinh viên tại Saigon với ca kịch Tục Lụy.
Trong một chương trình diễn
xuất lộng lẫy chưa từng có cho Tân nhạc ca vũ kịch Tục Lụy với hàng chục ca
khúc của Lưu Hữu Phước, hòa âm Lê Văn Kính, các nữ sinh trẻ đẹp (các cô Đào hát
Lan, Đào hát Huệ, cô Thiều, cô Bình,…) bên những sinh viên tuấn tú của đất Đồng
Nai, tổng hội sinh viên đã tạo nên một hứng sống không thể quên được cho khán
giả Sài thành.
Trong buổi diễn còn giới thiệu
những bài Ngày Xưa (Hoàng Phú), Một ra đi là không trở về của Lương Ngọc Châu
v.v…
Sau kỳ hoạt động của tổng hội
sinh viên tại Saigon, tờ tuần báo Thanh Niên nơi đây bắt đầu ủng hộ Tân nhạc.
Báo vui lòng dành chỗ cho một
loạt bài nhận định về Phong trào nhạc mới của Lê Thương từ 25-3-43 đến 26-8-44.
Số Thanh Niên 40 ngày
30-9-44 còn đăng bản Tuyên ngôn về âm nhạc của 3 tác giả cùng ký tên: Lưu Hữu
Phước, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn.
Bản tuyên ngông xét lại những
ý thức nhạc thuật cũ mới Đông Tây và nêu một tinh thần phục vụ cho âm nhạc thời
tranh đấu cho quốc gia dân tộc và tuyên dương phương pháp cấu nhạc của nhóm.
Cũng trong số báo này còn
đăng các bài Hội Nghị Diên Hồng, Thượng lộ tiểu khúc, Gieo ánh sáng, Hờn sông
Gianh, Xếp bút nghiêng, và tiểu ca kịch Con thỏ ngọc.
Khắp nơi, nhạc sĩ Tân nhạc
càng ngày càng đông, nhưng cô lập từng nhóm vì giao thông bế tắc.
Tại Huế, các nhạc sĩ Nguyễn
Văn Thương, Văn Giảng, Lê Quang Nhạc hoạt động hòa nhạc. Sau bài Dưới bóng cờ
(N.V. Thương) ra đời, Ngô Ganh đã truyền bá nhiều bài nhạc thiếu nhi mới sáng
tác.
Tại Đà Nẵng, nhóm nhạc sĩ La
Hối, Phan Huỳnh Điểu, Dương Minh Ninh cũng đang chuẩn bị cho những sáng tác năm
sắp tới.
Nơi khác, nhạc sĩ dạy đàn hoặc
truyền bá Tân nhạc càng đông. Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước cho xuất bản Cánh hoa
đào, Hồ xưa, Cô lái đò (T.O.) Vầng trăng sáng, v.v…(D.T.T.) Lớp dạy nhạc của
Thiện Tơ, Trần Đình Khuê, Dzoãn Mẫn, D.T. Tước (Hà Nội) Nguyễn Thông, Lê Ngát,
Dzoãn Ân (Saigon) được mở đó đây.
Từ cuối 1943, nhóm Đức Quỳnh,
Vũ Chấn, Dzoãn Ân, v.v… cũng toan cùng người bỏ vốn lập gánh hát Kim Thư dùng
toàn Tân nhạc, nhưng không thành. Còn nhiều người khác nữa, Canh Thân, Phạm Ngữ
(Hải Phòng) cũng truyền bá Tân nhạc.
Một số bản nhạc phổ về Chèo
cổ của Nguyễn Xuân Khoát như Phụng mệnh quân vương, Quyết chí tu thân, Lơ thơ
tơ liễu, Trấn thủ lưu đồn (42-44) Sau đó nhạc sĩ quay sang phổ nhạc một số câu
đồng dao: Con cò, con mèo trèo cây cao, Con voi, Thằng bờm.
Một số bản nhạc phổ vào thơ
cũng xuất hiện trên báo chí hoặc lan truyền trong giới người ưa nhạc, như những
bài Màu thời gian của Nguyễn Xuân Khoát phổ vào bài thơ của Đoàn Phú Tứ (Xuân
Thu nhã tập xuân Nhâm Ngọ 1942) Cô hái mơ của Văn Cao (thơ Nguyễn Bính) các bài
Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu) Bông hoa rừng (thơ Thế Lữ) Tiếng thùy dương (thơ Ngậm
ngùi của Huy Cận) Lời vũ nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư) Tiếng hát thu (theo thơ của
Lưu Trọng Lư) v.v… của Lê Thương, bài Tống biệt (thơ Tản Đà) của Võ Đức Thu
v.v…
Nhạc tình cảm loại mỹ thuật
dần chiếm phần quan trọng nhất trong xuất bản. Nhiều tác giả mới đã xuất hiện.
Phần đông đều sáng tác tuy hứng sống và theo nhiều thể tài khác nhau, lúc thì
hướng về chiến đấu hay thanh niên của trào lưu đang nổi bật, lúc thì quay về
lòng mình, về tuổi trẻ vẫn cho lòng mình trống trải.
Cũng trong giai đoạn 44-45,
nhiều bài nhạc tôn giáo (giáo-nhạc) xuất hiện và được phổ biến. Bài A di đà Phật
của Thẩm Oánh được giới thiệu nhân tuần lễ khánh thành chùa Quán sứ Hà Hội được
trùng tu cuối năm 1942.
Tại Huế (theo nhạc sĩ Thẩm
Oánh), ngành Phật-nhạc, một thời gian sau, phát triển điều hòa với các nhạc sĩ
Nguyễn Hữu Ba (bài Sám hối…) và Văn Giảng đóng góp.
Bên ca khúc giáo đường Thiên
chúa giáo thì sau một thời lâu dài truyền bá những bài vãn ca theo cung điệu
la-tinh, thời sáng tác dồi dào có lẽ chỉ bắt đầu với Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh (Hà
Nội) gồm những nhạc sĩ Hùng Lân, Tâm Bảo, Thiên Phụng, Hải Linh tích cực sáng
tác hàng trăm bài tập hợp trong những tập Cung thánh những năm 1944-45.
Đáng lưu ý hơn nữa là việc
khởi công hoạt động của Hội khuyến nhạc Bắc Việt thành lập khoảng 1944 do nhạc
sĩ Nguyễn Văn Diệp làm hội trưởng. Hội được sự cộng tác của nhiều nhạc sư, nhạc
sĩ hữu danh như ông Lưu Quang Duyệt, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu, v.v… và nhiều
nhân viên đội quân nhạc vệ binh Hà Nội.
Nhờ có lực lượng hùng dũng,
điêu luyện nên cuối năng 1945, hội KNBV đã ghi được công đầu bằng một cuộc đại
hòa tấu long trọng vào kỳ đại hội âm nhạc năm đó. Bài hòa tấu Tươi Sáng (?) đã
được hoan nghênh nhiệt liệt.
Một thành công khác của hội
khuyến nhạc và việc tổ chức Cuộc thi sáng tác tân nhạc đầu tiên tại Việt Nam
vào cuối 44 đầu 45.
Nhiều bài nhạc được giải thưởng
hoặc khuyến khích như hai hành khúc trầm hùng Việt Nam hùng tiến của Thẩm Oánh
và Việt Nam minh châu trời đông của Hùng Lân cùng trùng giải đầu đồng hạn, và
bài Trung thu đất Việt của Tống Ngọc Hạp. Bài này có phần phụ họa của ông Lưu
Quang Duyệt cũng được giải thưởng.
VI. Cảnh đua nở Tân Nhạc các
năm 1945-46
Khi tiếng súng bắt đầu nổ tại
miền Nam (23-9-45) thì cuộc tản lạc còn kéo dài nhiều năm hay ít nữa một đôi
năm cho những người trở về thành phố. Từ Phan Thiết trở vào tình trạng ấy là
tình trạng chung.
Miền Bắc, từ Phan Thiết trở
ra, tiếng súng chỉ nổ vào 1 năm sau (19-12-46). Thời gian ấy, tạm hưởng hòa
bình trong nền độc lập tương đối, miền Bắc sinh hoạt văn nghệ mạnh và nhạc bản
xuất hiện nhiều trong khi miền Nam đã im hơi lặng tiếng từ lâu.
Những cuộc giao thông hạn chế,
từ cuối 1944 lập lại giữa các miền đem nhạc phẩm miền Bắc vào Nam thường là những
bài hơi cũ, không đầy đủ. Đến hết năm 46 hay 47 khi tại miền Nam, tân nhạc bắt
đầu sống dậy tại vài thành phố tạm ổn định thì đến phiên miền Bắc tản lạc, phải
chờ đến 1948, mới có những cuộc hoạt động rải rác.
Tình trạng nói trên cắt
nghĩa tại sao khó mà biết rõ những tác phẩm và tác giả Tân nhạc gọi là tiền chiến
của thời xáo động từ 44 đến 46.
Không nắm được tài liệu
trong tay, cũng không biết được phần đông các nhạc sĩ miền Bắc xuất hiện từ sau
1941, 42, vì (như đã nói trên, chúng tôi đã vô Nam từ giữa năm 1941) những điều
nói lên về nhạc phẩm tiền chiến vào những năm chót chưa hoàn toàn đích xác được.
Vậy chỉ xin kể tên bài và
tên tác giả nào mà, sau khi biết và thâu thập tài liệu về họ, chúng tôi còn giữ
được sau những mất mát đáng tiếc do thời cuộc gây nên.
Đầu tiên phải kể Văn Cao, nhạc
sĩ nổi bật từ 1945 với những tác phẩm Thiên Thai, Trương Chi, Buồn tàn thu, được
ưa thích khắp nơi. Với tư cách chiến sĩ, Văn Cao sáng tác thật nhiều nhạc chiến
đấu như nhạc mỹ thuật, ta chỉ cần nhắc tên ít bài như Tiến quân ca, Bắc Sơn,
Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ hải quân, Chiến sĩ không quân, Thăng Long hành
khúc.
Đỗ Nhuận, người chiến sĩ như
Văn Cao, sáng tác cũng nhiều. Được mọi nơi truyền bá là các nhạc phẩm Nguyễn Trải
Phi Khanh, Đoàn lữ nhạc, nhất là bài Nhớ chiến khu.
Phạm Duy, người du ca tiên
khởi từ năm 1943 “người reo nhạc buồn của Văn Cao khắp chốn” (lời tặng của Văn
Cao) đầu năm 46 sáng tác Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu rồi Xuất quân (46).
Nhưng nhạc nghiệp Phạm Duy còn dài hàng trăm bài mỹ thuật đủ loại về sau.
Từng lai vãng miền Nam và được
nhiều quen biết tại Saigon, có các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, tác giả Đêm Đông,
Bướm hoa, Trên sông Hương, Leo núi Bạch Mã, giọng nhạc yêu kiều, tha thiết,
Nguyễn Đình Phúc, tác giả Cô lái đò, Lời du tử… giọng nhạc vọng hoài tràn thi
tưởng.
Miền Trung và riêng vùng Hội
An, Đà Nẵng, một nhóm nhạc sĩ đồng thời xuất hiện, đem ra một phong khí nhạc đẹp
sáng, gợn gió trùng dương như những bài Xuân và tuổi trẻ (La Hối) Mùa đông binh
sĩ, Trầu cau (Phan Huỳnh Điểu) Trai đất Việt (Dương Minh Ninh) Trên sông Hương
(Nguyễn Văn Thương và các bài nói trên). Sau đó ít lâu còn Ngọc Trai, tác giả
Nhắn người chiến sĩ, Bến Hàn giang, Nhạc sĩ với giấc mơ.
Loại hành khúc chiến đấu thì
thịnh hành hơn hết và được nhiều tác giả sáng tác suốt mấy năm liền. Dồn dập
trong năm 45, 46, người ta còn nhớ những bài Việt Nam thống nhất (Đào sĩ Chu,
hiện giờ là dược sĩ) Gò Đống Đa (Văn Cao) Giải phóng quân, Tuyên truyền xung
phong (Phan Huỳnh Điểu) Độc lập muôn năm, Khóc cơ hàn (Nguyễn Văn Thương) Không
làm nô lệ (Mộng Quỳnh) Hồn Việt Nam (Bùi Công Kỳ) Diệt phát xít (Nguyễn Đình
Thi) Đoàn quân ma, Mai Pha (Lưu Hữu Phước) Việt Nam phục quốc (Thẩm Oánh) còn
nhiều nữa, chưa tiện kể hết.
Loại nhạc mỹ thuật, hoặc
thanh niên, nói chung những bài không ngụ ý gì hơn là miêu tả một ý sống, một cảm
giác đối với cuộc đời, một cảnh sinh hoạt thông thường… thì rất nhiều.
Những “bức họa âm thanh” ấy
chỉ cốt đẹp về thể chất và gợi cho người nghe một cảm-sống. Có những tên bài đọc
không đã gợi nhiều thi-tưởng:
Dạ khúc của Mỹ Ca (một cố nhạc
sĩ khả ái cùng Sầm Giang – Định Tường) Bến xuân, Suối mơ của Văn Cao, Bóng ai
qua thềm của Văn Chung, Tiếng Xưa, Đêm tàn bến ngự của Dương Thiệu Tước, Cây
đàn bỏ quên, Chinh phụ ca của Phạm Duy, Giáo đường im bóng của Thiện Tơ, Mơ hoa
của Hoàng Giác, Gấm vàng của Dương Minh Ninh, Cô lái đò, xa cách muôn trùng của
Thẩm Oánh, Con thuyền xa bến của Lưu Bách Thụ, Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát,
v.v…, còn hàng trăm bài tương tự mà danh sách muốn kê khai phải nhiều trương giấy.
Phần đông nhạc sĩ tiền chiến,
dầu vẫn nuôi một thành tâm phụng sự và sẵn sàng lăn mình vào chiến cuộc như một
chiến sĩ văn nghệ khi cần, nhưng tâm hồn họ vẫn không thể quên lãng phần rung cảm
cá nhân đưa đến chỗ sáng hóa tự do là nhạc phẩm mỹ thuật.
Nét chải chuốt trong nhạc phẩm
loại này mang nhiều công phu tạo tác và dựng nhiều cá tính của tác giả nhất.
Phải chăng ngày nay nhạc tiền
chiến còn được nhiều người ưa thích cũng nhờ ở nét độc sáng nhận thấy ngay
trong mỗi tác phẩm, nhất là mỹ thuật ít thấy trong đó sự toa rập vào một khuôn
của đề tài, của nhịp điệu như sự đổ xô khai thác những đề mục “hái ra tiền” để
rồi đổ xô sang một đề mục khác.
Một điểm dễ thương nữa của
giới tiền chiến là hầu hết đều nếm mùi túng bần về tiền, đau xót về tình hay nạn
tai ít nhiều vì bài nhạc mình làm ra theo lý tưởng.
Không nghe nói đã có ai phản
quốc trong họ hoặc đã trớ trêu bịp bợp như nhiều nhà chánh trị một thời và muôn
thời. Hơi ngây thơ với cuộc sống, đầy cạm bẫy, khá dại dột với lòng nhạy cảm cả
tin đời, họ dễ bị lôi cuốn vào những tai bay vạ gió cho được khổ để mà than
thân bằng nhạc.
Họ cũng có những tị hiềm trẻ
con, những giận dữ tức cười, vì chỗ chủ quan trên đường nghệ thuật. Mà họ phải
chủ quan mới có vững tin về nghệ thuật.
Thời tiền chiến, nhất là những
năm còn xa chiến tranh, lúc đó đất nước còn đủ ba “kỳ”, còn có chỗ cho họ phiêu
lưu tìm hứng. Lúc đó chỉ có một đường yêu nước là nên độc lập cho quốc gia dân
tộc.
Nhiều người đã chết trong thời
binh lửa hoặc đang sống đó đây không bè bạn. Hát lên nhạc phẩm xanh mướt của tuổi
thanh xuân, chắc sưởi ấm được tâm hồn họ ngoài xa cách…
LÊ THƯƠNG
*Cám ơn bạn Fa và LaBoheme ở
trang nhà khanhly.net/phoxua gởi tặng và bỏ công ngồi gõ bài viết “Nhạc tiền
chiến - Lời thuật của Lê Thương” do nhà xuất bản Kẻ Sĩ phát hành vào năm 1970.
Thế nào là nhạc tiền chiến?
Cụm từ ‘nhạc tiền chiến’ hiện nay được dùng khá nhiều và theo
chúng tôi là có phần chưa hợp lý. Trong bài viết này, DongNhacXua.com hoàn toàn ủng hộ ý kiến
của tác giả Hoài Nam trong bài thứ 8 trong loạt bài ’70 năm tình ca trong tân
nhạc Việt Nam’ về việc định nghĩa thế nào là nhạc tiền chiến.
70 năm tình ca
Thế nào là nhạc tiền chiến
Theo đó, nếu nói một cách chính xác thì nhạc tiền chiến là những
bản nhạc viết ra trước khi xảy ra cuộc kháng chiến chống Pháp do Việt Minh lãnh
đạo (trong Nam là cuối năm 1945 và ngoài Bắc là 1946).
Như vậy, những sáng tác sau thời điểm này đều
không nên con là "nhạc tiền chiến" mà từ ngữ hợp lý hơn là "dòng nhạc mang âm
hưởng tiền chiến"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét